Đại Đường Song Long Truyện
Chương 230: Đàm tiếu dụng binh
Quả nhiên không ngoài sở liệu của hai gã, sau khi tin tức kết minh với Lý Tử Thông truyền ra ngoài, hai vạn đại quân của Vũ Văn Hóa Cập lập tức tăng tốc độ hành quân, nhắm thẳng thành môn phía Bắc của Lương Đô tiến tới. Hai ngày sau, quân tiên phong đã chỉ còn cách thành năm dặm, đào hào đắp lũy lập trại, xây dựng trận địa tiền tiêu.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ẩn mình trên ngọn cây sam cao ba trượng mọc trên đỉnh một ngọn đồi phía xa xa, quan sát tình hình quân địch, không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào.
Khấu Trọng nói: “Dừng thì lập doanh, đi thì lập trận. Doanh trại này vừa có nguồn nước, lại có thể cố thủ, tấn công và phòng thủ đều rất tiện lơi, có thể thấy đối thủ lần này của chúng ta, tức là đám tướng lĩnh lớn nhỏ dưới trướng Vũ Văn Hóa Cập đó, đều là những chiến tướng dạn dày kinh nghiệm, tuyệt đối không thể xem thường được”.
Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý, nhìn bề ngoài Khấu Trọng có vẻ là kẻ thô lỗ sơ tâm, dễ đắc ý quên hết mọi sự, song sự thực thì lại hết sức bình tĩnh, thâm trầm cẩn thận, không bao giờ chủ quan khinh địch.
Đặt doanh trại đầu tiên là phải xem địa thế. Hiện giờ địch nhân đã lập trại trên dốc cao, lại gần rừng cây rậm, phòng thủ vô cùng cẩn mật, rõ ràng không phải hạng ô hợp, Khấu Trọng không dám khinh thị, đây chính là một điều kiện cơ bản cần phải có của một bậc thống soái.
Kế đó gã lại thuận miệng hỏi tiếp: “Trong bí kíp của Lỗ tiên sinh có chỉ thị gì về chuyện này không?”.
Khấu Trọng đáp: “Lập trại chi yếu, trước tiên phải đặt trại để người và súc vật nghỉ ngơi, cẩn thận đào hào đắp luỹ, nghiêm thủ cửa trại, chăm sóc quân binh bị bệnh, kiểm tra vũ khí, chuẩn bị đài lửa cảnh báo, đặt hiệu lệnh ban đêm, sắp đặt đèn đuốc, phòng mưa gió, xây dựng ám doanh, ngăn ngừa kẻ đến xâm phạm... đã đủ chưa hả?”.
Từ Tử Lăng nghe gã đọc ra một loạt những điều cần chú ý khi lập doanh trại, liền ngạc nhiên thốt: “Ngươi học thuộc cả cuốn binh thư đó đấy hả?”.
Khấu Trọng đắc ý nói: “Cái này gọi là cần cù có công hay là bổ sung trước khi lâm trận cũng được, tùy ngươi thôi. Nhưng mà ngươi có cảm thấy doanh trại này đặt hơi xa không, nếu kéo các công cụ công thành đến sát tường thành, e rằng chưa đến nơi thì lừa ngựa đã mệt chết rồi, thật không thực tế chút nào”.
Từ Tử Lăng vừa cẩn thận quan sát vừa cười cười nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi bắt đầu có chút đạo hành rồi đó! Vũ Văn phiệt nhiều đời làm tướng, đặt doanh trại thế này ắt hẳn có đạo lý của bọn chúng. Có lẽ là để làm nơi trữ lương và chăm sóc thương bệnh binh chăng? Ngoài ra còn có thể làm hậu phương chi viện cho doanh trại tác chiến nơi tiền tuyến nữa”.
Khấu Trọng vui vẻ nói: “Quả là anh hùng sở kiến lược đồng. Nơi này có thể nói là căn bản của đại quân Vũ Văn Hóa Cập trong lần Nam chinh này, nhưng vì đặt ở tận xa, nên sau khi vây thành chắc chắn chúng sẽ không ngờ bọn ta dám xuất thành tập kích, vì vậy mà phòng thủ tất nhiên sẽ lỏng lẻo. Chỉ cần chúng ta phối hợp thật tốt với kỳ binh của Tuyên Vĩnh, đánh cho bọn chúng trở tay không kịp, thắng lợi ít nhất đã có nửa phần nắm chắc trong tay rồi. Hà hà! Trận này xem ra cũng không khó lắm đâu!”.
Từ Tử Lăng vận công vào song mục, cẩn thận quan sát tình hình trại địch thêm lần nữa rồi trầm giọng nói: “Ngươi nghĩ quá dễ dàng rồi, doanh trại này dựa vào núi, bên ngoài có hào bên trong có lũy, chỉ cần bố trí thêm một số hố chông và bẫy, đắp đất lập rào, rồi cho người dùng cung nỏ canh phòng ngày đêm, cảnh giới bốn phía, lại đặt các chòi canh kín, lại còn cả đám cao thủ dưới trướng Vũ Văn Hóa Cốt nữa, ngươi nói đột kích là đột kích được ngay sao?”.
Khấu Trọng cười cười nói: “Hình như ngươi quên mất Lỗ Diệu Tử lão nhân gia của chúng ta lợi hại nhất không phải là binh pháp mà là các công cụ tinh xảo. Trong binh thư, lão đã liệt ra hơn mười phương pháp phá trại khác nhau, nói công trại cũng như công thành. Công thành phải dùng thang mây, lôi mộc, xe ngăn tên. Công trại cũng phải dùng xe, chỉ cần có thể phá được một hai lỗ hổng, binh lực của địch nhân lại không quá mạnh, thì phá trại thực dễ như trở bàn tay vậy”.
Từ Tử Lăng chau mày: “Xe ở đâu ra?”.
Khấu Trọng đáp: “Cải trang rồi vận chuyển đến, chuyện này sẽ do Tuyên Vĩnh phụ trách. Tiểu đệ giờ đã được chân truyền của Lỗ Diệu Tử, ít nhất cũng bằng một nửa Tôn Vũ phục sinh. Vũ Văn Hóa Cốt tự dẫn xác tới đây, ta không thuận tay dắt dê, trộm lương trộm ngựa làm hắn tức ói máu thì làm sao xứng với linh hồn mẹ trên trời được? Yên tâm đi! Ta hiểu hiếu tâm của ngươi mà!”.
Từ Tử Lăng nghe gã nói mà cũng phải bật cười, đồng thời cũng thầm lo lắng thay cho những kẻ đối địch với gã.
Bản thân Khấu Trọng vốn đã là một kỳ tài quân sự, đã biểu lộ tài năng trong nhiều trận đại chiến, hiện giờ cả những công cụ chiến tranh mà Lỗ Diệu Tử dựa vào các loại địa thế, hình thế khác nhau thiết kế ra gã cũng thuộc lòng như cháo, nếu để gã luyện được một đạo quân tinh nhuệ, thiên hạ này liệu còn ai có thể đối kháng được? E rằng ngay cả Lý Thế Dân cũng phải nếm mùi thất bại trước gã mất thôi. Hiện giờ Khấu Trọng chỉ thiếu có một đạo quân tinh nhuệ dũng mãnh và Dương Công Bảo Khố.
Chỉ nghe gã nói tiếp: “Có điều việc cần nhất bây giờ không phải là công trại, mà là trộm tên. Ngươi cũng biết số tên trong thành của chúng ta không đủ bắn trong nửa canh giờ mà. Lúc ấy chỉ dùng dầu nóng, nước sôi và đá thì không giữ được bao lâu đâu”.
Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Trộm tên thế nào được?”.
Khấu Trọng cười hì hì: “Không phải trộm, mà là mượn. Ta chỉ diễn lại kế mượn tên năm xưa của Khổng Minh tiên sinh thôi, chúng ta tặng bọn chúng tên giả, bọn chúng trả ta tên thật, như vậy không phải quá hời sao?”.
Kế đó gã lại chỉ tay vào dòng kênh Thông Tế chảy qua bên dưới: “Thám tử hồi báo, đại quân chủ lực của Vũ Văn Hóa Cốt đêm nay sẽ tới đây, ta đã sai người ngầm đặt hơn trăm chiếc khoái thuyền chở đầy người giả ở bờ đối diện, khi đại quân của hắn đến, sẽ thả cho thuyền trôi theo dòng nước, một người điều khiển, hai người bắn tên trúc, ngoài ra còn phái thêm binh mã giả vờ tiến công, Vũ Văn Hóa Cốt trong lúc tâm hoảng ý loạn, chỉ đành tặng tên cho chúng ta sử dụng thôi, coi như là món điểm tâm trước bữa ăn đi”.
Từ Tử Lăng thở dài: “Giờ thì cả ta cũng tin ngươi sẽ thắng trận này rồi!”.
o0o
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng cùng sánh vai ngồi trên lưng ngựa trên một ngọn đồi nhỏ, dõi mắt nhìn những điểm sáng đang di động trong thảo nguyên sát cạnh kênh Thông Tế.
Khấu Trọng cười khì khì nói: “Ta nói không sai mà, để giảm bớt khả năng bị đột kích, Vũ Văn Hóa Cốt sẽ hành quân sát bờ sông, hắn đâu ngờ lại lại trúng ý của ta chứ”.
Từ Tử Lăng ngước mắt nhìn bầu trời đêm tối om không trăng sao: “Kế giả liên minh, giả lương thực của ngươi rõ ràng đã có hiệu quả, nếu không Vũ Văn Hóa Cốt làm sao nôn nóng đến độ hành quân cả trong đêm để chúng ta có cơ hội lợi dụng thế này”.
Khấu Trọng hít vào một hơi nói: “Đến lúc rồi”.
Nói dứt lời liền vẫy tay một cái, hỏa pháo bắn vọt lên trời, nổ ra một đoá hoa lớn, đốt sáng cả tầng mây u ám.
Bên phía Lương Đô vang lên tiếng hò hét ầm trời, ánh đuốc sáng rực lao về phía quân địch, nhìn bề ngoài thì khí thế hung hăng, kỳ thực chỉ là những dân binh không có giáp trụ hay cung tên, hai tay cầm hai ngọn đuốc hư trương diễn trò mà thôi. Thoạt nhìn thì giống như có gần vạn người từ vùng núi phụ cận phía Bắc Lương Đô đang ồ ạt triển khai tấn công vậy.
Từ phía sau Khấu Trọng và Từ Tử Lăng có gần hai trăm kỵ sĩ phóng ra, toàn bộ đều là những võ sĩ có kỵ thuật và võ công cao nhất trong Bành Lương Hội, dùng hết chiến mã trong thành Lương Đô để tổ chức thành đội kỵ binh duy nhất.
Phía cuối đoàn quân địch đã bắt đầu hỗn loạn, nhưng ở đầu và giữa vẫn nghiêm chỉnh lề lối.
Khấu Trọng cười cười nói với Từ Tử Lăng: “Chiêu này ngay cả Linh Lung Kiều cũng chưa dạy đâu, cái này gọi là nhìn lửa đoán quân tình, có thể thấy năm ngàn quân này là có cả tân binh lẫn cựu binh, tốt xấu lẫn lộn, đám ở cuối có lẽ là tân binh mới chiêu nạp, chúng ta cứ đột kích ở đây, đảm bảo có thể chiếm được tiện nghi”.
Con hỏa long được tạo bằng ánh đuốc sau khi tản ra liền dừng lại, rõ ràng là địch nhân đang chuẩn bị bố trận nghênh chiến.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thúc ngựa phóng lên, dẫn theo hai trăm ba mươi bảy kỵ binh phóng theo lộ tuyến đã định, xuyên rừng vòng ra phía sau địch nhân.
“Bùng!”.
Một đoá hoa lửa nữa nổ ra trên bầu trời đêm.
Tiếng hò hét lại vang lên bên bờ kênh, hơn trăm chiếc khoái thuyền chở đầy người rơm được thả trôi theo dòng nước, mấy trăm mũi tên trúc rạch nát bầu trời rồi rải xuống đầu địch nhân đang bố trận bên bờ sông.
Những chiến sĩ thật trên thuyền đều nấp sau những tấm ván dày, để mặc những người rơm mặc y phục hứng lấy làn mưa tên của quân địch. Những bụi cây ven bờ sông bắt đầu bốc lửa, địch nhân tưởng rằng trước sau đều có địch, lập tức rối loạn đội hình, đặc biệt là phía hậu quân.
Khấu Trọng vung tay hạ lệnh, hữu thủ cầm thuẫn bài, thúc ngựa toàn lực xông vào hậu quân của địch nhân.
Hai gã chuyển sang dùng trường qua để tận dụng hết ưu thế của mã chiến, lao qua khu rừng trước mặt, tấn công trận địch.
Dọc bờ sông phừng phừng lửa cháy, thuyền nhẹ đi tới đâu, lửa cháy phừng phừng tới đó, thanh thế kinh người.
Hai cây trường qua của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng như song long xuất hải, đâm ngang chém dọc, tới đâu là địch nhân ngã nhào tới đó.
Đội quân này của Vũ Văn Hóa Cập toàn bộ đều là bộ binh, phụ trách vận chuyển quân nhu lương thảo, từ sớm đã bị đạo quân hư trương thanh thế kia làm cho kinh hãi, lúc này lại thấy kỵ binh của Khấu Trọng xông tới, khí thế như núi đổ, đồng thời cũng đoán ra hai kẻ dẫn đầu chính là Khấu Trọng và Từ Tử Lăng danh chấn thiên hạ, nhất thời đều hồn phi phách tán, không ngờ được đối phương chỉ có hơn hai trăm người, không chiến mà bại, bỏ chạy tứ tán.
Chúng nhân cả mừng, dưới sự chỉ thị của Khấu Trọng đánh đuổi quân địch, châm lửa đốt xe lương.
Tiếng vó ngựa vang lên sầm sập, mấy trăm kỵ binh của quân địch dọc theo bờ sông phóng tới.
Khấu Trọng liếc qua, thấy kẻ dẫn đầu chính là lão bằng hữu Vũ Văn Vô Địch, bèn cười ha hả nói: “Vô Địch huynh vẫn khoẻ chứ!”.
Kế đó liền ra lệnh cho thủ hạ, mau chóng quay về Lương Đô.
Trận chiến này chẳng những đã mượn được mấy vạn mũi tên của Vũ Văn quân, mà còn đốt được rất nhiều công cụ công thành và lương thảo của chúng, quan trọng nhất là đã làm sĩ khí của quân dân trong thành dâng cao ngút trời, tăng thêm lòng tin của họ với hai gã, còn tổn thất của phía mình thì cơ hồ như không có.
Cả hai gã đều không ngờ lại có được chiến quả huy hoàng đến vậy, khi vào thành, Nhậm Mi Mi dẫn quân dân đứng hai bên đường hoan hô vang dội cả một góc thành, thề cùng hai gã đồng sinh cộng tử.
Đối với hành động cướp bóc sát nhân của Vũ Văn quân ngày đó, ai mà không nghiến răng kèn kẹt vì thống hận.
o0o
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đứng trên tường thành phía Bắc, dõi mắt quan sát doanh trại của quân Vũ Văn mới dựng nên.
Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Ít nhất phải hai ngày nữa Vũ Văn Hóa Cốt mới hoàn thành việc đào hào đắp luỹ. Hai ngày này, chúng ta có thể làm được rất nhiều chuyện”.
Khấu Trọng mỉm cười: “Đầu tiên là phải cướp lương, đêm qua chúng ta đã đốt mất một lượng lớn lương thảo của đạo quân tiên phong của Vũ Văn Vô Địch. Nhất định hắn phải bổ sung lương thảo từ hậu doanh, đó chính là thời cơ tốt nhất cho chúng ta dùng khinh kỵ cướp lương đó”. Kế đó gã lại thở dài: “Nếu có một đội hắc giáp tinh kỵ như Lý tiểu tử thì thật là lý tưởng”.
Từ Tử Lăng chợt động tâm nói: “Ngươi còn nhớ những kỵ binh của triều Tùy mà chúng ta đã nhìn thấy khi ở Dương Châu không? Trang bị nặng nề đến mức cả ngựa cũng có vẻ đao thương bất nhập, thần khí uy võ phi thường, tại sao lại bị nghĩa quân không có khôi giáp, vũ khí thiếu thốn đánh cho tơi bời hoa lá, mới nghe phong thanh đã kinh hồn bạt vía bỏ chạy vậy?”.
Khấu Trọng trầm ngâm: “Có lẽ là vì mất đi lòng dân, nên sĩ khí giảm sút”.
Từ Tử Lăng nói: “Đây đương nhiên là nguyên nhân chủ yếu, nhưng cũng có thể nhận ra rằng nhân mã mặc giáo trụ nặng nề đã không còn hợp thời nữa. Giả như ngươi có một đạo quân như vậy, làm sao có thể kịp thời đi cướp lương ngay sau khi nhận được tin báo chứ? Hiện giờ chủ yếu là dùng bộ binh triển khai trận thế trên những vùng rộng lớn, chỉ có khinh kỵ đột kích mới phối hợp được mà thôi. Chiến thuật này vô cùng linh hoạt, Lý tiểu tử chính là đã phát huy phương thứ tác chiến này tới mức cao nhất đó”.
Khấu Trọng nói: “Không biết có phải do tính cách hay không, mà ta chỉ thích phương thức tác chiến dùng khinh kỵ làm chủ quân, bởi vì kỵ binh bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành bộ binh, còn bộ binh thì không thể trở thành kỵ binh được, về mặt linh hoạt đã hơn một bậc rồi”.
Từ Tử Lăng cười cười: “Ngươi còn chưa quên dư vị của trận chiến ở Yển Sư phải không? Có điều lời này cũng không phải là không có lý đâu”.
Khấu Trọng vươn vai lười nhác nói: “Ngươi đoán xem sau khi thu thập Vũ Văn Hóa Cốt, ta sẽ làm gì?”.
Từ Tử Lăng lắc đầu tỏ ý không biết.
Đôi mắt hổ của Khấu Trọng sáng rực lên đầy vẻ tự tin và hi vọng: “Ta sẽ tìm cách chiêu mộ công tượng, ngày đêm không ngừng làm ra những công cụ công thành mà Lỗ Diệu Tử đã thiết kế, rồi tiến công đoạt lại Cảnh Lăng, lúc đó thì muốn lấy Tương Dương cũng dễ như trở bàn tay”.
Từ Tử Lăng còn chưa kịp phản ứng thì Nhậm Mi Mi đã dẫn theo một hán tử gầy gò, mặt mũi phong trần, tuổi tác ước chừng ngoài ba mươi tuổi đến trước mặt hai gã: “Đây là Nhân Đường hương chủ Lạc Kỳ Phi, ngoại hiệu Quỷ Ảnh Tử, y luôn theo dõi đại quân chủ lực của Vũ Văn Hóa Cập, dọc đường quan sát thực hư của địch nhân, thế nên bây giờ mới tới đây”.
Hai gã nhìn qua, thấy người này tướng mạo bình thường, chỉ giống như một hán tử nông thôn, nhưng tay chân đặc biệt dài, hai mắt sáng rực hữu thần, rõ ràng là đầu tóc và thân thủ đều vô cùng mẫn tiệp.
Khấu Trọng hỏi: “Quân chủ lực của chúng đã đến rồi à?”.
Lạc Kỳ Phi thẳng người hành lễ rồi mới nói: “Chắc sẽ đến vào lúc hoàng hôn, toàn quân tổng cộng một vạn ba ngàn người, do Vũ Văn Hóa Cập và Vũ Văn Trí Cập dẫn đầu, chia làm bốn cánh quân, trung, tả, hữu, hậu. Trong đó ba ngàn người là cung thủ, kỵ binh có một ngàn, còn đâu đều là bộ binh”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cùng lúc động dung, không phải vì thực lực lớn mạnh của quân Vũ Văn, mà là vì sự tự tin của người này khi nói chuyện và mức độ tỉ mỉ rõ ràng của tin tức.
Lạc Kỳ Phi lại nói tiếp: “Vũ Văn quân rõ ràng đã tổn thất cực kỳ nặng nề sau trận chiến với Lý Mật, từ việc kỵ binh của chúng dùng trường cung chứ không phải giác cung là có thể nhận ra điểm này”.
Hai gã hoang mang nhìn nhau.
Nhậm Mi Mi liền lên tiếng giải thích: “Kỳ Phi trước đây từng là tướng quân của cựu triều, chuyên phụ trách trang bị trong quân đội, vì vậy rất hiểu biết về mặt này”.
Lạc Kỳ Phi cũng gật đầu nói tiếp: “Trường cung là để cho bộ binh dùng, đa phần đều làm bằng gỗ dâu. Kỵ binh thường dùng cung phức hợp làm bằng gân và sừng, hình thể nhỏ hơn trường trung, rất tiện sử dụng trên lưng ngựa. Kỵ binh của quân Vũ Văn phải dùng trường cung, chắc là vì thiếu giác cung nên bất tắc dĩ mới phải dùng tạm để thay thế”.
Khấu Trọng tán thưởng: “Thám tử có kiến thức như Lạc huynh đây, có lẽ thiên hạ này cũng chẳng có mấy người”.
Nhậm Mi Mi cười cười nói: “Kỳ Phi không chỉ có khinh công cao cường, còn tinh thông cả thuật dị dung cải trang, làm thám tử đương nhiên phải xuất sắc hơn người khác rồi”.
Lạc Kỳ Phi nói: “Hai vị đại gia xin đừng gọi tiểu nhân là Lạc huynh nữa, cứ gọi Kỳ Phi là được rồi, sau này Kỳ Phi sẽ bất kể sinh tử, ra sức vì hai vị đại gia. Hai vị có gì phân phó, chỉ cần nói một câu là đủ rồi”.
Từ Tử Lăng hỏi: “Vậy theo ý Kỳ Phi huynh, thực lực chân chính của quân Vũ Văn ra sao?”.
Lạc Kỳ Phi đáp: “Ngoại trừ trung quân ra, toàn bộ đều là tân binh chưa được huấn luyện. Nếu tiểu nhân đoán không lầm, sáng sớm ngày mai bọn chúng sẽ bắt đầu công thành”.
Khấu Trọng ngạc nhiên: “Gấp vậy sao?”.
Lạc Kỳ Phi đáp: “Bởi vì từ tối hôm trước, mỗi lần dừng lại hạ trại nghỉ ngơi là chúng đều luân phiên tu sửa các công cụ công thành, nếu không phải muốn lập tức tấn công, sao Vũ Văn Hóa Cập lại không để binh sĩ nghỉ ngơi, đợi đến khi tới gần chân thành mới động thủ cũng đâu có muộn?”.
Nhậm Mi Mi liền hỏi: “Các công cụ của chúng có đầy đủ không?”.
Lạc Kỳ Phi gật đầu: “Có thể coi là đầy đủ, hai mươi chiếc thang mây, trăm cỗ xe ném đá, xe bắn nỏ vài chục, xe ngăn tên cũng có hơn bảy mươi chiếc, thừa đủ để công thành”.
Khấu Trọng gằn giọng nói: “Nếu Vũ Văn Hóa Cốt công thành trước lúc bình minh, vậy thì đêm nay Vũ Văn Vô Địch sẽ giả bộ tấn công, để làm dao động lòng quân chúng ta, đồng thời cũng khiến quân ta mệt mỏi nữa, hừ!”.
Từ Tử Lăng nói: “Có thể nói rõ thêm về trang bị công thành của bọn chúng không?”.
Lạc Kỳ Phi đọc liền một mạch như tụng kinh: “Xe thang mây là thang dài hai thân đặt trên xe sáu bánh, hai đầu thang có ròng rọc, có thể đưa địch nhân lên trên quá tường thành. Xe ném đá là một cỗ máy bắn đá lớn đặt trên bốn bánh xe, dùng đòn bẩy để hất tung tảng đá lớn lên cao, phá hủy tường thành. Xe bắn nỏ thì dùng xe tời kéo một cây nỏ lớn, liền một lúc bắn ra tám mũi Thiết Vũ Tiễn, xạ trình có thể đạt tới ngàn bộ, lợi hại phi thường. Xe chắn tên là xe bón bánh, bên trên có một lớp da trâu dầy, binh sĩ nấp ở phía sau, đẩy xe tiến dần lên, có thể che chắn được tên và đá từ trên thành ném xuống, nên có thể giúp quân địch tiến sát chân thành. Ngoài ra còn có sào xa là một đài cao đặt trên tám bánh xe, địch nhân ở trên đó bắn tên vào được bên trong thành”.
Hai mắt Khấu Trọng sáng lên nói: “Chúng ta có thể đổ dầu hỏa xuống rồi cho một mồi lửa, thiêu bà nó cái gì mà da trâu da bò, xe bắn nỏ, thang mây đó một lượt không?”.
Lạc Kỳ Phi lắc đầu: “Hai ngày nay Vũ Văn Hóa Cập đã sai người dùng thuốc chống lửa đặc biệt quét lên tất cả các vũ khí công thành, loại thuốc này nếu gặp nắng hoặc mưa sẽ giảm bớt công hiệu, vì vậy địch nhân phải tận dụng khoảng thời gian mới sơn thuốc để công thành, thế nên tiểu nhân mới đoán được bọn chúng sẽ tấn công ngay sau khi tới nơi”.
Hai gã giờ mới hiểu ra.
Nhưng cũng lập tức cảm thấy đau đầu, vũ khí công thành của địch nhân lợi hại như vậy, mà công cụ thủ thành của bọn gã thì quá thiếu thốn, đúng là khác nhau một trời một vực.
Dẫn binh xuất thành liều mạng, cũng chẳng khác gì tự đâm đầu vào chỗ chết.
Đúng vào lúc này, trên đỉnh núi phía xa xa, ánh sáng chợt loé lên ba lượt.
Khấu Trọng biết đó là thám tử dùng gương phản chiếu ánh mặt trời báo tin, liền tạm thời dẹp phiền não qua một bên, cười lên ha hả nói: “Kỳ Phi vất vả nhiều rồi! Nhậm tiểu thư hãy dẫn huynh ấy đi nghỉ ngơi, sau khi bọn ta cướp được lương thảo, sẽ tiếp tục đàm luận với hai người”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ẩn mình trên ngọn cây sam cao ba trượng mọc trên đỉnh một ngọn đồi phía xa xa, quan sát tình hình quân địch, không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào.
Khấu Trọng nói: “Dừng thì lập doanh, đi thì lập trận. Doanh trại này vừa có nguồn nước, lại có thể cố thủ, tấn công và phòng thủ đều rất tiện lơi, có thể thấy đối thủ lần này của chúng ta, tức là đám tướng lĩnh lớn nhỏ dưới trướng Vũ Văn Hóa Cập đó, đều là những chiến tướng dạn dày kinh nghiệm, tuyệt đối không thể xem thường được”.
Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý, nhìn bề ngoài Khấu Trọng có vẻ là kẻ thô lỗ sơ tâm, dễ đắc ý quên hết mọi sự, song sự thực thì lại hết sức bình tĩnh, thâm trầm cẩn thận, không bao giờ chủ quan khinh địch.
Đặt doanh trại đầu tiên là phải xem địa thế. Hiện giờ địch nhân đã lập trại trên dốc cao, lại gần rừng cây rậm, phòng thủ vô cùng cẩn mật, rõ ràng không phải hạng ô hợp, Khấu Trọng không dám khinh thị, đây chính là một điều kiện cơ bản cần phải có của một bậc thống soái.
Kế đó gã lại thuận miệng hỏi tiếp: “Trong bí kíp của Lỗ tiên sinh có chỉ thị gì về chuyện này không?”.
Khấu Trọng đáp: “Lập trại chi yếu, trước tiên phải đặt trại để người và súc vật nghỉ ngơi, cẩn thận đào hào đắp luỹ, nghiêm thủ cửa trại, chăm sóc quân binh bị bệnh, kiểm tra vũ khí, chuẩn bị đài lửa cảnh báo, đặt hiệu lệnh ban đêm, sắp đặt đèn đuốc, phòng mưa gió, xây dựng ám doanh, ngăn ngừa kẻ đến xâm phạm... đã đủ chưa hả?”.
Từ Tử Lăng nghe gã đọc ra một loạt những điều cần chú ý khi lập doanh trại, liền ngạc nhiên thốt: “Ngươi học thuộc cả cuốn binh thư đó đấy hả?”.
Khấu Trọng đắc ý nói: “Cái này gọi là cần cù có công hay là bổ sung trước khi lâm trận cũng được, tùy ngươi thôi. Nhưng mà ngươi có cảm thấy doanh trại này đặt hơi xa không, nếu kéo các công cụ công thành đến sát tường thành, e rằng chưa đến nơi thì lừa ngựa đã mệt chết rồi, thật không thực tế chút nào”.
Từ Tử Lăng vừa cẩn thận quan sát vừa cười cười nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi bắt đầu có chút đạo hành rồi đó! Vũ Văn phiệt nhiều đời làm tướng, đặt doanh trại thế này ắt hẳn có đạo lý của bọn chúng. Có lẽ là để làm nơi trữ lương và chăm sóc thương bệnh binh chăng? Ngoài ra còn có thể làm hậu phương chi viện cho doanh trại tác chiến nơi tiền tuyến nữa”.
Khấu Trọng vui vẻ nói: “Quả là anh hùng sở kiến lược đồng. Nơi này có thể nói là căn bản của đại quân Vũ Văn Hóa Cập trong lần Nam chinh này, nhưng vì đặt ở tận xa, nên sau khi vây thành chắc chắn chúng sẽ không ngờ bọn ta dám xuất thành tập kích, vì vậy mà phòng thủ tất nhiên sẽ lỏng lẻo. Chỉ cần chúng ta phối hợp thật tốt với kỳ binh của Tuyên Vĩnh, đánh cho bọn chúng trở tay không kịp, thắng lợi ít nhất đã có nửa phần nắm chắc trong tay rồi. Hà hà! Trận này xem ra cũng không khó lắm đâu!”.
Từ Tử Lăng vận công vào song mục, cẩn thận quan sát tình hình trại địch thêm lần nữa rồi trầm giọng nói: “Ngươi nghĩ quá dễ dàng rồi, doanh trại này dựa vào núi, bên ngoài có hào bên trong có lũy, chỉ cần bố trí thêm một số hố chông và bẫy, đắp đất lập rào, rồi cho người dùng cung nỏ canh phòng ngày đêm, cảnh giới bốn phía, lại đặt các chòi canh kín, lại còn cả đám cao thủ dưới trướng Vũ Văn Hóa Cốt nữa, ngươi nói đột kích là đột kích được ngay sao?”.
Khấu Trọng cười cười nói: “Hình như ngươi quên mất Lỗ Diệu Tử lão nhân gia của chúng ta lợi hại nhất không phải là binh pháp mà là các công cụ tinh xảo. Trong binh thư, lão đã liệt ra hơn mười phương pháp phá trại khác nhau, nói công trại cũng như công thành. Công thành phải dùng thang mây, lôi mộc, xe ngăn tên. Công trại cũng phải dùng xe, chỉ cần có thể phá được một hai lỗ hổng, binh lực của địch nhân lại không quá mạnh, thì phá trại thực dễ như trở bàn tay vậy”.
Từ Tử Lăng chau mày: “Xe ở đâu ra?”.
Khấu Trọng đáp: “Cải trang rồi vận chuyển đến, chuyện này sẽ do Tuyên Vĩnh phụ trách. Tiểu đệ giờ đã được chân truyền của Lỗ Diệu Tử, ít nhất cũng bằng một nửa Tôn Vũ phục sinh. Vũ Văn Hóa Cốt tự dẫn xác tới đây, ta không thuận tay dắt dê, trộm lương trộm ngựa làm hắn tức ói máu thì làm sao xứng với linh hồn mẹ trên trời được? Yên tâm đi! Ta hiểu hiếu tâm của ngươi mà!”.
Từ Tử Lăng nghe gã nói mà cũng phải bật cười, đồng thời cũng thầm lo lắng thay cho những kẻ đối địch với gã.
Bản thân Khấu Trọng vốn đã là một kỳ tài quân sự, đã biểu lộ tài năng trong nhiều trận đại chiến, hiện giờ cả những công cụ chiến tranh mà Lỗ Diệu Tử dựa vào các loại địa thế, hình thế khác nhau thiết kế ra gã cũng thuộc lòng như cháo, nếu để gã luyện được một đạo quân tinh nhuệ, thiên hạ này liệu còn ai có thể đối kháng được? E rằng ngay cả Lý Thế Dân cũng phải nếm mùi thất bại trước gã mất thôi. Hiện giờ Khấu Trọng chỉ thiếu có một đạo quân tinh nhuệ dũng mãnh và Dương Công Bảo Khố.
Chỉ nghe gã nói tiếp: “Có điều việc cần nhất bây giờ không phải là công trại, mà là trộm tên. Ngươi cũng biết số tên trong thành của chúng ta không đủ bắn trong nửa canh giờ mà. Lúc ấy chỉ dùng dầu nóng, nước sôi và đá thì không giữ được bao lâu đâu”.
Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Trộm tên thế nào được?”.
Khấu Trọng cười hì hì: “Không phải trộm, mà là mượn. Ta chỉ diễn lại kế mượn tên năm xưa của Khổng Minh tiên sinh thôi, chúng ta tặng bọn chúng tên giả, bọn chúng trả ta tên thật, như vậy không phải quá hời sao?”.
Kế đó gã lại chỉ tay vào dòng kênh Thông Tế chảy qua bên dưới: “Thám tử hồi báo, đại quân chủ lực của Vũ Văn Hóa Cốt đêm nay sẽ tới đây, ta đã sai người ngầm đặt hơn trăm chiếc khoái thuyền chở đầy người giả ở bờ đối diện, khi đại quân của hắn đến, sẽ thả cho thuyền trôi theo dòng nước, một người điều khiển, hai người bắn tên trúc, ngoài ra còn phái thêm binh mã giả vờ tiến công, Vũ Văn Hóa Cốt trong lúc tâm hoảng ý loạn, chỉ đành tặng tên cho chúng ta sử dụng thôi, coi như là món điểm tâm trước bữa ăn đi”.
Từ Tử Lăng thở dài: “Giờ thì cả ta cũng tin ngươi sẽ thắng trận này rồi!”.
o0o
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng cùng sánh vai ngồi trên lưng ngựa trên một ngọn đồi nhỏ, dõi mắt nhìn những điểm sáng đang di động trong thảo nguyên sát cạnh kênh Thông Tế.
Khấu Trọng cười khì khì nói: “Ta nói không sai mà, để giảm bớt khả năng bị đột kích, Vũ Văn Hóa Cốt sẽ hành quân sát bờ sông, hắn đâu ngờ lại lại trúng ý của ta chứ”.
Từ Tử Lăng ngước mắt nhìn bầu trời đêm tối om không trăng sao: “Kế giả liên minh, giả lương thực của ngươi rõ ràng đã có hiệu quả, nếu không Vũ Văn Hóa Cốt làm sao nôn nóng đến độ hành quân cả trong đêm để chúng ta có cơ hội lợi dụng thế này”.
Khấu Trọng hít vào một hơi nói: “Đến lúc rồi”.
Nói dứt lời liền vẫy tay một cái, hỏa pháo bắn vọt lên trời, nổ ra một đoá hoa lớn, đốt sáng cả tầng mây u ám.
Bên phía Lương Đô vang lên tiếng hò hét ầm trời, ánh đuốc sáng rực lao về phía quân địch, nhìn bề ngoài thì khí thế hung hăng, kỳ thực chỉ là những dân binh không có giáp trụ hay cung tên, hai tay cầm hai ngọn đuốc hư trương diễn trò mà thôi. Thoạt nhìn thì giống như có gần vạn người từ vùng núi phụ cận phía Bắc Lương Đô đang ồ ạt triển khai tấn công vậy.
Từ phía sau Khấu Trọng và Từ Tử Lăng có gần hai trăm kỵ sĩ phóng ra, toàn bộ đều là những võ sĩ có kỵ thuật và võ công cao nhất trong Bành Lương Hội, dùng hết chiến mã trong thành Lương Đô để tổ chức thành đội kỵ binh duy nhất.
Phía cuối đoàn quân địch đã bắt đầu hỗn loạn, nhưng ở đầu và giữa vẫn nghiêm chỉnh lề lối.
Khấu Trọng cười cười nói với Từ Tử Lăng: “Chiêu này ngay cả Linh Lung Kiều cũng chưa dạy đâu, cái này gọi là nhìn lửa đoán quân tình, có thể thấy năm ngàn quân này là có cả tân binh lẫn cựu binh, tốt xấu lẫn lộn, đám ở cuối có lẽ là tân binh mới chiêu nạp, chúng ta cứ đột kích ở đây, đảm bảo có thể chiếm được tiện nghi”.
Con hỏa long được tạo bằng ánh đuốc sau khi tản ra liền dừng lại, rõ ràng là địch nhân đang chuẩn bị bố trận nghênh chiến.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thúc ngựa phóng lên, dẫn theo hai trăm ba mươi bảy kỵ binh phóng theo lộ tuyến đã định, xuyên rừng vòng ra phía sau địch nhân.
“Bùng!”.
Một đoá hoa lửa nữa nổ ra trên bầu trời đêm.
Tiếng hò hét lại vang lên bên bờ kênh, hơn trăm chiếc khoái thuyền chở đầy người rơm được thả trôi theo dòng nước, mấy trăm mũi tên trúc rạch nát bầu trời rồi rải xuống đầu địch nhân đang bố trận bên bờ sông.
Những chiến sĩ thật trên thuyền đều nấp sau những tấm ván dày, để mặc những người rơm mặc y phục hứng lấy làn mưa tên của quân địch. Những bụi cây ven bờ sông bắt đầu bốc lửa, địch nhân tưởng rằng trước sau đều có địch, lập tức rối loạn đội hình, đặc biệt là phía hậu quân.
Khấu Trọng vung tay hạ lệnh, hữu thủ cầm thuẫn bài, thúc ngựa toàn lực xông vào hậu quân của địch nhân.
Hai gã chuyển sang dùng trường qua để tận dụng hết ưu thế của mã chiến, lao qua khu rừng trước mặt, tấn công trận địch.
Dọc bờ sông phừng phừng lửa cháy, thuyền nhẹ đi tới đâu, lửa cháy phừng phừng tới đó, thanh thế kinh người.
Hai cây trường qua của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng như song long xuất hải, đâm ngang chém dọc, tới đâu là địch nhân ngã nhào tới đó.
Đội quân này của Vũ Văn Hóa Cập toàn bộ đều là bộ binh, phụ trách vận chuyển quân nhu lương thảo, từ sớm đã bị đạo quân hư trương thanh thế kia làm cho kinh hãi, lúc này lại thấy kỵ binh của Khấu Trọng xông tới, khí thế như núi đổ, đồng thời cũng đoán ra hai kẻ dẫn đầu chính là Khấu Trọng và Từ Tử Lăng danh chấn thiên hạ, nhất thời đều hồn phi phách tán, không ngờ được đối phương chỉ có hơn hai trăm người, không chiến mà bại, bỏ chạy tứ tán.
Chúng nhân cả mừng, dưới sự chỉ thị của Khấu Trọng đánh đuổi quân địch, châm lửa đốt xe lương.
Tiếng vó ngựa vang lên sầm sập, mấy trăm kỵ binh của quân địch dọc theo bờ sông phóng tới.
Khấu Trọng liếc qua, thấy kẻ dẫn đầu chính là lão bằng hữu Vũ Văn Vô Địch, bèn cười ha hả nói: “Vô Địch huynh vẫn khoẻ chứ!”.
Kế đó liền ra lệnh cho thủ hạ, mau chóng quay về Lương Đô.
Trận chiến này chẳng những đã mượn được mấy vạn mũi tên của Vũ Văn quân, mà còn đốt được rất nhiều công cụ công thành và lương thảo của chúng, quan trọng nhất là đã làm sĩ khí của quân dân trong thành dâng cao ngút trời, tăng thêm lòng tin của họ với hai gã, còn tổn thất của phía mình thì cơ hồ như không có.
Cả hai gã đều không ngờ lại có được chiến quả huy hoàng đến vậy, khi vào thành, Nhậm Mi Mi dẫn quân dân đứng hai bên đường hoan hô vang dội cả một góc thành, thề cùng hai gã đồng sinh cộng tử.
Đối với hành động cướp bóc sát nhân của Vũ Văn quân ngày đó, ai mà không nghiến răng kèn kẹt vì thống hận.
o0o
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đứng trên tường thành phía Bắc, dõi mắt quan sát doanh trại của quân Vũ Văn mới dựng nên.
Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Ít nhất phải hai ngày nữa Vũ Văn Hóa Cốt mới hoàn thành việc đào hào đắp luỹ. Hai ngày này, chúng ta có thể làm được rất nhiều chuyện”.
Khấu Trọng mỉm cười: “Đầu tiên là phải cướp lương, đêm qua chúng ta đã đốt mất một lượng lớn lương thảo của đạo quân tiên phong của Vũ Văn Vô Địch. Nhất định hắn phải bổ sung lương thảo từ hậu doanh, đó chính là thời cơ tốt nhất cho chúng ta dùng khinh kỵ cướp lương đó”. Kế đó gã lại thở dài: “Nếu có một đội hắc giáp tinh kỵ như Lý tiểu tử thì thật là lý tưởng”.
Từ Tử Lăng chợt động tâm nói: “Ngươi còn nhớ những kỵ binh của triều Tùy mà chúng ta đã nhìn thấy khi ở Dương Châu không? Trang bị nặng nề đến mức cả ngựa cũng có vẻ đao thương bất nhập, thần khí uy võ phi thường, tại sao lại bị nghĩa quân không có khôi giáp, vũ khí thiếu thốn đánh cho tơi bời hoa lá, mới nghe phong thanh đã kinh hồn bạt vía bỏ chạy vậy?”.
Khấu Trọng trầm ngâm: “Có lẽ là vì mất đi lòng dân, nên sĩ khí giảm sút”.
Từ Tử Lăng nói: “Đây đương nhiên là nguyên nhân chủ yếu, nhưng cũng có thể nhận ra rằng nhân mã mặc giáo trụ nặng nề đã không còn hợp thời nữa. Giả như ngươi có một đạo quân như vậy, làm sao có thể kịp thời đi cướp lương ngay sau khi nhận được tin báo chứ? Hiện giờ chủ yếu là dùng bộ binh triển khai trận thế trên những vùng rộng lớn, chỉ có khinh kỵ đột kích mới phối hợp được mà thôi. Chiến thuật này vô cùng linh hoạt, Lý tiểu tử chính là đã phát huy phương thứ tác chiến này tới mức cao nhất đó”.
Khấu Trọng nói: “Không biết có phải do tính cách hay không, mà ta chỉ thích phương thức tác chiến dùng khinh kỵ làm chủ quân, bởi vì kỵ binh bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành bộ binh, còn bộ binh thì không thể trở thành kỵ binh được, về mặt linh hoạt đã hơn một bậc rồi”.
Từ Tử Lăng cười cười: “Ngươi còn chưa quên dư vị của trận chiến ở Yển Sư phải không? Có điều lời này cũng không phải là không có lý đâu”.
Khấu Trọng vươn vai lười nhác nói: “Ngươi đoán xem sau khi thu thập Vũ Văn Hóa Cốt, ta sẽ làm gì?”.
Từ Tử Lăng lắc đầu tỏ ý không biết.
Đôi mắt hổ của Khấu Trọng sáng rực lên đầy vẻ tự tin và hi vọng: “Ta sẽ tìm cách chiêu mộ công tượng, ngày đêm không ngừng làm ra những công cụ công thành mà Lỗ Diệu Tử đã thiết kế, rồi tiến công đoạt lại Cảnh Lăng, lúc đó thì muốn lấy Tương Dương cũng dễ như trở bàn tay”.
Từ Tử Lăng còn chưa kịp phản ứng thì Nhậm Mi Mi đã dẫn theo một hán tử gầy gò, mặt mũi phong trần, tuổi tác ước chừng ngoài ba mươi tuổi đến trước mặt hai gã: “Đây là Nhân Đường hương chủ Lạc Kỳ Phi, ngoại hiệu Quỷ Ảnh Tử, y luôn theo dõi đại quân chủ lực của Vũ Văn Hóa Cập, dọc đường quan sát thực hư của địch nhân, thế nên bây giờ mới tới đây”.
Hai gã nhìn qua, thấy người này tướng mạo bình thường, chỉ giống như một hán tử nông thôn, nhưng tay chân đặc biệt dài, hai mắt sáng rực hữu thần, rõ ràng là đầu tóc và thân thủ đều vô cùng mẫn tiệp.
Khấu Trọng hỏi: “Quân chủ lực của chúng đã đến rồi à?”.
Lạc Kỳ Phi thẳng người hành lễ rồi mới nói: “Chắc sẽ đến vào lúc hoàng hôn, toàn quân tổng cộng một vạn ba ngàn người, do Vũ Văn Hóa Cập và Vũ Văn Trí Cập dẫn đầu, chia làm bốn cánh quân, trung, tả, hữu, hậu. Trong đó ba ngàn người là cung thủ, kỵ binh có một ngàn, còn đâu đều là bộ binh”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cùng lúc động dung, không phải vì thực lực lớn mạnh của quân Vũ Văn, mà là vì sự tự tin của người này khi nói chuyện và mức độ tỉ mỉ rõ ràng của tin tức.
Lạc Kỳ Phi lại nói tiếp: “Vũ Văn quân rõ ràng đã tổn thất cực kỳ nặng nề sau trận chiến với Lý Mật, từ việc kỵ binh của chúng dùng trường cung chứ không phải giác cung là có thể nhận ra điểm này”.
Hai gã hoang mang nhìn nhau.
Nhậm Mi Mi liền lên tiếng giải thích: “Kỳ Phi trước đây từng là tướng quân của cựu triều, chuyên phụ trách trang bị trong quân đội, vì vậy rất hiểu biết về mặt này”.
Lạc Kỳ Phi cũng gật đầu nói tiếp: “Trường cung là để cho bộ binh dùng, đa phần đều làm bằng gỗ dâu. Kỵ binh thường dùng cung phức hợp làm bằng gân và sừng, hình thể nhỏ hơn trường trung, rất tiện sử dụng trên lưng ngựa. Kỵ binh của quân Vũ Văn phải dùng trường cung, chắc là vì thiếu giác cung nên bất tắc dĩ mới phải dùng tạm để thay thế”.
Khấu Trọng tán thưởng: “Thám tử có kiến thức như Lạc huynh đây, có lẽ thiên hạ này cũng chẳng có mấy người”.
Nhậm Mi Mi cười cười nói: “Kỳ Phi không chỉ có khinh công cao cường, còn tinh thông cả thuật dị dung cải trang, làm thám tử đương nhiên phải xuất sắc hơn người khác rồi”.
Lạc Kỳ Phi nói: “Hai vị đại gia xin đừng gọi tiểu nhân là Lạc huynh nữa, cứ gọi Kỳ Phi là được rồi, sau này Kỳ Phi sẽ bất kể sinh tử, ra sức vì hai vị đại gia. Hai vị có gì phân phó, chỉ cần nói một câu là đủ rồi”.
Từ Tử Lăng hỏi: “Vậy theo ý Kỳ Phi huynh, thực lực chân chính của quân Vũ Văn ra sao?”.
Lạc Kỳ Phi đáp: “Ngoại trừ trung quân ra, toàn bộ đều là tân binh chưa được huấn luyện. Nếu tiểu nhân đoán không lầm, sáng sớm ngày mai bọn chúng sẽ bắt đầu công thành”.
Khấu Trọng ngạc nhiên: “Gấp vậy sao?”.
Lạc Kỳ Phi đáp: “Bởi vì từ tối hôm trước, mỗi lần dừng lại hạ trại nghỉ ngơi là chúng đều luân phiên tu sửa các công cụ công thành, nếu không phải muốn lập tức tấn công, sao Vũ Văn Hóa Cập lại không để binh sĩ nghỉ ngơi, đợi đến khi tới gần chân thành mới động thủ cũng đâu có muộn?”.
Nhậm Mi Mi liền hỏi: “Các công cụ của chúng có đầy đủ không?”.
Lạc Kỳ Phi gật đầu: “Có thể coi là đầy đủ, hai mươi chiếc thang mây, trăm cỗ xe ném đá, xe bắn nỏ vài chục, xe ngăn tên cũng có hơn bảy mươi chiếc, thừa đủ để công thành”.
Khấu Trọng gằn giọng nói: “Nếu Vũ Văn Hóa Cốt công thành trước lúc bình minh, vậy thì đêm nay Vũ Văn Vô Địch sẽ giả bộ tấn công, để làm dao động lòng quân chúng ta, đồng thời cũng khiến quân ta mệt mỏi nữa, hừ!”.
Từ Tử Lăng nói: “Có thể nói rõ thêm về trang bị công thành của bọn chúng không?”.
Lạc Kỳ Phi đọc liền một mạch như tụng kinh: “Xe thang mây là thang dài hai thân đặt trên xe sáu bánh, hai đầu thang có ròng rọc, có thể đưa địch nhân lên trên quá tường thành. Xe ném đá là một cỗ máy bắn đá lớn đặt trên bốn bánh xe, dùng đòn bẩy để hất tung tảng đá lớn lên cao, phá hủy tường thành. Xe bắn nỏ thì dùng xe tời kéo một cây nỏ lớn, liền một lúc bắn ra tám mũi Thiết Vũ Tiễn, xạ trình có thể đạt tới ngàn bộ, lợi hại phi thường. Xe chắn tên là xe bón bánh, bên trên có một lớp da trâu dầy, binh sĩ nấp ở phía sau, đẩy xe tiến dần lên, có thể che chắn được tên và đá từ trên thành ném xuống, nên có thể giúp quân địch tiến sát chân thành. Ngoài ra còn có sào xa là một đài cao đặt trên tám bánh xe, địch nhân ở trên đó bắn tên vào được bên trong thành”.
Hai mắt Khấu Trọng sáng lên nói: “Chúng ta có thể đổ dầu hỏa xuống rồi cho một mồi lửa, thiêu bà nó cái gì mà da trâu da bò, xe bắn nỏ, thang mây đó một lượt không?”.
Lạc Kỳ Phi lắc đầu: “Hai ngày nay Vũ Văn Hóa Cập đã sai người dùng thuốc chống lửa đặc biệt quét lên tất cả các vũ khí công thành, loại thuốc này nếu gặp nắng hoặc mưa sẽ giảm bớt công hiệu, vì vậy địch nhân phải tận dụng khoảng thời gian mới sơn thuốc để công thành, thế nên tiểu nhân mới đoán được bọn chúng sẽ tấn công ngay sau khi tới nơi”.
Hai gã giờ mới hiểu ra.
Nhưng cũng lập tức cảm thấy đau đầu, vũ khí công thành của địch nhân lợi hại như vậy, mà công cụ thủ thành của bọn gã thì quá thiếu thốn, đúng là khác nhau một trời một vực.
Dẫn binh xuất thành liều mạng, cũng chẳng khác gì tự đâm đầu vào chỗ chết.
Đúng vào lúc này, trên đỉnh núi phía xa xa, ánh sáng chợt loé lên ba lượt.
Khấu Trọng biết đó là thám tử dùng gương phản chiếu ánh mặt trời báo tin, liền tạm thời dẹp phiền não qua một bên, cười lên ha hả nói: “Kỳ Phi vất vả nhiều rồi! Nhậm tiểu thư hãy dẫn huynh ấy đi nghỉ ngơi, sau khi bọn ta cướp được lương thảo, sẽ tiếp tục đàm luận với hai người”.
Bình luận truyện