Charlie Bone 7: Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock
Chương 16
Cung điện của cái bóng
Cuộc hành trình của Billy vô xứ Badlock thật chớp nhoáng. Mới phút trước nó còn đưa tay sờ hình vẽ Hạt Đậu thì phút sau cái gì đã chộp lấy cánh tay nó, kéo nó về phía trước, băng qua tiếng chó ông ổng, chui vô một màn sương mù cuồn cuộn xung quanh tựa như là mưa khói. Lướt, lướt qua một khu rừng toàn cây màu bạc và những hồ nước loang loáng. Có đoạn nó bay bổng lên và có lúc nó lại trôi là đà trên một con đường mềm như lụa bên dưới bàn chân trần của nó.
Và bây giờ, nó ở đây, đứng trước một cánh cửa cao như cột đèn, một cánh cửa sắt trồi ra toàn đinh tán nhọn, nhỏ nhuyễn. Những đầu đinh phủ dọc theo chiều dài, viền hết chiều ngang phần đỉnh và phần đáy của cánh cửa. Không có tay nắm, cũng chả có ổ khóa, điều này khiến nó suy đoán rằng cánh cửa được vận hành bằng một thiết bị nhiệt tinh vi hoặc bằng phép thuật.
Ngay khi Billy nhận ra mình chưa chết, thậm chí không đau gì hết, và có thể thở dễ dàng như trước khi bị bức tranh bắt cóc, thì nó liền quên phéng nỗi sợ hãi mà để cho trí tò mò xâm chiếm. Nó lùi lại để nhìn cho rõ hơn tòa nhà ăn hút vô sương mù ở hai bên cánh cửa sắt. Trông giống như một pháo đài nhưng lại có những bức tường hình như bằng đá hoa cương, trơn sáng bóng – loại đá hoa cương đen nhờn một lớp dầu trên bề mặt do không khí ẩm. Ở lưng chừng các bức tường có nhiều khoen sắt đóng hẳn vô đá hoa cương. Chắc chừng hai mươi cái khoen, và trong mỗi khoen đều có một ngọn đuốc đốt bằng dầu hắc đang cháy.
Xứ Badlock không hề giống như Charlie đã mô tả. Có gió, đúng vậy, Billy có thể nghe thấy tiếng rít u u đằng xa, nhưng gió không thổi tới chỗ nó đang đứng đây. Mái tóc trắng mượt của nó vẫn không bị rối bung, mặt và hai bàn tay nó ấm lên nhờ những ngọn lửa phía trên.
Billy quay lại và nhận thấy nếu lùi thêm một bước nữa là nó sẽ té chết tươi, bởi vì nó đang đứng sát mí một vách đá dựng đứng. Bên dưới nó là một đồng bằng mênh mông trải ngút ra tận đường chân trời, và đằng đó có những ngọn tháp kỳ lạ hẹp tí chĩa lên trời. Hai bên đồng bằng, những ngọn núi xám trơ trụi nhô bất tận vô những đám mây màu tím trôi luộn cuộn muôn hướng, cả phía trên đỉnh núi lẫn dưới mặt đất hoang vu.
Một giọng nói trơn tuột như vải xa tanh, “Xong rồi, Billy Raven!”
Billy quay phắt lại, kêu hốc lên. Cánh cửa sắt đã mở ra không một tiếng động từ hồi nào và đứng đó là gã đàn ông mà trước kia Billy đã trông thấy một lần, nhưng từ đó diện mạo của hắn đã khắc sâu trong ký ức nó.
Tên thầy bùa Harken, cái bóng, chỉ cao trung bình nhưng ở y toát lên một ấn tượng là y cao hơn nhiều. Với bộ tóc đốm vàng bóng rực mọc bắt đầu từ trán và đôi mắt mới nâu đó thoắt cái lại xanh màu ô-liu đậm. Gò má của y nhô cao, đua tranh với cái mũi cong vồng ngạo nghễ. Y mặc toàn nhung xanh ngọc lục bảo.
Miệng Billy há hốc ra, cổ ngậm lại mà không xong.
“Vào đi.” Tên thầy bùa đứng lùi lại và làm điệu bộ cúi chào mai mỉa. “Chào mừng đến cung điện của ta.”
Billy đứng đông cứng tại chỗ. Phía bên kia lão bá tước, nó có thể thấy một hành lang dài trải thảm lông thú. Đèn bấc rừng rực từ những bức tường đá hoa cương đen và, tệ hại trên hết thảy, đối với Billy, trần nhà treo tòn teng những cái đầu của bao nhiêu loài thú, những đôi mắt thủy tinh của chúng vẫn còn nguyên nỗi kinh hoàng về khoảnh khắc bị bắt giữ.
“Cái gì làm mày ảo não thế, nhóc? Vào đi.” Bá tước Harken chộp lấy tay Billy và kéo nó vô trong. Cánh cửa sắt im lặng đóng lại đằng sau nó.
“Theo ta,” bá tước ra lệnh.
Billy không có lựa chọn nào khác. Cố bước nhẹ hết sức lên những tảng da gấu, da cọp vẫn còn lông mềm mại, nó theo chủ nhà đi xuôi hành lang dài đậm mùi chết chóc đó, mắt hơi nhắm lại để khỏi phải trông thấy những cái đầu thú tít ở trên cao mà nó buộc phải đi bên dưới. Đúng lúc ấy thì Rembrandt lên tiếng.
“Billy, tụi mình đang ở đâu đấy, chuyện gì xảy ra?” Con chuột lít chít.
Bá tước Harken quay phắt lại. “Cái gì đó?”
Billy đã quên khuấy là Rembrandt đang ngủ sâu trong túi áo pijama của nó. Không hề nghĩ ngợi, nó nói liền: “Con chuột của tôi, thưa ngài.”
“Đó là cái gì?” bá tước Harken chất vấn.
“Tôi đã nói ngài rồi, con chuột của tôi,” Billy lặp lại.
“ĐÓ LÀ CÁI GÌ?” Bá tước rống gầm lên.
Billy chợt vỡ lẽ rằng bá tước không hiểu chuột là gì, hoặc sao đó mà quên rồi. Nó nhẹ nhàng lôi Rembrandt ra khỏi túi áo và chìa con chuột ra.
“Úi” Rembrandt chít. “Đây là tin xấu, Billy.”
“Ta đã quên mất,” bá tước gù gừ. “Bọn ta không có chuột ở đây. Lính của ta đã ăn hết sạch bách không còn con nào, cách đây lâu, lâu, lâu lắm rồi. Đưa nó cho ta.”
“Không.” Billy ôm chặt Rembrandt vô ngực. “Tôi không thể. Tôi không thể sống mà không có Rembrandt. Tôi không đưa!”
Bá tước có vẻ ngạc nhiên. “Mày có tinh thần đấy, nhóc. Tốt, mày cứ giữ cái con có tên kỳ quặc đó, nếu nó chế ngự mày. Nó vừa mới nói xong. Đừng có chối. Tao biết mày hiểu ngôn ngữ của nó. Nó đã nói gì vậy?”
Billy ngẫm nghĩ câu hỏi đó có phải là hỏi bẫy hay không. Không chừng lão bá tước này có thể nói được tiếng thú vật. Billy quyết định nói dối một phen. “Nó bảo chúng tôi đang ở một nơi tốt, thưa ngài.”
Bá tước dòm Billy vẻ nghi hoặc. “Nó nói thế à? Hừ. Ta phải tin mày... chỉ lúc này thôi.” Hắn quay đầu bước tiếp, đôi giày mũi nhọn cong vút của y khẽ rít trên lớp lông thú. Và Billy theo sau, cảm thấy tội lỗi vì tấm thảm kiểu vầy rất ấm và thoải mái cho những ngón chân trần của nó.
Phải mất khá nhiều thời gian mới đi hết hành lang, nhưng rồi cuối cùng, khi họ đến đó thì một cánh cửa sắt khác mở về sau êm ru, để lộ ra một căn phòng rộng ngút ngát. Treo lơ lửng từ trên mái bằng những sợi xích sắt là ba vòng tròn, cái này lồng vào khoảng giữa của cái kia chừng ba tấc hay cỡ đó, cái nhro nhất ở trên cùng, cái to nhất ở dưới cùng. Ít nhất năm mươi ngọn nến được xếp bên trong mỗi vòng tròn, và hợp lại, tất cả cùng cháy rực lên một quầng lửa trắng dữ dội. Billy choáng sốc trước chùm nến thần diệu này đến nỗi phải mất mấy giây nó mới nhận ra ba dáng người đang ngồi trước một lò sưởi khổng lồ ở một đầu căn phòng.
“Gia đình ta!” bá tước tuyên bố. Y kéo Billy tới trước “Còn đây là nó!”
“Chú nhóc!” một bé gái reo lên, nhảy xổ ra khỏi một đống gối nệm. “Cụ đã mang nó tới.” Như thể Billy là một món đồ không bằng.
Cô bé băm bổ về phía Billy, qua một biển chăn, mền. Đó là một bé gái nhỏ nhắn gương mặt ngời ngời, tóc đen, quăn búp và mắt nâu tròn. Cô bé mặc váy dài màu vàng, kết hoa vàng óng, và nụ cười mở của cô bé lập tức khiến Billy yên lòng. Tuy nhiên khi trông thấy Rembrandt, cô bé khựng lại tức thì, chỉ con chuột, thét om. “Đó là cái gì?”
“Chuột đó, đứa trẻ,” bá tước bảo cô bé, “từ vùng đất của bà mi. Nó sẽ không làm hại mi. Thằng nhóc khống chế được nó trong tài phép của mình.” Y quay qua Billy. “Matilda là cháu gái ta. Còn kia,” y chỉ lò sưởi, “mi sẽ gặp cháu trai của ta Edgar, và vợ ta Lilith.”
Billy gật đầu không thốt lên lời. Cái thằng trong bộ áo jacket xanh lá cây đậm và quần ống túm đó không nhìn lên khỏi quyển sách đang đặt trên đùi.
Tuy nhiên, người phụ nữ quay qua nhìn Billy trừng trừng từ chiếc ghế lớn mà bà ta đang dựa người – đầu bà ta tựa vô thành ghế gỗ dày. Khi Billy chạm phải ánh nhìn từ đôi mắt đen của bà ta, một cơn ớn lạnh chạy khắp người nó, Rembrandt thì thào, “Sai lầm rồi.”
“Nó phát ra âm thanh,” Matilda kêu lên. “Con chuột của ngài.”
“Tôi không phải là ngài,” Billy lẳng lặng nói. “Tôi chỉ là Billy.”
Đến lúc này cái thằng kia mới ngước mắt lên. Nó lớn hơn em gái nó ít nhất bốn tuổi và không có nét nào giống cô bé. Tóc vàng tỉa gọn, mắt xanh lá cây đến giật mình.
Matilda lại gần Billy, vẫn nhìn con Rembrandt một cách lo âu, nhưng Billy hấp tấp nhét con chuột trở vô túi áo nó, và động thái này mang nụ cười trở lại trên gương mặt cô bé. “Tôi thích cái mặt nạ của ngài, thưa ngài, nhưng nó bằng thủy tinh và tôi có thể nhìn thấy xuyên qua nó.” Cô bé chạm vô mắt kính của Billy. “Có lẽ nó là một vật của tương lai.”
“Ê... đúng,” Billy nói.
“Ối, mắt ngài màu quả dâu,” cô bé tiếp. “Phép màu làm sao. Cả váy của ngài nữa rất hay. Nhưng ngài không có giày.”
“Tôi không có thời gian xỏ giày vô,” Billy nói, liếc nhìn bá tước.
“Cụ của tôi bảo với chúng tôi là sẽ mang một thằng nhóc từ tương lai về cho chúng tôi vui giải trí.” Matilda khẽ kéo Billy về phía lò sưởi đá hoa cương khổng lồ. “Và cụ bảo rằng bổn phận của chúng tôi là chăm sóc ngài. Không đúng sao, chúa tể của cháu?”
“Hãy bảo đảm nó sẵn sàng ăn tối.” Bá tước quẳng những lời này vào Matilda khi y bước trở lại cánh cửa sắt – cái cửa cung cúc mở ra cho y đi qua và đóng lại phía sau y.
Billy đứng đằng trước lò sưởi reo vang. Phía bên phải nó, Edgar đã trở về với quyển sách; bên trái, bà Lilith vẫn tiếp tục nhìn chằm chặp vào nó. Billy cảm thấy khó chịu kinh khủng. Ánh mắt bà ta hằn học đến nỗi mọi cố gắng chuyện trò đều rỉ ra hết khỏi Billy. May thay Matilda là một người nói luôn mồm.
“Tôi sẽ đưa ngài vô phòng để chúng tôi chuẩn bị cho ngài,” cô bé huyên thuyên. “Tôi nghĩ ngài sẽ thích, Billy. Có quần áo mới cho ngài rồi... kể cả giày. Và ngài sẽ có một đầy tớ riêng, dĩ nhiên, để...”
“Tôi nghĩ tôi nên trở về ngay bây giờ,” Billy nói.
Matilda có vẻ sửng sốt. “Về đâu?”
“Về nhà tôi.” Billy thấy mình run bắn. “Tôi không thuộc về nơi này. Tôi muốn đi. Tại sao tôi không thể về nhà?” Nó quay qua gương mặt lạnh đá của bà Lilith. “Tại sao tôi ở đây?”
“Mi không có nhà,” người phụ nữ nói.
Trong một thoáng Billy sốc đến nỗi á khẩu, mãi rồi nó mới nói, “Tôi có. Có. Tôi sống với Charlie Bone.”
“Đó là dối trá,” bà ta nói. “Bọn chúng chứa mi vì tội nghiệp. Nhưng chúng không muốn mi.”
Nghe những lời này, một khối đá lạnh căm ngấm vô người Billy. Nó hầu như không cảm thấy Matilda nắm tay nó, cứ mù quáng đi theo cô bé về phía cánh cửa mà đã tự động mở toang trước khi chúng tới nơi.
Matilda dẫn Billy đi vài bước trong hành lang rải lông thú thì quẹo và leo lên một cái cầu thang đá hoa cương chật hẹp. Đi lên hết cầu thang thì tới một hành lang dài, chỉ có một ngọn đèn bấc cháy ở đầu cuối. Matilda bước về phía ngọn đèn và dừng lại trước một cánh cửa cài một cái then bự oành. Cô bé nâng cái then lên và Billy theo cô bé vô một căn phòng mà được cho là phòng riêng của nó... nhưng trong bao lâu? Nó không dám nghĩ tới.
Không đến nỗi tệ. Một ngọn lửa cháy trong vỉ sắt và những bức tường đá hoa cương màu xanh lá cây nhạt. Chiếc giường loại bốn cọc cao ngất, treo màn màu ngà voi. Có một tấm thảm lông thú, dĩ nhiên, một cái ghế và một cái rương lớn bằng gỗ sồi. Một bộ quần để sẵn trên giường: áo jacket nhung xanh da trời, với những đường viền vàng óng ở cổ áo và cổ tay, và một cái quần dài màu xanh da trời và vàng kim. Giày được đặt dưới chân giường. Đó là một đôi giày mũi nhọn, dài, trang trí vàng.
“Thầy bùa nói chúng tôi rất may mắn.” Matilda nhấc cái áo jacket xanh da trời lên. “Ở những vùng đất khác người ta toàn mặc đồ bằng vải thô; con trai mang vớ len xù xì và mặc loại áo chẽn gây ngứa ngáy. Đây là xứ Badlock, chúng tôi đã phát triển rất tiến bộ.”
“Thật à?” Billy bước về phía lò sưởi và hơ hai bàn tay trước lưỡi lửa. Cơn ớn lạnh vừa dội xuống người nó vẫn không dịch chuyển được. Nó không có nhà ở nơi này.
Matilda nhảy phóc lên giường ngồi, đung đưa bàn chân. “Ngài có thể vui vẻ ở đây không, Billy? Đôi khi tôi rất co đơn. Edgar không bao giờ là bạn, vì vậy tôi không có ai làm bạn.” Cô bé ngừng lời. “Và tôi sợ thầy bùa và vợ của cụ ấy.”
Cô này nói như thể học không hề có họ hàng dây mơ gì vậy, Billy nghĩ. Nhưng lẽ nào thầy bùa và vợ lão không phải là cụ kỵ của cô ta?”
“Mẹ của bạn đâu?” Billy hỏi.
“Mẹ tôi? Bà chết rồi, vì yếu tim. Cha tôi cũng đã chết. Ông là một hiệp sĩ dũng cảm. Tên ông là Gervaise de Roussillon, ông đã chết trong một trận đấu gian lận.” Matilda thấp giọng. “Bà vú già của tôi bảo là thầy bùa nhúng tay vào vụ giết cha tôi. Nhưng tôi không thể chắc chắn.” Cô bé nháo nhác liếc quanh phòng.
“Cái gì thế?” Billy hỏi. “Bạn sợ gì à?”
“Ngài sẽ thấy ngay thôi,” cô bé đáp. “Tôi có thể nghe tiếng những bước chân.”
Và Billy cũng nghe thấy, một phút sau, một then cửa trên những bức tường đá hoa cương bắt đầu di chuyển, giống như con sâu bào trong bùn đen, một làn mây mỏng xuất hiện như thể đá hoa cương đang bốc hơi, và xuyên qua làn mây là Edgar đang bước tới.
“Đáng ra anh có thể dùng cửa,” Matilda trách.
“Ta không chọn thế,” thằng anh của cô bé quặc lại. “Ngươi được đòi hỏi đi ăn tối, nhanh.” Nó thẩy một cái nhìn khinh miệt vào Billy. “Sao người không ăn mặc chỉnh tề?”
Billy bất lực nhìn Matilda.
“Ngài ấy chưa có thời gian,” cô bé nói, nhảy xuống giường. “Ta sẽ...”
“Để đó,” Edgar cướp lời. “Đầy tớ sẽ làm.” Không thêm lời nào nữa, Edgar lê giật lùi và, bằng một cái vặn vai vụng về và một cú vung lẻo khẻo của bàn chân phải, thằng này để cho bức tường nuốt chửng lấy thân người.
Matilda cười toét với Billy. “May quá, Edgar không quan tâm chăm chút tài phép của anh ta. Tôi luôn nghe thấy tiếng anh ta đi tới. Sự thoát đi và sự hiện ra của anh ta rất thô thiển và lụm chụm. Hãy nghe đi, ngay cả bây giờ ngài cũng nghe thấy tiếng anh ta.”
Đúng vậy Billy có thể nghe thấy tiếng những bước chân đang rút lui khỏi hành lang.
Matilda băng qua căn phòng, mở cửa ra và nói to. “Bây giờ ngài vào đi. Tôi sẽ gặp ngài ở tại gian nhà ăn,” cô bé bảo Billy.
Nó chỉ vừa ở lại một mình chừng một giây thì một thân hình lùn chè bè đâm bổ vô phòng và hăng hái cởi đồ ngủ ra cho nó.
“KHÔNG!” Billy kêu thất thanh.
Sinh vật nhỏ đó ngóc lên nhìn nó, kinh hãi. Billy không biết đó là phái nam hay phái nữ. Một cái mũ len chùm kín mít đầu nó, còn thân hình thì chành bành và ục ịch đến nỗi thật khó mà biết cái eo nó nằm ở chỗ nào, hoạc cái cẳng nó bắt đầu từ đâu.
“Mi có thể chờ ở bên ngoài,” Billy nói.
Sinh vật đố ngạc nhiên vô cùng, nó lết ra và nhẹ nhàng đóng cửa lại.
Billy cởi pyjama và thay bộ đồ nhung xanh da trời. Tiếp đến là mang giày. Cái này thật đáng lo. Chúng chẳng vừa vặn gì hết và đôi mũi giày dài phát ra âm thanh bép bép theo mỗi bước chân nó đi. Giống hệt như nó đang mang dép lê. Billy cảm thấy mình ngố gì đâu, nhưng nếu để chân đất còn ngớ ngẩn hơn nhiề, nó nhận ra vậy. Nó ngạc nhiên quá đỗi, cả áo hay quần đều không hề có túi gì ráo trọi. Nó không thể để Rembrandt lại. Con chuột sẽ ăn gì?
“Xin... xin lỗi,” Billy gọi, không biết phải xưng hô với sinh vật ở bên ngoài như thế nào. “Ngài có thể vô đây.”
Cái vật đó mở cửa ra một tị và hí mắt dòm vô. Đôi mắt có màu nâu xám của vỏ cây nhưng trong đó ánh lên vẻ hiền lành.
“Vui lòng giúp tôi được không?” Billy nói. “Tôi cần một... một cái túi, hay một cái bao.. hay... hay gì đó.”
Sinh vật xộc vô và đứng trước Billy. “Dorgo,” nó nói bằng giọng nam. “Dorgo, tên tôi tớ. Ngài muốn túi làm gì để?”
Dorgo chưa nhận ra con chuột đang ngồi tự rửa ráy trên giường của Billy.
“Cho nó,” Billy chỉ Rembrandt.
Dorgo thét lên một tiếng đinh tai và ôm chặt lấy eo Billy. “Cái? Cái? Cái gì?” anh ta hét ỏm tỏi.
“Nó chỉ là một con chuột,” Billy nói.
“Hắn là cái gì đó?” Rembrandt chít lên, trố mắt dòm Dorgo đang run lập cập.
“Một người,” Billy thì thào. Nó nhẹ nhàng gỡ Dorgo bạt vía ra, và nói, “Nó không làm anh đau đâu, nhưng tôi cần đặt nó vào cái gì đó để tôi có thể mang nó theo cùng.”
Dorgo gật đầu. Không dời mắt khỏi nền nhà, anh ta bước tới cái rương gỗ sồi và mở nắp ra. Xong, anh ta nhoài tới khoắng bên trong rương như một con thỏ đào hang, hất văng giày, quần áo bay ra tứ lung tung. Sau vài giây, anh ta bới tới đáy rương và cầm lên một dải thắt lưng bằng da thuộc bên trên có một cái túi nhỏ viền vàng đính liền vô. Anh ta trao sợi dây lưng cho Billy, mắt vẫn dán chặt xuống sàn.
“Tuyệt hảo. Cám ơn,” Billy nói, đeo dây nịt vô eo. Nó tóm lấy Rembrandt và nhét vô cái túi.
“Giờ là gì?” Rembrandt la í óe.
“Thức ăn,” Billy chít lại. “Tớ hi vọng.”
Dorgo đã nhắm tịt mắt lại. Billy chạm vai anh ta. “Tôi tin là người ở đây ăn chuột,” nó bảo anh ta. “Cho nên đừng nói với ai về nó nhé.”
“Không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ,” Dorgo nói một hơi. Anh ta mở mắt, chạy bay đến cái rương, bốc đồ đạc thảy trở vô và đóng nắp lại. “Làm ơn, theo sau. Chủ nhân ăn bây giờ,” anh ta nói theo cái kiểu hay đảo ngược từ của mình.
Được gọi là chủ nhân còn hơn cả mãn nguyện nữa. Điều này khiến Billy lập tức cảm thấy mình cao lớn hơn và tự tin hơn. “Dẫn đường,” nó nói, hơi khoa trương hơn nó dự định.
“Ối trời ơi!” một lời bình phẩm nghẹt ứ phát ra từ cái túi màu vàng.
Dorgo co rúm người và chạy cuống cuồng ra khỏi phòng. Anh ta dẫn Billy xuống cầu thang đá hoa cương, dọc theo hành lang đầu và lông thú vô một căn phòng đáng kinh ngạc nhất Billy từng thấy. Mặc dù nó được gọi là căn phòng nhưng xem ra không chính xác. Mà đó là một hội trường rộng mệnh mông lát đá hoa cương đen, với mái trần cao hình vòm lấp lánh những vì sao. Trên các bức tường treo đầy vũ khí và những đồ vật quý: thương, gươm sáng loáng, khiên được trang trí những sinh vật trong thần thoại, da cọp, mặt nạ vẽ, một bánh xe vàng, sừng bằng ngà voi, gương lồng khung mạ vàng, thảm thêu, biển thêu trân chau, kim cương và ngọc lục bảo, cùng những thứ Billy chưa từng thấy bao giờ nhưng nó chắc chắn chúng chỉ được sử dụng trong chiến tranh. Nó đứng ở bên trong khung cửa với cái miệng há hốc.
Bá tước Harken đang ngồi ở đầu đằng xa một cái bàn lát kính, dài ít nhất phải sáu thước. “Ngồi xuống, Billy Raven,” y nói dõng dạc, giọng vang dội lên trần nhà lấp lánh, làm tăng độc sáng của những ngôi sao vàng.
Bà Lilith ngồi ở đầu bàn quay lưng ra cửa, Edgar và Matilda ngồi đối diện nhau, chỗ khoảng giữa bàn. Billy nhẹ cả người khi thấy một cái đĩa trống được đặt bên cạnh đĩa của Matilda. Khi nó tiến về phía cô bé, Dorgo đi theo, kéo ghế của Billy ra và đẩy ghế vô cho nó ngồi xuống. Matilda nhoẻn với Billy một nụ cười trấn an.
Billy nhận thấy tất cả mọi người đều có một phiên bản Dorgo đứng ở sau lưng. Ngoài ra còn có những đầy tớ khác đứng rải rác ở xung quanh phòng. Mỗi đầy tớ bưng một cái khay màu vàng óng. Hầu như mọi thứ ở trên bàn đều được làm bằng vàng: giá cắm nến, đĩa, tô, tách, dao, và muỗng. Tất cả loe lóe, sáng choang, đến nỗi Billy phải tháo mắt kính ra và dụi mắt.
“Mi có bao giờ ăn bữa tối xì bùa chưa, Billy Raven?” bá tước gầm rổn rảng từ cuối bàn.
Billy lắc đầu.
“Thế thì mi sắp ăn rồi,” bá tước nói. “Mi ước ăn gì?”
“Èm, mì ống, làm ơn,” Billy nói.
“Mì ống,” bá tước nói với tên đầy tớ cao lớn, ăn mặc oai vệ hơn những đầy tớ khác.
Một sự im lặng rơi xuống trong khi anh đầy tớ cao nhìn trơ trơ vô cái đĩa trống. Rồi anh ta tằng hắng và ngẩng đầu lên, hát ngâm nga. “Không biết.”
“Không biết! Không biết! Không biết!” những đầy tớ kia nhắc lại.
Billy lúng túng.
“Món khác,” bá tước ra lệnh.
Billy cố nghĩ tới cái gì mà tất cả mọi người, thuộc mọi thời đại, phải ăn. “Bánh mì,”nó nói.
“Bánh mì,” bá tước gầm vang.
Cái khay của anh đầy tớ cao lập tức đầy ắp những ổ bánh mì đen. Dorgo tóm lấy đĩa của Billy, chạy như bay về phía ông cầm khay bánh mì, trút tất cả lên đĩa của Bily và chạy trở lại chỗ nó.
“Nữ bá tước?” Lần này giọng bá tước giăng kín hội trường. Cần phải nói to như thế mới vọng tới được chỗ bà vợ.
Bà Lilith tuôn ra một danh mục những cái tên lạ hoắc. Bá tước nhắc lại, và khay của anh đầy tớ cao đầy ắp những loại quả trông kỳ lạ - hay đó là rau? Đầy tớ của bà Lilith vù đi nhận chúng và đem về cho bà chủ.
Edgar chọn hạt kê, nhộng, bắp cải và pho mát, trông thấy ghê ghê. Matilda chọn súp cá hành bốc mùi thơm phức, còn bá tước chọn thực đơn giống như của bà vợ.
Billy cảm thấy ngượng ngập vì đĩa mình toàn bánh mì đen. Nó không biết phải ăn như thế nào.
“Bữa tối?” Rembrandt chít đầy hi vọng.
Trước khi tiếng chít của Rembrandt trở nên quá ồn, Billy chộp lấy một ổ bánh. Dùng tay xé bánh ra, nó ráng xoay xở bỏ vô cái túi trên đùi nó một mẩu vừa ăn.
Khi Rembrandt chít lên cám ơn, Matilda cười khúc khích, Edgar trừng mắt nhìn em gái và nói: “Thằng nhóc đem thức ăn cho một sinh vật. Đó là lỗ mãng và phung phí.”
Bá tước Harken phẩy tay thô bạo. “Không vấn đề, Edgar. Nó là khách của chúng ta.”
Edgar cau có lùa một muỗng đồ ăn vô miệng. Nhưng từ đầu bàn bên kia, nữ bá tước vẫn tiếp tục nhìn Billy trừng trừng, thậm chí kể cả trong khi bà ta đang nhai những món không thể đọc được là món gì. Trông bà ta cứ như không có tim, Billy ước gì mình ở cách xa hàng ngàn dặm, trở về ngôi nhà của Charlie Bone, cho dù ở đó nó không được chào đón.
Món thứ hai khả quan hơn món thứ nhất nhiều. Matilda khuyên Billy chọn lê ướp rượu. Chúng ngon tuyệt, đúng như cô bé hứa hẹn.
Sau bữa ăn Dorgo dẫn Billy trở lại phòng riêng của nó. Anh đầy tớ nhỏ lật khăn trải giường ra, để lại bộ đồ ngủ, thắp cho Billy một ngọn nến đặt trong một cái đĩa kim loại để trên nóc rương. Billy thay bộ pyjama của nó và lên giường. Nó nhìn ngọn nến cháy thấp dần, thấp dần và tự hỏi mình có bao giờ ngủ được hay không. Nó mệt thừ nhưng đầu óc nó không ngừng lang thang tới những căn phòng sáng lấp lánh bên dưới. Charlie sẽ tới đón mình, nó nghĩ, bởi vì Charlie có thể chu du vô tranh.
Bên ngoài, tiếng gió rên rỉ băng qua cánh đồng. Và rồi át trên tiếng gió, vọng đến tiếng những bước chân nặng nề, kéo lê dưới nền đất. Kèm theo tiếng chân là tiếng loảng xoảng hỗ loạn của những sợi xích sắt.
Billy bật dậy khỏi giường và ló đầu ra hành lang. Dorgo đang ngồi ngoài cửa. Đầu anh ta đổ về trước, nhưng không hề ngủ.
“Gì thế chủ nhân, thưa?” Dorgo hỏi.
“Tôi nghe thấy gì đó? Những bước chân.”
“Người khổng lồ đó, chủ nhân, thưa.”
“Người khổng lồ?”
“Họ mang ông ta vào hầm ngục. Ông ấy xấu. Phải bị phạt.”
“Ông ta đã làm gì?”
Dorgo thở dài. “Ông ta đã giấu một thằng nhóc từ tương lai, giống như ngài.”
Charlie, Billy nghĩ. Tổ tiên của Charlie là một người khổng lồ.
“Ngủ đi, chủ nhân.” Dorgo nói.
Billy bước lùi trở vô phòng và đóng cửa lại.
Cuộc hành trình của Billy vô xứ Badlock thật chớp nhoáng. Mới phút trước nó còn đưa tay sờ hình vẽ Hạt Đậu thì phút sau cái gì đã chộp lấy cánh tay nó, kéo nó về phía trước, băng qua tiếng chó ông ổng, chui vô một màn sương mù cuồn cuộn xung quanh tựa như là mưa khói. Lướt, lướt qua một khu rừng toàn cây màu bạc và những hồ nước loang loáng. Có đoạn nó bay bổng lên và có lúc nó lại trôi là đà trên một con đường mềm như lụa bên dưới bàn chân trần của nó.
Và bây giờ, nó ở đây, đứng trước một cánh cửa cao như cột đèn, một cánh cửa sắt trồi ra toàn đinh tán nhọn, nhỏ nhuyễn. Những đầu đinh phủ dọc theo chiều dài, viền hết chiều ngang phần đỉnh và phần đáy của cánh cửa. Không có tay nắm, cũng chả có ổ khóa, điều này khiến nó suy đoán rằng cánh cửa được vận hành bằng một thiết bị nhiệt tinh vi hoặc bằng phép thuật.
Ngay khi Billy nhận ra mình chưa chết, thậm chí không đau gì hết, và có thể thở dễ dàng như trước khi bị bức tranh bắt cóc, thì nó liền quên phéng nỗi sợ hãi mà để cho trí tò mò xâm chiếm. Nó lùi lại để nhìn cho rõ hơn tòa nhà ăn hút vô sương mù ở hai bên cánh cửa sắt. Trông giống như một pháo đài nhưng lại có những bức tường hình như bằng đá hoa cương, trơn sáng bóng – loại đá hoa cương đen nhờn một lớp dầu trên bề mặt do không khí ẩm. Ở lưng chừng các bức tường có nhiều khoen sắt đóng hẳn vô đá hoa cương. Chắc chừng hai mươi cái khoen, và trong mỗi khoen đều có một ngọn đuốc đốt bằng dầu hắc đang cháy.
Xứ Badlock không hề giống như Charlie đã mô tả. Có gió, đúng vậy, Billy có thể nghe thấy tiếng rít u u đằng xa, nhưng gió không thổi tới chỗ nó đang đứng đây. Mái tóc trắng mượt của nó vẫn không bị rối bung, mặt và hai bàn tay nó ấm lên nhờ những ngọn lửa phía trên.
Billy quay lại và nhận thấy nếu lùi thêm một bước nữa là nó sẽ té chết tươi, bởi vì nó đang đứng sát mí một vách đá dựng đứng. Bên dưới nó là một đồng bằng mênh mông trải ngút ra tận đường chân trời, và đằng đó có những ngọn tháp kỳ lạ hẹp tí chĩa lên trời. Hai bên đồng bằng, những ngọn núi xám trơ trụi nhô bất tận vô những đám mây màu tím trôi luộn cuộn muôn hướng, cả phía trên đỉnh núi lẫn dưới mặt đất hoang vu.
Một giọng nói trơn tuột như vải xa tanh, “Xong rồi, Billy Raven!”
Billy quay phắt lại, kêu hốc lên. Cánh cửa sắt đã mở ra không một tiếng động từ hồi nào và đứng đó là gã đàn ông mà trước kia Billy đã trông thấy một lần, nhưng từ đó diện mạo của hắn đã khắc sâu trong ký ức nó.
Tên thầy bùa Harken, cái bóng, chỉ cao trung bình nhưng ở y toát lên một ấn tượng là y cao hơn nhiều. Với bộ tóc đốm vàng bóng rực mọc bắt đầu từ trán và đôi mắt mới nâu đó thoắt cái lại xanh màu ô-liu đậm. Gò má của y nhô cao, đua tranh với cái mũi cong vồng ngạo nghễ. Y mặc toàn nhung xanh ngọc lục bảo.
Miệng Billy há hốc ra, cổ ngậm lại mà không xong.
“Vào đi.” Tên thầy bùa đứng lùi lại và làm điệu bộ cúi chào mai mỉa. “Chào mừng đến cung điện của ta.”
Billy đứng đông cứng tại chỗ. Phía bên kia lão bá tước, nó có thể thấy một hành lang dài trải thảm lông thú. Đèn bấc rừng rực từ những bức tường đá hoa cương đen và, tệ hại trên hết thảy, đối với Billy, trần nhà treo tòn teng những cái đầu của bao nhiêu loài thú, những đôi mắt thủy tinh của chúng vẫn còn nguyên nỗi kinh hoàng về khoảnh khắc bị bắt giữ.
“Cái gì làm mày ảo não thế, nhóc? Vào đi.” Bá tước Harken chộp lấy tay Billy và kéo nó vô trong. Cánh cửa sắt im lặng đóng lại đằng sau nó.
“Theo ta,” bá tước ra lệnh.
Billy không có lựa chọn nào khác. Cố bước nhẹ hết sức lên những tảng da gấu, da cọp vẫn còn lông mềm mại, nó theo chủ nhà đi xuôi hành lang dài đậm mùi chết chóc đó, mắt hơi nhắm lại để khỏi phải trông thấy những cái đầu thú tít ở trên cao mà nó buộc phải đi bên dưới. Đúng lúc ấy thì Rembrandt lên tiếng.
“Billy, tụi mình đang ở đâu đấy, chuyện gì xảy ra?” Con chuột lít chít.
Bá tước Harken quay phắt lại. “Cái gì đó?”
Billy đã quên khuấy là Rembrandt đang ngủ sâu trong túi áo pijama của nó. Không hề nghĩ ngợi, nó nói liền: “Con chuột của tôi, thưa ngài.”
“Đó là cái gì?” bá tước Harken chất vấn.
“Tôi đã nói ngài rồi, con chuột của tôi,” Billy lặp lại.
“ĐÓ LÀ CÁI GÌ?” Bá tước rống gầm lên.
Billy chợt vỡ lẽ rằng bá tước không hiểu chuột là gì, hoặc sao đó mà quên rồi. Nó nhẹ nhàng lôi Rembrandt ra khỏi túi áo và chìa con chuột ra.
“Úi” Rembrandt chít. “Đây là tin xấu, Billy.”
“Ta đã quên mất,” bá tước gù gừ. “Bọn ta không có chuột ở đây. Lính của ta đã ăn hết sạch bách không còn con nào, cách đây lâu, lâu, lâu lắm rồi. Đưa nó cho ta.”
“Không.” Billy ôm chặt Rembrandt vô ngực. “Tôi không thể. Tôi không thể sống mà không có Rembrandt. Tôi không đưa!”
Bá tước có vẻ ngạc nhiên. “Mày có tinh thần đấy, nhóc. Tốt, mày cứ giữ cái con có tên kỳ quặc đó, nếu nó chế ngự mày. Nó vừa mới nói xong. Đừng có chối. Tao biết mày hiểu ngôn ngữ của nó. Nó đã nói gì vậy?”
Billy ngẫm nghĩ câu hỏi đó có phải là hỏi bẫy hay không. Không chừng lão bá tước này có thể nói được tiếng thú vật. Billy quyết định nói dối một phen. “Nó bảo chúng tôi đang ở một nơi tốt, thưa ngài.”
Bá tước dòm Billy vẻ nghi hoặc. “Nó nói thế à? Hừ. Ta phải tin mày... chỉ lúc này thôi.” Hắn quay đầu bước tiếp, đôi giày mũi nhọn cong vút của y khẽ rít trên lớp lông thú. Và Billy theo sau, cảm thấy tội lỗi vì tấm thảm kiểu vầy rất ấm và thoải mái cho những ngón chân trần của nó.
Phải mất khá nhiều thời gian mới đi hết hành lang, nhưng rồi cuối cùng, khi họ đến đó thì một cánh cửa sắt khác mở về sau êm ru, để lộ ra một căn phòng rộng ngút ngát. Treo lơ lửng từ trên mái bằng những sợi xích sắt là ba vòng tròn, cái này lồng vào khoảng giữa của cái kia chừng ba tấc hay cỡ đó, cái nhro nhất ở trên cùng, cái to nhất ở dưới cùng. Ít nhất năm mươi ngọn nến được xếp bên trong mỗi vòng tròn, và hợp lại, tất cả cùng cháy rực lên một quầng lửa trắng dữ dội. Billy choáng sốc trước chùm nến thần diệu này đến nỗi phải mất mấy giây nó mới nhận ra ba dáng người đang ngồi trước một lò sưởi khổng lồ ở một đầu căn phòng.
“Gia đình ta!” bá tước tuyên bố. Y kéo Billy tới trước “Còn đây là nó!”
“Chú nhóc!” một bé gái reo lên, nhảy xổ ra khỏi một đống gối nệm. “Cụ đã mang nó tới.” Như thể Billy là một món đồ không bằng.
Cô bé băm bổ về phía Billy, qua một biển chăn, mền. Đó là một bé gái nhỏ nhắn gương mặt ngời ngời, tóc đen, quăn búp và mắt nâu tròn. Cô bé mặc váy dài màu vàng, kết hoa vàng óng, và nụ cười mở của cô bé lập tức khiến Billy yên lòng. Tuy nhiên khi trông thấy Rembrandt, cô bé khựng lại tức thì, chỉ con chuột, thét om. “Đó là cái gì?”
“Chuột đó, đứa trẻ,” bá tước bảo cô bé, “từ vùng đất của bà mi. Nó sẽ không làm hại mi. Thằng nhóc khống chế được nó trong tài phép của mình.” Y quay qua Billy. “Matilda là cháu gái ta. Còn kia,” y chỉ lò sưởi, “mi sẽ gặp cháu trai của ta Edgar, và vợ ta Lilith.”
Billy gật đầu không thốt lên lời. Cái thằng trong bộ áo jacket xanh lá cây đậm và quần ống túm đó không nhìn lên khỏi quyển sách đang đặt trên đùi.
Tuy nhiên, người phụ nữ quay qua nhìn Billy trừng trừng từ chiếc ghế lớn mà bà ta đang dựa người – đầu bà ta tựa vô thành ghế gỗ dày. Khi Billy chạm phải ánh nhìn từ đôi mắt đen của bà ta, một cơn ớn lạnh chạy khắp người nó, Rembrandt thì thào, “Sai lầm rồi.”
“Nó phát ra âm thanh,” Matilda kêu lên. “Con chuột của ngài.”
“Tôi không phải là ngài,” Billy lẳng lặng nói. “Tôi chỉ là Billy.”
Đến lúc này cái thằng kia mới ngước mắt lên. Nó lớn hơn em gái nó ít nhất bốn tuổi và không có nét nào giống cô bé. Tóc vàng tỉa gọn, mắt xanh lá cây đến giật mình.
Matilda lại gần Billy, vẫn nhìn con Rembrandt một cách lo âu, nhưng Billy hấp tấp nhét con chuột trở vô túi áo nó, và động thái này mang nụ cười trở lại trên gương mặt cô bé. “Tôi thích cái mặt nạ của ngài, thưa ngài, nhưng nó bằng thủy tinh và tôi có thể nhìn thấy xuyên qua nó.” Cô bé chạm vô mắt kính của Billy. “Có lẽ nó là một vật của tương lai.”
“Ê... đúng,” Billy nói.
“Ối, mắt ngài màu quả dâu,” cô bé tiếp. “Phép màu làm sao. Cả váy của ngài nữa rất hay. Nhưng ngài không có giày.”
“Tôi không có thời gian xỏ giày vô,” Billy nói, liếc nhìn bá tước.
“Cụ của tôi bảo với chúng tôi là sẽ mang một thằng nhóc từ tương lai về cho chúng tôi vui giải trí.” Matilda khẽ kéo Billy về phía lò sưởi đá hoa cương khổng lồ. “Và cụ bảo rằng bổn phận của chúng tôi là chăm sóc ngài. Không đúng sao, chúa tể của cháu?”
“Hãy bảo đảm nó sẵn sàng ăn tối.” Bá tước quẳng những lời này vào Matilda khi y bước trở lại cánh cửa sắt – cái cửa cung cúc mở ra cho y đi qua và đóng lại phía sau y.
Billy đứng đằng trước lò sưởi reo vang. Phía bên phải nó, Edgar đã trở về với quyển sách; bên trái, bà Lilith vẫn tiếp tục nhìn chằm chặp vào nó. Billy cảm thấy khó chịu kinh khủng. Ánh mắt bà ta hằn học đến nỗi mọi cố gắng chuyện trò đều rỉ ra hết khỏi Billy. May thay Matilda là một người nói luôn mồm.
“Tôi sẽ đưa ngài vô phòng để chúng tôi chuẩn bị cho ngài,” cô bé huyên thuyên. “Tôi nghĩ ngài sẽ thích, Billy. Có quần áo mới cho ngài rồi... kể cả giày. Và ngài sẽ có một đầy tớ riêng, dĩ nhiên, để...”
“Tôi nghĩ tôi nên trở về ngay bây giờ,” Billy nói.
Matilda có vẻ sửng sốt. “Về đâu?”
“Về nhà tôi.” Billy thấy mình run bắn. “Tôi không thuộc về nơi này. Tôi muốn đi. Tại sao tôi không thể về nhà?” Nó quay qua gương mặt lạnh đá của bà Lilith. “Tại sao tôi ở đây?”
“Mi không có nhà,” người phụ nữ nói.
Trong một thoáng Billy sốc đến nỗi á khẩu, mãi rồi nó mới nói, “Tôi có. Có. Tôi sống với Charlie Bone.”
“Đó là dối trá,” bà ta nói. “Bọn chúng chứa mi vì tội nghiệp. Nhưng chúng không muốn mi.”
Nghe những lời này, một khối đá lạnh căm ngấm vô người Billy. Nó hầu như không cảm thấy Matilda nắm tay nó, cứ mù quáng đi theo cô bé về phía cánh cửa mà đã tự động mở toang trước khi chúng tới nơi.
Matilda dẫn Billy đi vài bước trong hành lang rải lông thú thì quẹo và leo lên một cái cầu thang đá hoa cương chật hẹp. Đi lên hết cầu thang thì tới một hành lang dài, chỉ có một ngọn đèn bấc cháy ở đầu cuối. Matilda bước về phía ngọn đèn và dừng lại trước một cánh cửa cài một cái then bự oành. Cô bé nâng cái then lên và Billy theo cô bé vô một căn phòng mà được cho là phòng riêng của nó... nhưng trong bao lâu? Nó không dám nghĩ tới.
Không đến nỗi tệ. Một ngọn lửa cháy trong vỉ sắt và những bức tường đá hoa cương màu xanh lá cây nhạt. Chiếc giường loại bốn cọc cao ngất, treo màn màu ngà voi. Có một tấm thảm lông thú, dĩ nhiên, một cái ghế và một cái rương lớn bằng gỗ sồi. Một bộ quần để sẵn trên giường: áo jacket nhung xanh da trời, với những đường viền vàng óng ở cổ áo và cổ tay, và một cái quần dài màu xanh da trời và vàng kim. Giày được đặt dưới chân giường. Đó là một đôi giày mũi nhọn, dài, trang trí vàng.
“Thầy bùa nói chúng tôi rất may mắn.” Matilda nhấc cái áo jacket xanh da trời lên. “Ở những vùng đất khác người ta toàn mặc đồ bằng vải thô; con trai mang vớ len xù xì và mặc loại áo chẽn gây ngứa ngáy. Đây là xứ Badlock, chúng tôi đã phát triển rất tiến bộ.”
“Thật à?” Billy bước về phía lò sưởi và hơ hai bàn tay trước lưỡi lửa. Cơn ớn lạnh vừa dội xuống người nó vẫn không dịch chuyển được. Nó không có nhà ở nơi này.
Matilda nhảy phóc lên giường ngồi, đung đưa bàn chân. “Ngài có thể vui vẻ ở đây không, Billy? Đôi khi tôi rất co đơn. Edgar không bao giờ là bạn, vì vậy tôi không có ai làm bạn.” Cô bé ngừng lời. “Và tôi sợ thầy bùa và vợ của cụ ấy.”
Cô này nói như thể học không hề có họ hàng dây mơ gì vậy, Billy nghĩ. Nhưng lẽ nào thầy bùa và vợ lão không phải là cụ kỵ của cô ta?”
“Mẹ của bạn đâu?” Billy hỏi.
“Mẹ tôi? Bà chết rồi, vì yếu tim. Cha tôi cũng đã chết. Ông là một hiệp sĩ dũng cảm. Tên ông là Gervaise de Roussillon, ông đã chết trong một trận đấu gian lận.” Matilda thấp giọng. “Bà vú già của tôi bảo là thầy bùa nhúng tay vào vụ giết cha tôi. Nhưng tôi không thể chắc chắn.” Cô bé nháo nhác liếc quanh phòng.
“Cái gì thế?” Billy hỏi. “Bạn sợ gì à?”
“Ngài sẽ thấy ngay thôi,” cô bé đáp. “Tôi có thể nghe tiếng những bước chân.”
Và Billy cũng nghe thấy, một phút sau, một then cửa trên những bức tường đá hoa cương bắt đầu di chuyển, giống như con sâu bào trong bùn đen, một làn mây mỏng xuất hiện như thể đá hoa cương đang bốc hơi, và xuyên qua làn mây là Edgar đang bước tới.
“Đáng ra anh có thể dùng cửa,” Matilda trách.
“Ta không chọn thế,” thằng anh của cô bé quặc lại. “Ngươi được đòi hỏi đi ăn tối, nhanh.” Nó thẩy một cái nhìn khinh miệt vào Billy. “Sao người không ăn mặc chỉnh tề?”
Billy bất lực nhìn Matilda.
“Ngài ấy chưa có thời gian,” cô bé nói, nhảy xuống giường. “Ta sẽ...”
“Để đó,” Edgar cướp lời. “Đầy tớ sẽ làm.” Không thêm lời nào nữa, Edgar lê giật lùi và, bằng một cái vặn vai vụng về và một cú vung lẻo khẻo của bàn chân phải, thằng này để cho bức tường nuốt chửng lấy thân người.
Matilda cười toét với Billy. “May quá, Edgar không quan tâm chăm chút tài phép của anh ta. Tôi luôn nghe thấy tiếng anh ta đi tới. Sự thoát đi và sự hiện ra của anh ta rất thô thiển và lụm chụm. Hãy nghe đi, ngay cả bây giờ ngài cũng nghe thấy tiếng anh ta.”
Đúng vậy Billy có thể nghe thấy tiếng những bước chân đang rút lui khỏi hành lang.
Matilda băng qua căn phòng, mở cửa ra và nói to. “Bây giờ ngài vào đi. Tôi sẽ gặp ngài ở tại gian nhà ăn,” cô bé bảo Billy.
Nó chỉ vừa ở lại một mình chừng một giây thì một thân hình lùn chè bè đâm bổ vô phòng và hăng hái cởi đồ ngủ ra cho nó.
“KHÔNG!” Billy kêu thất thanh.
Sinh vật nhỏ đó ngóc lên nhìn nó, kinh hãi. Billy không biết đó là phái nam hay phái nữ. Một cái mũ len chùm kín mít đầu nó, còn thân hình thì chành bành và ục ịch đến nỗi thật khó mà biết cái eo nó nằm ở chỗ nào, hoạc cái cẳng nó bắt đầu từ đâu.
“Mi có thể chờ ở bên ngoài,” Billy nói.
Sinh vật đố ngạc nhiên vô cùng, nó lết ra và nhẹ nhàng đóng cửa lại.
Billy cởi pyjama và thay bộ đồ nhung xanh da trời. Tiếp đến là mang giày. Cái này thật đáng lo. Chúng chẳng vừa vặn gì hết và đôi mũi giày dài phát ra âm thanh bép bép theo mỗi bước chân nó đi. Giống hệt như nó đang mang dép lê. Billy cảm thấy mình ngố gì đâu, nhưng nếu để chân đất còn ngớ ngẩn hơn nhiề, nó nhận ra vậy. Nó ngạc nhiên quá đỗi, cả áo hay quần đều không hề có túi gì ráo trọi. Nó không thể để Rembrandt lại. Con chuột sẽ ăn gì?
“Xin... xin lỗi,” Billy gọi, không biết phải xưng hô với sinh vật ở bên ngoài như thế nào. “Ngài có thể vô đây.”
Cái vật đó mở cửa ra một tị và hí mắt dòm vô. Đôi mắt có màu nâu xám của vỏ cây nhưng trong đó ánh lên vẻ hiền lành.
“Vui lòng giúp tôi được không?” Billy nói. “Tôi cần một... một cái túi, hay một cái bao.. hay... hay gì đó.”
Sinh vật xộc vô và đứng trước Billy. “Dorgo,” nó nói bằng giọng nam. “Dorgo, tên tôi tớ. Ngài muốn túi làm gì để?”
Dorgo chưa nhận ra con chuột đang ngồi tự rửa ráy trên giường của Billy.
“Cho nó,” Billy chỉ Rembrandt.
Dorgo thét lên một tiếng đinh tai và ôm chặt lấy eo Billy. “Cái? Cái? Cái gì?” anh ta hét ỏm tỏi.
“Nó chỉ là một con chuột,” Billy nói.
“Hắn là cái gì đó?” Rembrandt chít lên, trố mắt dòm Dorgo đang run lập cập.
“Một người,” Billy thì thào. Nó nhẹ nhàng gỡ Dorgo bạt vía ra, và nói, “Nó không làm anh đau đâu, nhưng tôi cần đặt nó vào cái gì đó để tôi có thể mang nó theo cùng.”
Dorgo gật đầu. Không dời mắt khỏi nền nhà, anh ta bước tới cái rương gỗ sồi và mở nắp ra. Xong, anh ta nhoài tới khoắng bên trong rương như một con thỏ đào hang, hất văng giày, quần áo bay ra tứ lung tung. Sau vài giây, anh ta bới tới đáy rương và cầm lên một dải thắt lưng bằng da thuộc bên trên có một cái túi nhỏ viền vàng đính liền vô. Anh ta trao sợi dây lưng cho Billy, mắt vẫn dán chặt xuống sàn.
“Tuyệt hảo. Cám ơn,” Billy nói, đeo dây nịt vô eo. Nó tóm lấy Rembrandt và nhét vô cái túi.
“Giờ là gì?” Rembrandt la í óe.
“Thức ăn,” Billy chít lại. “Tớ hi vọng.”
Dorgo đã nhắm tịt mắt lại. Billy chạm vai anh ta. “Tôi tin là người ở đây ăn chuột,” nó bảo anh ta. “Cho nên đừng nói với ai về nó nhé.”
“Không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ,” Dorgo nói một hơi. Anh ta mở mắt, chạy bay đến cái rương, bốc đồ đạc thảy trở vô và đóng nắp lại. “Làm ơn, theo sau. Chủ nhân ăn bây giờ,” anh ta nói theo cái kiểu hay đảo ngược từ của mình.
Được gọi là chủ nhân còn hơn cả mãn nguyện nữa. Điều này khiến Billy lập tức cảm thấy mình cao lớn hơn và tự tin hơn. “Dẫn đường,” nó nói, hơi khoa trương hơn nó dự định.
“Ối trời ơi!” một lời bình phẩm nghẹt ứ phát ra từ cái túi màu vàng.
Dorgo co rúm người và chạy cuống cuồng ra khỏi phòng. Anh ta dẫn Billy xuống cầu thang đá hoa cương, dọc theo hành lang đầu và lông thú vô một căn phòng đáng kinh ngạc nhất Billy từng thấy. Mặc dù nó được gọi là căn phòng nhưng xem ra không chính xác. Mà đó là một hội trường rộng mệnh mông lát đá hoa cương đen, với mái trần cao hình vòm lấp lánh những vì sao. Trên các bức tường treo đầy vũ khí và những đồ vật quý: thương, gươm sáng loáng, khiên được trang trí những sinh vật trong thần thoại, da cọp, mặt nạ vẽ, một bánh xe vàng, sừng bằng ngà voi, gương lồng khung mạ vàng, thảm thêu, biển thêu trân chau, kim cương và ngọc lục bảo, cùng những thứ Billy chưa từng thấy bao giờ nhưng nó chắc chắn chúng chỉ được sử dụng trong chiến tranh. Nó đứng ở bên trong khung cửa với cái miệng há hốc.
Bá tước Harken đang ngồi ở đầu đằng xa một cái bàn lát kính, dài ít nhất phải sáu thước. “Ngồi xuống, Billy Raven,” y nói dõng dạc, giọng vang dội lên trần nhà lấp lánh, làm tăng độc sáng của những ngôi sao vàng.
Bà Lilith ngồi ở đầu bàn quay lưng ra cửa, Edgar và Matilda ngồi đối diện nhau, chỗ khoảng giữa bàn. Billy nhẹ cả người khi thấy một cái đĩa trống được đặt bên cạnh đĩa của Matilda. Khi nó tiến về phía cô bé, Dorgo đi theo, kéo ghế của Billy ra và đẩy ghế vô cho nó ngồi xuống. Matilda nhoẻn với Billy một nụ cười trấn an.
Billy nhận thấy tất cả mọi người đều có một phiên bản Dorgo đứng ở sau lưng. Ngoài ra còn có những đầy tớ khác đứng rải rác ở xung quanh phòng. Mỗi đầy tớ bưng một cái khay màu vàng óng. Hầu như mọi thứ ở trên bàn đều được làm bằng vàng: giá cắm nến, đĩa, tô, tách, dao, và muỗng. Tất cả loe lóe, sáng choang, đến nỗi Billy phải tháo mắt kính ra và dụi mắt.
“Mi có bao giờ ăn bữa tối xì bùa chưa, Billy Raven?” bá tước gầm rổn rảng từ cuối bàn.
Billy lắc đầu.
“Thế thì mi sắp ăn rồi,” bá tước nói. “Mi ước ăn gì?”
“Èm, mì ống, làm ơn,” Billy nói.
“Mì ống,” bá tước nói với tên đầy tớ cao lớn, ăn mặc oai vệ hơn những đầy tớ khác.
Một sự im lặng rơi xuống trong khi anh đầy tớ cao nhìn trơ trơ vô cái đĩa trống. Rồi anh ta tằng hắng và ngẩng đầu lên, hát ngâm nga. “Không biết.”
“Không biết! Không biết! Không biết!” những đầy tớ kia nhắc lại.
Billy lúng túng.
“Món khác,” bá tước ra lệnh.
Billy cố nghĩ tới cái gì mà tất cả mọi người, thuộc mọi thời đại, phải ăn. “Bánh mì,”nó nói.
“Bánh mì,” bá tước gầm vang.
Cái khay của anh đầy tớ cao lập tức đầy ắp những ổ bánh mì đen. Dorgo tóm lấy đĩa của Billy, chạy như bay về phía ông cầm khay bánh mì, trút tất cả lên đĩa của Bily và chạy trở lại chỗ nó.
“Nữ bá tước?” Lần này giọng bá tước giăng kín hội trường. Cần phải nói to như thế mới vọng tới được chỗ bà vợ.
Bà Lilith tuôn ra một danh mục những cái tên lạ hoắc. Bá tước nhắc lại, và khay của anh đầy tớ cao đầy ắp những loại quả trông kỳ lạ - hay đó là rau? Đầy tớ của bà Lilith vù đi nhận chúng và đem về cho bà chủ.
Edgar chọn hạt kê, nhộng, bắp cải và pho mát, trông thấy ghê ghê. Matilda chọn súp cá hành bốc mùi thơm phức, còn bá tước chọn thực đơn giống như của bà vợ.
Billy cảm thấy ngượng ngập vì đĩa mình toàn bánh mì đen. Nó không biết phải ăn như thế nào.
“Bữa tối?” Rembrandt chít đầy hi vọng.
Trước khi tiếng chít của Rembrandt trở nên quá ồn, Billy chộp lấy một ổ bánh. Dùng tay xé bánh ra, nó ráng xoay xở bỏ vô cái túi trên đùi nó một mẩu vừa ăn.
Khi Rembrandt chít lên cám ơn, Matilda cười khúc khích, Edgar trừng mắt nhìn em gái và nói: “Thằng nhóc đem thức ăn cho một sinh vật. Đó là lỗ mãng và phung phí.”
Bá tước Harken phẩy tay thô bạo. “Không vấn đề, Edgar. Nó là khách của chúng ta.”
Edgar cau có lùa một muỗng đồ ăn vô miệng. Nhưng từ đầu bàn bên kia, nữ bá tước vẫn tiếp tục nhìn Billy trừng trừng, thậm chí kể cả trong khi bà ta đang nhai những món không thể đọc được là món gì. Trông bà ta cứ như không có tim, Billy ước gì mình ở cách xa hàng ngàn dặm, trở về ngôi nhà của Charlie Bone, cho dù ở đó nó không được chào đón.
Món thứ hai khả quan hơn món thứ nhất nhiều. Matilda khuyên Billy chọn lê ướp rượu. Chúng ngon tuyệt, đúng như cô bé hứa hẹn.
Sau bữa ăn Dorgo dẫn Billy trở lại phòng riêng của nó. Anh đầy tớ nhỏ lật khăn trải giường ra, để lại bộ đồ ngủ, thắp cho Billy một ngọn nến đặt trong một cái đĩa kim loại để trên nóc rương. Billy thay bộ pyjama của nó và lên giường. Nó nhìn ngọn nến cháy thấp dần, thấp dần và tự hỏi mình có bao giờ ngủ được hay không. Nó mệt thừ nhưng đầu óc nó không ngừng lang thang tới những căn phòng sáng lấp lánh bên dưới. Charlie sẽ tới đón mình, nó nghĩ, bởi vì Charlie có thể chu du vô tranh.
Bên ngoài, tiếng gió rên rỉ băng qua cánh đồng. Và rồi át trên tiếng gió, vọng đến tiếng những bước chân nặng nề, kéo lê dưới nền đất. Kèm theo tiếng chân là tiếng loảng xoảng hỗ loạn của những sợi xích sắt.
Billy bật dậy khỏi giường và ló đầu ra hành lang. Dorgo đang ngồi ngoài cửa. Đầu anh ta đổ về trước, nhưng không hề ngủ.
“Gì thế chủ nhân, thưa?” Dorgo hỏi.
“Tôi nghe thấy gì đó? Những bước chân.”
“Người khổng lồ đó, chủ nhân, thưa.”
“Người khổng lồ?”
“Họ mang ông ta vào hầm ngục. Ông ấy xấu. Phải bị phạt.”
“Ông ta đã làm gì?”
Dorgo thở dài. “Ông ta đã giấu một thằng nhóc từ tương lai, giống như ngài.”
Charlie, Billy nghĩ. Tổ tiên của Charlie là một người khổng lồ.
“Ngủ đi, chủ nhân.” Dorgo nói.
Billy bước lùi trở vô phòng và đóng cửa lại.
Bình luận truyện