Đại Mạc Thương Lang
Quyển 2 - Chương 46: Sự tĩnh lặng của đêm tối
Hành trình tiếp theo không xảy ra biến cố gì. Ba tiếng sau, Ivan thông báo sắp tiếp cận con đập.
Nhìn bằng mắt thường thì vẫn chưa thấy ánh đèn chào đón chúng tôi. Nhưng vách đá hoa cương mi ca đen ở xung quanh đã thay ánh đèn nói rằng: chúng tôi đã trở về. Thùng xăng cũng cạn đến đáy, không được phép xảy ra bất kì thay đổi gì.
Vương Tứ Xuyên dìu tôi vào chỗ và thắt chặt dây an toàn. Mọi người đều đã yên vị, trải qua bao nhiêu sự việc như vậy, tôi rất tin tưởng vào Ivan. Đối với một người đàn ông dám nhào lộn bằng máy bay ném bom thì việc hạ cánh xuống đường bay trên sông ngầm dường như không phải chuyện gì đáng nhắc đến.
Máy bay từ từ bay đến gần, tôi nhắm mắt, nghĩ đến cảm giác có thể đặt chân lên mặt đất, tôi thấy mình rốt cuộc vẫn chỉ là con rùa đất của đất mẹ, chỉ khi trở về mặt đất mới thấy an tâm. Lúc này tôi bỗng nghe thấy Ivan nói trong tai nghe: “Không ổn rồi!”
“Có chuyện gì vậy?” - Tôi vội hỏi.
“Tôi đã nhận được tín hiệu rằng đang trên đường trở về và chúng ta đang ở rất gần sân bay, nhưng tôi không nhìn thấy đèn của tín hiệu định vị.”
Tôi không hiểu lắm, liền cởi dây an toàn, loạng choạng đi vào khoang lái. Ivan chỉ về phía trước, ở đó tối thui, tôi hỏi: “Còn bao xa nữa?”
“Cùng lắm là ba ki-lô-mét! Lẽ ra ở khoảng cách này phải nhìn thấy đèn báo rồi mới đúng!” - Anh ta đáp. Nhưng phía trước chẳng có gì cả.
“Anh có chắc mình bay đúng hướng không đó?” - Tôi hỏi.
“Trên thực tế không có nhiều hướng để tôi có thể đi nhầm. Vả lại, tín hiệu định vị tuyệt đối không thể sai được.”
Lúc này, trong quầng sáng của đèn halogen, bóng dáng của con đập đã thấp thoáng hiện ra trước mắt.
Tôi nhìn thấy bờ bê tông màu trắng xám, con đập lừng lững đứng chắn ở đó, nhưng dường như mọi thứ đều hơi bất thường, vì tất cả đèn đều tắt ngóm. Con đập được bao phủ bởi sự tĩnh lặng của màn đêm.
Cảnh tượng này quá mức bất thường, bởi vì với khí thế lúc chúng tôi rời đi thì bất luận trên mặt đất xảy ra biến cố gì, họ cũng không thể để đèn đóm tắt hết thế này được. Trông như thể họ đã rút sạch quân vậy.
Lòng tôi trào lên dự cảm chẳng lành, nhưng chẳng còn thời gian để suy đoán. Chúng tôi vẫn đang ầm ầm lao về phía con đập.
“Không có đèn cũng phải hạ cánh, nếu không sẽ đâm vào núi!” - Ivan vỗ vai tôi, rồi bảo tôi về vị trí.
Sau khi tôi quay lại ghế, máy bay bắt đầu hạ cánh. Vương Tứ Xuyên và anh Điền hỏi tôi tình hình thế nào. Tôi thực lòng không muốn giải thích chút gì cho họ.
Ivan nói trong tai nghe: “Mọi người ngồi yên tại chỗ. Máy bay chuẩn bị hạ cánh. Có điều hình như không có ai chào đón chúng ta thì phải.” Tôi quay đầu nhìn vách đá đang thu lại trước tầm mắt, rồi con đập cũng vụt lướt qua. Tôi thở phào, thầm nghĩ thế là thành công rồi.
Đột nhiên Ivan bỗng thét lớn, tôi chưa bao giờ nghe thấy anh ta thét như vậy: “Ôi Chúa ơi! Sao không có đường bay?!”
“Gì cơ?” - Tôi kinh ngạc.
Ivan lại hét lên: “Nắm chắc!”, máy bay rung lên dữ dội, sau đó nó bắt đầu hạ cánh ở góc độ không thể tin nổi.
Tôi nhìn thấy cả khoang máy bay lập tức trở nên méo mó chỉ trong vài giây. Sát na đó, mọi người bật nẩy người lên.
Sau đó đầu tôi đập mạnh vào thanh xà bằng kim loại. Mắt tối rầm lại, tôi lập tức mất tri giác.
May mắn là chẳng bao lâu sau thì tôi tỉnh lại. Cơn đau đầu và choáng váng dữ dội khiến tôi nôn ọe, chỉ mấy giây đó thôi mà tôi cảm thấy mình đã ngất rất lâu. Nhưng khi mở mắt thì phát hiện máy bay vẫn đang không ngừng rung lắc.
Dường như những người khác cũng bị mất hết tri giác. Trước mắt tối om, ánh sáng duy nhất là những tia lửa lóe lên do ma sát. Mất mấy phút sau tôi mới cởi được dây an toàn, loạng choạng bò ra khỏi ghế thì thấy Vương Tứ Xuyên và anh Điền ngã sõng soài chồng lên nhau, khắp đầu toàn máu, lắc mãi mà họ vẫn chưa tỉnh dậy.
Tôi cố gắng chịu đựng cơn choáng váng khiến mình có thể ngất đi bất cứ lúc nào, rồi cắn chặt răng lôi từng người họ xuống máy bay đang chìm dần. Trời phật phù hộ! Rơi mạnh thế này mà máy bay không hề phát nổ, có lẽ do các túi giảm xóc và nước sông ngầm đã cứu chúng tôi.
Máy bay gần như biến dạng. Máu ở đùi tôi chảy ra như suối, tôi dần dần rơi vào trạng thái mất tri giác, nhưng tôi biết không phải tại mất máu quá nhiều mà có lẽ tại nước sông ngầm lạnh giá khiến mình tê cóng.
Mấy người nằm thẳng cẳng trên cầu lưới thép trông chẳng khác gì những xác chết. Tôi hoàn toàn kiệt sức, dựa vào thành thở hổn hển, tay dính toàn nước gỉ sắt, thoạt nhìn cứ tưởng máu, hết cả hồn, mãi mới nhận ra không phải.
Lúc này, cửa kính của khoang lái đang chổng lên trời phát ra tiếng thủy tinh vỡ lách cách. Tôi nghiến răng đứng dậy, giúp người bên trong đập nốt cửa kính rồi anh ta kéo ra ngoài, thì ra đó là cơ phó, mặt anh ta chi chít những vết thương nhỏ, trong miệng toàn máu, tai trái treo lủng lẳng trước cổ, chỉ còn sót chút da dính với cuống.
Tôi đỡ anh ta xuống đất, cơ phó nói: “Anh Ivan! Cậu mau đi cứu anh ấy!”
Tôi vội vàng trèo lên, nhảy vào trong buồng lái, thấy Ivan ngồi ở đó, đã cởi mũ chụp đầu xuống, khắp mặt loang máu, dường như anh ta vẫn đang bị mắc kẹt trên ghế.
Tôi bò lại gần, định đỡ anh ta dậy, nhưng anh ta ngoảnh về phía tôi, xua tay ra hiệu cho tôi đừng đến. Tôi phát hiện trên ngực của anh ta ũng máu.
“Máy bay chịu xung kích trực diện, trong phút cuối tôi định nhấc đầu máy bay lên nhưng không nhấc được. Hàng của bọn Nhật chế tạo đúng là không đáng tin chút nào!” - Anh ta nằm ngả người trên ghế, nói đứt quãng.
Tôi cười không thành tiếng: “Anh đang cố tìm cớ bào chữa cho hành vi làm rơi máy bay của mình đấy à?”
“Tôi chưa bao giờ bị người khác hạ gục, cũng không hề để xảy ra sai sót gì trong lúc hạ cánh, nhưng thực sự ở đây không có đường bay. Các anh là người không đáng tin, nói lời không giữ lời!”
Tôi nhìn xuống, trên mặt nước tuyệt không có thứ gì, bao nhiêu trang thiết bị, xe cẩu từng ở đây đều biến mất, bốn phía tĩnh lặng như tờ, dường như chẳng còn ai cả.
“Ừ! Đừng tốn sức nữa! Sau này tôi nhất định sẽ làm rõ sự tình!” - Tôi nói - “Bây giờ anh tự leo ra hay để tôi dìu?”
Ivan chẳng đoái hoài gì đến tôi, chỉ dặn lại một câu: “Nếu điều tra được ai đã dỡ đường ray thì anh hãy thay tôi tống vào mặt hắn một quả. Bây giờ thì cứ kệ tôi, để mình tôi nằm đây một lát!”
Nhìn sắc mặt trắng bệch của anh ta, lòng tôi thấy rất bất an. Anh ta bất động nhìn tôi, rồi tiếp lời: “Để người Liên Xô ngồi đây một mình! Người Trung Quốc mau đi làm việc đi! Người Liên Xô cần suy nghĩ chút chuyện.”
Tôi gật đầu, lòng mơ hồ cảm thấy điều gì đó, nhưng vẫn rút lui, lúc nhảy xuống máy bay, tôi nghe thấy anh ta hét lên một câu, tôi không hiểu nó có nghĩa gì.
Ba mươi phút sau, Vương Tứ Xuyên lại lên xem anh ta thì Ivan đã chìm vào giấc ngủ vĩnh hằng trên khoang lái mà anh ta thân thiết và yêu thích nhất. Trên ngực anh ta là vết thương chí mạng, xương sường bị gẫy đâm thẳng vào lồng ngực.
Ivan Shevik, 37 tuổi, hi sinh ở một nơi vô danh không ai biết. Anh hi sinh chẳng phải vì đại nghĩa gì mà đơn giản bởi theo đuổi một tình yêu thầm lặng nhưng cháy bỏng nên đã đến nơi này.
Anh vẫn giữ vẻ mặt điềm tĩnh thường ngày. Trước khi chết, một Ivan ngông cuồng đã chấp nhận số mệnh của mình.
“Nếu tôi thành công, tôi sẽ có được cô ấy. Nếu tôi thất bại, ít nhất cô ấy vĩnh viễn không thể quên được tôi.” Thiết nghĩ trên đời này không một cô gái nào có thể quên được người đàn ông có thể vì mình mà sẵn sàng thực hiện động tác Tegel nhào lộn trên không bằng máy bay ném bom. Tôi nghĩ không chỉ Viên Hỷ Lạc, mà ngay cả bản thân mình cũng mãi mãi không bao giờ quên Ivan.
Chúng tôi không dịch chuyển anh ấy sang chỗ khác, mà thực tế cũng không thể dịch chuyển. Chúng tôi không quá mức đau buồn, bởi tôi cảm thấy người đàn ông như Ivan sẽ không hiểu được trạng thái cảm xúc ấy. Vả lại anh ấy cũng không phải người duy nhất hi sinh. Chu Cường và cơ phó sau đó cũng hi sinh.
Trên thực tế, chắc Chu Cường đã chết ngay từ lúc được kéo ra khỏi xác máy bay, chỉ có điều trên người không hề xuất hiện dấu hiệu ngoại thương rõ ràng, có thể anh ta tử vong vì nội thương. Cơ phó ban đầu cũng khá tỉnh táo, nhưng khi tôi xử lý xong cho anh Điền và quay ra thì người anh ta đã lạnh ngắt, chắc cũng vì nội thương.
Suốt thời gian dài sau đó, chúng tôi đều ngồi tại chỗ chờ đợi cứu viện, nhưng bốn phía vẫn chẳng có ai. Sau khi phục hồi thể lực, Vương Tứ Xuyên đi tìm kiếm một vòng, lúc trở về, mặt cậu ta tái mét, lắp bắp nói: “Ở đây bất thường lắm! Mọi thứ đều bị tháo dỡ và chuyển đi hết.”
Tôi rất khâm phục khả năng chịu áp lực của Vương Tứ Xuyên, nếu cậu ta không quá chú trọng đến sở thích cá nhân thì lẽ ra giao chức đội trưởng cho cậu ta là thích hợp nhất. Trong khi đó, tôi gần như đã tới giới hạn cực điểm, hoàn toàn không thể theo kịp tư duy của cậu ta.
Vương Tứ Xuyên giục mãi, tôi mới nhỏm người dậy, theo cậu ta đi tuần một vòng. Tôi lập tức phát hiện sự thay đổi ở đây, sự thay đổi đó không chỉ là bất thường.
Nếu chỉ là chuyện mọi người ở đây đột ngột rút đi, thì tôi vẫn có thể cố gắng nghĩ ra một vài lý do thuyết phục, bất kể đúng hay sai thì phải thuyết phục mình trước rồi tính sau. Nhưng tình hình xung quanh đây lại hoàn toàn khác.
Tôi không những không nhìn thấy bất kì thiết bị hay vật phế phẩm nào còn sót lại ở bốn phía quanh đây mà ngay cả dấu tích của một vài mối hàn vẫn còn hằn rõ trong trí nhớ tôi cũng hoàn toàn không thể tìm thấy.
Nhìn bằng mắt thường thì vẫn chưa thấy ánh đèn chào đón chúng tôi. Nhưng vách đá hoa cương mi ca đen ở xung quanh đã thay ánh đèn nói rằng: chúng tôi đã trở về. Thùng xăng cũng cạn đến đáy, không được phép xảy ra bất kì thay đổi gì.
Vương Tứ Xuyên dìu tôi vào chỗ và thắt chặt dây an toàn. Mọi người đều đã yên vị, trải qua bao nhiêu sự việc như vậy, tôi rất tin tưởng vào Ivan. Đối với một người đàn ông dám nhào lộn bằng máy bay ném bom thì việc hạ cánh xuống đường bay trên sông ngầm dường như không phải chuyện gì đáng nhắc đến.
Máy bay từ từ bay đến gần, tôi nhắm mắt, nghĩ đến cảm giác có thể đặt chân lên mặt đất, tôi thấy mình rốt cuộc vẫn chỉ là con rùa đất của đất mẹ, chỉ khi trở về mặt đất mới thấy an tâm. Lúc này tôi bỗng nghe thấy Ivan nói trong tai nghe: “Không ổn rồi!”
“Có chuyện gì vậy?” - Tôi vội hỏi.
“Tôi đã nhận được tín hiệu rằng đang trên đường trở về và chúng ta đang ở rất gần sân bay, nhưng tôi không nhìn thấy đèn của tín hiệu định vị.”
Tôi không hiểu lắm, liền cởi dây an toàn, loạng choạng đi vào khoang lái. Ivan chỉ về phía trước, ở đó tối thui, tôi hỏi: “Còn bao xa nữa?”
“Cùng lắm là ba ki-lô-mét! Lẽ ra ở khoảng cách này phải nhìn thấy đèn báo rồi mới đúng!” - Anh ta đáp. Nhưng phía trước chẳng có gì cả.
“Anh có chắc mình bay đúng hướng không đó?” - Tôi hỏi.
“Trên thực tế không có nhiều hướng để tôi có thể đi nhầm. Vả lại, tín hiệu định vị tuyệt đối không thể sai được.”
Lúc này, trong quầng sáng của đèn halogen, bóng dáng của con đập đã thấp thoáng hiện ra trước mắt.
Tôi nhìn thấy bờ bê tông màu trắng xám, con đập lừng lững đứng chắn ở đó, nhưng dường như mọi thứ đều hơi bất thường, vì tất cả đèn đều tắt ngóm. Con đập được bao phủ bởi sự tĩnh lặng của màn đêm.
Cảnh tượng này quá mức bất thường, bởi vì với khí thế lúc chúng tôi rời đi thì bất luận trên mặt đất xảy ra biến cố gì, họ cũng không thể để đèn đóm tắt hết thế này được. Trông như thể họ đã rút sạch quân vậy.
Lòng tôi trào lên dự cảm chẳng lành, nhưng chẳng còn thời gian để suy đoán. Chúng tôi vẫn đang ầm ầm lao về phía con đập.
“Không có đèn cũng phải hạ cánh, nếu không sẽ đâm vào núi!” - Ivan vỗ vai tôi, rồi bảo tôi về vị trí.
Sau khi tôi quay lại ghế, máy bay bắt đầu hạ cánh. Vương Tứ Xuyên và anh Điền hỏi tôi tình hình thế nào. Tôi thực lòng không muốn giải thích chút gì cho họ.
Ivan nói trong tai nghe: “Mọi người ngồi yên tại chỗ. Máy bay chuẩn bị hạ cánh. Có điều hình như không có ai chào đón chúng ta thì phải.” Tôi quay đầu nhìn vách đá đang thu lại trước tầm mắt, rồi con đập cũng vụt lướt qua. Tôi thở phào, thầm nghĩ thế là thành công rồi.
Đột nhiên Ivan bỗng thét lớn, tôi chưa bao giờ nghe thấy anh ta thét như vậy: “Ôi Chúa ơi! Sao không có đường bay?!”
“Gì cơ?” - Tôi kinh ngạc.
Ivan lại hét lên: “Nắm chắc!”, máy bay rung lên dữ dội, sau đó nó bắt đầu hạ cánh ở góc độ không thể tin nổi.
Tôi nhìn thấy cả khoang máy bay lập tức trở nên méo mó chỉ trong vài giây. Sát na đó, mọi người bật nẩy người lên.
Sau đó đầu tôi đập mạnh vào thanh xà bằng kim loại. Mắt tối rầm lại, tôi lập tức mất tri giác.
May mắn là chẳng bao lâu sau thì tôi tỉnh lại. Cơn đau đầu và choáng váng dữ dội khiến tôi nôn ọe, chỉ mấy giây đó thôi mà tôi cảm thấy mình đã ngất rất lâu. Nhưng khi mở mắt thì phát hiện máy bay vẫn đang không ngừng rung lắc.
Dường như những người khác cũng bị mất hết tri giác. Trước mắt tối om, ánh sáng duy nhất là những tia lửa lóe lên do ma sát. Mất mấy phút sau tôi mới cởi được dây an toàn, loạng choạng bò ra khỏi ghế thì thấy Vương Tứ Xuyên và anh Điền ngã sõng soài chồng lên nhau, khắp đầu toàn máu, lắc mãi mà họ vẫn chưa tỉnh dậy.
Tôi cố gắng chịu đựng cơn choáng váng khiến mình có thể ngất đi bất cứ lúc nào, rồi cắn chặt răng lôi từng người họ xuống máy bay đang chìm dần. Trời phật phù hộ! Rơi mạnh thế này mà máy bay không hề phát nổ, có lẽ do các túi giảm xóc và nước sông ngầm đã cứu chúng tôi.
Máy bay gần như biến dạng. Máu ở đùi tôi chảy ra như suối, tôi dần dần rơi vào trạng thái mất tri giác, nhưng tôi biết không phải tại mất máu quá nhiều mà có lẽ tại nước sông ngầm lạnh giá khiến mình tê cóng.
Mấy người nằm thẳng cẳng trên cầu lưới thép trông chẳng khác gì những xác chết. Tôi hoàn toàn kiệt sức, dựa vào thành thở hổn hển, tay dính toàn nước gỉ sắt, thoạt nhìn cứ tưởng máu, hết cả hồn, mãi mới nhận ra không phải.
Lúc này, cửa kính của khoang lái đang chổng lên trời phát ra tiếng thủy tinh vỡ lách cách. Tôi nghiến răng đứng dậy, giúp người bên trong đập nốt cửa kính rồi anh ta kéo ra ngoài, thì ra đó là cơ phó, mặt anh ta chi chít những vết thương nhỏ, trong miệng toàn máu, tai trái treo lủng lẳng trước cổ, chỉ còn sót chút da dính với cuống.
Tôi đỡ anh ta xuống đất, cơ phó nói: “Anh Ivan! Cậu mau đi cứu anh ấy!”
Tôi vội vàng trèo lên, nhảy vào trong buồng lái, thấy Ivan ngồi ở đó, đã cởi mũ chụp đầu xuống, khắp mặt loang máu, dường như anh ta vẫn đang bị mắc kẹt trên ghế.
Tôi bò lại gần, định đỡ anh ta dậy, nhưng anh ta ngoảnh về phía tôi, xua tay ra hiệu cho tôi đừng đến. Tôi phát hiện trên ngực của anh ta ũng máu.
“Máy bay chịu xung kích trực diện, trong phút cuối tôi định nhấc đầu máy bay lên nhưng không nhấc được. Hàng của bọn Nhật chế tạo đúng là không đáng tin chút nào!” - Anh ta nằm ngả người trên ghế, nói đứt quãng.
Tôi cười không thành tiếng: “Anh đang cố tìm cớ bào chữa cho hành vi làm rơi máy bay của mình đấy à?”
“Tôi chưa bao giờ bị người khác hạ gục, cũng không hề để xảy ra sai sót gì trong lúc hạ cánh, nhưng thực sự ở đây không có đường bay. Các anh là người không đáng tin, nói lời không giữ lời!”
Tôi nhìn xuống, trên mặt nước tuyệt không có thứ gì, bao nhiêu trang thiết bị, xe cẩu từng ở đây đều biến mất, bốn phía tĩnh lặng như tờ, dường như chẳng còn ai cả.
“Ừ! Đừng tốn sức nữa! Sau này tôi nhất định sẽ làm rõ sự tình!” - Tôi nói - “Bây giờ anh tự leo ra hay để tôi dìu?”
Ivan chẳng đoái hoài gì đến tôi, chỉ dặn lại một câu: “Nếu điều tra được ai đã dỡ đường ray thì anh hãy thay tôi tống vào mặt hắn một quả. Bây giờ thì cứ kệ tôi, để mình tôi nằm đây một lát!”
Nhìn sắc mặt trắng bệch của anh ta, lòng tôi thấy rất bất an. Anh ta bất động nhìn tôi, rồi tiếp lời: “Để người Liên Xô ngồi đây một mình! Người Trung Quốc mau đi làm việc đi! Người Liên Xô cần suy nghĩ chút chuyện.”
Tôi gật đầu, lòng mơ hồ cảm thấy điều gì đó, nhưng vẫn rút lui, lúc nhảy xuống máy bay, tôi nghe thấy anh ta hét lên một câu, tôi không hiểu nó có nghĩa gì.
Ba mươi phút sau, Vương Tứ Xuyên lại lên xem anh ta thì Ivan đã chìm vào giấc ngủ vĩnh hằng trên khoang lái mà anh ta thân thiết và yêu thích nhất. Trên ngực anh ta là vết thương chí mạng, xương sường bị gẫy đâm thẳng vào lồng ngực.
Ivan Shevik, 37 tuổi, hi sinh ở một nơi vô danh không ai biết. Anh hi sinh chẳng phải vì đại nghĩa gì mà đơn giản bởi theo đuổi một tình yêu thầm lặng nhưng cháy bỏng nên đã đến nơi này.
Anh vẫn giữ vẻ mặt điềm tĩnh thường ngày. Trước khi chết, một Ivan ngông cuồng đã chấp nhận số mệnh của mình.
“Nếu tôi thành công, tôi sẽ có được cô ấy. Nếu tôi thất bại, ít nhất cô ấy vĩnh viễn không thể quên được tôi.” Thiết nghĩ trên đời này không một cô gái nào có thể quên được người đàn ông có thể vì mình mà sẵn sàng thực hiện động tác Tegel nhào lộn trên không bằng máy bay ném bom. Tôi nghĩ không chỉ Viên Hỷ Lạc, mà ngay cả bản thân mình cũng mãi mãi không bao giờ quên Ivan.
Chúng tôi không dịch chuyển anh ấy sang chỗ khác, mà thực tế cũng không thể dịch chuyển. Chúng tôi không quá mức đau buồn, bởi tôi cảm thấy người đàn ông như Ivan sẽ không hiểu được trạng thái cảm xúc ấy. Vả lại anh ấy cũng không phải người duy nhất hi sinh. Chu Cường và cơ phó sau đó cũng hi sinh.
Trên thực tế, chắc Chu Cường đã chết ngay từ lúc được kéo ra khỏi xác máy bay, chỉ có điều trên người không hề xuất hiện dấu hiệu ngoại thương rõ ràng, có thể anh ta tử vong vì nội thương. Cơ phó ban đầu cũng khá tỉnh táo, nhưng khi tôi xử lý xong cho anh Điền và quay ra thì người anh ta đã lạnh ngắt, chắc cũng vì nội thương.
Suốt thời gian dài sau đó, chúng tôi đều ngồi tại chỗ chờ đợi cứu viện, nhưng bốn phía vẫn chẳng có ai. Sau khi phục hồi thể lực, Vương Tứ Xuyên đi tìm kiếm một vòng, lúc trở về, mặt cậu ta tái mét, lắp bắp nói: “Ở đây bất thường lắm! Mọi thứ đều bị tháo dỡ và chuyển đi hết.”
Tôi rất khâm phục khả năng chịu áp lực của Vương Tứ Xuyên, nếu cậu ta không quá chú trọng đến sở thích cá nhân thì lẽ ra giao chức đội trưởng cho cậu ta là thích hợp nhất. Trong khi đó, tôi gần như đã tới giới hạn cực điểm, hoàn toàn không thể theo kịp tư duy của cậu ta.
Vương Tứ Xuyên giục mãi, tôi mới nhỏm người dậy, theo cậu ta đi tuần một vòng. Tôi lập tức phát hiện sự thay đổi ở đây, sự thay đổi đó không chỉ là bất thường.
Nếu chỉ là chuyện mọi người ở đây đột ngột rút đi, thì tôi vẫn có thể cố gắng nghĩ ra một vài lý do thuyết phục, bất kể đúng hay sai thì phải thuyết phục mình trước rồi tính sau. Nhưng tình hình xung quanh đây lại hoàn toàn khác.
Tôi không những không nhìn thấy bất kì thiết bị hay vật phế phẩm nào còn sót lại ở bốn phía quanh đây mà ngay cả dấu tích của một vài mối hàn vẫn còn hằn rõ trong trí nhớ tôi cũng hoàn toàn không thể tìm thấy.
Bình luận truyện