Nhi Nữ Hầu Môn
Chương 77: Đùa cợt Tiền Nhã Khanh
“Ta biết ngay mà, bảo sao trong phòng này cứ cười mãi không ngừng, thì ra là có mỹ nhân như hoa như ngọc ở đây. Chậc chậc, đây là hoa khôi của lầu nào vậy, hơn hẳn Hồ nữ thông thường, thật sự vừa ý bản thiếu gia lắm.”
Người này vừa vào nhã gian đã nói năng vô lễ, hắn nói xong, trong phòng chẳng khác nào sấm vang chớp giật, không ai dám mở miệng lên tiếng.
Tuệ An vốn đang nhìn người trước mắt này có chút quen quen, mải ngắm nghía nốt ruồi son giữa mi tâm hắn, không ngờ lại nghe được những lời vô lễ như thế. Nhất thời cũng không biết nên khóc hay nên cười, sững sờ ngẩn người một lúc.
Ngược lại Thu Nhi nghe vậy đã nổi giận đùng đùng, giơ quyền muốn đánh người kia, hét lớn một tiếng:
“Đằng đồ tử!”
Tuệ An vừa hoàn hồn, đã thấy Thu Nhi vung nắm đấm, giật mình sợ hết hồn.
Tuy người kia ăn nói lỗ mãng, nhưng trong trường hợp này còn dám làm loạn, thân phận chắc chắn không thấp, nàng ra tay thì không sao, nhưng Thu Nhi chỉ là một tiểu nha đầu, e rằng sau này sẽ gây ra phiền toái.
Tuệ An nghĩ vậy, vội vàng dùng tay trái giữ chặt Thu Nhi, tay phải giương lên, nước rượu trong tay tức thì vun vút bay ra, tưới đầy lên đầu lên mặt người nọ.
Lúc này, không khí trong phòng lại thay đổi một lần, càng thêm im hơi lặng tiếng.
Người nọ bị rượu tưới vô cùng sửng sốt, Tuệ An vốn đã không muốn ở lâu, loại chuyện như vậy càng dây dưa sẽ càng sẽ gây xôn xao dư luận, cho nên trong lòng mặc dù tức giận không thôi, mặt mũi đỏ bừng, nhưng cũng không hề nhiều lời, vung tay đẩy người nọ sang một bên, kéo Thu Nhi vòng qua hắn ra khỏi nhã gian, đi thẳng về phía cầu thang.
Có thể là do người nọ chưa bao giờ bị hắt rượu, trong chốc lát không kịp phản ứng, chỉ đờ người tại chỗ.
Đợi Tuệ An đi đến đầu bậc thang mới nghe được nhã gian tuôn ra tiếng cười vang cùng thanh âm trêu ghẹo, tiếng hò hét ầm ĩ, nghe không rõ là nói cái gì.
Tuệ An tức giận muốn chết, cũng chẳng còn tâm trạng đâu mà ăn uống, bước nhanh xuống lầu, dứt khoát chạy ra khỏi Tiên Hạc lâu.
Nàng vốn vui mừng mà đến, cuối cùng lại thành ôm hận rời đi, hậm hực đạp mạnh hai chân, nhảy lên xe ngựa, phân phó đám người Xuân Nhi về phủ.
Đến cửa phủ, gã sai vặt định mở cửa phụ đón người, Tuệ An nói xe ngựa trực tiếp đi qua, xuống xe ở cửa viện, nàng thấy sắc mặt đám người Thu Nhi cũng không tốt, liền hít sâu một hơi, cố nở nụ cười, nói:
“Được rồi, ta còn không tức giận, nguyên một đám các muội còn trưng vẻ mặt này ra cho ai xem? Lát nữa không ai được nói chuyện này với Phương mama, miễn cho vú nuôi lại u ám một phen.”
Nói xong, đi về phía Dung Lê viện.
Đợi Tuệ An trở lại nội thất, phân phó Xuân Hạ Thu Đông tự đi làm việc của mình, để Băng Nguyệt, Hàn Nguyệt hầu hạ, Băng Nguyệt lấy trong tủ quần áo ra một bộ y phục màu hồng phấn mặc ở nhà, đang định thay cho Tuệ An, ai ngờ Tuệ An quay đầu nhìn thấy xiêm y kia, lập tức cơn giận lại một lần nữa nổi lên, chỉ vào xiêm y lạnh lùng nói:
“Đem đốt cho ta!”
Băng Nguyệt sợ hết hồn, chỉ biết sững sờ tại chỗ, đúng lúc Xuân Nhi từ bên ngoài đi vào, vội đẩy Băng Nguyệt ra ngoài, đổi một bộ y phục màu tím nhạt bình thường, lúc này mới thay cho Tuệ An.
Hàn Nguyệt nhanh nhẹn bưng tới chén ngọc súc miệng, chậu bạc và khăn lau mặt, chờ Tuệ An rửa mặt xong xuôi, liền đưa nàng đến ngồi trước bàn trang điểm, gỡ búi tóc dài.
Phương mama vào nhà thấy Tuệ An đang ngẩn người nhìn chằm chằm vào gương, liền phất tay ra hiệu hai người Hàn Nguyệt đi ra ngoài, tự mình cầm lược gỡ tóc cho Tuệ An.
Bấy giờ Tuệ An mới phục hồi tinh thần, nàng nhìn vẻ mặt Phương mama, biết mấy người Thu Nhi không thể giấu diếm được bà, ngẩng đầu cười nói:
“Vú nuôi, người nhìn xem, cô nương nhà vú thật sự lớn lên xinh đẹp diêm dúa như vậy sao?”
Phương mama nghe thế, trên mặt càng thêm trầm xuống, dùng lược đánh nhẹ Tuệ An một cái, khiển trách:
“Không cho phép nói bậy! Danh sĩ quý tộc Đại huy ta mở miệng là nói đến những nữ tử mềm mại yếu ớt, dung mạo thanh thuần, hiền lương thục đức gì đó, mới khiến cho các phu nhân khuê tú ưa chuộng nét đẹp thanh lệ mềm mại, chỉ sợ mang danh thô tục, bị người coi thường.
Một hai năm nay trong kinh suốt ngày lưu hành trang sức hình giọt lệ này nọ, nguyên một đám nhìn không khác gì bị chồng bỏ, vú nhìn chẳng thấy tốt ở đâu cả.
Thế nhưng vú cũng biết, có nam tử nào không thích dung nhan diêm dúa sáng rỡ cơ chứ, nếu không những Hồ cơ ở Tần lâu Sở quán sao lại được hoan nghênh như vậy.”
Tuệ An cười một tiếng, nhìn bóng hình phản chiếu trong gương, tóc dài xõa tung, khuôn mặt nhỏ nhắn xinh xắn diễm lệ, ngũ quan sắc nét, mặc dù vẫn còn nhỏ, nhưng đã thoáng hiện nét quyến rũ, khó trách người nọ lại cho rằng nàng là thanh lâu cơ nữ.
Nàng không phải nữ nhi thư hương, tính tình cũng không trầm tĩnh, lại càng không thích đa sầu đa cảm, cả ngày rơi lệ đau thương, nàng không làm được, lại có gương mặt thế này, thảo nào không được chúng quý nữ ưu thích là phải.
Thấy Tuệ An nhìn gương cười khổ, Phương mama lại nói:
“Cô nương cần gì để ý mấy lời vô lễ của người kia, vú nghe cách nói năng của người nọ đã biết chẳng phải thứ tốt lành gì, nhất định là loại công tử ngày ngày lưu luyến nơi bướm hoa, chẳng lẽ chúng ta lại đi so đo với người như thế.
Còn nữa, Hồ cơ ở Tần lâu Sở quán lấy đâu ra khí chất cao quý như cô nương? Theo lão nô thấy, như cô nương mới là tốt nhất, tương lai gả cho cô gia, làm sao cô gia không thương yêu hết mực đây.”
Tuệ An nghe vậy, mặt mũi ửng hồng lên, giận dỗi trừng Phương mama một cái, Phương mama cũng hớn hở cười theo.
Tuệ An nghĩ đến người ở Tiên Hạc lâu ban nãy, lại nhớ tới chuyện bên hông hắn chồng chất một túi thơm lòe loẹt.
Nam tử Đại Huy sử dụng túi thơm và hà bao rất nhiều, vừa có dùng để đựng hương liệu, lại cất chứa được vật phẩm tùy thân, hoặc là bạc vụn, đồ trang sức linh tinh…
Nhưng nam tử Đại Huy lại không thường đeo túi thơm ra ngoài, như các công tử quý tộc trong kinh thì càng ưa dùng Hương cầu chạm rỗng hơn.
Công nghệ chế tác hương cầu của Đại Huy vô cùng cao siêu, các công tử đeo Hương cầu bên người vừa tinh xảo lại lịch sự. Chất liệu và hình thức của Hương cầu cũng có vô vàn sự lựa chọn, hoặc vàng hoặc bạc, hoặc ngọc hoặc đồng, thậm chí đến gỗ cũng có thể điêu khắc làm thành Hương cầu.
Loại Hương cầu chạm rỗng này ở giữa có không gian để đặt hương liệu, do hai vòng xoáy ốc bao phủ. Nó lợi dụng sức nặng của hương liệu, bảo trì trạng thái thăng bằng cho Hương cầu, bất luận hương cầu có nhấp nhô thế nào, hương liệu bên trong cũng không rơi vãi ra ngoài.
Bởi vậy Hương cầu không những đẹp mắt, mà mùi thơm cũng thoang thoảng trong lành, so với túi thơm còn chứng tỏ thân phận cao quý của người đeo, cho nên túi thơm càng ngày càng hiếm thấy, chỉ có những nam tử xuất thân hàn môn mới đeo bên người.
Nếu dùng túi thơm để đựng tiền bạc, người bình thường cũng không đeo bên người, phần lớn đều đưa cho gã sai vặt mang theo, hoặc là trực tiếp đặt trong ngực.
Chỉ có một tình huống, chúng công tử sẽ đeo túi thơm bên hông, đó chính là những lúc đi dạo Tần lâu Sở quán.
Lúc này trong túi thơm sẽ để bạc trắng hoặc là mấy thứ trang sức nhỏ xinh, gặp được cô nương hợp ý liền tiện tay khen thưởng, đương nhiên cũng đồng thời là thứ các cô nương nhìn vào mà phục vụ, cho nên túi thơm này đúng là vật dụng không thể thiếu khi đi dạo thanh lâu.
Điều này cũng khiến cho chúng công tử càng không bao giờ đeo nó bên hông, ngay cả người suốt ngày lêu lổng thanh lâu như Mã Minh Viễn, Tuệ An cũng chỉ một lần duy nhất nhìn thấy trên thắt lưng hắn có đeo túi thơm.
Vậy mà cái người ở Tiên Hạc vừa rồi lại một lúc đeo hơn sáu bảy cái túi thơm bên hông, nhân vật vĩ đại như thế quả thật Tuệ An chưa bao giờ thấy qua.
Người nọ chỉ kém chưa viết hai chữ “dâm tặc” lên trán, thật sự là kẻ hồ đồ.
So đo hơn thua với loại người này, đúng không cần thiết, Tuệ An nghĩ thông suốt điểm này, liền lắc đầu nở nụ cười.
Phương mama thấy nàng không còn khó chịu, tay như linh xà búi cho Tuệ An búi tóc tiểu triện, nói:
“Lại nói phu nhân mới là giống lão Hầu gia như đúc, vú nghe nói mẹ ruột của phu nhân là một Hồ nữ điển hình, mũi cao mắt tròn, hình như đôi tròng mắt còn có màu lam, chỉ tiếc hồng nhan bạc mệnh.”
Thẩm Cường là người háo sắc, không những hay lui tới chốn thanh lâu, mà tiểu thiếp trong phủ cũng không ít, nhưng con nối dõi lại khan hiếm vô cùng.
Mẹ đẻ của Thẩm Thanh vốn là một Hồ cơ bán nghệ không bán thân, một lần Thẩm Cường đánh trận đi ngang qua Bặc Châu liền cướp về phủ, cũng xem như có một thời gian sủng ái. Khi đại quân lên đường chinh chiến liền đem nàng vứt ra sau đầu, chỉ để lại một ít bạc cho xong chuyện.
Nhưng nào ngờ hai năm sau, Hồ cơ kia nhờ người chuyển lời, nói đã có cốt nhục của ông, đứa bé năm nay cũng vừa tròn một tuổi.
Thẩm Cường không hề nghi ngờ một Hồ cơ nho nhỏ chẳng nơi nương tựa lại dám lừa gạt mình, vì vậy vui mừng mang người thẳng đến Bặc Châu, nhanh chóng tìm Hồ cơ. Khi ông đến nơi, Hồ cơ kia cùng với nữ nhi đã phải nhịn đói suốt mấy ngày.
Thì ra lúc Thẩm Cường rời đi đã cho không ít bạc, nàng ấy dùng tiền mua một tiểu viện sống qua ngày. Sau đó phát hiện mang thai thì vô cùng vui sướng, liền thuê một bà tử để chăm sóc. Số bạc còn lại cất giữ định sau này nuôi con, bản thân cũng có nơi nương tựa về già.
Nhưng những ngày tiếp theo trôi qua không hề yên ả chút nào, bọn người lăm le chú ý đến nàng khi trước còn lo lắng về phần Thẩm Cường, không dám làm ra hành động gì quá đáng.
Về sau lại thấy nàng ngay cả nữ nhi cũng sinh ra, mà Thẩm Cường vẫn biệt vô âm tín, bọn họ liền đoán rằng đứa bé kia không phải của Thẩm Cường, từ lâu nàng đã bị Thẩm Cường vứt bỏ.
Vì vậy đủ loại phiền phức liên tiếp tìm tới cửa, mỗi ngày trôi qua mẹ con nàng ngày càng vất vả. Cuối cùng nàng chỉ có thể dùng số bạc còn lại, mang theo nữ nhi trốn đông trốn tây, thẳng đến khi Thẩm Cường tìm thấy.
Xưa nay Hồ nữ vốn không có quan niệm trinh tiết, huống chi Thẩm Cường chỉ xem Hồ cơ kia như một món đồ chơi, không dám mong nàng sẽ thủ thân vì mình. Vì thế khi đặt chân đến Bặc Châu, làm sao ông không động lòng được? Ông còn càng hạ quyết tâm, sau này sẽ đối đãi nàng thật là tốt.
Ai ngờ một thủ hạ lại thổi gió bên tai, nói trên đời này chẳng có thứ gì tự dưng mà được, còn nói đứa bé kia chưa chắc đã là cốt nhục của Thẩm Cường.
Hồ cơ vốn là nữ tử trung liệt, nàng chịu đủ khổ sở, vốn dĩ cũng nản lòng thoái chí, vi lo lắng cho nữ nhi nên mới không nỡ rời xa trần thế. Giờ còn gì tiếc nuối, liền lao mình xuống sông tự tử.
Thẩm Cường cho người tìm hai ngày, chỉ vớt được một thi thể lên. Đợi lo hậu sự cho Hồ cơ xong, liền dẫn nữ nhi rời đi.
Hắn vốn đối với Hồ cơ có phần hổ thẹn, dưới gối lại không con, đối với nữ nhi mà nàng để lại làm sao không yêu thương cho được?
Ông mang nữ nhi về cho chính thất Lưu thị nuôi nấng, đặt tên là Thẩm Thanh. Sau này càng ngày càng thương yêu có thừa, đi đánh trận cũng mang theo nữ nhi bên người.
Mà Thẩm Thanh tuy có huyết thống người Hồ nhưng lớn lên lại càng ngày càng giống Thẩm Cường, nhất là đường nét bao quát của mặt và hàng lông mày.
Thế nhưng dù sao Hồ cơ cũng là mẹ đẻ của Thẩm Thanh, chung quy thân phận vẫn thuộc hàng thấp kém nên, rất ít người nhắc đến nàng. Hôm nay nghe Phương mama nói đến, Tuệ An buồn bã cười, đối với chuyện đó cũng gác qua một bên
Trái lại, nàng nghĩ đến chuyện của Đỗ Mỹ Kha, vội hỏi:
“Thu Lan viện có từng cho người tới đây? “
Phương mama cười nói:
“Kha di nương kêu Sính Cúc đưa ngân phiếu một nghìn lượng đến, lão nô đã nhận.”
Tuệ An nghe vậy, đắc ý cười khúc khích, nhưng lập tức lại nghĩ Đỗ Mỹ Kha có thể thoải mái đem ngân phiếu đến, là bởi vì bà sợ mình bắt chẹt không cho Tôn Tâm Từ tham dự cung yến. Chỉ có điều, việc này cũng đồng nghĩa là bà không coi mấy tờ ngân phiếu này ra gì!
Bạc của bà ta từ đâu mà có?
Tuệ An chắc chắn không phải là lấy từ phủ Đỗ thượng thư, nhất thời sắc mặt trầm xuống.
Phương mama thấy vậy cũng không nói nhiều, vừa chải đầu vừa nói:
“Cơm cũng dọn xong, mặc dù ở bên ngoài tiểu thư đã ăn không ít quà vặt, nhưng cũng không thể bỏ bữa được, nhanh ăn cơm thôi, đừng nghĩ nhiều nữa”.
Tuệ An gật đầu, đứng dậy ghé tai Phương mama dặn dò vài câu, thấy Phương mama cười gật đầu mới dời bước ra ngoài.
Ai ngờ Tuệ An vừa dùng xong bữa trưa, liền thấy Tôn Hi Tường vào Dung Lê viện, nối đuôi ông không phải Đỗ Mỹ Kha thì là ai?
Tuệ An thấy dáng vẻ hai người như vậy, biết nhất định là có chuyện chẳng lành, khẽ cúi đầu suy nghĩ, sau đó liền cười một tiếng, thản nhiên ra khỏi phòng.
Quả nhiên nàng vừa ngồi xuống, Tôn Hi Tường liền nghiêm túc nhíu mày, nói:
“Vừa rồi phụ thân hồi phủ, đúng lúc gặp tiểu hòa thượng của Tê Hà tự do Từ An đại sư phái tới, nói là đèn Trường Minh do phủ ta thắp cho mẫu thân con ở trong chùa vô cớ bị tắt.
Vi phụ đã phân phó Kiều tổng quản đưa thêm một nghìn lượng bạc, xin Từ An đại sư niệm kinh cầu phúc cho mẫu thân con. Chỉ là trong lòng vi phụ vẫn còn bất an.”
Đỗ Mỹ Kha cũng ra vẻ sầu khổ nói:
“Đèn Trường Minh này vốn là vật bảo vệ cho linh hồn phu nhân dưới suối vàng, nếu như kiếp sau có đầu thai làm người, cũng được trời phật phù hộ sinh ra trong gia đình quyền quý, cả đời thuận lợi.
Nay vô cớ bị tắt, thật là điềm xấu, theo ta thấy nhất định là phu nhân ở trên trời linh thiêng, nhớ tới Đại tiểu thư nên mới mượn chuyện này bày tỏ”.
Tuệ An nghe vậy lập tức lạnh mặt, trừng mắt nhìn Đỗ Mỹ Kha, quát:
“Phụ thân nói chuyện với ta, ai cho phép tiện thiếp như bà chen miệng! Còn biết quy củ là gì không?”
Đỗ Mỹ Kha nghe vậy, tức đến nghiến răng nghiến lợi, hung hăng trừng mắt nhìn Tuệ An, thấy Tôn Hi Tường nhíu mày nhìn mình, mới cắn răng cúi thấp đầu.
Tôn Hi Tường lại quay đầu lại than thở:
“Những gì Kha di nương nói phụ thân cũng thấy có lý, theo ý của vi phụ, cung yến đương nhiên không thể bỏ lỡ, nhưng chuyện của mẫu thân con cũng không thể làm lơ. Chi bằng con để Phương mama lên Tê Hà tự cầu phúc một chuyến. Đợi cung yến qua đi, con lại vào chùa niệm kinh hai ngày, an ủi vong linh mẫu thân con, làm tròn đạo hiếu.”
Tuệ An biết hai người này đang gây phiền toái cho mình, không biết có âm mưu gì.
Nhưng việc này nàng không thể nói không, chưa tính đến hai chữ “hiếu đạo” đè nặng trên vai, hơn nữa chuyện còn liên quan tới mẫu thân, nếu nàng không đi thì trong lòng cũng chẳng yên.”
Vì vậy Tuệ An đứng dậy gật đầu, cúi người nói:
“Việc này nữ nhi đã hiểu, buổi chiều con sẽ cho Phương mama thu thập một chút rồi lên chùa.”
Tôn Hi Tường nghe vậy gật đầu, cũng không ở lại, dặn dò vài câu liền cùng Đỗ Mỹ Kha về viện.
Tuệ An lạnh lùng nhìn hai người ra khỏi Dung Lê viện, hàng mày khẽ nhíu.
Thu Nhi uất hận nói:
“Cũng không biết Kha di nương lại muốn giở trò gì. Hiện giờ bà ta đã không còn nhà mẹ đẻ dựa vào, hay là chúng ta đuổi bà ra khỏi phủ luôn đi, đỡ bẩn mắt mọi người.”
Đuổi ra khỏi phủ? Đây chẳng phải là quá tiện nghi cho bà hay sao, đối với loại người như Đỗ Mỹ Kha, nàng sẽ làm cho bà sống không bằng chết, nếm trải hết lạnh nhạt đời người, bị cô lập hoàn toàn, tư vị đó mới là ngọt ngào nhất.
Tuệ An cười nói:
“Để ta nhìn xem bà ta có thể làm nên trò chống gì, vú nuôi cũng không cần lo lắng chuyện trong phủ, chỉ cần lên chùa nghỉ ngơi mấy ngày là được rồi. Thu Nhi, các muội giúp vú nuôi thu thập một chút đi.”
Đợi mấy người Thu Nhi lui ra, chỉ còn lại một mình Phương mama, Tuệ An mới nói:
“Lên chùa ở mấy ngày cũng tốt, hàng năm trước tết Liễu cô cô đều đều đến Tê Hà tự niệm kinh mấy ngày, thay mặt Thái hậu cầu phúc cho bách tính an lành, tuy rằng năm nay Thái hậu bệnh nặng, nhưng theo ta đoán, nếu không phải Liễu cô cô thì cũng là Trình cô cô, hoặc là những người đắc bên cạnh Thái hậu sẽ lên chùa làm lễ.
Vú nuôi lên chùa nên đi lại nhiều một chút, còn nữa, mấy ngày trước ta có nhắc đến chuyện mở quan nghiệm thi, giờ cũng chuẩn bị đi là vừa, ta không muốn kéo dài, chẳng bằng thừa dịp lần này ra phủ an bài người luôn.”
Từ sau ngày đó Phương mama đã từng nhiều lần khuyên nhủ Tuệ An, cuối cùng chuyện mở quan nghiệm thi vẫn bị Tuệ An thuyết phục, nay nghe vậy cũng không nói thêm, chỉ gật đầu nói:
“Cô nương ở trong phủ cũng nên cẩn thận!”
Tuệ An lại cười một tiếng:
“Vú nuôi yên tâm, trong phủ xưa không bằng nay, bọn hạ nhân đã an phận hơn nhiều, ta đoán Kha di nương cũng không dám làm gì. Hai ngày nay bà vẫn một mực gấp rút chuẩn bị cho Tôn Tâm Từ tham gia cung yến, chỉ sợ muốn phân thân đi hãm hại ta cũng khó.”
Phương mama suy nghĩ một chút, cảm thấy Tuệ An nói cũng có lý, lại nghĩ tới những ngày nay Tuệ An trưởng thành không ít, làm việc suy nghĩ đều cực kỳ chu toàn, lúc này mới cười gật đầu.
Đợi buổi chiều Phương mama vừa rời khỏi phủ, Hạ Nhi liền thần thần bí bí mang một phong thư vào phòng, bức thư đó chính là thư do Đinh Nhị mới đưa tới trong phủ.
Tuệ An thấy thư, tim đập mạnh một cái, sai Thu Nhi canh cửa, vội vã mở thư xem.
Quả nhiên là thư hồi âm của Thẩm Phong viết cho nàng, trên mặt chỉ cong cong vẹo vẹo có hai hàng chữ.
Tuệ An vẫn nghĩ sao nhanh như vậy đã có hồi âm, thì ra hiện giờ Thẩm Phong đã đang trên đường hồi kinh, tính toán thời gian còn có hơn một ngày đường sẽ tới kinh thành.
Trong thư Thẩm Phong chỉ nói ngày vào kinh, còn lại trên giấy đều rải rác những số là số, chẳng qua chỉ có một tờ giấy mỏng tang, đừng nói bày tỏ tình cảm nhớ thương cái gì, ngay cả một câu thăm hỏi cũng không thấy đâu.
Tuệ An bất an vân vê mảnh giấy trong tay, nên biết bức thư nàng gửi cho Thẩm Phong đã phải viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần, cuối cùng còn đưa đi một bức viết đến ba bốn trang.
Cho nên Tuệ An nghĩ, có phải Thẩm Phong còn ghi nhớ chuyện năm đó hay không, hoặc là trách ngoại tổ phụ và mẫu thân oa uổng ông, không muốn dính dáng đến phủ Phượng Dương hầu nữa.
Nhưng khi nhìn nét chữ xấu xí xiêu vẹo trên mặt giấy, nhớ Phương mama từng nói Thẩm Phong không biết chữ, trong lòng lại nhen nhóm vui mừng.
Nghĩ phong thư này tất nhiên là Thẩm Phong tự tay viết, có thể được ông coi trọng như thế, ắt hẳn ít nhiều cũng quan tâm lo lắng cho nàng đấy chứ.
Tuệ An nghĩ vậy, không khỏi nở nụ cười, về chuyện của Thẩm Phong, Tuệ An chỉ thương lượng với Phương mama, mấy người nha đầu bên cạnh cũng không được biết.
Thấy gặp Tuệ An cười đến vui vẻ thì hiếu kỳ lắm.
“Cô nương, ai viết thư cho cô nương vậy? Lại có thể khiến cô nương vui vẻ đến thế.”
Thu Nhi nhịn không được hỏi han. Tuệ An gấp thư, phân phó Xuân Nhi cất giữ cẩn thận, cười nói:
“Đợi ngày mai muội sẽ biết.”
Tuệ An gấp thư, phân phó Xuân Nhi cất giữ cẩn thận, cười nói:
“Đợi ngày mai muội sẽ biết.”
Nói xong liền đứng dậy:
“Đông Nhi đi gọi Kiều tổng quản thu dọn Tây viện một chút, nói ta có khách quý muốn chiêu đãi, bảo ông ấy làm việc cẩn thận.
Sáng mai Thu Nhi, Xuân Nhi theo ta tới Thập Lý đình ở ngoài thành đón người, Hạ Nhi ở nhà trông coi sân viện, Đông Nhi cũng lưu lại trong phủ, sáng mai đến Tây viện kiểm tra lại một lượt, thiếu cái gì thì bảo Kiều tổng quản đặt mua, nhất định phải thu thập Tây viện tốt nhất cho ta.”
Tuy nói Tuệ An còn không chắc chắn Thẩm Phong sẽ vào Hầu phủ ở, nhưng những gì cần chuẩn vẫn phải chuẩn bị thỏa đáng, miễn cho đến lúc đó lễ giáo không chu toàn, để lại ấn tượng xấu cho cậu thì không hay.
Mỗi khi đến cuối năm, quan viên các tỉnh thành đều phải vào kinh bàn giao công sự, đồng thời tham gia buổi chầu chúc mừng năm mới.
Lần này Thẩm Phong về kinh chỉ sợ là vì chuyện đó. Cũng chẳng biết ông có dẫn theo gia quyến hay không, Tuệ An không biết người thân của Thẩm Phong có những ai, tính tình thế nào, nhất thời lại trào dâng bất an, không biết phải chuẩn bị thêm những gì.
Thầm nghĩ, nếu như có Phương mama ở đây thì tốt rồi, những chuyện giao tiếp kiểu này Phương mama luôn chu đáo hơn mình.
Nàng ngồi xuống suy ngẫm một hồi, nghĩ Thẩm Phong là người phương Bắc, ít nhất về phần ăn uống sẽ không có gì khác biệt, liền phân phó Thu Nhi dặn dò phòng bếp chuẩn bị chút ít điểm tâm bình thường, thu mua nguyên liệu nấu ăn đầy đủ.
Lại suy nghĩ một chút, nhẩm tên mấy món ăn vặt mà quý nữ kinh thành thích ăn, sai Xuân Nhi tự mình tới các tửu lâu lớn với cửa hàng điểm tâm nổi tiếng mua về.
Sau cuối còn vội vàng gọi Hạ Nhi đem mở tủ đồ ra, chọn tới chọn lui y phục cho sáng mai, xong xuôi mới cảm thấy hài lòng.
Đến chạng vạng, Tuệ An hết hứng thú, nằm trên nhuyễn tháp chơi dây với Băng Nguyệt. Được một lúc thì thấy Thu Nhi mang theo vẻ mặt ủ dột từ bên ngoài tiến đến.
Tuệ An nhìn nàng một cái, biết rõ nha đầu kia tự sẽ nói chuyện, cũng không để ý tới nàng.
Quả nhiên chỉ lát sau, Thu Nhi đã rê chân đến bên cạnh, thở phì phò nói:
“Cô nương có biết cái người hồ đồ ở Tiên Hạc lâu hôm nay là ai không?”
Tuệ An không hề cảm thấy kỳ lạ khi Thu Nhi cho người hỏi thăm thân phận người kia, nghe vậy chỉ cười một tiếng, nhướng mày không nói gì.
Thu Nhi thấy vậy, tức giận nói:
“Xem ra cô nương thật sự không thèm để ý, nhưng nô tỳ khó chịu lắm. Phải nói người kia coi như cũng có chút lai lịch, lại có thể là một Hầu gia, hắn là con trai của Tĩnh Mẫn Trưởng công chúa, Hoàng thượng sắc phong Tĩnh Bắc hầu.
Cho dù có là hoàng thân quốc thích, nhưng cô nương, người nói xem, sao hắn có thể… Có thể vô phép vô tắc như vậy cơ chứ? Không được, nô tỳ mặc kệ hắn là Hầu hay Bá, nô tỳ nhất định phải nghĩ cách xả giận cho cô nương.”
Tuệ An nghe vậy mới chợt hiểu ra, khó trách nàng nhìn người nọ lại thấy quen đến thế, còn không phải ư, cái người có nốt ruồi mỹ nhân ngay mi tâm kia nhìn qua y hệt một phiên bản thu nhỏ của Tĩnh Mẫn Trưởng công chúa.
Thảo nào lời đồn nói người này đến giờ vẫn chưa thành thân, chỉ riêng cái tính hồ đồ vô phép này, đoán không chừng cả kinh thành này ai ai cũng nghe danh, nếu Trưởng công chúa muốn ở kinh thành tìm cho hắn một mối hôn sự, e rằng đã khó càng khó.
Có đích nữ nhà ai không phải ngọc quý trên tay, há có thể gả cho một người như vậy, trừ phi Trưởng công chúa trực tiếp vứt hết mặt mũi đi xin thánh chỉ tứ hôn, khiến nhà người ta không thể không gả nữ nhi, vậy thì lại khác…
Thu Nhi chỉ là một tiểu nha đầu nhỏ bé, không thể làm gì được Tiền Nhã Khanh thật, Tuệ An nghe vậy cũng chẳng màng để ý, ngủ dậy một giấc liền đem việc này quên cái sạch.
Sắc trời chuyển từ tối sầm sang sáng ngời, nháy mắt đã đến tảng sáng hôm sau.
Sáng sớm Tuệ An đã thu thập thỏa đáng, mang theo Xuân Nhi, Thu Nhi trèo lên xe ngựa, đi thẳng về phía thành Tây.
Bởi vì Thẩm Phong không biết nàng sẽ ra thành đón người, mà Tuệ An lại chưa bao giờ thấy mặt Thẩm Phong, sợ trên đường nhiều người mà lỡ mất nhau, cho nên Tuệ An còn đặc biệt phân phó Kiều tổng quản đem theo một tấm biển ghi chữ “Thẩm phủ”, treo lên đằng trước xe ngựa, thấy đủ để người khác chú ý, nàng mới an tâm hơn chút.
Xe ngựa rất nhanh đã ra khỏi thành, thẳng đến Thập Lý đình, bởi vì canh giờ còn sớm, cho nên trên con đường từ cửa thành đến Thập Lý đình rất ít người qua lại.
Xe ngựa một đường phi nhanh như chớp, trận bão hôm qua còn để lại tuyết đọng đầy đường, đồng ruộng xung quanh cũng trắng xóa một mảnh.
Tuệ An mở cửa sổ xe, gió mát ùa vào, trong lòng thanh tĩnh một mảnh.
Đợi đến Thập Lý đình, hai người Thu Nhi vào đình trước, thu thập một phen mới để Tuệ An xuống xe ngựa.
Thập Lý đình là một mái đình nghỉ mát dành cho người đi đường tránh mưa tránh nắng, thật ra Thập Lý đình chỉ được tu sửa chỉnh tề sạch sẽ hơn hàng quán ven đường một chút thôi, cũng không có có chỗ gì đặc biệt.
Bên cạnh mái đình có mấy cây hòe già, bởi vì đang đông nên cành lá khẳng khiu, tuyết đọng trên lá vẫn chưa tan ra, dưới ánh mặt trời nhỏ xuống từng giọt nước long lanh sáng chói, không khác nào một chuỗi ngọc tí tách tuôn rơi.
Tuệ An ngồi trong đình, một mặt nhìn cảnh một mặt không ngừng ngó lên đường mòn, thỉnh thoảng cũng thấy có người phóng ngựa phi qua, nhưng không thấy người nào tầm tuổi Thẩm Phong.
Tuệ An vừa vào đình đã phân phó lão Triệu dừng xe ngựa ven đường, để nếu có lỡ Thẩm Phong đi ngang sẽ nhìn thấy bảng hiệu trên xe, nàng cũng không mất công chờ đợi, xong xuôi tay ôm lò sưởi ngoan ngoãn ngồi trong đình.
Ai ngờ nàng chưa chờ được Thẩm Phong, lại rước đến một nhân vật mới hôm qua còn bị Thu Nhi mắng chửi nửa ngày.
Lại nói Tuệ An đang thoải mái ngắm cảnh, thấy trên đường mòn có mấy người phóng ngựa chạy tới, đi đầu là một công tử mặc cẩm bào tím nhạt thêu ngũ sắc hoa văn, phía sau theo sát bốn năm người tôi tớ.
Bởi vì mấy người này đều cưỡi trên lưng bảo mã không tầm thường, tiếng vó ngựa vừa nhanh lại dồn dập, cho nên Tuệ An mới vô thức nghiêng đầu liếc nhìn.
Vị công tử đi đầu ăn mặc rõ là lòe loẹt bắt mắt, con ngựa dưới thân cũng đặc biệt nổi bật, chỉ thấy con ngựa kia không chỉ cao lớn oai hùng, phi nhanh như chớp, còn vô cùng xinh đẹp, là một cô nương ngựa với màu sắc và hoa văn hiếm thấy trên đời.
Toàn thân đầy đủ năm màu, hơn nữa mái bờm của con ngựa kia còn được tu sửa thành bông hoa năm cánh, lúc chạy lông bờm tung bay, y hệt đóa hoa nở rộ.
Tuệ An đang mải miết ngắm nhìn, đã thấy con ngựa kia không biết tại sao lại đột nhiên hí vang một tiếng, không chịu khống chế giậm chân giận dữ.
Kỹ thuật cầm cương của công tử kia cũng không phải dạng vừa, trong chốc lát đã ghìm ngựa đứng lại, thế nhưng con ngựa kia càng ngày càng khó giữ, điên cuồng hí hét đâm đầu bốn phía.
Thấy ngựa của mình có điều không đúng, công tử kia cũng không hề cố chấp giữ ngựa, đầu tiên nghiêng người nằm rạp trên lưng ngựa, đợi con ngựa mất sức mới đạp chân nhảy xuống đất, hét lớn gọi bọn sai vặt đuổi theo ngựa.
Con ngựa kia mất người khống chế, chạy lung tung một đoạn lại phi thẳng về phía Tuệ An bên này, nhoáng cái đã đến bên cạnh.
Vốn dĩ Thu Nhi và Xuân Nhi còn cảm thấy chuyện thật thú vị, đang chỉ vào con ngựa kia mà đùa giỡn đôi câu. Nay thấy nó xông tới bên này thì sợ hết hồn, vội vàng che chở Tuệ An ra khỏi đình.
Con ngựa kia không chạy vào trong đình, chỉ điên cuồng đâm đầu vào thân một cây hòe già bên cạnh mái đình, mới đầu còn chậm rãi dụi dụi, càng về sau càng đập mạnh hơn, tình cảnh này thật đúng là nhìn mà kinh hãi.
“Cô nương, con ngựa này bị sao thế? Không biết biết đau à, cứ như vậy sẽ chết mất!”
“Cô nương, chúng ta vẫn nên trốn đi thôi, bị con ngựa này đụng phải thì không hay.”
Thu Nhi, Xuân Nhi vừa nói xong, chủ nhân của con ngựa kia cũng chạy đến nơi, Thu Nhi nhìn sang liền kêu to một tiếng, tức giận nói:
“Tại sao lại là hắn?”
Tuệ An nhìn lại cũng sững sờ, vị công tử ăn mặc bắt mắt này không phải là Tiền Nhã Khanh sao?
Tuy rằng hôm nay hắn mặc là một thân y bào, cũng không đeo chồng chất những cái túi thơm dọa người kia, nhưng cách ăn mặc vẫn màu mè như cũ, không nói đến toàn thân cẩm y xanh đỏ đủ màu, mấy viên minh châu gắn ở phát quan trên đầu thậm chí còn quý giá hơn hôm qua.
Nói là minh châu, nhưng thực ra chính là một chuỗi ngọc được kết thành vòng tròn, những viên ngọc kia ít nhất cũng phải hơn ba mươi viên.
Mặc dù không to bằng viên hôm qua, nhưng hơn ở chất liệu, viên nào viên nấy nhìn y như nhau, lóe lên tia sáng rực rỡ kim quang.
Tuệ An âm thầm tặc lưỡi, người này quả nhiên hợp với họ của mình, ngay tới trang phục bản thân cũng nhất định phải đề cao một chữ “Tiền”, hoặc sợ người khác không biết hắn là người có tiền chăng?
Quay lại chủ đề con ngựa, hình như Tiền Nhã Khanh rất yêu quý con ngựa kia, vẻ mặt nôn nóng chạy đến, chưa từng nhìn sang chỗ mấy người Tuệ An, liền đi thẳng về phía con ngựa đang nổi điên.
Mấy gã sai vặt thấy hắn như vậy, gấp rút giữ người, khuyên nhủ:
“Thiếu gia của tôi ơi, ngài nếu có chuyện không hay, bảo chúng tiểu nhân biết ăn nói thế nào với phu nhân. Ngài mau qua một bên nghỉ ngơi trước, chúng tiểu nhân nhất định trấn an Yên Chi cho ngài.”
Gã sai vặt vừa giơ tay giữ chặt Tiền Nhã Khanh liền bị hắn dùng sức đẩy ra, quát lên:
“Cái gì hay với chả không hay, thiếu gia ta yếu đuối thế hả? Đừng có mà ở đây lắm chuyện cản trở ta, nhanh tránh ra, nếu như Yên Chi của ta có mệnh hệ gì, bản thiếu gia sẽ đi nhảy sông tự tử, đến lúc đó xem mẫu thân xử trí các ngươi thế nào.”
Gã sai vặt nọ nào dám buông tay, sống chết bám chặt lấy hắn, đồng thời nháy mắt ra hiệu cho gã sai vặt mập mạp bên cạnh.
“Mập Mạp” hiểu ý, nhanh chóng lấy dây thừng buộc thành thòng lọng, liền quăng về phía con ngựa đang nổi điên, mặc dù “Mập Mạp” hơi đô con so với người bình thường, nhưng động tác cũng không hề lóng ngóng, chuẩn xác vứt dây thừng tròng qua cổ ngựa.
Mấy gã sai vặt còn lại dường như cũng biết chút ít công phu quyền cước, thấy “Mập Mạp” khống chế được ngựa, cũng gấp rút tiến lên hỗ trợ.
Con ngựa vốn đã hoảng sợ, lại bị trói cổ há có thể không điên cuồng giãy giụa, lập tức tung vó đá loạn cả lên.
Tiền Nhã Khanh thấy vậy thì kinh hãi không thôi, dùng hết sức bình sinh dẫm thật mạnh vào hai chân gã sai vặt bên cạnh, gã sai vặt kia hơi phân tâm, nhất thời mất đà ngã ngửa ra phía sau.
Tiền Nhã Khanh thoát được, liền nhảy lên lưng ngựa, vừa kéo ngựa vừa nói:
“Nhanh trói nó lại cho ta, đừng làm nó tàn tật.”
Có hắn giữ ngựa, thân thủ của những gã sai vặt kia lại không tệ, rất nhanh đã trói cứng bốn vó ngựa, đợi Tiền Nhã Khanh nhảy khỏi nó, mấy người đồng thời dùng sức kéo một cái, con ngựa kia liền hí vang thật lớn, ngã oặt xuống đất.
Lúc này Tiền Nhã Khanh mới thở phào nhẹ nhõm, ngồi chồm hổm trên mặt đất kiểm tra hồi lâu, cũng không phát hiện lý do khiến ngựa nổi điên.
Cuối cùng đành phải phân phó “Mập Mạp” trở về thành mang thú y đến, mình thì vuốt ve bờm ngựa, không ngừng thì thầm trấn an nó, vẻ mặt đến là âu sầu lo lắng.
Tuệ An một bên nhìn cả nửa ngày, thấy ngựa đã bị khống chế, nằm trên mặt đất thở hổn hển, liền nháy mắt với Thu Nhi, nói nhỏ:
“Không phải muội muốn báo thù sao, nhìn cô nương nhà muội đây này.”
Nàng thấy ánh mắt Thu Nhi ngời sáng, liền chầm chậm vòng qua mái đình, đi về phía Tiền Nhã Khanh, cười nói:
“Công tử không biết con ngựa bị làm sao, nhưng ta lại biết.”
Tiền Nhã Khanh nghe vậy ngẩng đầu, đã thấy Tuệ An cất bước mà đến, ánh nắng sáng sớm rơi sau lưng nàng, vì nàng khảm lên một tầng kim quang mờ ảo, chiếu rõ khuôn mặt mềm mại diễm lệ, quý khí vô song.
Hôm nay bởi vì Tuệ An muốn đón Thẩm Phong, cho nên còn cố ý chỉnh trang một phen. Nàng mặc trên người một xiêm y thêu hải đường thiếp bạc, váy xanh màu liễu, khoác áo choàng lông cáo.
Trên đầu búi kiểu tóc như vân hướng nguyệt, phía trên cài mấy đóa hoa hải đường bằng lụa, vừa tươi mát lại không mất vẻ phú quý, cả người nhìn giống như một nụ hoa ngọc lan hé nở, vô cùng sáng rỡ.
Nàng thấy Tiền Nhã Khanh chỉ nhìn mình mà không nói lời nào, liền tiến lên hai bước ngồi xuống bên cạnh con ngựa, lúc này Tiền Nhã Khanh mới nhướng mày cười một tiếng, mặt tràn đầy hứng thú hỏi:
“Là cô, cô nói thử xem Yên Chi có chuyện gì? Nếu nói đúng, ta xin tặng ngàn vàng dùng làm tạ lễ.”
Tuệ An nghe vậy không nói gì, chỉ thầm cảm thán, phải chăng đây chính là phá gia chi tử trong truyền thuyết, đúng là vung tiền như rác.
Nàng lườm Tiền Nhã Khanh một cái, nói:
“Ai thèm vàng của ngài, ta đây là nể mặt Trưởng công chúa mới nhịn không được giúp ngài một lần mà thôi, sao trên đời lại có người thô tục như ngài không biết.”
Nói xong, còn đưa mắt đánh giá Tiền Nhã Khanh từ trên xuống dưới một lần, tỏ vẻ khinh thường.
Tiền Nhã Khanh cũng không giận, ngược lại còn sáp tới gần, vẻ mặt nịnh nọt cười lấy lòng:
“Thẩm cô nương mời nói, nếu như Thẩm cô nương có thể cứu được Yên Chi của ta, muốn ta làm gì ta đều đồng ý.”
Tiền Nhã Khanh này tuổi đã một bó, lại còn giở giọng nịnh nọt khoe mẽ y như đứa trẻ con, nhất thời khiến Tuệ An nổi cả da gà da vịt, vội vàng lùi sau một bước, nghiêm trang mà nói:
“Ngựa này của ngài là bị trúng tà !”
Nghe Tuệ An nói biết được lý do ngựa nổi điên, mọi người đều nhìn chằm chằm vào nàng, nhưng cũng không ngờ Tuệ An lại thốt ra một câu như vậy.
Đừng nói là Tiền Nhã Khanh, ngay cả hai người Thu Nhi cũng ngây ngẩn.
Lại nghe Tuệ An nói:
“Ngài xem đi, con ngựa này vô duyên vô cớ đột nhiên nổi điên, còn ra sức đâm đầu vào cây không ai cản được, không phải trúng tà thì là cái gì?
Tiền công tử không phải người kinh thành nên có thể không biết, ngoại thành phía tây này là nơi năm đó Thánh Tổ dẫn binh chiếm đóng, chết không biết bao người, nghe nói chỉ được an táng qua loa ở đầu kia sườn núi, âm khí rất nặng, buổi tối chỗ này thường xuyên có người nhìn thấy ánh lửa ma trơi. Rõ ràng ban nãy ngựa này của ngài còn bình thường, bỗng nhiên nổi điên nhất định là bị âm khí xâm nhập.”
Là người bình thường có ai dám mạo phạm quỷ thần, càng không ai dám mang chuyện quỷ thần ra dọa người, vốn dĩ mọi người còn kinh ngạc không tin, nay nghe Tuệ An nói có sách mách có chứng như vậy, lại thấy tuy Yên Chi bị trói chặt bốn chân, nhưng vẫn như cũ không ngừng đập đầu xuống đất, liền tin đến tám chín phần.
Chỉ cảm thấy Tuệ An nói rất đúng, biểu hiện của con ngựa này không khác nào người trúng tà. Gã sai vặt vừa rồi còn sống chết ngăn cản Tiền Nhã Khanh liền biến sắc, hỏi:
“Vậy theo tiểu thư nên làm thế nào cho phải?”
Tuệ An thấy Tiền Nhã Khanh không nói, vẻ mặt cũng không thay đổi, chẳng biết trong lòng hắn nghĩ gì, đang định nói thêm hai câu thêm nhử mồi, nay gã sai vặt của hắn lại đưa lên tận cửa, tức thì phấn chấn nói:
“Ta đã từng chứng kiến một đạo sĩ thi triển pháp thuật trừ tà cho ngựa, Yên Chi trúng tà, ta tự nhiên có biện pháp trấn an nó. Chỉ có điều không biết Tiền công tử có tin tưởng ta hay không mà thôi.”
Tiền Nhã Khanh thấy Tuệ An giương cặp mắt sáng trong nhìn mình, há có thể không theo nàng, chỉ nhướng mày nói:
“Ta đương nhiên tin tưởng tiểu thư, mặt khác, nếu như biện pháp của tiểu thư có thể chữa lành cho Yên Chi, vậy ta còn không thiếu được muốn mời tiểu thư đến làm khách quý của phủ ta, dâng lễ tạ ơn nữa kìa.”
Tuệ An nghe vậy cười một tiếng, đôi mắt sáng như sao trời ánh loe lóe, nói:
“Vậy được.”
Nói xong liền đứng lên, quay sang gã sai vặt:
“Ta thấy hình như trong túi hành lý trên lưng con ngựa kia có một cái kéo thì phải, không biết tiểu ca có thể giúp ta mang tới đây hay không?”
Gã sai vặt nghe vậy, liếc mắt trưng cầu ý kiến Tiền Nhã Khanh, thấy Tiền Nhã Khanh gật đầu, liền nhanh chóng rút kéo đưa cho Tuệ An, Tuệ An tiếp nhận, lại nói:
“Lát nữa ta làm phép các ngươi không được quấy rầy, nếu như pháp thuật bị cắt ngang, e rằng sẽ mất linh.”
Tiền Nhã Khanh làm sao không biết Tuệ An đang giở trò quỷ, chỉ sợ là cố ý muốn trả thù mình, nhưng hắn cũng tò mò tiểu nha đầu này muốn làm gì, cho nên mới giả vờ thuận theo, nghe Tuệ An yêu cầu, một chút cũng không ngạc nhiên, khẽ gật đầu.
Tuệ An lúc này mới phân phó nói:
“Mọi người đến gốc cây đằng kia đứng đi, không được đứng quá gần, pháp thuật sẽ bị dương khí ảnh hưởng.”
Thu Nhi, Xuân Nhi sợ con ngựa Yên Chi kia đả thương Tuệ An, muốn đi lên ngăn cản, Tuệ An lại nháy mắt trấn an một cái, hai người mới theo đám người Tiền Nhã Khanh dời đến dưới gốc cây.
Tuệ An nhắm mắt vụng về lẩm bẩm hồi lâu, sau đó đột nhiên mở mắt, bước nhanh về phía Yên Chi không ngừng đá đạp lung tung trên mặt đất, nàng một tay túm lấy mái bờm xinh đẹp của Yên Chi, tay phải vung kéo cắt, xoèn xoẹt một cái lông ngựa bay tứ tung trong gió, nháy mắt đã biến mái bờm tựa bông hoa năm cánh trở thành một nhúm lông rối bù, mơ hồ còn lộ ra phần da thịt bên dưới.
Vốn dĩ Tiền Nhã Khanh còn dùng vẻ mặt xem trò vui nhìn nàng, nay thấy Tuệ An lại dám vung kéo cắt sạch mái bờm của Yên Chi, mới giật mình choáng váng, hắn sững sờ một lúc lại chuyển sang cảm thấy kỳ lạ.
Yên Chi tính tình khó chịu, rất ưa chưng diện, bình thường lông bờm ngoại trừ hắn không cho phép người thứ hai chạm vào, nhưng Tuệ An cắt lông bờm nó như thế, nó lại một chút động tĩnh cũng không có, hơn nữa rõ ràng ban nãy nó còn ra sức dụi đầu xuống đất, bây giờ chẳng hiểu sao đã an ổn không ít, điều này thật sự khiến hắn kinh ngạc khó hiểu tới cực điểm.
Hắn mải mê suy nghĩ lý do, lúc lấy lại tinh thần đã thấy Tuệ An cắt hết mái bờm Yên Chi một lần, đang tiến hành vòng tàn sát thứ hai, muốn hô ngừng cũng đã chậm.
Mặt mũi đen sì trơ mắt nhìn Tuệ An cạo sạch mái bờm hắn vất vả chải chuốt từng ngày, chải chuốt từng ngày, từng ngày…
Tuệ An cắt xong bờm cho Yên Chi, phủi tay hài lòng nhìn con ngựa ngốc nghếch nằm xoài trên đất, tươi cười nhìn về phía Tiền Nhã Khanh:
“Công tử xem đi, ta nói không sai chứ, Yên Chi quả thật là trúng tà, may mà có ta kịp thời ra tay trấn áp, công tử có thể sai người tháo thòng lọng ra cho nó được rồi.”
Tiền Nhã Khanh nghe vậy, đưa mắt nhìn lông ngựa tung bay đầy đất, lại chuyển sang con ngựa xấu hoắc đang nằm phì phò thở dốc, cuối cùng dừng ở khuôn mặt tươi cười sáng lạn như hoa của Tuệ An, trong lòng chỉ còn duy nhất một cảm giác, loại cảm giác giống hệt ngày hôm qua khi gặp Tuệ An.
Đó chính là bốn chữ: Dở khóc dở cười!
Người này vừa vào nhã gian đã nói năng vô lễ, hắn nói xong, trong phòng chẳng khác nào sấm vang chớp giật, không ai dám mở miệng lên tiếng.
Tuệ An vốn đang nhìn người trước mắt này có chút quen quen, mải ngắm nghía nốt ruồi son giữa mi tâm hắn, không ngờ lại nghe được những lời vô lễ như thế. Nhất thời cũng không biết nên khóc hay nên cười, sững sờ ngẩn người một lúc.
Ngược lại Thu Nhi nghe vậy đã nổi giận đùng đùng, giơ quyền muốn đánh người kia, hét lớn một tiếng:
“Đằng đồ tử!”
Tuệ An vừa hoàn hồn, đã thấy Thu Nhi vung nắm đấm, giật mình sợ hết hồn.
Tuy người kia ăn nói lỗ mãng, nhưng trong trường hợp này còn dám làm loạn, thân phận chắc chắn không thấp, nàng ra tay thì không sao, nhưng Thu Nhi chỉ là một tiểu nha đầu, e rằng sau này sẽ gây ra phiền toái.
Tuệ An nghĩ vậy, vội vàng dùng tay trái giữ chặt Thu Nhi, tay phải giương lên, nước rượu trong tay tức thì vun vút bay ra, tưới đầy lên đầu lên mặt người nọ.
Lúc này, không khí trong phòng lại thay đổi một lần, càng thêm im hơi lặng tiếng.
Người nọ bị rượu tưới vô cùng sửng sốt, Tuệ An vốn đã không muốn ở lâu, loại chuyện như vậy càng dây dưa sẽ càng sẽ gây xôn xao dư luận, cho nên trong lòng mặc dù tức giận không thôi, mặt mũi đỏ bừng, nhưng cũng không hề nhiều lời, vung tay đẩy người nọ sang một bên, kéo Thu Nhi vòng qua hắn ra khỏi nhã gian, đi thẳng về phía cầu thang.
Có thể là do người nọ chưa bao giờ bị hắt rượu, trong chốc lát không kịp phản ứng, chỉ đờ người tại chỗ.
Đợi Tuệ An đi đến đầu bậc thang mới nghe được nhã gian tuôn ra tiếng cười vang cùng thanh âm trêu ghẹo, tiếng hò hét ầm ĩ, nghe không rõ là nói cái gì.
Tuệ An tức giận muốn chết, cũng chẳng còn tâm trạng đâu mà ăn uống, bước nhanh xuống lầu, dứt khoát chạy ra khỏi Tiên Hạc lâu.
Nàng vốn vui mừng mà đến, cuối cùng lại thành ôm hận rời đi, hậm hực đạp mạnh hai chân, nhảy lên xe ngựa, phân phó đám người Xuân Nhi về phủ.
Đến cửa phủ, gã sai vặt định mở cửa phụ đón người, Tuệ An nói xe ngựa trực tiếp đi qua, xuống xe ở cửa viện, nàng thấy sắc mặt đám người Thu Nhi cũng không tốt, liền hít sâu một hơi, cố nở nụ cười, nói:
“Được rồi, ta còn không tức giận, nguyên một đám các muội còn trưng vẻ mặt này ra cho ai xem? Lát nữa không ai được nói chuyện này với Phương mama, miễn cho vú nuôi lại u ám một phen.”
Nói xong, đi về phía Dung Lê viện.
Đợi Tuệ An trở lại nội thất, phân phó Xuân Hạ Thu Đông tự đi làm việc của mình, để Băng Nguyệt, Hàn Nguyệt hầu hạ, Băng Nguyệt lấy trong tủ quần áo ra một bộ y phục màu hồng phấn mặc ở nhà, đang định thay cho Tuệ An, ai ngờ Tuệ An quay đầu nhìn thấy xiêm y kia, lập tức cơn giận lại một lần nữa nổi lên, chỉ vào xiêm y lạnh lùng nói:
“Đem đốt cho ta!”
Băng Nguyệt sợ hết hồn, chỉ biết sững sờ tại chỗ, đúng lúc Xuân Nhi từ bên ngoài đi vào, vội đẩy Băng Nguyệt ra ngoài, đổi một bộ y phục màu tím nhạt bình thường, lúc này mới thay cho Tuệ An.
Hàn Nguyệt nhanh nhẹn bưng tới chén ngọc súc miệng, chậu bạc và khăn lau mặt, chờ Tuệ An rửa mặt xong xuôi, liền đưa nàng đến ngồi trước bàn trang điểm, gỡ búi tóc dài.
Phương mama vào nhà thấy Tuệ An đang ngẩn người nhìn chằm chằm vào gương, liền phất tay ra hiệu hai người Hàn Nguyệt đi ra ngoài, tự mình cầm lược gỡ tóc cho Tuệ An.
Bấy giờ Tuệ An mới phục hồi tinh thần, nàng nhìn vẻ mặt Phương mama, biết mấy người Thu Nhi không thể giấu diếm được bà, ngẩng đầu cười nói:
“Vú nuôi, người nhìn xem, cô nương nhà vú thật sự lớn lên xinh đẹp diêm dúa như vậy sao?”
Phương mama nghe thế, trên mặt càng thêm trầm xuống, dùng lược đánh nhẹ Tuệ An một cái, khiển trách:
“Không cho phép nói bậy! Danh sĩ quý tộc Đại huy ta mở miệng là nói đến những nữ tử mềm mại yếu ớt, dung mạo thanh thuần, hiền lương thục đức gì đó, mới khiến cho các phu nhân khuê tú ưa chuộng nét đẹp thanh lệ mềm mại, chỉ sợ mang danh thô tục, bị người coi thường.
Một hai năm nay trong kinh suốt ngày lưu hành trang sức hình giọt lệ này nọ, nguyên một đám nhìn không khác gì bị chồng bỏ, vú nhìn chẳng thấy tốt ở đâu cả.
Thế nhưng vú cũng biết, có nam tử nào không thích dung nhan diêm dúa sáng rỡ cơ chứ, nếu không những Hồ cơ ở Tần lâu Sở quán sao lại được hoan nghênh như vậy.”
Tuệ An cười một tiếng, nhìn bóng hình phản chiếu trong gương, tóc dài xõa tung, khuôn mặt nhỏ nhắn xinh xắn diễm lệ, ngũ quan sắc nét, mặc dù vẫn còn nhỏ, nhưng đã thoáng hiện nét quyến rũ, khó trách người nọ lại cho rằng nàng là thanh lâu cơ nữ.
Nàng không phải nữ nhi thư hương, tính tình cũng không trầm tĩnh, lại càng không thích đa sầu đa cảm, cả ngày rơi lệ đau thương, nàng không làm được, lại có gương mặt thế này, thảo nào không được chúng quý nữ ưu thích là phải.
Thấy Tuệ An nhìn gương cười khổ, Phương mama lại nói:
“Cô nương cần gì để ý mấy lời vô lễ của người kia, vú nghe cách nói năng của người nọ đã biết chẳng phải thứ tốt lành gì, nhất định là loại công tử ngày ngày lưu luyến nơi bướm hoa, chẳng lẽ chúng ta lại đi so đo với người như thế.
Còn nữa, Hồ cơ ở Tần lâu Sở quán lấy đâu ra khí chất cao quý như cô nương? Theo lão nô thấy, như cô nương mới là tốt nhất, tương lai gả cho cô gia, làm sao cô gia không thương yêu hết mực đây.”
Tuệ An nghe vậy, mặt mũi ửng hồng lên, giận dỗi trừng Phương mama một cái, Phương mama cũng hớn hở cười theo.
Tuệ An nghĩ đến người ở Tiên Hạc lâu ban nãy, lại nhớ tới chuyện bên hông hắn chồng chất một túi thơm lòe loẹt.
Nam tử Đại Huy sử dụng túi thơm và hà bao rất nhiều, vừa có dùng để đựng hương liệu, lại cất chứa được vật phẩm tùy thân, hoặc là bạc vụn, đồ trang sức linh tinh…
Nhưng nam tử Đại Huy lại không thường đeo túi thơm ra ngoài, như các công tử quý tộc trong kinh thì càng ưa dùng Hương cầu chạm rỗng hơn.
Công nghệ chế tác hương cầu của Đại Huy vô cùng cao siêu, các công tử đeo Hương cầu bên người vừa tinh xảo lại lịch sự. Chất liệu và hình thức của Hương cầu cũng có vô vàn sự lựa chọn, hoặc vàng hoặc bạc, hoặc ngọc hoặc đồng, thậm chí đến gỗ cũng có thể điêu khắc làm thành Hương cầu.
Loại Hương cầu chạm rỗng này ở giữa có không gian để đặt hương liệu, do hai vòng xoáy ốc bao phủ. Nó lợi dụng sức nặng của hương liệu, bảo trì trạng thái thăng bằng cho Hương cầu, bất luận hương cầu có nhấp nhô thế nào, hương liệu bên trong cũng không rơi vãi ra ngoài.
Bởi vậy Hương cầu không những đẹp mắt, mà mùi thơm cũng thoang thoảng trong lành, so với túi thơm còn chứng tỏ thân phận cao quý của người đeo, cho nên túi thơm càng ngày càng hiếm thấy, chỉ có những nam tử xuất thân hàn môn mới đeo bên người.
Nếu dùng túi thơm để đựng tiền bạc, người bình thường cũng không đeo bên người, phần lớn đều đưa cho gã sai vặt mang theo, hoặc là trực tiếp đặt trong ngực.
Chỉ có một tình huống, chúng công tử sẽ đeo túi thơm bên hông, đó chính là những lúc đi dạo Tần lâu Sở quán.
Lúc này trong túi thơm sẽ để bạc trắng hoặc là mấy thứ trang sức nhỏ xinh, gặp được cô nương hợp ý liền tiện tay khen thưởng, đương nhiên cũng đồng thời là thứ các cô nương nhìn vào mà phục vụ, cho nên túi thơm này đúng là vật dụng không thể thiếu khi đi dạo thanh lâu.
Điều này cũng khiến cho chúng công tử càng không bao giờ đeo nó bên hông, ngay cả người suốt ngày lêu lổng thanh lâu như Mã Minh Viễn, Tuệ An cũng chỉ một lần duy nhất nhìn thấy trên thắt lưng hắn có đeo túi thơm.
Vậy mà cái người ở Tiên Hạc vừa rồi lại một lúc đeo hơn sáu bảy cái túi thơm bên hông, nhân vật vĩ đại như thế quả thật Tuệ An chưa bao giờ thấy qua.
Người nọ chỉ kém chưa viết hai chữ “dâm tặc” lên trán, thật sự là kẻ hồ đồ.
So đo hơn thua với loại người này, đúng không cần thiết, Tuệ An nghĩ thông suốt điểm này, liền lắc đầu nở nụ cười.
Phương mama thấy nàng không còn khó chịu, tay như linh xà búi cho Tuệ An búi tóc tiểu triện, nói:
“Lại nói phu nhân mới là giống lão Hầu gia như đúc, vú nghe nói mẹ ruột của phu nhân là một Hồ nữ điển hình, mũi cao mắt tròn, hình như đôi tròng mắt còn có màu lam, chỉ tiếc hồng nhan bạc mệnh.”
Thẩm Cường là người háo sắc, không những hay lui tới chốn thanh lâu, mà tiểu thiếp trong phủ cũng không ít, nhưng con nối dõi lại khan hiếm vô cùng.
Mẹ đẻ của Thẩm Thanh vốn là một Hồ cơ bán nghệ không bán thân, một lần Thẩm Cường đánh trận đi ngang qua Bặc Châu liền cướp về phủ, cũng xem như có một thời gian sủng ái. Khi đại quân lên đường chinh chiến liền đem nàng vứt ra sau đầu, chỉ để lại một ít bạc cho xong chuyện.
Nhưng nào ngờ hai năm sau, Hồ cơ kia nhờ người chuyển lời, nói đã có cốt nhục của ông, đứa bé năm nay cũng vừa tròn một tuổi.
Thẩm Cường không hề nghi ngờ một Hồ cơ nho nhỏ chẳng nơi nương tựa lại dám lừa gạt mình, vì vậy vui mừng mang người thẳng đến Bặc Châu, nhanh chóng tìm Hồ cơ. Khi ông đến nơi, Hồ cơ kia cùng với nữ nhi đã phải nhịn đói suốt mấy ngày.
Thì ra lúc Thẩm Cường rời đi đã cho không ít bạc, nàng ấy dùng tiền mua một tiểu viện sống qua ngày. Sau đó phát hiện mang thai thì vô cùng vui sướng, liền thuê một bà tử để chăm sóc. Số bạc còn lại cất giữ định sau này nuôi con, bản thân cũng có nơi nương tựa về già.
Nhưng những ngày tiếp theo trôi qua không hề yên ả chút nào, bọn người lăm le chú ý đến nàng khi trước còn lo lắng về phần Thẩm Cường, không dám làm ra hành động gì quá đáng.
Về sau lại thấy nàng ngay cả nữ nhi cũng sinh ra, mà Thẩm Cường vẫn biệt vô âm tín, bọn họ liền đoán rằng đứa bé kia không phải của Thẩm Cường, từ lâu nàng đã bị Thẩm Cường vứt bỏ.
Vì vậy đủ loại phiền phức liên tiếp tìm tới cửa, mỗi ngày trôi qua mẹ con nàng ngày càng vất vả. Cuối cùng nàng chỉ có thể dùng số bạc còn lại, mang theo nữ nhi trốn đông trốn tây, thẳng đến khi Thẩm Cường tìm thấy.
Xưa nay Hồ nữ vốn không có quan niệm trinh tiết, huống chi Thẩm Cường chỉ xem Hồ cơ kia như một món đồ chơi, không dám mong nàng sẽ thủ thân vì mình. Vì thế khi đặt chân đến Bặc Châu, làm sao ông không động lòng được? Ông còn càng hạ quyết tâm, sau này sẽ đối đãi nàng thật là tốt.
Ai ngờ một thủ hạ lại thổi gió bên tai, nói trên đời này chẳng có thứ gì tự dưng mà được, còn nói đứa bé kia chưa chắc đã là cốt nhục của Thẩm Cường.
Hồ cơ vốn là nữ tử trung liệt, nàng chịu đủ khổ sở, vốn dĩ cũng nản lòng thoái chí, vi lo lắng cho nữ nhi nên mới không nỡ rời xa trần thế. Giờ còn gì tiếc nuối, liền lao mình xuống sông tự tử.
Thẩm Cường cho người tìm hai ngày, chỉ vớt được một thi thể lên. Đợi lo hậu sự cho Hồ cơ xong, liền dẫn nữ nhi rời đi.
Hắn vốn đối với Hồ cơ có phần hổ thẹn, dưới gối lại không con, đối với nữ nhi mà nàng để lại làm sao không yêu thương cho được?
Ông mang nữ nhi về cho chính thất Lưu thị nuôi nấng, đặt tên là Thẩm Thanh. Sau này càng ngày càng thương yêu có thừa, đi đánh trận cũng mang theo nữ nhi bên người.
Mà Thẩm Thanh tuy có huyết thống người Hồ nhưng lớn lên lại càng ngày càng giống Thẩm Cường, nhất là đường nét bao quát của mặt và hàng lông mày.
Thế nhưng dù sao Hồ cơ cũng là mẹ đẻ của Thẩm Thanh, chung quy thân phận vẫn thuộc hàng thấp kém nên, rất ít người nhắc đến nàng. Hôm nay nghe Phương mama nói đến, Tuệ An buồn bã cười, đối với chuyện đó cũng gác qua một bên
Trái lại, nàng nghĩ đến chuyện của Đỗ Mỹ Kha, vội hỏi:
“Thu Lan viện có từng cho người tới đây? “
Phương mama cười nói:
“Kha di nương kêu Sính Cúc đưa ngân phiếu một nghìn lượng đến, lão nô đã nhận.”
Tuệ An nghe vậy, đắc ý cười khúc khích, nhưng lập tức lại nghĩ Đỗ Mỹ Kha có thể thoải mái đem ngân phiếu đến, là bởi vì bà sợ mình bắt chẹt không cho Tôn Tâm Từ tham dự cung yến. Chỉ có điều, việc này cũng đồng nghĩa là bà không coi mấy tờ ngân phiếu này ra gì!
Bạc của bà ta từ đâu mà có?
Tuệ An chắc chắn không phải là lấy từ phủ Đỗ thượng thư, nhất thời sắc mặt trầm xuống.
Phương mama thấy vậy cũng không nói nhiều, vừa chải đầu vừa nói:
“Cơm cũng dọn xong, mặc dù ở bên ngoài tiểu thư đã ăn không ít quà vặt, nhưng cũng không thể bỏ bữa được, nhanh ăn cơm thôi, đừng nghĩ nhiều nữa”.
Tuệ An gật đầu, đứng dậy ghé tai Phương mama dặn dò vài câu, thấy Phương mama cười gật đầu mới dời bước ra ngoài.
Ai ngờ Tuệ An vừa dùng xong bữa trưa, liền thấy Tôn Hi Tường vào Dung Lê viện, nối đuôi ông không phải Đỗ Mỹ Kha thì là ai?
Tuệ An thấy dáng vẻ hai người như vậy, biết nhất định là có chuyện chẳng lành, khẽ cúi đầu suy nghĩ, sau đó liền cười một tiếng, thản nhiên ra khỏi phòng.
Quả nhiên nàng vừa ngồi xuống, Tôn Hi Tường liền nghiêm túc nhíu mày, nói:
“Vừa rồi phụ thân hồi phủ, đúng lúc gặp tiểu hòa thượng của Tê Hà tự do Từ An đại sư phái tới, nói là đèn Trường Minh do phủ ta thắp cho mẫu thân con ở trong chùa vô cớ bị tắt.
Vi phụ đã phân phó Kiều tổng quản đưa thêm một nghìn lượng bạc, xin Từ An đại sư niệm kinh cầu phúc cho mẫu thân con. Chỉ là trong lòng vi phụ vẫn còn bất an.”
Đỗ Mỹ Kha cũng ra vẻ sầu khổ nói:
“Đèn Trường Minh này vốn là vật bảo vệ cho linh hồn phu nhân dưới suối vàng, nếu như kiếp sau có đầu thai làm người, cũng được trời phật phù hộ sinh ra trong gia đình quyền quý, cả đời thuận lợi.
Nay vô cớ bị tắt, thật là điềm xấu, theo ta thấy nhất định là phu nhân ở trên trời linh thiêng, nhớ tới Đại tiểu thư nên mới mượn chuyện này bày tỏ”.
Tuệ An nghe vậy lập tức lạnh mặt, trừng mắt nhìn Đỗ Mỹ Kha, quát:
“Phụ thân nói chuyện với ta, ai cho phép tiện thiếp như bà chen miệng! Còn biết quy củ là gì không?”
Đỗ Mỹ Kha nghe vậy, tức đến nghiến răng nghiến lợi, hung hăng trừng mắt nhìn Tuệ An, thấy Tôn Hi Tường nhíu mày nhìn mình, mới cắn răng cúi thấp đầu.
Tôn Hi Tường lại quay đầu lại than thở:
“Những gì Kha di nương nói phụ thân cũng thấy có lý, theo ý của vi phụ, cung yến đương nhiên không thể bỏ lỡ, nhưng chuyện của mẫu thân con cũng không thể làm lơ. Chi bằng con để Phương mama lên Tê Hà tự cầu phúc một chuyến. Đợi cung yến qua đi, con lại vào chùa niệm kinh hai ngày, an ủi vong linh mẫu thân con, làm tròn đạo hiếu.”
Tuệ An biết hai người này đang gây phiền toái cho mình, không biết có âm mưu gì.
Nhưng việc này nàng không thể nói không, chưa tính đến hai chữ “hiếu đạo” đè nặng trên vai, hơn nữa chuyện còn liên quan tới mẫu thân, nếu nàng không đi thì trong lòng cũng chẳng yên.”
Vì vậy Tuệ An đứng dậy gật đầu, cúi người nói:
“Việc này nữ nhi đã hiểu, buổi chiều con sẽ cho Phương mama thu thập một chút rồi lên chùa.”
Tôn Hi Tường nghe vậy gật đầu, cũng không ở lại, dặn dò vài câu liền cùng Đỗ Mỹ Kha về viện.
Tuệ An lạnh lùng nhìn hai người ra khỏi Dung Lê viện, hàng mày khẽ nhíu.
Thu Nhi uất hận nói:
“Cũng không biết Kha di nương lại muốn giở trò gì. Hiện giờ bà ta đã không còn nhà mẹ đẻ dựa vào, hay là chúng ta đuổi bà ra khỏi phủ luôn đi, đỡ bẩn mắt mọi người.”
Đuổi ra khỏi phủ? Đây chẳng phải là quá tiện nghi cho bà hay sao, đối với loại người như Đỗ Mỹ Kha, nàng sẽ làm cho bà sống không bằng chết, nếm trải hết lạnh nhạt đời người, bị cô lập hoàn toàn, tư vị đó mới là ngọt ngào nhất.
Tuệ An cười nói:
“Để ta nhìn xem bà ta có thể làm nên trò chống gì, vú nuôi cũng không cần lo lắng chuyện trong phủ, chỉ cần lên chùa nghỉ ngơi mấy ngày là được rồi. Thu Nhi, các muội giúp vú nuôi thu thập một chút đi.”
Đợi mấy người Thu Nhi lui ra, chỉ còn lại một mình Phương mama, Tuệ An mới nói:
“Lên chùa ở mấy ngày cũng tốt, hàng năm trước tết Liễu cô cô đều đều đến Tê Hà tự niệm kinh mấy ngày, thay mặt Thái hậu cầu phúc cho bách tính an lành, tuy rằng năm nay Thái hậu bệnh nặng, nhưng theo ta đoán, nếu không phải Liễu cô cô thì cũng là Trình cô cô, hoặc là những người đắc bên cạnh Thái hậu sẽ lên chùa làm lễ.
Vú nuôi lên chùa nên đi lại nhiều một chút, còn nữa, mấy ngày trước ta có nhắc đến chuyện mở quan nghiệm thi, giờ cũng chuẩn bị đi là vừa, ta không muốn kéo dài, chẳng bằng thừa dịp lần này ra phủ an bài người luôn.”
Từ sau ngày đó Phương mama đã từng nhiều lần khuyên nhủ Tuệ An, cuối cùng chuyện mở quan nghiệm thi vẫn bị Tuệ An thuyết phục, nay nghe vậy cũng không nói thêm, chỉ gật đầu nói:
“Cô nương ở trong phủ cũng nên cẩn thận!”
Tuệ An lại cười một tiếng:
“Vú nuôi yên tâm, trong phủ xưa không bằng nay, bọn hạ nhân đã an phận hơn nhiều, ta đoán Kha di nương cũng không dám làm gì. Hai ngày nay bà vẫn một mực gấp rút chuẩn bị cho Tôn Tâm Từ tham gia cung yến, chỉ sợ muốn phân thân đi hãm hại ta cũng khó.”
Phương mama suy nghĩ một chút, cảm thấy Tuệ An nói cũng có lý, lại nghĩ tới những ngày nay Tuệ An trưởng thành không ít, làm việc suy nghĩ đều cực kỳ chu toàn, lúc này mới cười gật đầu.
Đợi buổi chiều Phương mama vừa rời khỏi phủ, Hạ Nhi liền thần thần bí bí mang một phong thư vào phòng, bức thư đó chính là thư do Đinh Nhị mới đưa tới trong phủ.
Tuệ An thấy thư, tim đập mạnh một cái, sai Thu Nhi canh cửa, vội vã mở thư xem.
Quả nhiên là thư hồi âm của Thẩm Phong viết cho nàng, trên mặt chỉ cong cong vẹo vẹo có hai hàng chữ.
Tuệ An vẫn nghĩ sao nhanh như vậy đã có hồi âm, thì ra hiện giờ Thẩm Phong đã đang trên đường hồi kinh, tính toán thời gian còn có hơn một ngày đường sẽ tới kinh thành.
Trong thư Thẩm Phong chỉ nói ngày vào kinh, còn lại trên giấy đều rải rác những số là số, chẳng qua chỉ có một tờ giấy mỏng tang, đừng nói bày tỏ tình cảm nhớ thương cái gì, ngay cả một câu thăm hỏi cũng không thấy đâu.
Tuệ An bất an vân vê mảnh giấy trong tay, nên biết bức thư nàng gửi cho Thẩm Phong đã phải viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần, cuối cùng còn đưa đi một bức viết đến ba bốn trang.
Cho nên Tuệ An nghĩ, có phải Thẩm Phong còn ghi nhớ chuyện năm đó hay không, hoặc là trách ngoại tổ phụ và mẫu thân oa uổng ông, không muốn dính dáng đến phủ Phượng Dương hầu nữa.
Nhưng khi nhìn nét chữ xấu xí xiêu vẹo trên mặt giấy, nhớ Phương mama từng nói Thẩm Phong không biết chữ, trong lòng lại nhen nhóm vui mừng.
Nghĩ phong thư này tất nhiên là Thẩm Phong tự tay viết, có thể được ông coi trọng như thế, ắt hẳn ít nhiều cũng quan tâm lo lắng cho nàng đấy chứ.
Tuệ An nghĩ vậy, không khỏi nở nụ cười, về chuyện của Thẩm Phong, Tuệ An chỉ thương lượng với Phương mama, mấy người nha đầu bên cạnh cũng không được biết.
Thấy gặp Tuệ An cười đến vui vẻ thì hiếu kỳ lắm.
“Cô nương, ai viết thư cho cô nương vậy? Lại có thể khiến cô nương vui vẻ đến thế.”
Thu Nhi nhịn không được hỏi han. Tuệ An gấp thư, phân phó Xuân Nhi cất giữ cẩn thận, cười nói:
“Đợi ngày mai muội sẽ biết.”
Tuệ An gấp thư, phân phó Xuân Nhi cất giữ cẩn thận, cười nói:
“Đợi ngày mai muội sẽ biết.”
Nói xong liền đứng dậy:
“Đông Nhi đi gọi Kiều tổng quản thu dọn Tây viện một chút, nói ta có khách quý muốn chiêu đãi, bảo ông ấy làm việc cẩn thận.
Sáng mai Thu Nhi, Xuân Nhi theo ta tới Thập Lý đình ở ngoài thành đón người, Hạ Nhi ở nhà trông coi sân viện, Đông Nhi cũng lưu lại trong phủ, sáng mai đến Tây viện kiểm tra lại một lượt, thiếu cái gì thì bảo Kiều tổng quản đặt mua, nhất định phải thu thập Tây viện tốt nhất cho ta.”
Tuy nói Tuệ An còn không chắc chắn Thẩm Phong sẽ vào Hầu phủ ở, nhưng những gì cần chuẩn vẫn phải chuẩn bị thỏa đáng, miễn cho đến lúc đó lễ giáo không chu toàn, để lại ấn tượng xấu cho cậu thì không hay.
Mỗi khi đến cuối năm, quan viên các tỉnh thành đều phải vào kinh bàn giao công sự, đồng thời tham gia buổi chầu chúc mừng năm mới.
Lần này Thẩm Phong về kinh chỉ sợ là vì chuyện đó. Cũng chẳng biết ông có dẫn theo gia quyến hay không, Tuệ An không biết người thân của Thẩm Phong có những ai, tính tình thế nào, nhất thời lại trào dâng bất an, không biết phải chuẩn bị thêm những gì.
Thầm nghĩ, nếu như có Phương mama ở đây thì tốt rồi, những chuyện giao tiếp kiểu này Phương mama luôn chu đáo hơn mình.
Nàng ngồi xuống suy ngẫm một hồi, nghĩ Thẩm Phong là người phương Bắc, ít nhất về phần ăn uống sẽ không có gì khác biệt, liền phân phó Thu Nhi dặn dò phòng bếp chuẩn bị chút ít điểm tâm bình thường, thu mua nguyên liệu nấu ăn đầy đủ.
Lại suy nghĩ một chút, nhẩm tên mấy món ăn vặt mà quý nữ kinh thành thích ăn, sai Xuân Nhi tự mình tới các tửu lâu lớn với cửa hàng điểm tâm nổi tiếng mua về.
Sau cuối còn vội vàng gọi Hạ Nhi đem mở tủ đồ ra, chọn tới chọn lui y phục cho sáng mai, xong xuôi mới cảm thấy hài lòng.
Đến chạng vạng, Tuệ An hết hứng thú, nằm trên nhuyễn tháp chơi dây với Băng Nguyệt. Được một lúc thì thấy Thu Nhi mang theo vẻ mặt ủ dột từ bên ngoài tiến đến.
Tuệ An nhìn nàng một cái, biết rõ nha đầu kia tự sẽ nói chuyện, cũng không để ý tới nàng.
Quả nhiên chỉ lát sau, Thu Nhi đã rê chân đến bên cạnh, thở phì phò nói:
“Cô nương có biết cái người hồ đồ ở Tiên Hạc lâu hôm nay là ai không?”
Tuệ An không hề cảm thấy kỳ lạ khi Thu Nhi cho người hỏi thăm thân phận người kia, nghe vậy chỉ cười một tiếng, nhướng mày không nói gì.
Thu Nhi thấy vậy, tức giận nói:
“Xem ra cô nương thật sự không thèm để ý, nhưng nô tỳ khó chịu lắm. Phải nói người kia coi như cũng có chút lai lịch, lại có thể là một Hầu gia, hắn là con trai của Tĩnh Mẫn Trưởng công chúa, Hoàng thượng sắc phong Tĩnh Bắc hầu.
Cho dù có là hoàng thân quốc thích, nhưng cô nương, người nói xem, sao hắn có thể… Có thể vô phép vô tắc như vậy cơ chứ? Không được, nô tỳ mặc kệ hắn là Hầu hay Bá, nô tỳ nhất định phải nghĩ cách xả giận cho cô nương.”
Tuệ An nghe vậy mới chợt hiểu ra, khó trách nàng nhìn người nọ lại thấy quen đến thế, còn không phải ư, cái người có nốt ruồi mỹ nhân ngay mi tâm kia nhìn qua y hệt một phiên bản thu nhỏ của Tĩnh Mẫn Trưởng công chúa.
Thảo nào lời đồn nói người này đến giờ vẫn chưa thành thân, chỉ riêng cái tính hồ đồ vô phép này, đoán không chừng cả kinh thành này ai ai cũng nghe danh, nếu Trưởng công chúa muốn ở kinh thành tìm cho hắn một mối hôn sự, e rằng đã khó càng khó.
Có đích nữ nhà ai không phải ngọc quý trên tay, há có thể gả cho một người như vậy, trừ phi Trưởng công chúa trực tiếp vứt hết mặt mũi đi xin thánh chỉ tứ hôn, khiến nhà người ta không thể không gả nữ nhi, vậy thì lại khác…
Thu Nhi chỉ là một tiểu nha đầu nhỏ bé, không thể làm gì được Tiền Nhã Khanh thật, Tuệ An nghe vậy cũng chẳng màng để ý, ngủ dậy một giấc liền đem việc này quên cái sạch.
Sắc trời chuyển từ tối sầm sang sáng ngời, nháy mắt đã đến tảng sáng hôm sau.
Sáng sớm Tuệ An đã thu thập thỏa đáng, mang theo Xuân Nhi, Thu Nhi trèo lên xe ngựa, đi thẳng về phía thành Tây.
Bởi vì Thẩm Phong không biết nàng sẽ ra thành đón người, mà Tuệ An lại chưa bao giờ thấy mặt Thẩm Phong, sợ trên đường nhiều người mà lỡ mất nhau, cho nên Tuệ An còn đặc biệt phân phó Kiều tổng quản đem theo một tấm biển ghi chữ “Thẩm phủ”, treo lên đằng trước xe ngựa, thấy đủ để người khác chú ý, nàng mới an tâm hơn chút.
Xe ngựa rất nhanh đã ra khỏi thành, thẳng đến Thập Lý đình, bởi vì canh giờ còn sớm, cho nên trên con đường từ cửa thành đến Thập Lý đình rất ít người qua lại.
Xe ngựa một đường phi nhanh như chớp, trận bão hôm qua còn để lại tuyết đọng đầy đường, đồng ruộng xung quanh cũng trắng xóa một mảnh.
Tuệ An mở cửa sổ xe, gió mát ùa vào, trong lòng thanh tĩnh một mảnh.
Đợi đến Thập Lý đình, hai người Thu Nhi vào đình trước, thu thập một phen mới để Tuệ An xuống xe ngựa.
Thập Lý đình là một mái đình nghỉ mát dành cho người đi đường tránh mưa tránh nắng, thật ra Thập Lý đình chỉ được tu sửa chỉnh tề sạch sẽ hơn hàng quán ven đường một chút thôi, cũng không có có chỗ gì đặc biệt.
Bên cạnh mái đình có mấy cây hòe già, bởi vì đang đông nên cành lá khẳng khiu, tuyết đọng trên lá vẫn chưa tan ra, dưới ánh mặt trời nhỏ xuống từng giọt nước long lanh sáng chói, không khác nào một chuỗi ngọc tí tách tuôn rơi.
Tuệ An ngồi trong đình, một mặt nhìn cảnh một mặt không ngừng ngó lên đường mòn, thỉnh thoảng cũng thấy có người phóng ngựa phi qua, nhưng không thấy người nào tầm tuổi Thẩm Phong.
Tuệ An vừa vào đình đã phân phó lão Triệu dừng xe ngựa ven đường, để nếu có lỡ Thẩm Phong đi ngang sẽ nhìn thấy bảng hiệu trên xe, nàng cũng không mất công chờ đợi, xong xuôi tay ôm lò sưởi ngoan ngoãn ngồi trong đình.
Ai ngờ nàng chưa chờ được Thẩm Phong, lại rước đến một nhân vật mới hôm qua còn bị Thu Nhi mắng chửi nửa ngày.
Lại nói Tuệ An đang thoải mái ngắm cảnh, thấy trên đường mòn có mấy người phóng ngựa chạy tới, đi đầu là một công tử mặc cẩm bào tím nhạt thêu ngũ sắc hoa văn, phía sau theo sát bốn năm người tôi tớ.
Bởi vì mấy người này đều cưỡi trên lưng bảo mã không tầm thường, tiếng vó ngựa vừa nhanh lại dồn dập, cho nên Tuệ An mới vô thức nghiêng đầu liếc nhìn.
Vị công tử đi đầu ăn mặc rõ là lòe loẹt bắt mắt, con ngựa dưới thân cũng đặc biệt nổi bật, chỉ thấy con ngựa kia không chỉ cao lớn oai hùng, phi nhanh như chớp, còn vô cùng xinh đẹp, là một cô nương ngựa với màu sắc và hoa văn hiếm thấy trên đời.
Toàn thân đầy đủ năm màu, hơn nữa mái bờm của con ngựa kia còn được tu sửa thành bông hoa năm cánh, lúc chạy lông bờm tung bay, y hệt đóa hoa nở rộ.
Tuệ An đang mải miết ngắm nhìn, đã thấy con ngựa kia không biết tại sao lại đột nhiên hí vang một tiếng, không chịu khống chế giậm chân giận dữ.
Kỹ thuật cầm cương của công tử kia cũng không phải dạng vừa, trong chốc lát đã ghìm ngựa đứng lại, thế nhưng con ngựa kia càng ngày càng khó giữ, điên cuồng hí hét đâm đầu bốn phía.
Thấy ngựa của mình có điều không đúng, công tử kia cũng không hề cố chấp giữ ngựa, đầu tiên nghiêng người nằm rạp trên lưng ngựa, đợi con ngựa mất sức mới đạp chân nhảy xuống đất, hét lớn gọi bọn sai vặt đuổi theo ngựa.
Con ngựa kia mất người khống chế, chạy lung tung một đoạn lại phi thẳng về phía Tuệ An bên này, nhoáng cái đã đến bên cạnh.
Vốn dĩ Thu Nhi và Xuân Nhi còn cảm thấy chuyện thật thú vị, đang chỉ vào con ngựa kia mà đùa giỡn đôi câu. Nay thấy nó xông tới bên này thì sợ hết hồn, vội vàng che chở Tuệ An ra khỏi đình.
Con ngựa kia không chạy vào trong đình, chỉ điên cuồng đâm đầu vào thân một cây hòe già bên cạnh mái đình, mới đầu còn chậm rãi dụi dụi, càng về sau càng đập mạnh hơn, tình cảnh này thật đúng là nhìn mà kinh hãi.
“Cô nương, con ngựa này bị sao thế? Không biết biết đau à, cứ như vậy sẽ chết mất!”
“Cô nương, chúng ta vẫn nên trốn đi thôi, bị con ngựa này đụng phải thì không hay.”
Thu Nhi, Xuân Nhi vừa nói xong, chủ nhân của con ngựa kia cũng chạy đến nơi, Thu Nhi nhìn sang liền kêu to một tiếng, tức giận nói:
“Tại sao lại là hắn?”
Tuệ An nhìn lại cũng sững sờ, vị công tử ăn mặc bắt mắt này không phải là Tiền Nhã Khanh sao?
Tuy rằng hôm nay hắn mặc là một thân y bào, cũng không đeo chồng chất những cái túi thơm dọa người kia, nhưng cách ăn mặc vẫn màu mè như cũ, không nói đến toàn thân cẩm y xanh đỏ đủ màu, mấy viên minh châu gắn ở phát quan trên đầu thậm chí còn quý giá hơn hôm qua.
Nói là minh châu, nhưng thực ra chính là một chuỗi ngọc được kết thành vòng tròn, những viên ngọc kia ít nhất cũng phải hơn ba mươi viên.
Mặc dù không to bằng viên hôm qua, nhưng hơn ở chất liệu, viên nào viên nấy nhìn y như nhau, lóe lên tia sáng rực rỡ kim quang.
Tuệ An âm thầm tặc lưỡi, người này quả nhiên hợp với họ của mình, ngay tới trang phục bản thân cũng nhất định phải đề cao một chữ “Tiền”, hoặc sợ người khác không biết hắn là người có tiền chăng?
Quay lại chủ đề con ngựa, hình như Tiền Nhã Khanh rất yêu quý con ngựa kia, vẻ mặt nôn nóng chạy đến, chưa từng nhìn sang chỗ mấy người Tuệ An, liền đi thẳng về phía con ngựa đang nổi điên.
Mấy gã sai vặt thấy hắn như vậy, gấp rút giữ người, khuyên nhủ:
“Thiếu gia của tôi ơi, ngài nếu có chuyện không hay, bảo chúng tiểu nhân biết ăn nói thế nào với phu nhân. Ngài mau qua một bên nghỉ ngơi trước, chúng tiểu nhân nhất định trấn an Yên Chi cho ngài.”
Gã sai vặt vừa giơ tay giữ chặt Tiền Nhã Khanh liền bị hắn dùng sức đẩy ra, quát lên:
“Cái gì hay với chả không hay, thiếu gia ta yếu đuối thế hả? Đừng có mà ở đây lắm chuyện cản trở ta, nhanh tránh ra, nếu như Yên Chi của ta có mệnh hệ gì, bản thiếu gia sẽ đi nhảy sông tự tử, đến lúc đó xem mẫu thân xử trí các ngươi thế nào.”
Gã sai vặt nọ nào dám buông tay, sống chết bám chặt lấy hắn, đồng thời nháy mắt ra hiệu cho gã sai vặt mập mạp bên cạnh.
“Mập Mạp” hiểu ý, nhanh chóng lấy dây thừng buộc thành thòng lọng, liền quăng về phía con ngựa đang nổi điên, mặc dù “Mập Mạp” hơi đô con so với người bình thường, nhưng động tác cũng không hề lóng ngóng, chuẩn xác vứt dây thừng tròng qua cổ ngựa.
Mấy gã sai vặt còn lại dường như cũng biết chút ít công phu quyền cước, thấy “Mập Mạp” khống chế được ngựa, cũng gấp rút tiến lên hỗ trợ.
Con ngựa vốn đã hoảng sợ, lại bị trói cổ há có thể không điên cuồng giãy giụa, lập tức tung vó đá loạn cả lên.
Tiền Nhã Khanh thấy vậy thì kinh hãi không thôi, dùng hết sức bình sinh dẫm thật mạnh vào hai chân gã sai vặt bên cạnh, gã sai vặt kia hơi phân tâm, nhất thời mất đà ngã ngửa ra phía sau.
Tiền Nhã Khanh thoát được, liền nhảy lên lưng ngựa, vừa kéo ngựa vừa nói:
“Nhanh trói nó lại cho ta, đừng làm nó tàn tật.”
Có hắn giữ ngựa, thân thủ của những gã sai vặt kia lại không tệ, rất nhanh đã trói cứng bốn vó ngựa, đợi Tiền Nhã Khanh nhảy khỏi nó, mấy người đồng thời dùng sức kéo một cái, con ngựa kia liền hí vang thật lớn, ngã oặt xuống đất.
Lúc này Tiền Nhã Khanh mới thở phào nhẹ nhõm, ngồi chồm hổm trên mặt đất kiểm tra hồi lâu, cũng không phát hiện lý do khiến ngựa nổi điên.
Cuối cùng đành phải phân phó “Mập Mạp” trở về thành mang thú y đến, mình thì vuốt ve bờm ngựa, không ngừng thì thầm trấn an nó, vẻ mặt đến là âu sầu lo lắng.
Tuệ An một bên nhìn cả nửa ngày, thấy ngựa đã bị khống chế, nằm trên mặt đất thở hổn hển, liền nháy mắt với Thu Nhi, nói nhỏ:
“Không phải muội muốn báo thù sao, nhìn cô nương nhà muội đây này.”
Nàng thấy ánh mắt Thu Nhi ngời sáng, liền chầm chậm vòng qua mái đình, đi về phía Tiền Nhã Khanh, cười nói:
“Công tử không biết con ngựa bị làm sao, nhưng ta lại biết.”
Tiền Nhã Khanh nghe vậy ngẩng đầu, đã thấy Tuệ An cất bước mà đến, ánh nắng sáng sớm rơi sau lưng nàng, vì nàng khảm lên một tầng kim quang mờ ảo, chiếu rõ khuôn mặt mềm mại diễm lệ, quý khí vô song.
Hôm nay bởi vì Tuệ An muốn đón Thẩm Phong, cho nên còn cố ý chỉnh trang một phen. Nàng mặc trên người một xiêm y thêu hải đường thiếp bạc, váy xanh màu liễu, khoác áo choàng lông cáo.
Trên đầu búi kiểu tóc như vân hướng nguyệt, phía trên cài mấy đóa hoa hải đường bằng lụa, vừa tươi mát lại không mất vẻ phú quý, cả người nhìn giống như một nụ hoa ngọc lan hé nở, vô cùng sáng rỡ.
Nàng thấy Tiền Nhã Khanh chỉ nhìn mình mà không nói lời nào, liền tiến lên hai bước ngồi xuống bên cạnh con ngựa, lúc này Tiền Nhã Khanh mới nhướng mày cười một tiếng, mặt tràn đầy hứng thú hỏi:
“Là cô, cô nói thử xem Yên Chi có chuyện gì? Nếu nói đúng, ta xin tặng ngàn vàng dùng làm tạ lễ.”
Tuệ An nghe vậy không nói gì, chỉ thầm cảm thán, phải chăng đây chính là phá gia chi tử trong truyền thuyết, đúng là vung tiền như rác.
Nàng lườm Tiền Nhã Khanh một cái, nói:
“Ai thèm vàng của ngài, ta đây là nể mặt Trưởng công chúa mới nhịn không được giúp ngài một lần mà thôi, sao trên đời lại có người thô tục như ngài không biết.”
Nói xong, còn đưa mắt đánh giá Tiền Nhã Khanh từ trên xuống dưới một lần, tỏ vẻ khinh thường.
Tiền Nhã Khanh cũng không giận, ngược lại còn sáp tới gần, vẻ mặt nịnh nọt cười lấy lòng:
“Thẩm cô nương mời nói, nếu như Thẩm cô nương có thể cứu được Yên Chi của ta, muốn ta làm gì ta đều đồng ý.”
Tiền Nhã Khanh này tuổi đã một bó, lại còn giở giọng nịnh nọt khoe mẽ y như đứa trẻ con, nhất thời khiến Tuệ An nổi cả da gà da vịt, vội vàng lùi sau một bước, nghiêm trang mà nói:
“Ngựa này của ngài là bị trúng tà !”
Nghe Tuệ An nói biết được lý do ngựa nổi điên, mọi người đều nhìn chằm chằm vào nàng, nhưng cũng không ngờ Tuệ An lại thốt ra một câu như vậy.
Đừng nói là Tiền Nhã Khanh, ngay cả hai người Thu Nhi cũng ngây ngẩn.
Lại nghe Tuệ An nói:
“Ngài xem đi, con ngựa này vô duyên vô cớ đột nhiên nổi điên, còn ra sức đâm đầu vào cây không ai cản được, không phải trúng tà thì là cái gì?
Tiền công tử không phải người kinh thành nên có thể không biết, ngoại thành phía tây này là nơi năm đó Thánh Tổ dẫn binh chiếm đóng, chết không biết bao người, nghe nói chỉ được an táng qua loa ở đầu kia sườn núi, âm khí rất nặng, buổi tối chỗ này thường xuyên có người nhìn thấy ánh lửa ma trơi. Rõ ràng ban nãy ngựa này của ngài còn bình thường, bỗng nhiên nổi điên nhất định là bị âm khí xâm nhập.”
Là người bình thường có ai dám mạo phạm quỷ thần, càng không ai dám mang chuyện quỷ thần ra dọa người, vốn dĩ mọi người còn kinh ngạc không tin, nay nghe Tuệ An nói có sách mách có chứng như vậy, lại thấy tuy Yên Chi bị trói chặt bốn chân, nhưng vẫn như cũ không ngừng đập đầu xuống đất, liền tin đến tám chín phần.
Chỉ cảm thấy Tuệ An nói rất đúng, biểu hiện của con ngựa này không khác nào người trúng tà. Gã sai vặt vừa rồi còn sống chết ngăn cản Tiền Nhã Khanh liền biến sắc, hỏi:
“Vậy theo tiểu thư nên làm thế nào cho phải?”
Tuệ An thấy Tiền Nhã Khanh không nói, vẻ mặt cũng không thay đổi, chẳng biết trong lòng hắn nghĩ gì, đang định nói thêm hai câu thêm nhử mồi, nay gã sai vặt của hắn lại đưa lên tận cửa, tức thì phấn chấn nói:
“Ta đã từng chứng kiến một đạo sĩ thi triển pháp thuật trừ tà cho ngựa, Yên Chi trúng tà, ta tự nhiên có biện pháp trấn an nó. Chỉ có điều không biết Tiền công tử có tin tưởng ta hay không mà thôi.”
Tiền Nhã Khanh thấy Tuệ An giương cặp mắt sáng trong nhìn mình, há có thể không theo nàng, chỉ nhướng mày nói:
“Ta đương nhiên tin tưởng tiểu thư, mặt khác, nếu như biện pháp của tiểu thư có thể chữa lành cho Yên Chi, vậy ta còn không thiếu được muốn mời tiểu thư đến làm khách quý của phủ ta, dâng lễ tạ ơn nữa kìa.”
Tuệ An nghe vậy cười một tiếng, đôi mắt sáng như sao trời ánh loe lóe, nói:
“Vậy được.”
Nói xong liền đứng lên, quay sang gã sai vặt:
“Ta thấy hình như trong túi hành lý trên lưng con ngựa kia có một cái kéo thì phải, không biết tiểu ca có thể giúp ta mang tới đây hay không?”
Gã sai vặt nghe vậy, liếc mắt trưng cầu ý kiến Tiền Nhã Khanh, thấy Tiền Nhã Khanh gật đầu, liền nhanh chóng rút kéo đưa cho Tuệ An, Tuệ An tiếp nhận, lại nói:
“Lát nữa ta làm phép các ngươi không được quấy rầy, nếu như pháp thuật bị cắt ngang, e rằng sẽ mất linh.”
Tiền Nhã Khanh làm sao không biết Tuệ An đang giở trò quỷ, chỉ sợ là cố ý muốn trả thù mình, nhưng hắn cũng tò mò tiểu nha đầu này muốn làm gì, cho nên mới giả vờ thuận theo, nghe Tuệ An yêu cầu, một chút cũng không ngạc nhiên, khẽ gật đầu.
Tuệ An lúc này mới phân phó nói:
“Mọi người đến gốc cây đằng kia đứng đi, không được đứng quá gần, pháp thuật sẽ bị dương khí ảnh hưởng.”
Thu Nhi, Xuân Nhi sợ con ngựa Yên Chi kia đả thương Tuệ An, muốn đi lên ngăn cản, Tuệ An lại nháy mắt trấn an một cái, hai người mới theo đám người Tiền Nhã Khanh dời đến dưới gốc cây.
Tuệ An nhắm mắt vụng về lẩm bẩm hồi lâu, sau đó đột nhiên mở mắt, bước nhanh về phía Yên Chi không ngừng đá đạp lung tung trên mặt đất, nàng một tay túm lấy mái bờm xinh đẹp của Yên Chi, tay phải vung kéo cắt, xoèn xoẹt một cái lông ngựa bay tứ tung trong gió, nháy mắt đã biến mái bờm tựa bông hoa năm cánh trở thành một nhúm lông rối bù, mơ hồ còn lộ ra phần da thịt bên dưới.
Vốn dĩ Tiền Nhã Khanh còn dùng vẻ mặt xem trò vui nhìn nàng, nay thấy Tuệ An lại dám vung kéo cắt sạch mái bờm của Yên Chi, mới giật mình choáng váng, hắn sững sờ một lúc lại chuyển sang cảm thấy kỳ lạ.
Yên Chi tính tình khó chịu, rất ưa chưng diện, bình thường lông bờm ngoại trừ hắn không cho phép người thứ hai chạm vào, nhưng Tuệ An cắt lông bờm nó như thế, nó lại một chút động tĩnh cũng không có, hơn nữa rõ ràng ban nãy nó còn ra sức dụi đầu xuống đất, bây giờ chẳng hiểu sao đã an ổn không ít, điều này thật sự khiến hắn kinh ngạc khó hiểu tới cực điểm.
Hắn mải mê suy nghĩ lý do, lúc lấy lại tinh thần đã thấy Tuệ An cắt hết mái bờm Yên Chi một lần, đang tiến hành vòng tàn sát thứ hai, muốn hô ngừng cũng đã chậm.
Mặt mũi đen sì trơ mắt nhìn Tuệ An cạo sạch mái bờm hắn vất vả chải chuốt từng ngày, chải chuốt từng ngày, từng ngày…
Tuệ An cắt xong bờm cho Yên Chi, phủi tay hài lòng nhìn con ngựa ngốc nghếch nằm xoài trên đất, tươi cười nhìn về phía Tiền Nhã Khanh:
“Công tử xem đi, ta nói không sai chứ, Yên Chi quả thật là trúng tà, may mà có ta kịp thời ra tay trấn áp, công tử có thể sai người tháo thòng lọng ra cho nó được rồi.”
Tiền Nhã Khanh nghe vậy, đưa mắt nhìn lông ngựa tung bay đầy đất, lại chuyển sang con ngựa xấu hoắc đang nằm phì phò thở dốc, cuối cùng dừng ở khuôn mặt tươi cười sáng lạn như hoa của Tuệ An, trong lòng chỉ còn duy nhất một cảm giác, loại cảm giác giống hệt ngày hôm qua khi gặp Tuệ An.
Đó chính là bốn chữ: Dở khóc dở cười!
Bình luận truyện