1Q84 (Tập 2)
Chương 19: Aomame
Khi Tử thể thức tỉnh
Tuy là tiểu thuyết kỳ ảo nhưng về cơ bản Nhộng không khí rất dễ đọc. Câu chuyện được kể từ đầu đến cuối qua giọng giản dị, đời thường của một cô bé mười tuổi. Không có những câu từ thâm thuý, những logic khiên cưỡng, cũng không có những đoạn kể lể dài dòng, không có những chỗ biểu đạt cầu kỳ phức tạp. Ngôn ngữ của cô dễ hiểu, ngắn gọn, và đa phần là dễ chịu, nhưng gần như không giải thích gì về các sự kiện xảy ra trong truyện. Cô chỉ lần lượt kể lại theo thứ tự những gì mình tận mắt trông thay. Cô không dừng lại ngẫm nghĩ: “Rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì?” hay “Thế nghĩa là thế nao?” Cô chỉ không ngừng tiến bước, chậm rãi, bằng nhịp điệu phù hợp với câu chuyện. Người đọc nhìn thông qua cặp mắt của cô bé, đi theo bước chân cô, cảm giác hết sức tự nhiên. Rồi từ lúc nào không biết họ đã bước vào một thế giới khác, một thế giới không phải thế giới này. Một thế giới có Người Tí Hon chế tác Nhộng không khí.
Đọc mười mấy trang đầu tiên, Aomame có ấn tượng sâu sắc với phong cách viết. Nếu đây là sáng tạo của Tengo thì anh thực sự là một cây bút tài năng. Tengo ngày trước vốn nổi tiếng là thần đồng toán học. Nhiều bài toán ngay cả người lớn cũng khó lòng giải được, thế mà anh hầu như chẳng tốn chút công sức nào đã có đáp án. Thành tích của anh ở các môn khác tuy không bằng môn toán nhưng cũng đều thuộc hạng ưu. Anh còn có vóc người cao lớn và là một vận động viên toàn năng, nhưng cô chẳng nhớ gì về chuyện anh viết văn hay đến mức nào. Có lẽ tại hồi đó tài năng này còn ẩn dưới bóng môn toán đang ưu trội của anh.
Mặt khác, cũng có thể Tengo chỉ chuyển lời kể của Fukaeri thành văn chương, chứ bản thân anh không góp phần sáng tạo gì nhiều vào phong cách cả. Nhưng, Aomame cảm thấy có lẽ không phải như vậy. Lời văn thoạt tiên đơn giản, nhưng đọc kỹ sẽ thấy thực ra các câu chữ đều được tính toán và điều tiết một cách cực kỳ chu đáo. Không chỗ nào bị viết quá lên, đồng thời những gì cần phải đề cập đến thì đều rất chu toàn. Những biểu đạt mang tính ẩn dụ bị giảm thiểu tối đa, song miêu tả lại chuẩn xác, sống động, màu sắc phong phú. Điểm xuất sắc nhất là, trong lời văn có thể cảm nhận được một thứ âm điệu tuyệt vời. Dẫu không đọc lên thành tiếng, độc giả vẫn có thể nghe thấy trong đó những âm vận sâu xa. Đây chắc chắn không phải là thứ văn chương một cô gái mới mười bảy tuổi đầu có thể viết ra được.
Sau khi chắc chắn điểm ấy, Aomame lại chăm chú đọc tiếp.
Nhân vật chính là một cô bé mười tuổi. Cô thuộc về một cộng đồng nhỏ được gọi là “Tập Thể” ở trong vùng núi sâu. Cha mẹ cô cũng sống chung trong “Tập Thể”. Cô không có anh chị em. Sinh ra chưa được bao lâu, cô bé đã được đưa đến nơi này, vì vậy cô hầu như hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài. Cả ba người trong gia đình đều bận rộn với những công việc thường ngày. Rất hiếm có cơ hội nhàn tản ngồi với nhau nói chuyện, nhưng họ rất hoà thuận. Ban ngày, cô bé đi học ở trường tiểu học địa phương, cha mẹ cô ra đồng làm việc. Nếu có thời gian dư dả, lũ trẻ cũng sẽ giúp cha mẹ làm một số việc đồng áng.
Những người lớn sống trong “Tập Thể” đều chán ghét hiện trạng của thế giới bên ngoài. Cứ hễ có cơ hội là họ sẽ nói, thế giới mình đang sống đây là một “thành lũy”. Một hòn đảo cô độc xinh đẹp trôi nổi giữa biển lớn mênh mông của “chủ nghĩa tư bản”. Cô bé không biết chủ nghĩa tư bản (có lúc họ cũng dùng từ chủ nghĩa vật chất) rốt cuộc là thứ gì. Cô chỉ dựa vào giọng điệu khinh miệt rõ rệt của mọi người khi nói ra các từ này để phán đoán rằng hình như đó là một thứ gì méo mó, đối ngược với tự nhiên và chính nghĩa. Cô bé được dạy rằng, đễ giữ gìn sự thuần khiết của xác thịt và tư tưởng, cô phải tuyệt đối không có quan hệ gì với thế giới bên ngoài. Nếu không, tâm hồn cô sẽ bị ô nhiễm.
“Tập Thể” do khoảng hơn năm mươi người cả nam lẫn nữ còn tương đối trẻ tập hợp lại mà thành, chia thành hai nhóm nhỏ. Một nhóm có mục tiêu làm “cách mạng”, nhóm còn lại thì hướng đến “hòa bình”. Cha mẹ cô bé có lẽ thuộc về nhóm “hoà bình”. Cha cô là người lớn tuổi nhất trong nhóm; từ khi “Tập Thể” ra đời, ông vẫn luôn đóng vai trò hạt nhân của tổ chức.
Dĩ nhiên, một cô bé mười tuổi không thể lý giải một cách rành mạch về kết cấu gồm hai nhóm đối lập nhau trong cùng một tổ chức này, cũng không thể hiểu hết sự khác biệt giữa “cách mạng” và “hoà bình”. Cô chỉ ấn tượng mơ hồ rằng “cách mạng” là lối suy nghĩ có hình dạng sắc nhọn, trong khi “hoà bình” là lối suy nghĩ có hình dạng hơn tròn. Lối suy nghĩ có hình dạng và màu sắc riêng của chúng, và cũng như mặt trăng vậy, có lúc tròn lúc khuyết. Đó là tất cả những gì cô lý giải được.
Cô bé cũng không biết gì về chuyện “Tập Thể” đã hình thành ra sao. Cô chỉ nghe nói, gần mười năm trước, khi cô mới ra đời chưa lâu, có một biến động lớn xảy ra trong xã hội, mọi người từ bỏ cuộc sống nơi đô thị, di cư đến vùng núi sâu tách biệt với thế giới bên ngoài. Hiểu biết của cô về thành phố không nhiều lắm. Cô chưa từng đi tàu điện, chưa từng đi thang máy, thậm chí còn chưa từng nhìn thấy tòa nhà nào cao quá ba tầng. Có quá nhiều điều cô không biết. Tất cả những gì cô hiểu được chỉ là những thứ ở xung quanh, có thể thấy bằng mắt, chạm bằng tay.
Mặc dù thế, đôi mắt luôn nhìn ở tầm thấp và giọng kể không hề hoa mỹ của cô bé vẫn miêu tả cái cộng đồng nhỏ được gọi là “Tập Thể” ấy một cách sinh động, tự nhiên: kết cấu và cảnh tượng ở đó, tập quán và cách suy nghĩ của những người sống trong cộng đồng ấy.
Tuy có sự bất đồng trong lối nghĩ của những người sống ở đó, song tình cảm đồng cam cộng khổ của họ rất mạnh mẽ. Họ có chung niềm xác tín rằng rời xa cuộc sống “tư bản chủ nghĩa” là một điều hay. Và mặc dù hình dạng và màu sắc của lối nghĩ có thể khác nhau, mọi người đều hiểu rõ rằng, nếu không sát cánh bên nhau, họ sẽ chẳng thể nào tiếp tục sinh tồn trên thế giới này. Cuộc sống của họ rất thiếu thốn. Hằng ngày mọi người đều lao động không ngơi nghỉ. Họ cày ruộng, trồng rau, trao đổi sản vật mình làm ra với dân làng sống gần đấy, bán đi sản phẩm thừa, cố tránh không sử dụng các hàng hoá sản xuất hàng loạt của nền văn minh công nghiệp, hầu như toàn sống giữa thiên nhiên. Khi bắt buộc phải sử dụng một đồ dùng điện máy, họ nhặt từ đống phế liệu về rồi tự tay sửa chữa. Quần áo họ mặc cũng hầu như toàn là đồ cũ do người khác quyên tặng.
Cũng có những người không thể chịu được cuộc sống thuần khiết nhưng khắc nghiệt này mà rời khỏi “Tập Thể”. Song cũng có người nghe danh họ tìm đến xin gia nhập. Số thành viên mới nhiều hơn số ra đi. Vì vậy, nhân khẩu của “Tập Thể” dần tăng. Đây là một xu thế tốt. Cộng đồng sinh sống trong một ngôi làng bỏ hoang, có nhiều nhà để trống, chỉ cần sửa chữa đôi chút là có thể ở được, và nhiều ruộng đồng có thể canh tác. Các lao động mới dĩ nhiên được cộng đồng hồ hởi chào đón.
Ở đây có khoảng tám đến mười đứa trẻ. Đa số chúng đều sinh ra trong “Tập Thể”, đứa lớn nhất chính là nhân vật chính của tiểu thuyết, cô bé kể chuyện. Lũ trẻ đi học ở trường cấp một địa phương. Ngày ngày bọn chúng cùng đi học và cùng trở về. Bọn trẻ không thể không đến trường cấp một đi học, vì pháp luật quy định như vậy. Vả lại, những người sáng lập ra “Tập Thể” cho rằng duy trì quan hệ tốt đẹp với cư dân địa phương là nhân tố không thể thiếu đối với sự sinh tồn của cộng đồng. Tuy nhiên, bọn trẻ sống quanh vùng rất khó chịu với lũ trẻ ở “Tập Thể” nên thường hay xa lánh chúng, không thì bắt nạt chúng. Vì vậy, lũ trẻ ở “Tập Thể” hầu như luôn tập trung lại với nhau, tự bảo vệ mình khỏi những thương tổn thể xác cũng như “ô nhiễm” tâm hồn.
Ngoài ra trong “Tập Thể” cũng có một trường học riêng, mọi người lần lượt dạy học cho lũ trẻ. Trong số họ rất nhiều người có giáo dục rất cao, có người còn có cả bằng sư phạm, nên đây không phải là việc khó. Họ tự biên soạn sách giáo khoa riêng, dạy lũ trẻ đọc, viết và toán, ngoài ra còn dạy cả kiến thức cơ bản về hoá học, vật lý, sinh lý học, sinh vật học, giải thích sự cấu thành của thế giới. Trên thế giới có hai chế độ lớn đối nghịch lẫn nhau, “chủ nghĩa tư bản” và “chủ nghĩa cộng sản”. Nhưng cả hai đều hàm chứa những vấn nạn sâu sắc, nên về đại thể có thể nói thế giới đang phát triển theo hướng không tốt. “Chủ nghĩa cộng sản” vốn ban đầu có tư tưởng xuất sắc với lý tưởng cao đẹp, tiếc rằng nó đã bị những “chính trị gia ích kỷ” lợi dụng khiến cho bị vặn vẹo sang một hình thái sai lầm. Bọn họ từng cho cô bé xem bức ảnh một tay “chính trị gia ích kỷ”. Người đàn ông có cái mũi to, để bộ râu đen rậm ấy khiến cô nghĩ đến chúa quỷ.
Ở “Tập Thể” không có ti vi, radio cũng chỉ được phép dùng trong những dịp đặc biệt. Báo và tạp chí cũng bị hạn chế. Những tin tức được cho là cần thiết sẽ được truyền đạt miệng ở Hội trường lúc ăn cơm tối. Mọi người hồi đáp lại mỗi tin tức nghe được bằng tiếng reo hò hoặc tiếng “hừ” hậm hực – tiếng “hừ” hậm hực có vẻ nhiều hơn gấp bội. Tất cả những gì cô từng nếm trải về truyền thông chỉ có thế thôi. Từ khi sinh ra cô chưa từng xem phim, cũng chưa bao giờ đọc truyện tranh. Chỉ có nhạc cổ điển là được phép nghe. Ở Hội trường có một bộ dàn âm thanh stereo và nhiều đĩa nhạc, chắc là nguyên một bộ sưu tập do ai đó mang đến. Những lúc rảnh, cô có thể đến đó nghe nhạc giao hưởng của Brahms, các bản piano của Schumann, nhạc dành cho đàn phím của Bach, hoặc âm nhạc tôn giáo. Đó là những phút giải trí quý giá của cô bé, cũng gần như là thú vui duy nhất của cô.
Nhưng rồi có một ngày cô bé bị xử phạt. Tuần đó, cô nhận nhiệm vụ chăm lo cho đàn dê nhỏ của “Tập Thể” vào mỗi sáng và mỗi tối, nhưng vì quá tải bài tập ở trường và công việc thường ngày khác nên một đêm nọ cô quên mất. Sáng sớm hôm sau, mọi người phát hiện ra con dê chột mắt già nhất đã chết, toàn thân lạnh cóng. Và cô bé phải nhận hình phạt, bị cách ly khỏi “Tập Thể” trong mười ngày.
Mọi người cho rằng con dê ấy có ý nghĩa đặc biệt, nhưng nó đã già lắm rồi. Có một thứ bệnh, tuy không ai biết là bệnh gì, đã bấu móng vuốt vào tấm thân già nua yếu ớt của nó, cho nên có người chăm sóc hay không thì cũng vậy, chẳng hy vọng gì con dê ấy khoẻ lại được. Sớm muộn gì nó cũng chết thôi. Nhưng hình phạt với cô bé không vì thế mà giảm nhẹ đi. Không chỉ vì cái chết của con dê, cô còn bị phạt vì lỗi lơ là nhiệm vụ được giao. Ở “Tập Thể”, cách ly là một trong những hình phạt nặng nhất.
Cùng với xác con dê, cô bé bị nhốt vào một căn nhà kho vừa cũ vừa nhỏ, bốn bức tường dày đắp bằng đất bùn. Căn nhà kho đất này được gọi là Phòng phản tỉnh. Những ai vi phạm quy định của “Tập Thể” đều được dành cho cơ hội phải tỉnh lại những sai lầm của mình ở đây. Trong thời gian chịu phạt, không ai nói chuyện với cô. Cô bé phải chịu đựng mười ngày hoàn toàn câm lặng. Một lượng nước và thức ăn tối thiểu được đưa tới, nhưng trong nhà kho vừa tối vừa lạnh, lại ẩm ướt nhớp nháp và ngập ngụa mùi toả ra từ xác con dê. Cửa bị khoá trái từ phía ngoài, cái bô vệ sinh đặt trong một góc nhà. Phía trên có một bức tường có khoét một cửa sổ nhỏ, ánh mặt trời hoặc ánh trăng từ đó chiếu vào. Nếu không có mây, cô còn có thể trông thấy vài ngôi sao. Ngoài ra không còn nguồn sáng nào nữa. Cô nằm trên tấm nệm trải trên sàn nhà bằng gỗ, quấn hai chiếc chăn len cũ kỹ, run rẩy qua đêm. Tuy đã là tháng Tư nhưng ban đêm trong núi vẫn rất lạnh. Khi màn đêm buông xuống, mắt con dê chết chớp chớp phát quang dưới ánh sao, khiến cô bé sợ, không thể nào ngủ được.
Đến đêm thứ ba, miệng con dê mở rộng. Cái miệng bị đẩy cho mở ra từ bên trong, và có những người nhỏ xíu lần lượt chui ra. Tổng cộng có sáu người. Lúc mới chui ra họ chỉ cao khoảng mười xăng ti mét. Nhưng vừa đặt chân xuống đất, họ liền như cây nấm mọc vọt lên sau cơn mưa, thoắt cái đã lớn lên. Nhưng rồi họ cũng chỉ cao khoảng sáu mươi xăng ti mét. Họ tự xưng là Người Tí Hon.
Giống kiểu “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”, cô bé nghĩ. Hồi nhỏ cô từng được cha đọc cho nghe chuyện này. Có điều thiếu mất một người.
“Nếu cô cảm thấy bảy người tốt hơn, chúng tôi có thể đến bảy người,” một Người Tí Hon giọng trầm trầm nói. Dường như họ có thể đọc được ý nghĩ của cô bé. Sau đó cô đếm lại thì thấy họ không phải sáu người nữa mà là bảy. Nhưng cô bé không cảm thấy chuyện này kỳ quái cho lắm. Khi Người Tí Hon chui từ trong miệng con dê ra, quy tắc của thế giới đã thay đổi rồi. Từ sau khoảnh khắc đó, mọi chuyện đều có thể xảy ra.
“Tại sao các người lại chui từ trong miệng con dê chết ra thế,” cô bé hỏi, đồng thời nhận ra giọng mình nghe lạ, kiểu nói chuyện cũng khác hẳn thường ngày. Chắc tại ba ngày liền không nói chuyện với ai nên mới thế.
“Bởi vì miệng dê biến thành đường hầm,” một Người Tí Hon giọng khàn khàn đáp. “Chúng tôi cũng vậy, mãi đến khi ra xong chúng tôi mới biết đó là một con dê chết.”
Một Người Tí Hon có giọng the thé nói: “Chúng tôi chẳng quan tâm. Dê, cá voi hay đậu Hà Lan cũng thế, chỉ cần là đường hầm là được rồi.”
“Cô đã tạo ra đường hầm ấy. Vì vậy chúng tôi thử một phen, xem nó thông đến đâu,” Người Tí Hon có giọng trầm trầm kia nói.
“Tôi đã tạo ra dường hầm ấy sao?” cô bé nói. Nghe vẫn không giống giọng của cô chút nào.
“Cô đã làm một việc tốt giúp chúng tôi,” một Người Tí Hon giọng rất nhẹ nói.
Mấy người còn lại lên tiếng biểu đồng tình.
“Chúng ta làm nhộng không khí chơi đi,” một Người Tí Hon có giọng nam cao đề nghị.
“Phải đó. Đằng nào cũng mất công đến đây rồi,” một người giọng nam trung nói.
“Nhộng không khí?” cô bé hỏi.
“Rút tơ từ trong không khí để làm nhà. Càng làm càng to,” Người Tí Hon có giọng thấp trầm nói.
“Làm nhà? Cho ai?” cô bé hỏi.
“Rồi cô sẽ thấy,” người có giọng nam trung nói.
“Đến lúc đó khắc biết,” người giọng trầm nói.
“Hô hô…” một Người Tí Hon khác hòa theo.
“Tôi giúp mọi người làm được không,” cô bé hỏi.
“Còn phải nói,” người giọng khàn khàn bảo.
“Cô đã giúp chúng tôi một chuyện tốt. Chúng ta cùng dệt thôi,” Người Tí Hon giọng nam cao nói.
Khi đã quen rồi thì rút tơ từ trong không khí không phải chuyện khó lắm đối với cô bé. Cô vốn khéo tay nên thoáng cái đã nắm bắt được kỹ xảo một cách thành thục. Nhìn thật kỹ sẽ thấy trong không khí nổi trôi các loại tơ đủ màu sắc và hình dáng. Chỉ cần muốn thấy thì tự nhiên sẽ thấy.
“Đúng đúng, chính thế đấy. Làm vậy là được,” Người Tí Hon có giọng rất nhẹ nói.
“Cô rất thông minh. Học rất nhanh,” người giọng the thé lên tiếng.
Bọn họ mặc quần áo giống hệt nhau, gương mặt cũng như đúc từ một khuôn ra, chỉ có giọng nói là khác biệt rõ rệt.
Quần áo những Người Tí Hon này mặc là những thứ hết sức bình thường có thể thấy ở bất cứ đâu. Nói thì nghe kỳ quặc, nhưng không còn cách nào khác để mô tả. Một khi đã rời mắt đi chỗ khác, ta liền không thể nào nhớ nổi họ mặc quần áo gì. Gương mặt họ cũng vậy. Không xấu cũng không đẹp, là những bộ mặt có thể gặp ở bất cứ đâu. Một khi đã chuyển ánh mắt ra nơi khác, ta sẽ không thể nào nhớ nổi bộ mặt họ như thế nào. Đầu tóc cũng vậy, không dài cũng không ngắn, chỉ là tóc. Vả lại, bọn họ còn không có mùi nữa.
Khi bình minh đến, gà trống gáy vang, bầu trời phía Đông bắt đầu rạng lên, bảy Người Tí Hon dừng công việc lại, vươn vai vặn mình. Sau đó, họ giấu cái nhộng không khí màu trắng mới hoàn thành một nửa, to bằng con thỏ con vào trong góc nhà kho. Chắc là để người đưa cơm đến không trông thấy.
“Sáng rồi,” Người Tí Hon giọng rất nhẹ lên tiếng.
“Đã qua một đêm,” người giọng trầm thấp nói.
Cô bé nghĩ, họ có đủ loại giọng, vậy thì tổ chức luôn một đội hợp xướng cho rồi. “
“Chúng tôi không có bài hát nào cả,” Người Tí Hon giọng nam cao nói.
“Hô hô…” Người Tí Hon phụ trách bè kêu lên.
“Cũng như lúc đến, những Người Tí Hon thu nhỏ người lại đến khi chỉ còn cao khoảng mười xăng ti mét, xếp hàng chui vào trong miệng con dê chết.
“Đêm nay chúng tôi lại đến,” trước khi miệng con dê chết ngậm lại, Người Tí Hon giọng rất nhẹ ở bên trong nói với ra với cô bé. “Không được kể về chúng tôi với ai đâu nhé.”
“Nếu cô kể cho người khác biết về chúng tôi thì sẽ có chuyện rất tệ xảy ra,” người có giọng khàn dặn dò thêm một câu.
“Hô hô…” Người Tí Hon phụ trách bè kêu lên.
“Tôi không nói với ai đâu,” cô bé nói.
Dù mình có kể thì cũng chẳng ai tin. Cô bé từng nhiều lần bị người lớn xung quanh trách mắng vì tội nói ra suy nghĩ của mình. Họ thường bảo cô không biết phân biệt giữa hiện thực và tưởng tượng. Hình dạng và màu sắc của tư tưởng cô dường như rất khác những người còn lại. Cô bé không hiểu mình có gì không đúng. Nhưng dù gì đi nữa, chuyện về Người Tí Hon tốt nhất là không nên kể với ai.
Sau khi Người Tí Hon biến mất và con dê khép miệng lại, cô bé tìm kiếm một hồi lâu ở chỗ họ giấu cái nhộng không khí song không sao tìm được. Họ đã giấu rất khéo. Không gian chật hẹp như vậy thế mà cô không thể nào tìm được. Họ có thể giấu vào đâu nhỉ?
Sau đó, cô bé cuốn người vào trong chăn và ngủ thiếp đi. Đã lâu lắm rồi cô không có giấc ngủ nào yên bình như vậy: không nằm mơ, không tỉnh giấc giữa chừng. Cô ngủ ngon đến lạ.
Cả ngày con dê chết vẫn đờ ra đó, thân thể cứng ngắc, con mắt đục ngầu trông như quả cầu thuỷ tinh. Nhưng mặt trời vừa lặn, bóng đêm phủ xuống gian nhà kho bằng đất, mắt nó liền lấp lánh phát sáng dưới ánh sao. Dường như ánh sáng ấy điều khiển cho miệng con dê mở lớn, rồi Người Tí Hon từ bên trong chui ra. Lần này ngay từ đầu đã có bảy người.
“Chúng ta tiếp tục việc hôm qua thôi,” Người Tí Hon giọng khàn khàn nói.
Sáu người kia lên tiếng tán đồng, mỗi người theo một cách riêng.
Bảy Người Tí Hon và cô bé ngồi quanh nhộng không khí, bắt tay làm tiếp công việc, rút những sợi tơ trắng trong không khí, quấn thêm vào kén nhộng. Họ hầu như không nói chuyện, chỉ lẳng lặng tập trung làm. Lúc chuyên tâm vào đôi tay không ngừng chuyển động, cô bé không còn cảm thấy hơi lạnh của đêm. Cô hầu như không cảm nhận được thời gian trôi đi, không thấy chán hay buồn ngủ. Kén nhộng cứ thế to dần lên, chậm chạp, nhưng có thể nhận ra bằng mắt thường.
“Càng lớn càng hay,” Người Tí Hon giọng the thé đáp.
“Đến một cỡ nhất định nó sẽ tự vỡ ra,” người có giọng nam cao vui vẻ nó.
“Và sẽ có thứ gì đó chui ra,” giọng nam trung mạnh mẽ vang lên
“Thứ gì?” cô bé hỏi.
“Cái gì sẽ chui ra?” Người Tí Hon giọng nhỏ nhẹ nói.
“Cứ chờ sẽ biết,” Người Tí Hon giọng trầm thấp nói.
“Hô hô…” Người Tí Hon phụ trách bè kêu lên.
“Hô hô…” sáu Người Tí Hon còn lại đồng thanh phụ họa.
Văn phong của cuốn tiểu thuyết toát lên một cảm giác tăm tối kỳ dị mà rất đặc biệt. Aomame khẽ nhíu mày lại khi phát hiện ra đặc điểm ấy. Đây là một câu chuyện giàu màu sắc mộng ảo, như truyện cổ tích, nhưng sâu bên dưới nó có một dòng chảy ngầm mạnh mẽ mắt thường khó có thể nhận ra. Từ trong những câu chữ ngắn gọn mộc mạc, Aomame có thể nghe ra dư âm chẳng lành của dòng chảy ấy. ̉n chứa trong đó là sự u ám báo hiệu rằng bệnh tật sắp đến, một thứ bệnh chết người lặng lẽ đục ruỗng tinh thần con người từ bên trong. Và kẻ mang thứ bệnh tật này đến chính là bảy Người Tí Hon như một đội hợp xướng kia. Đích thực có cái gì không lành mạnh ở đây, Aomame nghĩ. mặc dù vậy, trong giọng nói của họ Aomame vẫn nghe ra thứ gì đó rất gần với mình, thân thuộc đến mức gần như là số mệnh.
Aomame ngẩng đầu lên khỏi sách, nhớ lại những gì Lãnh Tụ nói về Người Tí Hon trước lúc chết.
“Từ thời viễn cổ, chúng ta đã luôn sống chung với họ rồi. Từ thuở thiện và ác vẫn còn chưa tồn tại, từ thuở ý thức của con người vẫn còn ở trong bóng tối.”
Nàng tiếp tục đọc sách.
Người Tí Hon và cô bé tiếp tục làm việc, mấy ngày sau nhộng không khí đã lớn bằng một con chó to.
“Ngày mai là hình phạt kết thúc, tôi sẽ phải ra khỏi đây,” lúc trời sắp sáng, cô bé nói với Người Tí Hon.
Bảy Người Tí Hon im lặng nghe cô nói.
“Vì vậy tôi không thể cùng làm nhộng không khí với các bạn nữa rồi.”
“Tiếc quá,” Người Tí Hon giọng nam cao nói, với vẻ hết sức tiếc nuối.
“Cô giúp được chúng tôi bao nhiêu là việc,” người giọng nam trung lên tiếng.
Người Tí Hon giọng the thé nói: “Nhưng nhộng cũng sắp làm xong rồi. Chỉ thêm một chút xíu nữa là đủ.”
Người Tí Hon xếp thành hàng, nhìn chằm chằm vào cái nhộng không khí đã làm trong nhiều ngày, như thể đang đo kích cỡ của nó.
“Còn thiếu một chút nữa thôi,” Người Tí Hon giọng khàn khàn nói, như đang lĩnh xướng một nhịp đơn của dân chài.
“Hô hô…” Người Tí Hon phụ trách bè kêu lên.
“Hô hô…” sáu người còn lại phụ hoạ theo.
Mười ngày phạt cách ly kết thúc, cô bé trở lại “Tập Thể”, trở lại cuộc sống chung đầy những quy định và luật lệ, không có thời gian ở riêng một mình. Dĩ nhiên, cô không thể cùng Người Tí Hon làm nhộng không khí được nữa. Mỗi tối trước khi đi ngủ, cô đều tưởng tượng ra bảy Người Tí Hon đang ngồi quanh nhộng không khí, không ngừng làm cho nó lớn dần lên. Cô không thể nghĩ về chuyện gì khác nữa. Thậm chí cô còn cảm giác cái nhộng không khí ấy đã thực sự chui vào trong đầu mình.
Bên trong nhộng không khí rốt cuộc là thứ gì nhỉ? Khi thời điểm đến, nhộng không khí vỡ tung ra, sẽ có thứ gì xuất hiện? Cô bé rất muốn biết. Cô cảm thấy vô cùng tiếc nuối vì không được tận mắt chứng kiến cảnh tượng ấy. Mình đã tốn bao nhiêu công sức để giúp họ làm nhộng không khí, lẽ ra mình phải được chứng kiến cảnh tượng đó chứ. Thậm chí cô còn nghiêm túc nghĩ xem có nên phạm lỗi lầm gì đó để lại bị phạt cách ly, bị nhốt vào trong nhà kho đất hay không. Nhưng cho dù cô làm thế, Người Tí Hon cũng không thể nào xuất hiện trở lại trong gian nhà kho ấy nữa. Con dê chết đã bị đưa đi rồi, không rõ chôn ở nơi nào. Mắt nó không còn lấp lánh phát sáng dưới ánh sao nữa.
Sau đó câu chuyện chuyển sang miêu tả cuộc sống thường nhật của cô bé trong cộng đồng. Lịch hàng ngày được quy định, những công việc được quy định. Là đứa trẻ lớn nhất, cô phải trông coi lũ trẻ bé hơn, chăm sóc chúng. Những bữa ăn đạm bạc. Những câu chuyện cha mẹ đọc cho cô nghe trước khi đi ngủ. Những khúc nhạc cổ điển cô nghe mỗi khi có thời gian rỗi. Một cuộc sống không “ô nhiễm”.
Người Tí Hon ghé thăm cô trong mơ. Bọn họ có thể chui vào giấc mơ của người khác bất cứ lúc nào mình thích. “Nhộng không khí sắp vỡ ra rồi, có đến xem không?” họ mời cô bé. “Sau khi trời tối, đừng để ai trông thấy, mang theo một cây nến đi tới nhà kho.”
Cô bé không sao nén nổi tò mò. Cô lẻn xuống giường, lấy cây nến đã chuẩn bị sẵn, rón ra rón rén đi đến nhà kho. Không có ai ở đó, chỉ có cái nhộng không khí nằm lặng lẽ dưới đất. Nó đã to gấp đôi khi cô trông thấy lần trước, dài khoảng mét ba mét tư. Toàn thân nó phát sáng dìu dịu, đường viền tạo thành một đường cong tuyệt đẹp, chính giữa có một chỗ hơi thắt lại giống như eo lưng người, lúc nó đương nhỏ thì hãy còn chưa có cái này. Có vẻ như Người Tí Hon đã làm việc rất vất vả. Nhộng không khí đã bắt đầu rạn vỡ, một vệt nứt dài chạy dọc theo thân. Cô bé khom người, ghé mắt nhìn qua đó.
Cô nhận ra, bên trong cái nhộng là chính mình. Cô nhìn chằm chằm vào thân thể trần truồng nằm bên trong cái nhộng. Phân thân của cô nằm ngửa, mắt nhắm, dường như không có ý thức, cũng không thở, như con búp bê.
“Ở trong đó là Tử thể của cô,” Người Tí Hon giọng khàn khàn nói, đoạn đằng hắng một tiếng.
Cô ngoảnh đầu lại thì thấy bảy Người Tí Hon đã đứng xếp thành hình rẻ quạt sau lưng cô không biết từ lúc nào.
“Tử thể,” cô bé lặp lại một cách vô thức.
“Còn cô được gọi là Mẫu thể,” người có giọng thấp trầm nói.
“Mẫu thể và Tử thể,” cô bé lặp lại.
“Tử thể đảm nhiệm vai trò người đại diện cho Mẫu thể,” Người Tí Hon có giọng the thé lên tiếng.
“Tôi tách ra làm hai người à?” cô bé hỏi.
“Không phải,” người giọng nam trung nói. “Không phải cô tách ra làm hai người. Từ đầu đến chân cô vẫn là cô. Không cần lo lắng. Tử thể chỉ là cái bóng của tâm linh Mẫu thể, chẳng qua là nó có hình dạng cụ thể thôi.”
“Bao giờ thì người này tỉnh lại thế?”
“Ngay thôi. Khi đến lúc,” người giọng nam trung nói.
“Tử thể là cái bóng của tâm linh tôi, vậy người này sẽ làm gì?” cô bé hỏi.
“Làm Người cảm tri,” Người Tí Hon có giọng rất nhẹ nói.
“Người cảm tri,” cô bé lặp lại.
“Tức là người truyền đạt lại những thứ mình cảm tri được cho người tiếp thụ,” người giọng the thé nói.
“Tức là, Tử thể trở thành đường hầm của chúng tôi,” Người Tí Hon giọng nam trung tiếp lời.
“Thay thế dê à?” cô bé hỏi.
“Con dê chết chỉ là đường hầm tạm thời thôi,” người giọng trầm nói. “Muốn nối liền nơi chúng tôi sống với nơi này, cần phải có một Tử thể sống làm người cảm tri.”
“Thế Mẫu thể thì làm gì?” cô bé hỏi tiếp.
“Mẫu thể ở bên cạnh Tử thể,” người giọng the thé nói.
“Tử thể bao giờ tỉnh dậy?” cô bé hỏi.
“Hai ngày nữa. Nếu không thì ba ngày nữa,” người giọng nam cao đáp.
“Một trong hai khả năng ấy,” người giọng rất nhẹ nói.
“Cô phải trông nom Tử thể cho tốt,” người giọng nam trung nói, “Vì đó là Tử thể của cô.”
“Không có Mẫu thể trông nom, Tử thể sẽ không thể hoàn thành, khó mà sống lâu được,” người giọng the thé nói thêm.
“Đánh mất Tử thể, Mẫu thể sẽ mất đi cái bóng của tâm linh mình,” người giọng nam trung tiếp lời.
“Mẫu thể mất đi cái bóng của tâm linh mình thì sẽ thế nào?”
Cô bé hỏi.
Bọn họ đưa mắt nhìn nhau. Không ai trả lời câu hỏi này.
“Khi Tử thể tỉnh giấc, mặt trăng trên trời sẽ biến thành hai,” người giọng khàn nói.
“Hai mặt trăng sẽ hắt ra cái bóng của tâm linh Mẫu thể,” người có giọng nam trung nói.
“Mặt trăng sẽ biến thành hai,” cô bé lặp lại như cái máy.
“Đó chính là dấu hiệu. Cô phải chú ý nhìn lên trời,” người giọng rất nhẹ khẽ khàng nói. “Chú ý nhìn lên trời,” người đó dặn dò thêm một lần nữa. “Đếm xem có mấy mặt trăng.”
“Hô hô…” người phụ trách bè kêu lên.
“Hô hô…” sáu người còn lại phụ họa theo.
Cô bé vùng chạy trốn.
Có thứ gì đó lệch lạc, thứ gì đó không đúng, thứ gì đó bị vặn vẹo một cách nghiêm trọng ở đây. Có thứ gì đó trái với tự nhiên. Cô bé hiểu điều ấy. Cô không biết Người Tí Hon muốn gì, nhưng hình ảnh chính mình bên trong nhộng không khí khiến cô run lên. Cô không thể sống chung với một phân thân sống sờ sờ của mình được. Cần phải chạy trốn khỏi nơi này, càng nhanh càng tốt. Tranh thủ lúc Tử thể vẫn chưa thức tỉnh, tranh thủ khi mặt trăng trên trời vẫn chưa biến thành hai.
Trong “Tập Thể” người ta cấm ngặt cá nhân mang tiền mặt. Nhưng cha cô đã lén đưa cho cô một tờ giấy bạc mười nghìn yên và một ít tiền lẻ. “Cất kỹ đi, đừng để người khác thấy,” ông nói với cô. Ông cũng đưa cô một tờ giấy có ghi tên họ, địa chỉ và số điện thoại của ai đó. “Ngộ nhỡ có lúc nào con phải trốn khỏi nơi này thì hãy dùng tiền ấy để mua vé, lên xe lửa đến chỗ ghi trên tờ giấy này.”
Hẳn là cha cô dự cảm được trong tương lai có thể sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra ở “Tập Thể”. Cô bé không do dự. Cô hành động rất nhanh, không có cả thời gian để tạm biệt cha mẹ.
Cô bé lấy tờ giấy bạc mười nghìn yên, tiền lẻ và mảnh giấy cất trong chiếc bình chôn dưới đất. Vào giờ học ở trường, cô lấy cớ không được khoẻ, xin xuống phòng y tế để ra khỏi lớp rồi trốn ra ngoài. Cô bắt xe buýt ra ga xe lửa, đưa tờ giấy bạc mười nghìn yên cho người bán vé, mua một vé đi Takao, nhận lại tiền lẻ. Mua vé, nhận tiền thừa, ngồi xe lửa, tất cả đều là lần đầu tiên trong đời cô. Nhưng cha cô đã hướng dẫn rất chi tiết, và cô đã ghi rõ trong óc cần phải hành động như thế nào.
Theo chỉ dẫn trên mảnh giấy, cô xuống xe lửa ở trạm Takao trên tuyến Chuo, dùng điện thoại công cộng gọi đến số máy mà cha cô đưa cho. Người bắt máy là bạn cũ của cha cô, một hoạ sĩ chuyên vẽ tranh truyền thống Nhật Bản, lớn hơn cha cô mười tuổi. Ông sống với con gái ở gần núi Takao. Vợ ông mới mất không lâu. Con gái ông tên là Kurumi, lớn hơn cô bé một tuổi. Vừa nhận điện thoại, ông liền lập tức đến ga xe lửa, nhiệt tình đón tiếp cô bé mới chạy trốn khỏi “Tập Thể” mà đưa về nhà mình.
Ngày thứ hai sau khi được người hoạ sĩ thu dưỡng, cô bé ngước mắt nhìn lên bầu trời qua cửa sổ phòng, phát hiện đã có hai mặt trăng. Bên cạnh vầng trăng bình thường kia có một vầng trăng khác nhỏ hơn một chút, treo lơ lửng đó như một hạt đậu xanh khô hơi quắc. Tử thể của mình đã thức tỉnh rồi, cô bé nghĩ. Hai mặt trăng sẽ hắt ra cái bóng của tâm linh mình. Tim cô bé run lên. Thế giới đã thay đổi. Và có chuyện gì đó sắp xảy ra.
Cô bé không có tin tức gì từ cha mẹ. Ở “Tập Thể” có lẽ mọi người không chú ý đến chuyện cô bỏ trốn. Vì phân thân của cô bé… Tử thể vẫn còn ở đó. Bề ngoài hai người giống hệt nhau, người bình thường không thể nào phân biệt nổi. Nhưng cha mẹ cô thì chắc chắn biết, Tử thể không phải là cô bé mà chỉ là phân thân của cô. Họ hiểu đó là thế thân của cô, còn con gái họ đã chạy trốn khỏi cộng đồng “Tập Thể”. Cô bé chỉ có một nơi duy nhất để đi. Nhưng cha mẹ cô không hề liên lạc, dù chỉ một lần. Đây có lẽ chính là thông điệp không lời họ gửi đến cô: chạy trốn đi, đừng trở về.
Cô bé đi học không đều, hôm có hôm không. Thế giới bên ngoài và bên trong “Tập Thể” nơi cô lớn lên khác nhau quá nhiều. Quy tắc bất đồng, mục đích bất đồng, ngôn ngữ sử dụng cũng không giống nhau. Bởi vậy cô không thể kết bạn, cũng không thể quen với cuộc sống trong trường học.
Tuy vậy, hồi học trung học cô đã rất thân với một cậu bạn. Cậu ta tên là Toru. Toru vừa nhỏ vừa gầy gò, mặt có mấy nếp nhăn rất sâu, trông như con khỉ. Hình như hồi nhỏ cậu ta từng bị bệnh gì đó rất nặng nên không thể tham gia các hoạt động mạnh. Xương sống của cậu ta cũng hơi gù. Những lúc nghỉ giữa giờ, Toru luôn tránh xa các bạn cùng lớp, ngồi đọc sách một mình. Cậu ta cũng không có bạn, giống cô bé. Cậu quá nhỏ, quá xấu xí. Trong một lần nghỉ trưa, cô bé ngồi cạnh Toru, bắt chuyện. Cô hỏi về cuốn sách cậu ta đang đọc. Toru liền đọc thành tiếng cuốn sách trên tay cho cô nghe. Cô bé thích chất giọng của cậu. Nhỏ, khàn khàn, nhưng cô nghe rất rõ. Câu chuyện được kể bằng chất giọng ấy khiến cô mê mẩn. Toru đọc những đoạn văn xuôi đẹp đến mức nghe như thể cậu đang ngâm thơ. Từ đó, giờ nghỉ trưa nào cô cũng ngồi với cậu ta, lặng lẽ chăm chú nghe cậu đọc sách.
Nhưng không lâu sau đó cô để mất Toru. Người Tí Hon đã cướp mất cậu khỏi cô.
Một đêm nọ, trong phòng Toru xuất hiện một cái nhộng không khí. Hằng đêm, trong lúc Toru đang say ngủ, Người Tí Hon làm nó mỗi ngày một lớn lên. Đêm nào họ cũng cho cô bé xem cảnh tượng này trong mơ. Cô không thể nào ngăn cản hành động của họ. Và khi nhộng không khí đủ lớn, nó nứt toác ra theo chiều dọc, giống như cô bé đã thấy lần trước. Có điều, bên trong cái nhộng không khí này là ba con rắn đen lớn. Ba con rắn này quấn chặt vào nhau, chặt đến nỗi không ai, có lẽ ngay cả bản thân chúng, có thể tách chúng ra được. Trông chúng như con quái vật ba đầu, trơn nhầy dính nhớp, vĩnh viễn xoắn xuyết lại. Vì không được tự do, lũ rắn hết sức tức tối. Chúng ra sức vùng vẫy, cố thoát khỏi nhau, nhưng càng cùng vẫy lại càng xoắn chặt. Người Tí Hon cho cô bé thấy sinh vật này. Còn cậu bé Toru thì hoàn toàn không hay biết, vẫn ngủ bên cạnh chúng. Chỉ mình cô bé nhìn thấy được toàn bộ cảnh tượng này.
Mấy ngày sau, cậu bé Toru đột nhiên trở bệnh, bị đưa đến một cơ sở trị liệu ở rất xa. Không ai nói cậu bị bệnh gì. Tóm lại chắc chắn Toru sẽ không trở lại trường học nữa. Cô đã đánh mất cậu.
Cô bé nhận ra đây là thông điệp từ những Người Tí Hon kia. Có vẻ như họ không thể trực tiếp ra tay với Mẫu thể là cô, song lại có thể gây hại hoặc thậm chí hủy diệt những người xung quanh cô. Nhưng họ không thể làm vậy với bất kỳ ai. Bằng chứng là họ không thể làm gì được người giám hộ cô, hoạ sĩ chuyên vẽ tranh truyền thống Nhật Bản hay cô con gái Kurumi của ông. Thay vào đó họ chọn người yếu nhất làm vật hy sinh, dẫn dụ ra ba con rắn từ trong ý thức của Toru, đánh thức chúng khỏi giấc ngủ say. Thông qua việc hủy diệt cậu bé, Người Tí Hon đưa ra lời cảnh cáo với cô bé, cố tìm cách đưa cô về bên cạnh Tử thể của cô. “Sự việc đến nông nỗi này là lỗi ở cô,” họ nói với cô bé như vậy.
Cô bé lại trở nên cô độc. Cô không di học nữa. Quen thân với ai là cô sẽ mang nguy hiểm đến cho người đó. Cô hiểu, đây chính là ý nghĩa của cuộc sống dưới hai mặt trăng.
Cuối cùng, cô hạ quyết tâm, bắt đầu tự tạo ra nhộng không khí của riêng mình. Cô có thể làm được. Người Tí Hon nói, họ đã đi theo đường hầm, từ chỗ của họ đến thế giới này. Nếu vậy, cô cũng có thể thông qua đường hầm đi ngược lại, đến chỗ của họ. Đến được đó rồi, chắc hẳn cô sẽ giải được điều bí mật, làm rõ tại sao mình lại ở đây, Mẫu thể và Tử thể có ý nghĩa gì. Biết đâu cô còn có thể giải cứu Toru nữa. Cô bé bắt đầu chế tác đường hầm. Chỉ cần rút những sợi tơ trong không khí dệt thành kén nhộng là xong. Rất mất thời gian, nhưng chỉ cần có đủ thời gian là cô có thể làm được.
Thế nhưng, nhiều lúc cô vẫn thấy hoang mang. Nỗi hoang mang ập đến chiếm lĩnh tâm trí cô. Mình thực sự là Mẫu thể ư? Liệu mình có đã đổi chỗ cho Tử thể của mình ở đâu đó không? Càng nghĩ ngợi, cô lại càng hoang mang. Làm cách nào để chứng minh mình là chính mình đây?
Câu chuyện kết thúc theo lối tượng trưng khi cô bé sắp sửa mở cửa đường hầm của chính mình ra. Câu chuyện không nói chuyện gì sẽ xảy ra đằng sau cánh cửa. Có lẽ vì chưa xảy ra.
Tử thể, Aomame nghĩ. Trước khi chết Lãnh Tụ đã nhắc đến từ này. Ông ta nói, để tạo lập lực lượng chống lại Người Tí Hon, con gái ông ta đã chạy trốn, bỏ lại Tử thể của mình. Chuyện này có lẽ đã thực sự xảy ra. Và người nhìn thấy hai mặt trăng không phải chỉ có mình nàng.
Dẫu vậy, Aomame cảm thấy dường như nàng hiểu được lý do tại sao cuốn tiểu thuyết này được công chúng nhiệt tình đón nhận. Đương nhiên, chuyện tác giả là một thiếu nữ mười bảy tuổi xinh đẹp hẳn cũng có ảnh hưởng ở mức độ nào đó. Nhưng chỉ vậy thôi thì không thể nào có một cuốn sách bán chạy. Không phải nghi ngờ gì, những miêu tả sinh động và chuẩn xác đã tạo ra sức hấp dẫn của cuốn sách. Tuy rằng câu chuyện miêu tả những trải nghiệm phi hiện thực của một cô bé sống trong môi trường khác thường, song nó cũng ẩn chứa thứ gì đó khơi gọi sự đồng cảm tự nhiên của mọi người. Có lẽ nó đã đánh thức thứ gì đó trong tiềm thức độc giả, khiến họ cứ thế mà đọc cuốn sách một mạng từ đầu đến cuối.
Chất lượng nghệ thuật của cuốn sách có lẽ quá nửa là nhờ công của Tengo, nhưng Aomame không thể chỉ ngợi khen có mỗi chuyện ấy. Nàng cần tập trung sự chú ý vào phần Người Tí Hon xuất hiện, đọc lại thật kỹ. Đối với nàng, đây là một câu chuyện cực kỳ hiện thực – như một cuốn hướng dẫn sử dụng vậy – có can hệ đến sự sống chết của những con người có thật. Nàng cần phải chắt lọc ra những tri thức và bí quyết từ trong đó, cần phải cố gắng lĩnh hội một cách cụ thể kỹ càng ý nghĩa của việc mình bị cuốn vào thế giới này.
Nhộng không khí không phải là một tiểu thuyết kỳ ảo do một thiếu nữ mười bảy tuổi hư cấu ra như mọi người vẫn nghĩ. Tuy rằng tên tuổi đã bị thay đổi, song những sự vật miêu tả trong đó quá nửa là trải nghiệm của bản thân cô bé, xảy ra trong thế giới hiện thực… Aomame tin chắc như thế. Fukaeri đã cố gắng ghi lại càng chuẩn xác càng tốt những gì mình đã trải qua, để công khai với thế giới những bí mật bị ẩn giấu trong đó, để mọi người biết đến sự tồn tại của Người Tí Hon và những hành vi của họ.
Tử thể mà cô bé từ bỏ có lẽ đã trở thành đường hầm của Người Tí Hon dẫn họ đến với Lãnh Tụ, cũng chính là cha cô bé, khiến người này trở thành Người Tiếp thụ. Sau đó, ho đẩy những thành viên của Akebono, khi ấy đã trở nên vô dụng với họ, vào một cuộc tự sát đẫm máu, đồng thời biến phần còn lại là Sakigake thành một đoàn thể tôn giáo ranh ma, quân phiệt và có tính bài ngoại rất cao. Đối với Người Tí Hon, đây có lẽ là môi trường thích hợp nhất cho sự tồn tại của họ.
Aomame tự hỏi, Tử thể của Fukaeri khi không có Mẫu thể ở bên cạnh thì có thể sống được lâu không. Người Tí Hon từng nói, không có Mẫu thể, Tử thể muốn sống được một thời gian dài là điều cực kì khó khăn. Còn Mẫu thể, sống mà mất đi cái bóng của tâm linh mình thì sẽ ra sao?
Sau khi cô bé bỏ trốn, Người Tí Hon có lẽ đã áp dụng trình tự đó để tạo thêm mấy Tử thể khác nữa. Mục đích của họ hẳn là để khiến đường hầm của mình thêm rộng rãi và ổn định, kiểu như mở thêm làn xe cho tuyến đường cao tốc vậy. Cứ thế, có mấy Tử thể đã trở thành Người cảm tri của Người Tí Hon, và đóng vai trò như nữ tư tế ở Sakigake. Tsubasa là một trong số đó. Nếu Lãnh Tụ quan hệ tình dục không phải với thực thể của các thiếu nữa (Mẫu thể) mà với phân thân của họ (Tử thể) thì có thể lý giải được cách diễn đạt “giao hợp một cách đa nghĩa” của ông ta. Đồng thời nó cũng giải thích được ánh mắt Tsubasa, đờ đẫn, không có chiều sâu, giải thích tại sao cô bé hầu như không bao giờ nói chuyện. Aomame không rõ tại sao và bằng cách nào Tử thể của Tsubasa có thể đào thoát khỏi giáo đoàn. Nhưng hẳn cô bé đã bị nhét vào một cái nhộng không khí và “thu hồi về” bên cạnh Mẫu thể của mình rồi. Con chó bị sát hại đẫm máu chính là lời cảnh cáo của Người Tí Hon, giống như trường hợp Toru trong câu chuyện.
Các Tử thể muốn mang thai đứa con của Lãnh Tụ, nhưng những cô gái không phải thực thể ấy không có kinh nguyệt. Mặc dù thế, theo lời Lãnh Tụ, bọn họ vẫn vô cùng mong mỏi có thai. Tại sao?
Aomame lắc đầu. Vẫn còn quá nhiều điều khó hiểu.
Aomame rất muốn lập tức kể chuyện này với bà chủ. Người đàn ông đó rất có thể chỉ cưỡng hiếp cái bóng của các cô bé. Rất có thể chúng ta không cần phải giết chết ông ta.
Thế nhưng, chuyện này e rằng có giải thích thế nào cũng rất khó khiến người khác tin được. Aomame có thể lý giải được tâm trạng ấy. Bà chủ, không, chỉ cần là người đầu óc bình thường, bất kể là ai, cũng khó lòng ngay lập tức chấp nhận những thứ kiểu như Người Tí Hon. Mẫu thể, Tử thể, nhộng không khí đều là sự thật. Với những người đầu óc bình thường, đó chỉ là những thứ bịa tạc trong tiểu thuyết. Cũng như họ không thể tin bà hoàng hậu và con thỏ mang đồng hồ trong Alice ở xứ thần tiên thực sự tồn tại trên đời vậy.
Nhưng Aomame đã tận mắt trông thấy hai mặt trăng – mới và cũ – treo trên bầu trời trong thế giới hiện thực. Nàng thực sự đang sống dưới ánh sáng của hai mặt trăng, đồng thời cảm nhận được rõ rệt sức hút xiên vẹo ấy tác động lên cơ thể mình. Và trong gian phòng khách sạn tối tăm, nàng đã giết chết người gọi là Lãnh Tụ ấy bằng chính đôi tay mình.
Như vậy, thực chất Người Tí Hon đã khống chế cộng đồng Sakigake, Aomame không biết mục đích cuối cùng của họ khi làm vậy là gì. Có lẽ họ muốn thứ gì đó vượt trên cả thiện lẫn ác. Nhưng cô bé kia, nhân vật chính của Nhộng không khí đã nhận thức được bằng trực giác rằng thứ đó không đúng và cố gắng phản kích lại bằng cách của mình. Cô bỏ lại Tử thể của mình, chạy trốn khỏi cộng đồng. Theo cách nói của Lãnh Tụ, cô đã tìm cách phát động cuộc đấu tranh chống lại Người Tí Hon, để duy trì sự cân bằng cho thế giới. Cô lần ngược theo đường hầm của Người Tí Hon, tìm cách xâm nhập địa bàn của họ. Câu chuyện của cô chính là phương tiện giao thông của cô, còn Tengo thì trở thành người cộng tác, giúp cô viết ra câu chuyện ấy. Lúc đó chắc Tengo không hiểu được ý nghĩa của việc mình làm, thậm chí đến giờ anh cũng vẫn chưa hiểu được.
Nói tóm lại, cuốn sách Nhộng không khí là một đầu mối rất quan trọng.
Mọi sự đều bắt nguồn từ câu chuyện này.
Thế nhưng, rốt cuộc mình đóng vai trò gì trong đó?
Từ khoảnh khắc nghe bản Sinfonietta của Janáček và leo xuống cầu thang thoát hiểm trên đường cao tốc Thủ đô đang tắc nghẽn, mình liền bị lôi vào thế giới có hai mặt trăng treo trên bầu trời, vào năm 1Q84 đầy những câu đố này. Điều đó có ý nghĩa gì?
Nàng nhắm mắt lại, trầm tư.
Có lẽ mình đã bị kéo vào đường hầm trong cuộc đấu tranh chống lại Người Tí Hon do Fukaeri và Tengo dựng nên. Chính cuộc đấu tranh ấy đã đưa mình đến phía bên này. Aomame nghĩ. Còn có lời giải thích nào khác nữa? Và mình đảm nhiệm một vai trò không thể coi là nhỏ trong câu chuyện này. Không, thậm chí có thể nói mình là một trong những nhân vật trung tâm
Aomame đưa mắt nhìn xung quanh. Vậy có nghĩa là, mình đang ở trong câu chuyện mà Tengo viết ra. Ở một tầng nghĩa nào đó, mình đang ở bên trong anh ấy, nàng nhận ra như vậy. Có thể nói, mình đang ở trong thần điện đó.
Trước đây mình từng xem một bộ phim khoa học viễn tưởng cũ trên ti vi, nhan đề gì mình quên mất rồi. Chuyện kể về một nhóm nhà khoa học tự thu nhỏ mình đến mức chỉ có thể quan sát thấy dưới kính hiển vi, ngồi trong một thiết bị giống như tàu ngầm (cũng được thu nhỏ lại), chui vào mạch máu của người bệnh, men theo mạch máu tiến vào não bộ để thực hiện một cuộc phẫu thuật không thể thực hiện trong hoàn cảnh thông thường. Tình hình của mình lúc này có lẽ cũng hơi giống như thế. Mình đang ở trong máu của Tengo, tuần hoàn bên trong cơ thể anh ấy. Mình vừa ác chiến với những bạch huyết cầu đang ập đến tấn công hòng loại trừ dị vật xâm nhập (chính là mình) đang lao đến mục tiêu: mầm bệnh. Và khi giết chết Lãnh Tụ trong phòng suite của khách sạn Okura, hẳn là mình đã “loại trừ” thành công mầm bệnh ấy.
Ý nghĩ đó là Aomame ít nhiều cảm thấy ấm lòng. Mình đã hoàn thành sứ mệnh được giao. Không nghi ngờ gì nữa, đây là một sứ mệnh khó khăn tột cùng, khiến mình phải hoảng hồn một phen. Nhưng mình đã bình tĩnh hoàn thành công việc một cách hoàn mỹ trong tiếng sấm ầm ầm… có lẽ Tengo cũng đang quan sát cảnh ấy. Nàng lấy làm tự hào vì việc mình đã làm.
Nếu tiếp tục mượn hình ảnh máu để so sánh, mình là một phế vật đã hoàn thành sứ mệnh, không lâu sau sẽ bị thu hồi về tĩnh mạch rồi nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cơ thể. Đây là quy tắc của hệ thống cơ thể con người. Không có cách nào thoát khỏi số mệnh ấy. Nhưng thế thì có sao? Aomame nghĩ. Lúc này mình đang ở bên trong Tengo, được bao bọc trong hơi ấm của anh, được nhịp đập trái tim anh ấy dẫn lối, nghe theo logic của anh, quy tắc của anh ấy, có lẽ còn cả những câu chữ anh ấy đang viết ra nữa. Thật tuyệt vời biết bao! Ở bên trong anh, được anh bao bọc như thế này!
Aomame ngồi dưới sàn nhà, nhắm mắt lại, gí mũi sát vào trang sách, hít lấy mùi hương phảng phất trên đó. Mùi giấy, mùi mực. Nàng lặng lẽ thả mình theo dòng chảy tự nhiên, nghiêng tai chăm chú lắng nghe nhịp đập của trái tim Tengo.
Đây chính là nước Trời, nàng thầm nhủ.
Mình đã sẵn sàng để chết. Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.
Tuy là tiểu thuyết kỳ ảo nhưng về cơ bản Nhộng không khí rất dễ đọc. Câu chuyện được kể từ đầu đến cuối qua giọng giản dị, đời thường của một cô bé mười tuổi. Không có những câu từ thâm thuý, những logic khiên cưỡng, cũng không có những đoạn kể lể dài dòng, không có những chỗ biểu đạt cầu kỳ phức tạp. Ngôn ngữ của cô dễ hiểu, ngắn gọn, và đa phần là dễ chịu, nhưng gần như không giải thích gì về các sự kiện xảy ra trong truyện. Cô chỉ lần lượt kể lại theo thứ tự những gì mình tận mắt trông thay. Cô không dừng lại ngẫm nghĩ: “Rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì?” hay “Thế nghĩa là thế nao?” Cô chỉ không ngừng tiến bước, chậm rãi, bằng nhịp điệu phù hợp với câu chuyện. Người đọc nhìn thông qua cặp mắt của cô bé, đi theo bước chân cô, cảm giác hết sức tự nhiên. Rồi từ lúc nào không biết họ đã bước vào một thế giới khác, một thế giới không phải thế giới này. Một thế giới có Người Tí Hon chế tác Nhộng không khí.
Đọc mười mấy trang đầu tiên, Aomame có ấn tượng sâu sắc với phong cách viết. Nếu đây là sáng tạo của Tengo thì anh thực sự là một cây bút tài năng. Tengo ngày trước vốn nổi tiếng là thần đồng toán học. Nhiều bài toán ngay cả người lớn cũng khó lòng giải được, thế mà anh hầu như chẳng tốn chút công sức nào đã có đáp án. Thành tích của anh ở các môn khác tuy không bằng môn toán nhưng cũng đều thuộc hạng ưu. Anh còn có vóc người cao lớn và là một vận động viên toàn năng, nhưng cô chẳng nhớ gì về chuyện anh viết văn hay đến mức nào. Có lẽ tại hồi đó tài năng này còn ẩn dưới bóng môn toán đang ưu trội của anh.
Mặt khác, cũng có thể Tengo chỉ chuyển lời kể của Fukaeri thành văn chương, chứ bản thân anh không góp phần sáng tạo gì nhiều vào phong cách cả. Nhưng, Aomame cảm thấy có lẽ không phải như vậy. Lời văn thoạt tiên đơn giản, nhưng đọc kỹ sẽ thấy thực ra các câu chữ đều được tính toán và điều tiết một cách cực kỳ chu đáo. Không chỗ nào bị viết quá lên, đồng thời những gì cần phải đề cập đến thì đều rất chu toàn. Những biểu đạt mang tính ẩn dụ bị giảm thiểu tối đa, song miêu tả lại chuẩn xác, sống động, màu sắc phong phú. Điểm xuất sắc nhất là, trong lời văn có thể cảm nhận được một thứ âm điệu tuyệt vời. Dẫu không đọc lên thành tiếng, độc giả vẫn có thể nghe thấy trong đó những âm vận sâu xa. Đây chắc chắn không phải là thứ văn chương một cô gái mới mười bảy tuổi đầu có thể viết ra được.
Sau khi chắc chắn điểm ấy, Aomame lại chăm chú đọc tiếp.
Nhân vật chính là một cô bé mười tuổi. Cô thuộc về một cộng đồng nhỏ được gọi là “Tập Thể” ở trong vùng núi sâu. Cha mẹ cô cũng sống chung trong “Tập Thể”. Cô không có anh chị em. Sinh ra chưa được bao lâu, cô bé đã được đưa đến nơi này, vì vậy cô hầu như hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài. Cả ba người trong gia đình đều bận rộn với những công việc thường ngày. Rất hiếm có cơ hội nhàn tản ngồi với nhau nói chuyện, nhưng họ rất hoà thuận. Ban ngày, cô bé đi học ở trường tiểu học địa phương, cha mẹ cô ra đồng làm việc. Nếu có thời gian dư dả, lũ trẻ cũng sẽ giúp cha mẹ làm một số việc đồng áng.
Những người lớn sống trong “Tập Thể” đều chán ghét hiện trạng của thế giới bên ngoài. Cứ hễ có cơ hội là họ sẽ nói, thế giới mình đang sống đây là một “thành lũy”. Một hòn đảo cô độc xinh đẹp trôi nổi giữa biển lớn mênh mông của “chủ nghĩa tư bản”. Cô bé không biết chủ nghĩa tư bản (có lúc họ cũng dùng từ chủ nghĩa vật chất) rốt cuộc là thứ gì. Cô chỉ dựa vào giọng điệu khinh miệt rõ rệt của mọi người khi nói ra các từ này để phán đoán rằng hình như đó là một thứ gì méo mó, đối ngược với tự nhiên và chính nghĩa. Cô bé được dạy rằng, đễ giữ gìn sự thuần khiết của xác thịt và tư tưởng, cô phải tuyệt đối không có quan hệ gì với thế giới bên ngoài. Nếu không, tâm hồn cô sẽ bị ô nhiễm.
“Tập Thể” do khoảng hơn năm mươi người cả nam lẫn nữ còn tương đối trẻ tập hợp lại mà thành, chia thành hai nhóm nhỏ. Một nhóm có mục tiêu làm “cách mạng”, nhóm còn lại thì hướng đến “hòa bình”. Cha mẹ cô bé có lẽ thuộc về nhóm “hoà bình”. Cha cô là người lớn tuổi nhất trong nhóm; từ khi “Tập Thể” ra đời, ông vẫn luôn đóng vai trò hạt nhân của tổ chức.
Dĩ nhiên, một cô bé mười tuổi không thể lý giải một cách rành mạch về kết cấu gồm hai nhóm đối lập nhau trong cùng một tổ chức này, cũng không thể hiểu hết sự khác biệt giữa “cách mạng” và “hoà bình”. Cô chỉ ấn tượng mơ hồ rằng “cách mạng” là lối suy nghĩ có hình dạng sắc nhọn, trong khi “hoà bình” là lối suy nghĩ có hình dạng hơn tròn. Lối suy nghĩ có hình dạng và màu sắc riêng của chúng, và cũng như mặt trăng vậy, có lúc tròn lúc khuyết. Đó là tất cả những gì cô lý giải được.
Cô bé cũng không biết gì về chuyện “Tập Thể” đã hình thành ra sao. Cô chỉ nghe nói, gần mười năm trước, khi cô mới ra đời chưa lâu, có một biến động lớn xảy ra trong xã hội, mọi người từ bỏ cuộc sống nơi đô thị, di cư đến vùng núi sâu tách biệt với thế giới bên ngoài. Hiểu biết của cô về thành phố không nhiều lắm. Cô chưa từng đi tàu điện, chưa từng đi thang máy, thậm chí còn chưa từng nhìn thấy tòa nhà nào cao quá ba tầng. Có quá nhiều điều cô không biết. Tất cả những gì cô hiểu được chỉ là những thứ ở xung quanh, có thể thấy bằng mắt, chạm bằng tay.
Mặc dù thế, đôi mắt luôn nhìn ở tầm thấp và giọng kể không hề hoa mỹ của cô bé vẫn miêu tả cái cộng đồng nhỏ được gọi là “Tập Thể” ấy một cách sinh động, tự nhiên: kết cấu và cảnh tượng ở đó, tập quán và cách suy nghĩ của những người sống trong cộng đồng ấy.
Tuy có sự bất đồng trong lối nghĩ của những người sống ở đó, song tình cảm đồng cam cộng khổ của họ rất mạnh mẽ. Họ có chung niềm xác tín rằng rời xa cuộc sống “tư bản chủ nghĩa” là một điều hay. Và mặc dù hình dạng và màu sắc của lối nghĩ có thể khác nhau, mọi người đều hiểu rõ rằng, nếu không sát cánh bên nhau, họ sẽ chẳng thể nào tiếp tục sinh tồn trên thế giới này. Cuộc sống của họ rất thiếu thốn. Hằng ngày mọi người đều lao động không ngơi nghỉ. Họ cày ruộng, trồng rau, trao đổi sản vật mình làm ra với dân làng sống gần đấy, bán đi sản phẩm thừa, cố tránh không sử dụng các hàng hoá sản xuất hàng loạt của nền văn minh công nghiệp, hầu như toàn sống giữa thiên nhiên. Khi bắt buộc phải sử dụng một đồ dùng điện máy, họ nhặt từ đống phế liệu về rồi tự tay sửa chữa. Quần áo họ mặc cũng hầu như toàn là đồ cũ do người khác quyên tặng.
Cũng có những người không thể chịu được cuộc sống thuần khiết nhưng khắc nghiệt này mà rời khỏi “Tập Thể”. Song cũng có người nghe danh họ tìm đến xin gia nhập. Số thành viên mới nhiều hơn số ra đi. Vì vậy, nhân khẩu của “Tập Thể” dần tăng. Đây là một xu thế tốt. Cộng đồng sinh sống trong một ngôi làng bỏ hoang, có nhiều nhà để trống, chỉ cần sửa chữa đôi chút là có thể ở được, và nhiều ruộng đồng có thể canh tác. Các lao động mới dĩ nhiên được cộng đồng hồ hởi chào đón.
Ở đây có khoảng tám đến mười đứa trẻ. Đa số chúng đều sinh ra trong “Tập Thể”, đứa lớn nhất chính là nhân vật chính của tiểu thuyết, cô bé kể chuyện. Lũ trẻ đi học ở trường cấp một địa phương. Ngày ngày bọn chúng cùng đi học và cùng trở về. Bọn trẻ không thể không đến trường cấp một đi học, vì pháp luật quy định như vậy. Vả lại, những người sáng lập ra “Tập Thể” cho rằng duy trì quan hệ tốt đẹp với cư dân địa phương là nhân tố không thể thiếu đối với sự sinh tồn của cộng đồng. Tuy nhiên, bọn trẻ sống quanh vùng rất khó chịu với lũ trẻ ở “Tập Thể” nên thường hay xa lánh chúng, không thì bắt nạt chúng. Vì vậy, lũ trẻ ở “Tập Thể” hầu như luôn tập trung lại với nhau, tự bảo vệ mình khỏi những thương tổn thể xác cũng như “ô nhiễm” tâm hồn.
Ngoài ra trong “Tập Thể” cũng có một trường học riêng, mọi người lần lượt dạy học cho lũ trẻ. Trong số họ rất nhiều người có giáo dục rất cao, có người còn có cả bằng sư phạm, nên đây không phải là việc khó. Họ tự biên soạn sách giáo khoa riêng, dạy lũ trẻ đọc, viết và toán, ngoài ra còn dạy cả kiến thức cơ bản về hoá học, vật lý, sinh lý học, sinh vật học, giải thích sự cấu thành của thế giới. Trên thế giới có hai chế độ lớn đối nghịch lẫn nhau, “chủ nghĩa tư bản” và “chủ nghĩa cộng sản”. Nhưng cả hai đều hàm chứa những vấn nạn sâu sắc, nên về đại thể có thể nói thế giới đang phát triển theo hướng không tốt. “Chủ nghĩa cộng sản” vốn ban đầu có tư tưởng xuất sắc với lý tưởng cao đẹp, tiếc rằng nó đã bị những “chính trị gia ích kỷ” lợi dụng khiến cho bị vặn vẹo sang một hình thái sai lầm. Bọn họ từng cho cô bé xem bức ảnh một tay “chính trị gia ích kỷ”. Người đàn ông có cái mũi to, để bộ râu đen rậm ấy khiến cô nghĩ đến chúa quỷ.
Ở “Tập Thể” không có ti vi, radio cũng chỉ được phép dùng trong những dịp đặc biệt. Báo và tạp chí cũng bị hạn chế. Những tin tức được cho là cần thiết sẽ được truyền đạt miệng ở Hội trường lúc ăn cơm tối. Mọi người hồi đáp lại mỗi tin tức nghe được bằng tiếng reo hò hoặc tiếng “hừ” hậm hực – tiếng “hừ” hậm hực có vẻ nhiều hơn gấp bội. Tất cả những gì cô từng nếm trải về truyền thông chỉ có thế thôi. Từ khi sinh ra cô chưa từng xem phim, cũng chưa bao giờ đọc truyện tranh. Chỉ có nhạc cổ điển là được phép nghe. Ở Hội trường có một bộ dàn âm thanh stereo và nhiều đĩa nhạc, chắc là nguyên một bộ sưu tập do ai đó mang đến. Những lúc rảnh, cô có thể đến đó nghe nhạc giao hưởng của Brahms, các bản piano của Schumann, nhạc dành cho đàn phím của Bach, hoặc âm nhạc tôn giáo. Đó là những phút giải trí quý giá của cô bé, cũng gần như là thú vui duy nhất của cô.
Nhưng rồi có một ngày cô bé bị xử phạt. Tuần đó, cô nhận nhiệm vụ chăm lo cho đàn dê nhỏ của “Tập Thể” vào mỗi sáng và mỗi tối, nhưng vì quá tải bài tập ở trường và công việc thường ngày khác nên một đêm nọ cô quên mất. Sáng sớm hôm sau, mọi người phát hiện ra con dê chột mắt già nhất đã chết, toàn thân lạnh cóng. Và cô bé phải nhận hình phạt, bị cách ly khỏi “Tập Thể” trong mười ngày.
Mọi người cho rằng con dê ấy có ý nghĩa đặc biệt, nhưng nó đã già lắm rồi. Có một thứ bệnh, tuy không ai biết là bệnh gì, đã bấu móng vuốt vào tấm thân già nua yếu ớt của nó, cho nên có người chăm sóc hay không thì cũng vậy, chẳng hy vọng gì con dê ấy khoẻ lại được. Sớm muộn gì nó cũng chết thôi. Nhưng hình phạt với cô bé không vì thế mà giảm nhẹ đi. Không chỉ vì cái chết của con dê, cô còn bị phạt vì lỗi lơ là nhiệm vụ được giao. Ở “Tập Thể”, cách ly là một trong những hình phạt nặng nhất.
Cùng với xác con dê, cô bé bị nhốt vào một căn nhà kho vừa cũ vừa nhỏ, bốn bức tường dày đắp bằng đất bùn. Căn nhà kho đất này được gọi là Phòng phản tỉnh. Những ai vi phạm quy định của “Tập Thể” đều được dành cho cơ hội phải tỉnh lại những sai lầm của mình ở đây. Trong thời gian chịu phạt, không ai nói chuyện với cô. Cô bé phải chịu đựng mười ngày hoàn toàn câm lặng. Một lượng nước và thức ăn tối thiểu được đưa tới, nhưng trong nhà kho vừa tối vừa lạnh, lại ẩm ướt nhớp nháp và ngập ngụa mùi toả ra từ xác con dê. Cửa bị khoá trái từ phía ngoài, cái bô vệ sinh đặt trong một góc nhà. Phía trên có một bức tường có khoét một cửa sổ nhỏ, ánh mặt trời hoặc ánh trăng từ đó chiếu vào. Nếu không có mây, cô còn có thể trông thấy vài ngôi sao. Ngoài ra không còn nguồn sáng nào nữa. Cô nằm trên tấm nệm trải trên sàn nhà bằng gỗ, quấn hai chiếc chăn len cũ kỹ, run rẩy qua đêm. Tuy đã là tháng Tư nhưng ban đêm trong núi vẫn rất lạnh. Khi màn đêm buông xuống, mắt con dê chết chớp chớp phát quang dưới ánh sao, khiến cô bé sợ, không thể nào ngủ được.
Đến đêm thứ ba, miệng con dê mở rộng. Cái miệng bị đẩy cho mở ra từ bên trong, và có những người nhỏ xíu lần lượt chui ra. Tổng cộng có sáu người. Lúc mới chui ra họ chỉ cao khoảng mười xăng ti mét. Nhưng vừa đặt chân xuống đất, họ liền như cây nấm mọc vọt lên sau cơn mưa, thoắt cái đã lớn lên. Nhưng rồi họ cũng chỉ cao khoảng sáu mươi xăng ti mét. Họ tự xưng là Người Tí Hon.
Giống kiểu “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”, cô bé nghĩ. Hồi nhỏ cô từng được cha đọc cho nghe chuyện này. Có điều thiếu mất một người.
“Nếu cô cảm thấy bảy người tốt hơn, chúng tôi có thể đến bảy người,” một Người Tí Hon giọng trầm trầm nói. Dường như họ có thể đọc được ý nghĩ của cô bé. Sau đó cô đếm lại thì thấy họ không phải sáu người nữa mà là bảy. Nhưng cô bé không cảm thấy chuyện này kỳ quái cho lắm. Khi Người Tí Hon chui từ trong miệng con dê ra, quy tắc của thế giới đã thay đổi rồi. Từ sau khoảnh khắc đó, mọi chuyện đều có thể xảy ra.
“Tại sao các người lại chui từ trong miệng con dê chết ra thế,” cô bé hỏi, đồng thời nhận ra giọng mình nghe lạ, kiểu nói chuyện cũng khác hẳn thường ngày. Chắc tại ba ngày liền không nói chuyện với ai nên mới thế.
“Bởi vì miệng dê biến thành đường hầm,” một Người Tí Hon giọng khàn khàn đáp. “Chúng tôi cũng vậy, mãi đến khi ra xong chúng tôi mới biết đó là một con dê chết.”
Một Người Tí Hon có giọng the thé nói: “Chúng tôi chẳng quan tâm. Dê, cá voi hay đậu Hà Lan cũng thế, chỉ cần là đường hầm là được rồi.”
“Cô đã tạo ra đường hầm ấy. Vì vậy chúng tôi thử một phen, xem nó thông đến đâu,” Người Tí Hon có giọng trầm trầm kia nói.
“Tôi đã tạo ra dường hầm ấy sao?” cô bé nói. Nghe vẫn không giống giọng của cô chút nào.
“Cô đã làm một việc tốt giúp chúng tôi,” một Người Tí Hon giọng rất nhẹ nói.
Mấy người còn lại lên tiếng biểu đồng tình.
“Chúng ta làm nhộng không khí chơi đi,” một Người Tí Hon có giọng nam cao đề nghị.
“Phải đó. Đằng nào cũng mất công đến đây rồi,” một người giọng nam trung nói.
“Nhộng không khí?” cô bé hỏi.
“Rút tơ từ trong không khí để làm nhà. Càng làm càng to,” Người Tí Hon có giọng thấp trầm nói.
“Làm nhà? Cho ai?” cô bé hỏi.
“Rồi cô sẽ thấy,” người có giọng nam trung nói.
“Đến lúc đó khắc biết,” người giọng trầm nói.
“Hô hô…” một Người Tí Hon khác hòa theo.
“Tôi giúp mọi người làm được không,” cô bé hỏi.
“Còn phải nói,” người giọng khàn khàn bảo.
“Cô đã giúp chúng tôi một chuyện tốt. Chúng ta cùng dệt thôi,” Người Tí Hon giọng nam cao nói.
Khi đã quen rồi thì rút tơ từ trong không khí không phải chuyện khó lắm đối với cô bé. Cô vốn khéo tay nên thoáng cái đã nắm bắt được kỹ xảo một cách thành thục. Nhìn thật kỹ sẽ thấy trong không khí nổi trôi các loại tơ đủ màu sắc và hình dáng. Chỉ cần muốn thấy thì tự nhiên sẽ thấy.
“Đúng đúng, chính thế đấy. Làm vậy là được,” Người Tí Hon có giọng rất nhẹ nói.
“Cô rất thông minh. Học rất nhanh,” người giọng the thé lên tiếng.
Bọn họ mặc quần áo giống hệt nhau, gương mặt cũng như đúc từ một khuôn ra, chỉ có giọng nói là khác biệt rõ rệt.
Quần áo những Người Tí Hon này mặc là những thứ hết sức bình thường có thể thấy ở bất cứ đâu. Nói thì nghe kỳ quặc, nhưng không còn cách nào khác để mô tả. Một khi đã rời mắt đi chỗ khác, ta liền không thể nào nhớ nổi họ mặc quần áo gì. Gương mặt họ cũng vậy. Không xấu cũng không đẹp, là những bộ mặt có thể gặp ở bất cứ đâu. Một khi đã chuyển ánh mắt ra nơi khác, ta sẽ không thể nào nhớ nổi bộ mặt họ như thế nào. Đầu tóc cũng vậy, không dài cũng không ngắn, chỉ là tóc. Vả lại, bọn họ còn không có mùi nữa.
Khi bình minh đến, gà trống gáy vang, bầu trời phía Đông bắt đầu rạng lên, bảy Người Tí Hon dừng công việc lại, vươn vai vặn mình. Sau đó, họ giấu cái nhộng không khí màu trắng mới hoàn thành một nửa, to bằng con thỏ con vào trong góc nhà kho. Chắc là để người đưa cơm đến không trông thấy.
“Sáng rồi,” Người Tí Hon giọng rất nhẹ lên tiếng.
“Đã qua một đêm,” người giọng trầm thấp nói.
Cô bé nghĩ, họ có đủ loại giọng, vậy thì tổ chức luôn một đội hợp xướng cho rồi. “
“Chúng tôi không có bài hát nào cả,” Người Tí Hon giọng nam cao nói.
“Hô hô…” Người Tí Hon phụ trách bè kêu lên.
“Cũng như lúc đến, những Người Tí Hon thu nhỏ người lại đến khi chỉ còn cao khoảng mười xăng ti mét, xếp hàng chui vào trong miệng con dê chết.
“Đêm nay chúng tôi lại đến,” trước khi miệng con dê chết ngậm lại, Người Tí Hon giọng rất nhẹ ở bên trong nói với ra với cô bé. “Không được kể về chúng tôi với ai đâu nhé.”
“Nếu cô kể cho người khác biết về chúng tôi thì sẽ có chuyện rất tệ xảy ra,” người có giọng khàn dặn dò thêm một câu.
“Hô hô…” Người Tí Hon phụ trách bè kêu lên.
“Tôi không nói với ai đâu,” cô bé nói.
Dù mình có kể thì cũng chẳng ai tin. Cô bé từng nhiều lần bị người lớn xung quanh trách mắng vì tội nói ra suy nghĩ của mình. Họ thường bảo cô không biết phân biệt giữa hiện thực và tưởng tượng. Hình dạng và màu sắc của tư tưởng cô dường như rất khác những người còn lại. Cô bé không hiểu mình có gì không đúng. Nhưng dù gì đi nữa, chuyện về Người Tí Hon tốt nhất là không nên kể với ai.
Sau khi Người Tí Hon biến mất và con dê khép miệng lại, cô bé tìm kiếm một hồi lâu ở chỗ họ giấu cái nhộng không khí song không sao tìm được. Họ đã giấu rất khéo. Không gian chật hẹp như vậy thế mà cô không thể nào tìm được. Họ có thể giấu vào đâu nhỉ?
Sau đó, cô bé cuốn người vào trong chăn và ngủ thiếp đi. Đã lâu lắm rồi cô không có giấc ngủ nào yên bình như vậy: không nằm mơ, không tỉnh giấc giữa chừng. Cô ngủ ngon đến lạ.
Cả ngày con dê chết vẫn đờ ra đó, thân thể cứng ngắc, con mắt đục ngầu trông như quả cầu thuỷ tinh. Nhưng mặt trời vừa lặn, bóng đêm phủ xuống gian nhà kho bằng đất, mắt nó liền lấp lánh phát sáng dưới ánh sao. Dường như ánh sáng ấy điều khiển cho miệng con dê mở lớn, rồi Người Tí Hon từ bên trong chui ra. Lần này ngay từ đầu đã có bảy người.
“Chúng ta tiếp tục việc hôm qua thôi,” Người Tí Hon giọng khàn khàn nói.
Sáu người kia lên tiếng tán đồng, mỗi người theo một cách riêng.
Bảy Người Tí Hon và cô bé ngồi quanh nhộng không khí, bắt tay làm tiếp công việc, rút những sợi tơ trắng trong không khí, quấn thêm vào kén nhộng. Họ hầu như không nói chuyện, chỉ lẳng lặng tập trung làm. Lúc chuyên tâm vào đôi tay không ngừng chuyển động, cô bé không còn cảm thấy hơi lạnh của đêm. Cô hầu như không cảm nhận được thời gian trôi đi, không thấy chán hay buồn ngủ. Kén nhộng cứ thế to dần lên, chậm chạp, nhưng có thể nhận ra bằng mắt thường.
“Càng lớn càng hay,” Người Tí Hon giọng the thé đáp.
“Đến một cỡ nhất định nó sẽ tự vỡ ra,” người có giọng nam cao vui vẻ nó.
“Và sẽ có thứ gì đó chui ra,” giọng nam trung mạnh mẽ vang lên
“Thứ gì?” cô bé hỏi.
“Cái gì sẽ chui ra?” Người Tí Hon giọng nhỏ nhẹ nói.
“Cứ chờ sẽ biết,” Người Tí Hon giọng trầm thấp nói.
“Hô hô…” Người Tí Hon phụ trách bè kêu lên.
“Hô hô…” sáu Người Tí Hon còn lại đồng thanh phụ họa.
Văn phong của cuốn tiểu thuyết toát lên một cảm giác tăm tối kỳ dị mà rất đặc biệt. Aomame khẽ nhíu mày lại khi phát hiện ra đặc điểm ấy. Đây là một câu chuyện giàu màu sắc mộng ảo, như truyện cổ tích, nhưng sâu bên dưới nó có một dòng chảy ngầm mạnh mẽ mắt thường khó có thể nhận ra. Từ trong những câu chữ ngắn gọn mộc mạc, Aomame có thể nghe ra dư âm chẳng lành của dòng chảy ấy. ̉n chứa trong đó là sự u ám báo hiệu rằng bệnh tật sắp đến, một thứ bệnh chết người lặng lẽ đục ruỗng tinh thần con người từ bên trong. Và kẻ mang thứ bệnh tật này đến chính là bảy Người Tí Hon như một đội hợp xướng kia. Đích thực có cái gì không lành mạnh ở đây, Aomame nghĩ. mặc dù vậy, trong giọng nói của họ Aomame vẫn nghe ra thứ gì đó rất gần với mình, thân thuộc đến mức gần như là số mệnh.
Aomame ngẩng đầu lên khỏi sách, nhớ lại những gì Lãnh Tụ nói về Người Tí Hon trước lúc chết.
“Từ thời viễn cổ, chúng ta đã luôn sống chung với họ rồi. Từ thuở thiện và ác vẫn còn chưa tồn tại, từ thuở ý thức của con người vẫn còn ở trong bóng tối.”
Nàng tiếp tục đọc sách.
Người Tí Hon và cô bé tiếp tục làm việc, mấy ngày sau nhộng không khí đã lớn bằng một con chó to.
“Ngày mai là hình phạt kết thúc, tôi sẽ phải ra khỏi đây,” lúc trời sắp sáng, cô bé nói với Người Tí Hon.
Bảy Người Tí Hon im lặng nghe cô nói.
“Vì vậy tôi không thể cùng làm nhộng không khí với các bạn nữa rồi.”
“Tiếc quá,” Người Tí Hon giọng nam cao nói, với vẻ hết sức tiếc nuối.
“Cô giúp được chúng tôi bao nhiêu là việc,” người giọng nam trung lên tiếng.
Người Tí Hon giọng the thé nói: “Nhưng nhộng cũng sắp làm xong rồi. Chỉ thêm một chút xíu nữa là đủ.”
Người Tí Hon xếp thành hàng, nhìn chằm chằm vào cái nhộng không khí đã làm trong nhiều ngày, như thể đang đo kích cỡ của nó.
“Còn thiếu một chút nữa thôi,” Người Tí Hon giọng khàn khàn nói, như đang lĩnh xướng một nhịp đơn của dân chài.
“Hô hô…” Người Tí Hon phụ trách bè kêu lên.
“Hô hô…” sáu người còn lại phụ hoạ theo.
Mười ngày phạt cách ly kết thúc, cô bé trở lại “Tập Thể”, trở lại cuộc sống chung đầy những quy định và luật lệ, không có thời gian ở riêng một mình. Dĩ nhiên, cô không thể cùng Người Tí Hon làm nhộng không khí được nữa. Mỗi tối trước khi đi ngủ, cô đều tưởng tượng ra bảy Người Tí Hon đang ngồi quanh nhộng không khí, không ngừng làm cho nó lớn dần lên. Cô không thể nghĩ về chuyện gì khác nữa. Thậm chí cô còn cảm giác cái nhộng không khí ấy đã thực sự chui vào trong đầu mình.
Bên trong nhộng không khí rốt cuộc là thứ gì nhỉ? Khi thời điểm đến, nhộng không khí vỡ tung ra, sẽ có thứ gì xuất hiện? Cô bé rất muốn biết. Cô cảm thấy vô cùng tiếc nuối vì không được tận mắt chứng kiến cảnh tượng ấy. Mình đã tốn bao nhiêu công sức để giúp họ làm nhộng không khí, lẽ ra mình phải được chứng kiến cảnh tượng đó chứ. Thậm chí cô còn nghiêm túc nghĩ xem có nên phạm lỗi lầm gì đó để lại bị phạt cách ly, bị nhốt vào trong nhà kho đất hay không. Nhưng cho dù cô làm thế, Người Tí Hon cũng không thể nào xuất hiện trở lại trong gian nhà kho ấy nữa. Con dê chết đã bị đưa đi rồi, không rõ chôn ở nơi nào. Mắt nó không còn lấp lánh phát sáng dưới ánh sao nữa.
Sau đó câu chuyện chuyển sang miêu tả cuộc sống thường nhật của cô bé trong cộng đồng. Lịch hàng ngày được quy định, những công việc được quy định. Là đứa trẻ lớn nhất, cô phải trông coi lũ trẻ bé hơn, chăm sóc chúng. Những bữa ăn đạm bạc. Những câu chuyện cha mẹ đọc cho cô nghe trước khi đi ngủ. Những khúc nhạc cổ điển cô nghe mỗi khi có thời gian rỗi. Một cuộc sống không “ô nhiễm”.
Người Tí Hon ghé thăm cô trong mơ. Bọn họ có thể chui vào giấc mơ của người khác bất cứ lúc nào mình thích. “Nhộng không khí sắp vỡ ra rồi, có đến xem không?” họ mời cô bé. “Sau khi trời tối, đừng để ai trông thấy, mang theo một cây nến đi tới nhà kho.”
Cô bé không sao nén nổi tò mò. Cô lẻn xuống giường, lấy cây nến đã chuẩn bị sẵn, rón ra rón rén đi đến nhà kho. Không có ai ở đó, chỉ có cái nhộng không khí nằm lặng lẽ dưới đất. Nó đã to gấp đôi khi cô trông thấy lần trước, dài khoảng mét ba mét tư. Toàn thân nó phát sáng dìu dịu, đường viền tạo thành một đường cong tuyệt đẹp, chính giữa có một chỗ hơi thắt lại giống như eo lưng người, lúc nó đương nhỏ thì hãy còn chưa có cái này. Có vẻ như Người Tí Hon đã làm việc rất vất vả. Nhộng không khí đã bắt đầu rạn vỡ, một vệt nứt dài chạy dọc theo thân. Cô bé khom người, ghé mắt nhìn qua đó.
Cô nhận ra, bên trong cái nhộng là chính mình. Cô nhìn chằm chằm vào thân thể trần truồng nằm bên trong cái nhộng. Phân thân của cô nằm ngửa, mắt nhắm, dường như không có ý thức, cũng không thở, như con búp bê.
“Ở trong đó là Tử thể của cô,” Người Tí Hon giọng khàn khàn nói, đoạn đằng hắng một tiếng.
Cô ngoảnh đầu lại thì thấy bảy Người Tí Hon đã đứng xếp thành hình rẻ quạt sau lưng cô không biết từ lúc nào.
“Tử thể,” cô bé lặp lại một cách vô thức.
“Còn cô được gọi là Mẫu thể,” người có giọng thấp trầm nói.
“Mẫu thể và Tử thể,” cô bé lặp lại.
“Tử thể đảm nhiệm vai trò người đại diện cho Mẫu thể,” Người Tí Hon có giọng the thé lên tiếng.
“Tôi tách ra làm hai người à?” cô bé hỏi.
“Không phải,” người giọng nam trung nói. “Không phải cô tách ra làm hai người. Từ đầu đến chân cô vẫn là cô. Không cần lo lắng. Tử thể chỉ là cái bóng của tâm linh Mẫu thể, chẳng qua là nó có hình dạng cụ thể thôi.”
“Bao giờ thì người này tỉnh lại thế?”
“Ngay thôi. Khi đến lúc,” người giọng nam trung nói.
“Tử thể là cái bóng của tâm linh tôi, vậy người này sẽ làm gì?” cô bé hỏi.
“Làm Người cảm tri,” Người Tí Hon có giọng rất nhẹ nói.
“Người cảm tri,” cô bé lặp lại.
“Tức là người truyền đạt lại những thứ mình cảm tri được cho người tiếp thụ,” người giọng the thé nói.
“Tức là, Tử thể trở thành đường hầm của chúng tôi,” Người Tí Hon giọng nam trung tiếp lời.
“Thay thế dê à?” cô bé hỏi.
“Con dê chết chỉ là đường hầm tạm thời thôi,” người giọng trầm nói. “Muốn nối liền nơi chúng tôi sống với nơi này, cần phải có một Tử thể sống làm người cảm tri.”
“Thế Mẫu thể thì làm gì?” cô bé hỏi tiếp.
“Mẫu thể ở bên cạnh Tử thể,” người giọng the thé nói.
“Tử thể bao giờ tỉnh dậy?” cô bé hỏi.
“Hai ngày nữa. Nếu không thì ba ngày nữa,” người giọng nam cao đáp.
“Một trong hai khả năng ấy,” người giọng rất nhẹ nói.
“Cô phải trông nom Tử thể cho tốt,” người giọng nam trung nói, “Vì đó là Tử thể của cô.”
“Không có Mẫu thể trông nom, Tử thể sẽ không thể hoàn thành, khó mà sống lâu được,” người giọng the thé nói thêm.
“Đánh mất Tử thể, Mẫu thể sẽ mất đi cái bóng của tâm linh mình,” người giọng nam trung tiếp lời.
“Mẫu thể mất đi cái bóng của tâm linh mình thì sẽ thế nào?”
Cô bé hỏi.
Bọn họ đưa mắt nhìn nhau. Không ai trả lời câu hỏi này.
“Khi Tử thể tỉnh giấc, mặt trăng trên trời sẽ biến thành hai,” người giọng khàn nói.
“Hai mặt trăng sẽ hắt ra cái bóng của tâm linh Mẫu thể,” người có giọng nam trung nói.
“Mặt trăng sẽ biến thành hai,” cô bé lặp lại như cái máy.
“Đó chính là dấu hiệu. Cô phải chú ý nhìn lên trời,” người giọng rất nhẹ khẽ khàng nói. “Chú ý nhìn lên trời,” người đó dặn dò thêm một lần nữa. “Đếm xem có mấy mặt trăng.”
“Hô hô…” người phụ trách bè kêu lên.
“Hô hô…” sáu người còn lại phụ họa theo.
Cô bé vùng chạy trốn.
Có thứ gì đó lệch lạc, thứ gì đó không đúng, thứ gì đó bị vặn vẹo một cách nghiêm trọng ở đây. Có thứ gì đó trái với tự nhiên. Cô bé hiểu điều ấy. Cô không biết Người Tí Hon muốn gì, nhưng hình ảnh chính mình bên trong nhộng không khí khiến cô run lên. Cô không thể sống chung với một phân thân sống sờ sờ của mình được. Cần phải chạy trốn khỏi nơi này, càng nhanh càng tốt. Tranh thủ lúc Tử thể vẫn chưa thức tỉnh, tranh thủ khi mặt trăng trên trời vẫn chưa biến thành hai.
Trong “Tập Thể” người ta cấm ngặt cá nhân mang tiền mặt. Nhưng cha cô đã lén đưa cho cô một tờ giấy bạc mười nghìn yên và một ít tiền lẻ. “Cất kỹ đi, đừng để người khác thấy,” ông nói với cô. Ông cũng đưa cô một tờ giấy có ghi tên họ, địa chỉ và số điện thoại của ai đó. “Ngộ nhỡ có lúc nào con phải trốn khỏi nơi này thì hãy dùng tiền ấy để mua vé, lên xe lửa đến chỗ ghi trên tờ giấy này.”
Hẳn là cha cô dự cảm được trong tương lai có thể sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra ở “Tập Thể”. Cô bé không do dự. Cô hành động rất nhanh, không có cả thời gian để tạm biệt cha mẹ.
Cô bé lấy tờ giấy bạc mười nghìn yên, tiền lẻ và mảnh giấy cất trong chiếc bình chôn dưới đất. Vào giờ học ở trường, cô lấy cớ không được khoẻ, xin xuống phòng y tế để ra khỏi lớp rồi trốn ra ngoài. Cô bắt xe buýt ra ga xe lửa, đưa tờ giấy bạc mười nghìn yên cho người bán vé, mua một vé đi Takao, nhận lại tiền lẻ. Mua vé, nhận tiền thừa, ngồi xe lửa, tất cả đều là lần đầu tiên trong đời cô. Nhưng cha cô đã hướng dẫn rất chi tiết, và cô đã ghi rõ trong óc cần phải hành động như thế nào.
Theo chỉ dẫn trên mảnh giấy, cô xuống xe lửa ở trạm Takao trên tuyến Chuo, dùng điện thoại công cộng gọi đến số máy mà cha cô đưa cho. Người bắt máy là bạn cũ của cha cô, một hoạ sĩ chuyên vẽ tranh truyền thống Nhật Bản, lớn hơn cha cô mười tuổi. Ông sống với con gái ở gần núi Takao. Vợ ông mới mất không lâu. Con gái ông tên là Kurumi, lớn hơn cô bé một tuổi. Vừa nhận điện thoại, ông liền lập tức đến ga xe lửa, nhiệt tình đón tiếp cô bé mới chạy trốn khỏi “Tập Thể” mà đưa về nhà mình.
Ngày thứ hai sau khi được người hoạ sĩ thu dưỡng, cô bé ngước mắt nhìn lên bầu trời qua cửa sổ phòng, phát hiện đã có hai mặt trăng. Bên cạnh vầng trăng bình thường kia có một vầng trăng khác nhỏ hơn một chút, treo lơ lửng đó như một hạt đậu xanh khô hơi quắc. Tử thể của mình đã thức tỉnh rồi, cô bé nghĩ. Hai mặt trăng sẽ hắt ra cái bóng của tâm linh mình. Tim cô bé run lên. Thế giới đã thay đổi. Và có chuyện gì đó sắp xảy ra.
Cô bé không có tin tức gì từ cha mẹ. Ở “Tập Thể” có lẽ mọi người không chú ý đến chuyện cô bỏ trốn. Vì phân thân của cô bé… Tử thể vẫn còn ở đó. Bề ngoài hai người giống hệt nhau, người bình thường không thể nào phân biệt nổi. Nhưng cha mẹ cô thì chắc chắn biết, Tử thể không phải là cô bé mà chỉ là phân thân của cô. Họ hiểu đó là thế thân của cô, còn con gái họ đã chạy trốn khỏi cộng đồng “Tập Thể”. Cô bé chỉ có một nơi duy nhất để đi. Nhưng cha mẹ cô không hề liên lạc, dù chỉ một lần. Đây có lẽ chính là thông điệp không lời họ gửi đến cô: chạy trốn đi, đừng trở về.
Cô bé đi học không đều, hôm có hôm không. Thế giới bên ngoài và bên trong “Tập Thể” nơi cô lớn lên khác nhau quá nhiều. Quy tắc bất đồng, mục đích bất đồng, ngôn ngữ sử dụng cũng không giống nhau. Bởi vậy cô không thể kết bạn, cũng không thể quen với cuộc sống trong trường học.
Tuy vậy, hồi học trung học cô đã rất thân với một cậu bạn. Cậu ta tên là Toru. Toru vừa nhỏ vừa gầy gò, mặt có mấy nếp nhăn rất sâu, trông như con khỉ. Hình như hồi nhỏ cậu ta từng bị bệnh gì đó rất nặng nên không thể tham gia các hoạt động mạnh. Xương sống của cậu ta cũng hơi gù. Những lúc nghỉ giữa giờ, Toru luôn tránh xa các bạn cùng lớp, ngồi đọc sách một mình. Cậu ta cũng không có bạn, giống cô bé. Cậu quá nhỏ, quá xấu xí. Trong một lần nghỉ trưa, cô bé ngồi cạnh Toru, bắt chuyện. Cô hỏi về cuốn sách cậu ta đang đọc. Toru liền đọc thành tiếng cuốn sách trên tay cho cô nghe. Cô bé thích chất giọng của cậu. Nhỏ, khàn khàn, nhưng cô nghe rất rõ. Câu chuyện được kể bằng chất giọng ấy khiến cô mê mẩn. Toru đọc những đoạn văn xuôi đẹp đến mức nghe như thể cậu đang ngâm thơ. Từ đó, giờ nghỉ trưa nào cô cũng ngồi với cậu ta, lặng lẽ chăm chú nghe cậu đọc sách.
Nhưng không lâu sau đó cô để mất Toru. Người Tí Hon đã cướp mất cậu khỏi cô.
Một đêm nọ, trong phòng Toru xuất hiện một cái nhộng không khí. Hằng đêm, trong lúc Toru đang say ngủ, Người Tí Hon làm nó mỗi ngày một lớn lên. Đêm nào họ cũng cho cô bé xem cảnh tượng này trong mơ. Cô không thể nào ngăn cản hành động của họ. Và khi nhộng không khí đủ lớn, nó nứt toác ra theo chiều dọc, giống như cô bé đã thấy lần trước. Có điều, bên trong cái nhộng không khí này là ba con rắn đen lớn. Ba con rắn này quấn chặt vào nhau, chặt đến nỗi không ai, có lẽ ngay cả bản thân chúng, có thể tách chúng ra được. Trông chúng như con quái vật ba đầu, trơn nhầy dính nhớp, vĩnh viễn xoắn xuyết lại. Vì không được tự do, lũ rắn hết sức tức tối. Chúng ra sức vùng vẫy, cố thoát khỏi nhau, nhưng càng cùng vẫy lại càng xoắn chặt. Người Tí Hon cho cô bé thấy sinh vật này. Còn cậu bé Toru thì hoàn toàn không hay biết, vẫn ngủ bên cạnh chúng. Chỉ mình cô bé nhìn thấy được toàn bộ cảnh tượng này.
Mấy ngày sau, cậu bé Toru đột nhiên trở bệnh, bị đưa đến một cơ sở trị liệu ở rất xa. Không ai nói cậu bị bệnh gì. Tóm lại chắc chắn Toru sẽ không trở lại trường học nữa. Cô đã đánh mất cậu.
Cô bé nhận ra đây là thông điệp từ những Người Tí Hon kia. Có vẻ như họ không thể trực tiếp ra tay với Mẫu thể là cô, song lại có thể gây hại hoặc thậm chí hủy diệt những người xung quanh cô. Nhưng họ không thể làm vậy với bất kỳ ai. Bằng chứng là họ không thể làm gì được người giám hộ cô, hoạ sĩ chuyên vẽ tranh truyền thống Nhật Bản hay cô con gái Kurumi của ông. Thay vào đó họ chọn người yếu nhất làm vật hy sinh, dẫn dụ ra ba con rắn từ trong ý thức của Toru, đánh thức chúng khỏi giấc ngủ say. Thông qua việc hủy diệt cậu bé, Người Tí Hon đưa ra lời cảnh cáo với cô bé, cố tìm cách đưa cô về bên cạnh Tử thể của cô. “Sự việc đến nông nỗi này là lỗi ở cô,” họ nói với cô bé như vậy.
Cô bé lại trở nên cô độc. Cô không di học nữa. Quen thân với ai là cô sẽ mang nguy hiểm đến cho người đó. Cô hiểu, đây chính là ý nghĩa của cuộc sống dưới hai mặt trăng.
Cuối cùng, cô hạ quyết tâm, bắt đầu tự tạo ra nhộng không khí của riêng mình. Cô có thể làm được. Người Tí Hon nói, họ đã đi theo đường hầm, từ chỗ của họ đến thế giới này. Nếu vậy, cô cũng có thể thông qua đường hầm đi ngược lại, đến chỗ của họ. Đến được đó rồi, chắc hẳn cô sẽ giải được điều bí mật, làm rõ tại sao mình lại ở đây, Mẫu thể và Tử thể có ý nghĩa gì. Biết đâu cô còn có thể giải cứu Toru nữa. Cô bé bắt đầu chế tác đường hầm. Chỉ cần rút những sợi tơ trong không khí dệt thành kén nhộng là xong. Rất mất thời gian, nhưng chỉ cần có đủ thời gian là cô có thể làm được.
Thế nhưng, nhiều lúc cô vẫn thấy hoang mang. Nỗi hoang mang ập đến chiếm lĩnh tâm trí cô. Mình thực sự là Mẫu thể ư? Liệu mình có đã đổi chỗ cho Tử thể của mình ở đâu đó không? Càng nghĩ ngợi, cô lại càng hoang mang. Làm cách nào để chứng minh mình là chính mình đây?
Câu chuyện kết thúc theo lối tượng trưng khi cô bé sắp sửa mở cửa đường hầm của chính mình ra. Câu chuyện không nói chuyện gì sẽ xảy ra đằng sau cánh cửa. Có lẽ vì chưa xảy ra.
Tử thể, Aomame nghĩ. Trước khi chết Lãnh Tụ đã nhắc đến từ này. Ông ta nói, để tạo lập lực lượng chống lại Người Tí Hon, con gái ông ta đã chạy trốn, bỏ lại Tử thể của mình. Chuyện này có lẽ đã thực sự xảy ra. Và người nhìn thấy hai mặt trăng không phải chỉ có mình nàng.
Dẫu vậy, Aomame cảm thấy dường như nàng hiểu được lý do tại sao cuốn tiểu thuyết này được công chúng nhiệt tình đón nhận. Đương nhiên, chuyện tác giả là một thiếu nữ mười bảy tuổi xinh đẹp hẳn cũng có ảnh hưởng ở mức độ nào đó. Nhưng chỉ vậy thôi thì không thể nào có một cuốn sách bán chạy. Không phải nghi ngờ gì, những miêu tả sinh động và chuẩn xác đã tạo ra sức hấp dẫn của cuốn sách. Tuy rằng câu chuyện miêu tả những trải nghiệm phi hiện thực của một cô bé sống trong môi trường khác thường, song nó cũng ẩn chứa thứ gì đó khơi gọi sự đồng cảm tự nhiên của mọi người. Có lẽ nó đã đánh thức thứ gì đó trong tiềm thức độc giả, khiến họ cứ thế mà đọc cuốn sách một mạng từ đầu đến cuối.
Chất lượng nghệ thuật của cuốn sách có lẽ quá nửa là nhờ công của Tengo, nhưng Aomame không thể chỉ ngợi khen có mỗi chuyện ấy. Nàng cần tập trung sự chú ý vào phần Người Tí Hon xuất hiện, đọc lại thật kỹ. Đối với nàng, đây là một câu chuyện cực kỳ hiện thực – như một cuốn hướng dẫn sử dụng vậy – có can hệ đến sự sống chết của những con người có thật. Nàng cần phải chắt lọc ra những tri thức và bí quyết từ trong đó, cần phải cố gắng lĩnh hội một cách cụ thể kỹ càng ý nghĩa của việc mình bị cuốn vào thế giới này.
Nhộng không khí không phải là một tiểu thuyết kỳ ảo do một thiếu nữ mười bảy tuổi hư cấu ra như mọi người vẫn nghĩ. Tuy rằng tên tuổi đã bị thay đổi, song những sự vật miêu tả trong đó quá nửa là trải nghiệm của bản thân cô bé, xảy ra trong thế giới hiện thực… Aomame tin chắc như thế. Fukaeri đã cố gắng ghi lại càng chuẩn xác càng tốt những gì mình đã trải qua, để công khai với thế giới những bí mật bị ẩn giấu trong đó, để mọi người biết đến sự tồn tại của Người Tí Hon và những hành vi của họ.
Tử thể mà cô bé từ bỏ có lẽ đã trở thành đường hầm của Người Tí Hon dẫn họ đến với Lãnh Tụ, cũng chính là cha cô bé, khiến người này trở thành Người Tiếp thụ. Sau đó, ho đẩy những thành viên của Akebono, khi ấy đã trở nên vô dụng với họ, vào một cuộc tự sát đẫm máu, đồng thời biến phần còn lại là Sakigake thành một đoàn thể tôn giáo ranh ma, quân phiệt và có tính bài ngoại rất cao. Đối với Người Tí Hon, đây có lẽ là môi trường thích hợp nhất cho sự tồn tại của họ.
Aomame tự hỏi, Tử thể của Fukaeri khi không có Mẫu thể ở bên cạnh thì có thể sống được lâu không. Người Tí Hon từng nói, không có Mẫu thể, Tử thể muốn sống được một thời gian dài là điều cực kì khó khăn. Còn Mẫu thể, sống mà mất đi cái bóng của tâm linh mình thì sẽ ra sao?
Sau khi cô bé bỏ trốn, Người Tí Hon có lẽ đã áp dụng trình tự đó để tạo thêm mấy Tử thể khác nữa. Mục đích của họ hẳn là để khiến đường hầm của mình thêm rộng rãi và ổn định, kiểu như mở thêm làn xe cho tuyến đường cao tốc vậy. Cứ thế, có mấy Tử thể đã trở thành Người cảm tri của Người Tí Hon, và đóng vai trò như nữ tư tế ở Sakigake. Tsubasa là một trong số đó. Nếu Lãnh Tụ quan hệ tình dục không phải với thực thể của các thiếu nữa (Mẫu thể) mà với phân thân của họ (Tử thể) thì có thể lý giải được cách diễn đạt “giao hợp một cách đa nghĩa” của ông ta. Đồng thời nó cũng giải thích được ánh mắt Tsubasa, đờ đẫn, không có chiều sâu, giải thích tại sao cô bé hầu như không bao giờ nói chuyện. Aomame không rõ tại sao và bằng cách nào Tử thể của Tsubasa có thể đào thoát khỏi giáo đoàn. Nhưng hẳn cô bé đã bị nhét vào một cái nhộng không khí và “thu hồi về” bên cạnh Mẫu thể của mình rồi. Con chó bị sát hại đẫm máu chính là lời cảnh cáo của Người Tí Hon, giống như trường hợp Toru trong câu chuyện.
Các Tử thể muốn mang thai đứa con của Lãnh Tụ, nhưng những cô gái không phải thực thể ấy không có kinh nguyệt. Mặc dù thế, theo lời Lãnh Tụ, bọn họ vẫn vô cùng mong mỏi có thai. Tại sao?
Aomame lắc đầu. Vẫn còn quá nhiều điều khó hiểu.
Aomame rất muốn lập tức kể chuyện này với bà chủ. Người đàn ông đó rất có thể chỉ cưỡng hiếp cái bóng của các cô bé. Rất có thể chúng ta không cần phải giết chết ông ta.
Thế nhưng, chuyện này e rằng có giải thích thế nào cũng rất khó khiến người khác tin được. Aomame có thể lý giải được tâm trạng ấy. Bà chủ, không, chỉ cần là người đầu óc bình thường, bất kể là ai, cũng khó lòng ngay lập tức chấp nhận những thứ kiểu như Người Tí Hon. Mẫu thể, Tử thể, nhộng không khí đều là sự thật. Với những người đầu óc bình thường, đó chỉ là những thứ bịa tạc trong tiểu thuyết. Cũng như họ không thể tin bà hoàng hậu và con thỏ mang đồng hồ trong Alice ở xứ thần tiên thực sự tồn tại trên đời vậy.
Nhưng Aomame đã tận mắt trông thấy hai mặt trăng – mới và cũ – treo trên bầu trời trong thế giới hiện thực. Nàng thực sự đang sống dưới ánh sáng của hai mặt trăng, đồng thời cảm nhận được rõ rệt sức hút xiên vẹo ấy tác động lên cơ thể mình. Và trong gian phòng khách sạn tối tăm, nàng đã giết chết người gọi là Lãnh Tụ ấy bằng chính đôi tay mình.
Như vậy, thực chất Người Tí Hon đã khống chế cộng đồng Sakigake, Aomame không biết mục đích cuối cùng của họ khi làm vậy là gì. Có lẽ họ muốn thứ gì đó vượt trên cả thiện lẫn ác. Nhưng cô bé kia, nhân vật chính của Nhộng không khí đã nhận thức được bằng trực giác rằng thứ đó không đúng và cố gắng phản kích lại bằng cách của mình. Cô bỏ lại Tử thể của mình, chạy trốn khỏi cộng đồng. Theo cách nói của Lãnh Tụ, cô đã tìm cách phát động cuộc đấu tranh chống lại Người Tí Hon, để duy trì sự cân bằng cho thế giới. Cô lần ngược theo đường hầm của Người Tí Hon, tìm cách xâm nhập địa bàn của họ. Câu chuyện của cô chính là phương tiện giao thông của cô, còn Tengo thì trở thành người cộng tác, giúp cô viết ra câu chuyện ấy. Lúc đó chắc Tengo không hiểu được ý nghĩa của việc mình làm, thậm chí đến giờ anh cũng vẫn chưa hiểu được.
Nói tóm lại, cuốn sách Nhộng không khí là một đầu mối rất quan trọng.
Mọi sự đều bắt nguồn từ câu chuyện này.
Thế nhưng, rốt cuộc mình đóng vai trò gì trong đó?
Từ khoảnh khắc nghe bản Sinfonietta của Janáček và leo xuống cầu thang thoát hiểm trên đường cao tốc Thủ đô đang tắc nghẽn, mình liền bị lôi vào thế giới có hai mặt trăng treo trên bầu trời, vào năm 1Q84 đầy những câu đố này. Điều đó có ý nghĩa gì?
Nàng nhắm mắt lại, trầm tư.
Có lẽ mình đã bị kéo vào đường hầm trong cuộc đấu tranh chống lại Người Tí Hon do Fukaeri và Tengo dựng nên. Chính cuộc đấu tranh ấy đã đưa mình đến phía bên này. Aomame nghĩ. Còn có lời giải thích nào khác nữa? Và mình đảm nhiệm một vai trò không thể coi là nhỏ trong câu chuyện này. Không, thậm chí có thể nói mình là một trong những nhân vật trung tâm
Aomame đưa mắt nhìn xung quanh. Vậy có nghĩa là, mình đang ở trong câu chuyện mà Tengo viết ra. Ở một tầng nghĩa nào đó, mình đang ở bên trong anh ấy, nàng nhận ra như vậy. Có thể nói, mình đang ở trong thần điện đó.
Trước đây mình từng xem một bộ phim khoa học viễn tưởng cũ trên ti vi, nhan đề gì mình quên mất rồi. Chuyện kể về một nhóm nhà khoa học tự thu nhỏ mình đến mức chỉ có thể quan sát thấy dưới kính hiển vi, ngồi trong một thiết bị giống như tàu ngầm (cũng được thu nhỏ lại), chui vào mạch máu của người bệnh, men theo mạch máu tiến vào não bộ để thực hiện một cuộc phẫu thuật không thể thực hiện trong hoàn cảnh thông thường. Tình hình của mình lúc này có lẽ cũng hơi giống như thế. Mình đang ở trong máu của Tengo, tuần hoàn bên trong cơ thể anh ấy. Mình vừa ác chiến với những bạch huyết cầu đang ập đến tấn công hòng loại trừ dị vật xâm nhập (chính là mình) đang lao đến mục tiêu: mầm bệnh. Và khi giết chết Lãnh Tụ trong phòng suite của khách sạn Okura, hẳn là mình đã “loại trừ” thành công mầm bệnh ấy.
Ý nghĩ đó là Aomame ít nhiều cảm thấy ấm lòng. Mình đã hoàn thành sứ mệnh được giao. Không nghi ngờ gì nữa, đây là một sứ mệnh khó khăn tột cùng, khiến mình phải hoảng hồn một phen. Nhưng mình đã bình tĩnh hoàn thành công việc một cách hoàn mỹ trong tiếng sấm ầm ầm… có lẽ Tengo cũng đang quan sát cảnh ấy. Nàng lấy làm tự hào vì việc mình đã làm.
Nếu tiếp tục mượn hình ảnh máu để so sánh, mình là một phế vật đã hoàn thành sứ mệnh, không lâu sau sẽ bị thu hồi về tĩnh mạch rồi nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cơ thể. Đây là quy tắc của hệ thống cơ thể con người. Không có cách nào thoát khỏi số mệnh ấy. Nhưng thế thì có sao? Aomame nghĩ. Lúc này mình đang ở bên trong Tengo, được bao bọc trong hơi ấm của anh, được nhịp đập trái tim anh ấy dẫn lối, nghe theo logic của anh, quy tắc của anh ấy, có lẽ còn cả những câu chữ anh ấy đang viết ra nữa. Thật tuyệt vời biết bao! Ở bên trong anh, được anh bao bọc như thế này!
Aomame ngồi dưới sàn nhà, nhắm mắt lại, gí mũi sát vào trang sách, hít lấy mùi hương phảng phất trên đó. Mùi giấy, mùi mực. Nàng lặng lẽ thả mình theo dòng chảy tự nhiên, nghiêng tai chăm chú lắng nghe nhịp đập của trái tim Tengo.
Đây chính là nước Trời, nàng thầm nhủ.
Mình đã sẵn sàng để chết. Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.
Bình luận truyện