Đại Đế Cơ
Quyển 3 - Chương 109: Không vội
Chiến trường thay đổi trong nháy mắt.
Một ngày có thể hành quân mấy trăm dặm. Hai ngày có thể tấn công, đánh chiếm được một cửa ải, ba ngày đã có thể xoay chuyển cục diện.
Trên chiến trường sợ nhất chính là chờ đợi, điều đó đồng nghĩa với việc phải đánh cược, và đánh cược chính là biểu hiện của thắng thua. Ai dám chắc chắn mình mãi mãi là kẻ thắng?
Tần Đàm Công.
Đối với mười mấy tên tướng soái kia mà nói thì chỉ cần hắn ta mở lời bọn họ tuyệt đối sẽ không hoài nghi. Bọn họ không hỏi thêm gì nữa, chỉ cúi đầu rồi lui ra ngoài.
Đám thị vệ trong đại lao cũng đi ra ngoài hết. Cây đuốc cháy suốt cả ngày lẫn đêm được để thêm vào bên trong, chỉ còn lại Tần Đàm Công và chiếc bóng của hắn.
Tần Đàm Công ngồi trên chiếc phản sắt, ngón tay tiếp tục gõ nhẹ vào đầu gối, dường như lại bắt đầu trầm tư suy nghĩ. Nhưng ngón tay gõ xuống mấy cái thì dừng lại.
“Vua Tây Lương đã bày mưu từ lâu.”
Một giọng nói già nua cất lên từ bên ngoài phòng giam. Một bóng người xuất hiện, bước đi tưởng như rất chậm mà lại cũng rất nhanh. Thoắt cái đã đứng trước cửa phòng giam.
Mà cùng lúc đó tiếng xiềng xích cũng vang lên, Tần Đàm Công đứng dậy, cúi người hành lễ: “Tứ đại sư.” Rồi mới ngẩng đầu dậy nhìn người trước mặt.
Ánh đuốc nơi phòng giam soi xuống,Tứ đại sư không hề mặc y phục màu vàng lấp lánh mà chỉ mặc bộ đồ cũ nát không vừa vặn. Cả người bốc lên mùi chua thối, đầu tóc bù xù. Khiến cho diện mạo của ông ta càng già yếu, gầy gò thấy rõ.
Ông nhìn Tần Đàm Công, không nói gì.
Tần Đàm Công nói: “Ta đã biết vua Tây Lương bày mưu từ trước, từ khi nghị hòa hắn đã bắt đầu chuẩn bị cho ngày hôm nay rồi. Hắn từ trước đến nay đều sẽ không thực sự chịu cúi đầu xưng thần, càng sẽ không chìm đắm trong những phồn hoa mà giao thương hai nước đạt được khi mà quan hệ hai bên hòa bình, hữu hảo. Hắn là một con dã thú lòng tham không đáy. Đi săn, bắt giết mới là bản tính của hắn.
Lúc này, Tứ đại sư mới lên tiếng: “Nếu ngươi đã biết thì từ đầu không nên đáp ứng hắn chuyện thi quân tử, mở cửa phòng giam, dâng cơ hội cho hắn.” Ông nhìn ánh mắt vừa u ám vừa đục ngầu của Tần Đàm Công: “Đừng nói là ngươi vì nhi tử ngươi, từ cái lúc nó đi khỏi thì nó đã chết rồi.”
Tần Đàm Công gật đầu: “Vâng, đại sư, tất nhiên không phải vì con muốn nhi tử quay lại Đại Chu. Thi quân tử là cửa lớn của phòng giam. Việc mở nó ra không chỉ là vì vua Tây Lương. Đây là một việc đáng để làm. Còn về phần mười mấy vạn đại quân Tây Lương.” Hắn hơi mỉm cười: “Đến lúc đó, hắn đến theo cách nào thì chính con sẽ bắt hắn phải về theo cách đó. Những gì hắn đã gây ra cho Đại Chu ta, con cũng sẽ trả lại cho hắn gấp mười một lần.”
Đến lúc đó, chỉ là không phải bây giờ.
Tứ đại sư nói: “Đất đai có thể lấy lại được nhưng tính mạng của binh lính và dân chúng bị tàn sát trong thành thì không thể nào.”
Tần Đàm Công cười lớn nhưng ngay sau đó vội thu lại nụ cười. Dường như vì hắn nghe thấy một câu chuyện cười không thể nhịn được. Hắn hành lễ với Tứ đại sư, cung kính nói: “Đại sư từ bi.”
“Đây không phải là từ bi hay không. Mà nó là một chuyện không nên xảy ra. Những người đó vô tội.”
Tần Đàm Công mang theo ý cười đáp: “Các quân trên một bàn cờ đều là phải chết. Những quân đã chết mới làm nên nước cờ sống. Đại sư, chết đi sau đó mới có thay đổi, có có thể có sinh mệnh mới.”
Tứ đại sư nhìn hắn đầy thương hại: “Đến lúc này thì ngươi và hắn có gì khác nhau chứ?”
Đương nhiên Tần Đàm Công hiểu người mà đại sư muốn ám chỉ là ai, hắn lại cười lớn, xiềng xích trên người cũng va vào nhau, phát ra âm thanh “loảng xoảng.”
“Tất nhiên là có.” Hắn đáp: “Khác ở chỗ kẻ kia đã chết rồi, còn ta vẫn chưa chết.”
Tứ đại sư nhìn người đang đứng trong phòng giam kia, lắc đầu: “Các quân trên bàn cờ đều là phải chết.”
Đây là lời của Tần Đàm Công ban nãy.
Ông nói xong liền quay người chậm rãi rời khỏi. Ông bước rất chậm rãi mà tựa hồ như rất nhanh, vèo cái đã ra đến bên ngoài, y như lúc mới đến. Lúc dáng người lọm khọm của ông khuất hẳn trong lối đi. Tần Đàm Công mới lên tiếng.
“Kẻ kiên trì sẽ không chết.” Hắn nói, sắc mặt bình tĩnh đứng trong phòng giam.
Bóng người lọm khọm kia lại chưa bước ra khỏi đại lao mà chỉ bước đến một gian khác, nhẹ cúi đầu chui vào bên trong thông qua khe hở dưới các lan can, tựa như chỉ thoáng cái đã biến nhỏ, nhanh chóng khôi phục lại thần sắc như thường.
So với căn phòng giam của Tần Đàm Công thì căn phòng này tốt hơn nhiều. Trên tường còn có một khung cửa sổ nhỏ hẹp, những cơn gió mùa hạ lùa vào.
Tốt hơn cũng chỉ là so sánh giữa các phòng với nhau còn ở Hoàng Thành thì không có một phòng giam nào tốt cả, đều là tù lao. Chỉ cần vào trong đó là có duy nhất một con đường chết, bị kéo ra ngoài rồi tử mạng hoặc là cho lên nấu đến khi chết.
Những tên tù bị lôi ra ngoài thì cai ngục rất nhanh sẽ quên. Bởi ở trong chốn ngục tù đã lâu, đám cai ngục không thể nhớ rõ, cũng lười nhớ xem là ai với ai. Đều là những xác chết bị quấn chiếu vứt ra ngoài như nhau cả.
Tứ đại sư ngồi dưới cửa sổ tựa hồ như đang tận hưởng không khí tươi mới khác hoàn toàn so với những căn phòng giam nặng mùi tử khí kia.
“Không có ai là quân cờ kiên trì cả”. Ông nói: “Con người không phải là quân cờ.” Nói đến đi thì bật cười, nếp nhăn trên mặt chồng chất: “Tỷ dụ như tiểu tử nhãi kia sẽ không dễ dàng chết như vậy.” Sau đó thì cúi đầu lẩm bẩm: “Tuy nhiên nàng ta vẫn luôn là một quân cờ phải loại bỏ.”
Có tiếng bước chân kèm theo cả tiếng gõ cửa đại lao, chiếc khóa của xích trên cửa không biết đã bao lâu rồi chưa mở ra kêu lẻng kẻng.
“Ngồi xuống, ngồi xuống. Ngoan ngoãn chút đi.” Tên cai ngục hò hét: “Sống à, chết à, muốn chết thì cứ đợi đi rồi sẽ được toại nguyện.”
Tứ đại sư không nói gì nữa, ngoan ngoãn ngồi xuống dưới đất.
Những ánh hoàng hôn cuối cùng biến mất dần ở phía tây, sương đêm buông xuống mờ mờ. Nheo mắt lại nhìn ra chỗ cánh đồng, thấy không biết bao nhiêu là binh mã đang tức tốc di chuyển.
“Thế này chỉ có thể đợi chết rồi.”
Đứng ở bên kia bờ sông, Diệu Diệu đầu đội chiếc mũ che chắn, tay cầm lưới đánh cá, lộ ra khuôn mặt lo lắng nói.
“Sao lại nhiều binh mã như vậy.” Quách Hoài Xuân tay cầm mái chèo giả làm người lái thuyền cũng là khuôn mặt lo lắng như thế, nói: “Chỉ cần một lệnh được hạ xuống thì cả cái Huỳnh Sa đạo sẽ bị san phẳng.”
“Mấy người chúng ta trà trộn vào được thì có tác dụng gì.” Quách Hoài Xuân nói: “Qua đại nhân, số khói độc chũng ta chuẩn bị không đủ để giết chết đám quân này, huống hồ bốn phương tám hướng đều có quân lính… Hơn nữa Đốc đại nhân cũng ở trong đó. Độc chết cả ông ấy sao?” Nói đến câu cuối thì thanh âm nhỏ dần lại, cuối cùng thì mất hút hẳn.
Bốn phương tám hướng, vài người lạ nhìn về phía trước, Đốc đại nhân cũng ở trong số đó. Mặc dù trong đó không có Ngũ Đố quân nhưng bọn họ nhanh chóng nhận ra được nhánh quân kia là do Đốc đại nhân dẫn đầu. Quá quen thuộc rồi.
Vượt qua đoàn quân dày đặc là có thể nhìn thấy phía xa xa, trong làn khói sáng, thành trì hiện ra mờ mờ ảo ảo, trời đất bị bịt kín một màu u ám. Thoáng qua tựa như một ngọn lửa.
“Cảnh tượng này thật giống quá.” Người rèn sắt chợt lên tiếng.
Người rèn sắt rất ít khi nói chuyện, vừa cất lời đã nói một câu không đầu không đuôi như vậy. Giống thứ gì?
Đám người Diệu Diệu nhìn sang bên này.
“Giống Huỳnh Sa đạo vào đêm hôm đó đúng không?” Tề Sưu hỏi.
Tuy là câu nói này vẫn có chút mơ hồ nhưng mọi người đều hiểu ngay tức khắc. Đêm hôm đó đương nhiên ám chỉ mười năm trước, hoàng hậu gặp nạn, lửa lớn đốt thành.
Đêm hôm đó, Đốc dẫn theo năm vạn Ngũ đố quân tàn sát, phá hoại xung quanh, xông vào thành Huỳnh Sa đạo. Do phân công khác nhau, chỉ có người rèn sắt đi theo Đốc, còn Qua Xuyên, Diệu Diệu đợi ở những vị trí khác nên bọn họ không được tận mắt chứng kiến, đích thân trải qua.
“Đêm hôm đó cũng giống thế này sao?” Mọi người nhìn về phía trước, biểu cảm phức tạp.
“Ngươi cái tên rèn sắt quê mùa kia…” Quách Hoài Xuân lẩm bẩm: “Đã phát sinh một số chuyện rối ren.”
Giờ phút này quả thật giống lúc trước nhưng mà lại cũng không giống. Đều không biết phải nói thế nào, phải nghĩ thế nào.
Qua Xuyên chợt nói: “Chúng ta vào trong đó có thể dẫn nàng ấy trốn ra ngoài.”
Cũng giống như lúc trước Đốc đại nhân đã đưa đứa nhỏ đó trốn ra.
Chỉ là lần này Đốc đại nhân vẫn ở trong đó, nhưng lại không thể vào thành. Không. Vẫn có thể vào được nhưng sẽ không cứu được đứa nhỏ ấy nữa.
“Hoa xuân trăng thu bao giờ hết. Việc đã qua biết được bao nhiêu” (1). Trong đầu Quách Hoài Xuân chợt nảy ra câu thơ không biết đã đọc được từ khi nào. Nhất thời bị cái sến của mình làm cho sợ hãi lắc đầu. Không được. Thế này thì càng ngày càng rối rồi.
“E hèm.”
Diệu Diệu hắng giọng gọi: “Qua tỉ, tỉ đang nghĩ gì thế?” Sau đó vẩy nhẹ lưới cá trong tay, những bọt nước bắn lên, những con cá bạc óng ánh nhảy lên từ làn nước, những tiếng nước chuyển động đã phá vỡ sự tĩnh lặng bên bờ.
“Mọi người nghĩ gì vậy, tình hình hiện tại không giống lúc trước, người đang ở trong đó là ai, là Thanh Tử thiếu gia, nàng ấy bao giờ mới thoát ra được.”
Lời vừa phát ra thì tất cả mọi người đều nhìn Diệu Diệu, Quách Hoài Xuân định nhắc nhưng chưa kịp mở lời…
“Im miệng.” Diệu Diệu quát, sau đó nói tiếp: “Điều ta muốn nói không phải là ý này. Ta nói là Thanh Tử thiếu gia vô cùng lợi hại. Nếu nàng ấy muốn trốn thoát thì căn bản không cần đến người khác giúp. Nếu nàng ấy không trốn có nghĩa là nàng ấy không cần ai giúp đỡ trốn ra ngoài cả.”
Không cần sao?
Ánh mắt mọi người lại hướng về phía trước, vầng sáng đã dần dần biến mất, sắc đêm lại bao trùm lên vạn vật.
……
“Rầm.”
Cửa phòng bất ngờ bị đẩy ra.
“Chậm thôi.” Vương Liệt Dương nói với đám tùy tùng: “Thô kệch, ẩu đoảng.”
Tùy tùng vâng lệnh, buông tay đứng ở chỗ cửa, Vương Liệt Dương chậm rãi bước vào trong phòng, đưa mắt nhìn Tống Nguyên đang ngồi trước bàn tay cầm quyển sách.
“Tống đại nhân đã nhận được ý chỉ của điện hạ rồi chứ?” Vương Liệt Dương hỏi.
Tống Nguyên vẫn xem văn kiện trên tay đáp: “Vừa mới nhận được, chắc là Vương tướng gia đã xem xong rồi mới vội vàng đến đây nhỉ, cũng đều là thư khẩn mà Vương gia ngài nhận được còn nhanh hơn cả ta.”
Có thể đưa đến nhanh hơn chỉ thị của Tống Anh thì nhất định là lén truyền đến rồi. Hành động này nếu coi nhỏ thì cũng không vấn đề gì nhưng nếu làm lớn chuyện có thể bị coi là khi quân. Đương nhiên Vương Liệt Dương không quan tâm đến lời châm chọc này của Tống Nguyên, chỉ coi như tiếng chó sủa mà thôi.
“Vậy thì Tống đại nhân mau chóng cho quân đến biên giới, ngay lập tức!” Vương Liệt Dương nghiêm mặt lại nói.
Tống Nguyên gấp văn kiện lại đáp: “Không vội, đợi mấy hôm nữa.”
***
(1) Nguyên văn: Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu. Vãng sự tri đa thiểu. Trích trong bài “Ngu mĩ nhân kì nhất” của nhà thơ Lý Dục.
Một ngày có thể hành quân mấy trăm dặm. Hai ngày có thể tấn công, đánh chiếm được một cửa ải, ba ngày đã có thể xoay chuyển cục diện.
Trên chiến trường sợ nhất chính là chờ đợi, điều đó đồng nghĩa với việc phải đánh cược, và đánh cược chính là biểu hiện của thắng thua. Ai dám chắc chắn mình mãi mãi là kẻ thắng?
Tần Đàm Công.
Đối với mười mấy tên tướng soái kia mà nói thì chỉ cần hắn ta mở lời bọn họ tuyệt đối sẽ không hoài nghi. Bọn họ không hỏi thêm gì nữa, chỉ cúi đầu rồi lui ra ngoài.
Đám thị vệ trong đại lao cũng đi ra ngoài hết. Cây đuốc cháy suốt cả ngày lẫn đêm được để thêm vào bên trong, chỉ còn lại Tần Đàm Công và chiếc bóng của hắn.
Tần Đàm Công ngồi trên chiếc phản sắt, ngón tay tiếp tục gõ nhẹ vào đầu gối, dường như lại bắt đầu trầm tư suy nghĩ. Nhưng ngón tay gõ xuống mấy cái thì dừng lại.
“Vua Tây Lương đã bày mưu từ lâu.”
Một giọng nói già nua cất lên từ bên ngoài phòng giam. Một bóng người xuất hiện, bước đi tưởng như rất chậm mà lại cũng rất nhanh. Thoắt cái đã đứng trước cửa phòng giam.
Mà cùng lúc đó tiếng xiềng xích cũng vang lên, Tần Đàm Công đứng dậy, cúi người hành lễ: “Tứ đại sư.” Rồi mới ngẩng đầu dậy nhìn người trước mặt.
Ánh đuốc nơi phòng giam soi xuống,Tứ đại sư không hề mặc y phục màu vàng lấp lánh mà chỉ mặc bộ đồ cũ nát không vừa vặn. Cả người bốc lên mùi chua thối, đầu tóc bù xù. Khiến cho diện mạo của ông ta càng già yếu, gầy gò thấy rõ.
Ông nhìn Tần Đàm Công, không nói gì.
Tần Đàm Công nói: “Ta đã biết vua Tây Lương bày mưu từ trước, từ khi nghị hòa hắn đã bắt đầu chuẩn bị cho ngày hôm nay rồi. Hắn từ trước đến nay đều sẽ không thực sự chịu cúi đầu xưng thần, càng sẽ không chìm đắm trong những phồn hoa mà giao thương hai nước đạt được khi mà quan hệ hai bên hòa bình, hữu hảo. Hắn là một con dã thú lòng tham không đáy. Đi săn, bắt giết mới là bản tính của hắn.
Lúc này, Tứ đại sư mới lên tiếng: “Nếu ngươi đã biết thì từ đầu không nên đáp ứng hắn chuyện thi quân tử, mở cửa phòng giam, dâng cơ hội cho hắn.” Ông nhìn ánh mắt vừa u ám vừa đục ngầu của Tần Đàm Công: “Đừng nói là ngươi vì nhi tử ngươi, từ cái lúc nó đi khỏi thì nó đã chết rồi.”
Tần Đàm Công gật đầu: “Vâng, đại sư, tất nhiên không phải vì con muốn nhi tử quay lại Đại Chu. Thi quân tử là cửa lớn của phòng giam. Việc mở nó ra không chỉ là vì vua Tây Lương. Đây là một việc đáng để làm. Còn về phần mười mấy vạn đại quân Tây Lương.” Hắn hơi mỉm cười: “Đến lúc đó, hắn đến theo cách nào thì chính con sẽ bắt hắn phải về theo cách đó. Những gì hắn đã gây ra cho Đại Chu ta, con cũng sẽ trả lại cho hắn gấp mười một lần.”
Đến lúc đó, chỉ là không phải bây giờ.
Tứ đại sư nói: “Đất đai có thể lấy lại được nhưng tính mạng của binh lính và dân chúng bị tàn sát trong thành thì không thể nào.”
Tần Đàm Công cười lớn nhưng ngay sau đó vội thu lại nụ cười. Dường như vì hắn nghe thấy một câu chuyện cười không thể nhịn được. Hắn hành lễ với Tứ đại sư, cung kính nói: “Đại sư từ bi.”
“Đây không phải là từ bi hay không. Mà nó là một chuyện không nên xảy ra. Những người đó vô tội.”
Tần Đàm Công mang theo ý cười đáp: “Các quân trên một bàn cờ đều là phải chết. Những quân đã chết mới làm nên nước cờ sống. Đại sư, chết đi sau đó mới có thay đổi, có có thể có sinh mệnh mới.”
Tứ đại sư nhìn hắn đầy thương hại: “Đến lúc này thì ngươi và hắn có gì khác nhau chứ?”
Đương nhiên Tần Đàm Công hiểu người mà đại sư muốn ám chỉ là ai, hắn lại cười lớn, xiềng xích trên người cũng va vào nhau, phát ra âm thanh “loảng xoảng.”
“Tất nhiên là có.” Hắn đáp: “Khác ở chỗ kẻ kia đã chết rồi, còn ta vẫn chưa chết.”
Tứ đại sư nhìn người đang đứng trong phòng giam kia, lắc đầu: “Các quân trên bàn cờ đều là phải chết.”
Đây là lời của Tần Đàm Công ban nãy.
Ông nói xong liền quay người chậm rãi rời khỏi. Ông bước rất chậm rãi mà tựa hồ như rất nhanh, vèo cái đã ra đến bên ngoài, y như lúc mới đến. Lúc dáng người lọm khọm của ông khuất hẳn trong lối đi. Tần Đàm Công mới lên tiếng.
“Kẻ kiên trì sẽ không chết.” Hắn nói, sắc mặt bình tĩnh đứng trong phòng giam.
Bóng người lọm khọm kia lại chưa bước ra khỏi đại lao mà chỉ bước đến một gian khác, nhẹ cúi đầu chui vào bên trong thông qua khe hở dưới các lan can, tựa như chỉ thoáng cái đã biến nhỏ, nhanh chóng khôi phục lại thần sắc như thường.
So với căn phòng giam của Tần Đàm Công thì căn phòng này tốt hơn nhiều. Trên tường còn có một khung cửa sổ nhỏ hẹp, những cơn gió mùa hạ lùa vào.
Tốt hơn cũng chỉ là so sánh giữa các phòng với nhau còn ở Hoàng Thành thì không có một phòng giam nào tốt cả, đều là tù lao. Chỉ cần vào trong đó là có duy nhất một con đường chết, bị kéo ra ngoài rồi tử mạng hoặc là cho lên nấu đến khi chết.
Những tên tù bị lôi ra ngoài thì cai ngục rất nhanh sẽ quên. Bởi ở trong chốn ngục tù đã lâu, đám cai ngục không thể nhớ rõ, cũng lười nhớ xem là ai với ai. Đều là những xác chết bị quấn chiếu vứt ra ngoài như nhau cả.
Tứ đại sư ngồi dưới cửa sổ tựa hồ như đang tận hưởng không khí tươi mới khác hoàn toàn so với những căn phòng giam nặng mùi tử khí kia.
“Không có ai là quân cờ kiên trì cả”. Ông nói: “Con người không phải là quân cờ.” Nói đến đi thì bật cười, nếp nhăn trên mặt chồng chất: “Tỷ dụ như tiểu tử nhãi kia sẽ không dễ dàng chết như vậy.” Sau đó thì cúi đầu lẩm bẩm: “Tuy nhiên nàng ta vẫn luôn là một quân cờ phải loại bỏ.”
Có tiếng bước chân kèm theo cả tiếng gõ cửa đại lao, chiếc khóa của xích trên cửa không biết đã bao lâu rồi chưa mở ra kêu lẻng kẻng.
“Ngồi xuống, ngồi xuống. Ngoan ngoãn chút đi.” Tên cai ngục hò hét: “Sống à, chết à, muốn chết thì cứ đợi đi rồi sẽ được toại nguyện.”
Tứ đại sư không nói gì nữa, ngoan ngoãn ngồi xuống dưới đất.
Những ánh hoàng hôn cuối cùng biến mất dần ở phía tây, sương đêm buông xuống mờ mờ. Nheo mắt lại nhìn ra chỗ cánh đồng, thấy không biết bao nhiêu là binh mã đang tức tốc di chuyển.
“Thế này chỉ có thể đợi chết rồi.”
Đứng ở bên kia bờ sông, Diệu Diệu đầu đội chiếc mũ che chắn, tay cầm lưới đánh cá, lộ ra khuôn mặt lo lắng nói.
“Sao lại nhiều binh mã như vậy.” Quách Hoài Xuân tay cầm mái chèo giả làm người lái thuyền cũng là khuôn mặt lo lắng như thế, nói: “Chỉ cần một lệnh được hạ xuống thì cả cái Huỳnh Sa đạo sẽ bị san phẳng.”
“Mấy người chúng ta trà trộn vào được thì có tác dụng gì.” Quách Hoài Xuân nói: “Qua đại nhân, số khói độc chũng ta chuẩn bị không đủ để giết chết đám quân này, huống hồ bốn phương tám hướng đều có quân lính… Hơn nữa Đốc đại nhân cũng ở trong đó. Độc chết cả ông ấy sao?” Nói đến câu cuối thì thanh âm nhỏ dần lại, cuối cùng thì mất hút hẳn.
Bốn phương tám hướng, vài người lạ nhìn về phía trước, Đốc đại nhân cũng ở trong số đó. Mặc dù trong đó không có Ngũ Đố quân nhưng bọn họ nhanh chóng nhận ra được nhánh quân kia là do Đốc đại nhân dẫn đầu. Quá quen thuộc rồi.
Vượt qua đoàn quân dày đặc là có thể nhìn thấy phía xa xa, trong làn khói sáng, thành trì hiện ra mờ mờ ảo ảo, trời đất bị bịt kín một màu u ám. Thoáng qua tựa như một ngọn lửa.
“Cảnh tượng này thật giống quá.” Người rèn sắt chợt lên tiếng.
Người rèn sắt rất ít khi nói chuyện, vừa cất lời đã nói một câu không đầu không đuôi như vậy. Giống thứ gì?
Đám người Diệu Diệu nhìn sang bên này.
“Giống Huỳnh Sa đạo vào đêm hôm đó đúng không?” Tề Sưu hỏi.
Tuy là câu nói này vẫn có chút mơ hồ nhưng mọi người đều hiểu ngay tức khắc. Đêm hôm đó đương nhiên ám chỉ mười năm trước, hoàng hậu gặp nạn, lửa lớn đốt thành.
Đêm hôm đó, Đốc dẫn theo năm vạn Ngũ đố quân tàn sát, phá hoại xung quanh, xông vào thành Huỳnh Sa đạo. Do phân công khác nhau, chỉ có người rèn sắt đi theo Đốc, còn Qua Xuyên, Diệu Diệu đợi ở những vị trí khác nên bọn họ không được tận mắt chứng kiến, đích thân trải qua.
“Đêm hôm đó cũng giống thế này sao?” Mọi người nhìn về phía trước, biểu cảm phức tạp.
“Ngươi cái tên rèn sắt quê mùa kia…” Quách Hoài Xuân lẩm bẩm: “Đã phát sinh một số chuyện rối ren.”
Giờ phút này quả thật giống lúc trước nhưng mà lại cũng không giống. Đều không biết phải nói thế nào, phải nghĩ thế nào.
Qua Xuyên chợt nói: “Chúng ta vào trong đó có thể dẫn nàng ấy trốn ra ngoài.”
Cũng giống như lúc trước Đốc đại nhân đã đưa đứa nhỏ đó trốn ra.
Chỉ là lần này Đốc đại nhân vẫn ở trong đó, nhưng lại không thể vào thành. Không. Vẫn có thể vào được nhưng sẽ không cứu được đứa nhỏ ấy nữa.
“Hoa xuân trăng thu bao giờ hết. Việc đã qua biết được bao nhiêu” (1). Trong đầu Quách Hoài Xuân chợt nảy ra câu thơ không biết đã đọc được từ khi nào. Nhất thời bị cái sến của mình làm cho sợ hãi lắc đầu. Không được. Thế này thì càng ngày càng rối rồi.
“E hèm.”
Diệu Diệu hắng giọng gọi: “Qua tỉ, tỉ đang nghĩ gì thế?” Sau đó vẩy nhẹ lưới cá trong tay, những bọt nước bắn lên, những con cá bạc óng ánh nhảy lên từ làn nước, những tiếng nước chuyển động đã phá vỡ sự tĩnh lặng bên bờ.
“Mọi người nghĩ gì vậy, tình hình hiện tại không giống lúc trước, người đang ở trong đó là ai, là Thanh Tử thiếu gia, nàng ấy bao giờ mới thoát ra được.”
Lời vừa phát ra thì tất cả mọi người đều nhìn Diệu Diệu, Quách Hoài Xuân định nhắc nhưng chưa kịp mở lời…
“Im miệng.” Diệu Diệu quát, sau đó nói tiếp: “Điều ta muốn nói không phải là ý này. Ta nói là Thanh Tử thiếu gia vô cùng lợi hại. Nếu nàng ấy muốn trốn thoát thì căn bản không cần đến người khác giúp. Nếu nàng ấy không trốn có nghĩa là nàng ấy không cần ai giúp đỡ trốn ra ngoài cả.”
Không cần sao?
Ánh mắt mọi người lại hướng về phía trước, vầng sáng đã dần dần biến mất, sắc đêm lại bao trùm lên vạn vật.
……
“Rầm.”
Cửa phòng bất ngờ bị đẩy ra.
“Chậm thôi.” Vương Liệt Dương nói với đám tùy tùng: “Thô kệch, ẩu đoảng.”
Tùy tùng vâng lệnh, buông tay đứng ở chỗ cửa, Vương Liệt Dương chậm rãi bước vào trong phòng, đưa mắt nhìn Tống Nguyên đang ngồi trước bàn tay cầm quyển sách.
“Tống đại nhân đã nhận được ý chỉ của điện hạ rồi chứ?” Vương Liệt Dương hỏi.
Tống Nguyên vẫn xem văn kiện trên tay đáp: “Vừa mới nhận được, chắc là Vương tướng gia đã xem xong rồi mới vội vàng đến đây nhỉ, cũng đều là thư khẩn mà Vương gia ngài nhận được còn nhanh hơn cả ta.”
Có thể đưa đến nhanh hơn chỉ thị của Tống Anh thì nhất định là lén truyền đến rồi. Hành động này nếu coi nhỏ thì cũng không vấn đề gì nhưng nếu làm lớn chuyện có thể bị coi là khi quân. Đương nhiên Vương Liệt Dương không quan tâm đến lời châm chọc này của Tống Nguyên, chỉ coi như tiếng chó sủa mà thôi.
“Vậy thì Tống đại nhân mau chóng cho quân đến biên giới, ngay lập tức!” Vương Liệt Dương nghiêm mặt lại nói.
Tống Nguyên gấp văn kiện lại đáp: “Không vội, đợi mấy hôm nữa.”
***
(1) Nguyên văn: Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu. Vãng sự tri đa thiểu. Trích trong bài “Ngu mĩ nhân kì nhất” của nhà thơ Lý Dục.
Bình luận truyện