Duyên Nợ Đào Hoa
Chương 10
Bản tiên quân còn đang nhai miếng đậu phụ khô trong miệng,
chỉ biết trợn mắt ra nhìn Mộ Nhược Ngôn nhỏm nửa người dậy, ánh mắt mờ mịt nhìn
về phía này.
Chủ quán lúc này đang đứng bên cạnh bản tiên quân, đích thân rót rượu cho ta và Hoành Văn, thấy thế liền ôm bầu rượu đứng ngây ra đó. Cũng nên biết Mộ Nhược Ngôn đã nằm liệt trên giường lâu lắm rồi, chủ quán trông thấy y có thể tự mình ngồi dậy, cũng chẳng khác gì tận mắt nhìn Hằng Nga bay lên cung trăng, kích động đến độ cả người run lên bần bật, run được một lúc liền bổ nhào tới quỳ sụp xuống trước mặt bản tiên quân.
“Đạo trưởng đúng là thần tiên sống! Đạo trưởng đúng là thần tiên sống!”
Ta vuốt râu cười mỉm, đầu tiên là cười mỉm với chủ quán, sau đó là cười mỉm với Mộ Nhược Ngôn. Đợi đến lúc mở miệng ra mới phát hiện miếng đậu phụ khô vẫn còn trong miệng, thế là bản tiên quân lại ung dung nuốt nó xuống, lại cười mỉm, nói với chủ quán rằng: “Chỉ là chuyện nhỏ mà thôi, ông chủ không cần khách khí”. Sau đó lại dùng chất giọng hoà nhã hỏi Mộ Nhược Ngôn đang nằm trên giường, “Công tử cảm thấy trong người đã khá hơn chưa?”.
Mộ Nhược Ngôn chăm chú nhìn ta, trên gương mặt vẫn phảng phất vài phần mờ mịt, chủ quán liền lên tiếng: “Công tử, mấy hôm nay ngài bệnh đến độ không hay biết gì, may nhờ có liều thuốc của vị đạo trưởng này. Bây giờ công tử thấy thân thể ra sao?”.
Vẻ mờ mịt trên mặt Mộ Nhược Ngôn dần biến mất, phỏng chừng đã tỉnh táo lại rồi. Y ngồi thẳng người dậy, trên gương mặt là vẻ tang thương pha lẫn chút mỉa mai tự giễu. Nhược Ngôn điều chỉnh lại nét mặt một chút, sau đó lật chăn ra, tác dụng của Kim La Linh Chi quả thực không tồi, y vừa đặt chân xuống liền đứng được thẳng người, nhận lấy tấm áo choàng từ tay tiểu nhị, sau đó lại nhìn ta: “Y phục không chỉnh tề, mong đạo trưởng thứ lỗi. Nghe nói đạo trưởng đã vất vả cứu mạng cho tại hạ”.
Ta đứng dậy, chắp tay đáp lễ, “Chỉ là một đơn thuốc dân dã bần đạo mang theo khi hành tẩu giang hồ, thí chủ có thể khoẻ lại là tốt rồi”.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Tại hạ chỉ là một kẻ thư sinh, không có gì để cảm tạ ơn này của đạo trưởng, xin đạo trưởng hãy nhận lấy một lạy của tại hạ, xem như tạ lễ”.
Khi đôi chân của y cong lại cũng là lúc bản tiên quân sững cả người, Mộ Nhược Ngôn lại muốn quỳ xuống trước mặt ta ư? Một kẻ không muốn sống như y lại quỳ đáp tạ kẻ đã cứu mình, đây chẳng phải là chuyện nực cười sao.
Trong lòng thì nghĩ vậy, còn chân ta đã sớm vô thức bước tới, vươn tay đỡ lấy cơ thể còn chưa kịp quỳ hẳn xuống của Mộ Nhược Ngôn. Chén rượu bị Hoành văn dằn xuống bàn, một tiếng “cốp” vang lên. Bản tiên quân ngay lập tức buông y ra, lùi lại phía sau, chắp hai tay lại, “Thí chủ đáp lễ thế này là quá lớn rồi, bần đạo quả tình không dám nhận, không dám nhận”.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Đạo trưởng không chịu nhận một lạy này, vậy thì hãy để tại hạ thi lễ với ngài”, nói rồi y cúi người xuống, vái bản tiên một vái. Ta chẳng còn cách nào, cũng đành chắp tay lại, cố khom lưng thật thấp.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Ơn này của đạo trưởng, nếu ngày sau có đủ khả năng, tại hạ nhất định sẽ báo đáp. Tại hạ họ Nghiêm, tên là Tử Mộ, chẳng hay tên hiệu của đạo trưởng là gì?”.
Quả nhiên, hạ phàm rồi nhưng Thiên Xu vẫn lợi hại như xưa, hôn mê một thời gian dài, mới tỉnh dậy chưa bao lâu đã bịa ngay ra được một cái tên giả, ngay cả mắt cũng không thèm chớp một cái.
Ta lại chắp tay: “Thí chủ quá lời rồi, bần đạo quả thật không dám nhận. Tên hiệu của bần đạo là Quảng Vân Tử, những người khác đều gọi là Quảng Vân Đạo Nhân”.
Ta lại cùng Thiên xu khách sáo dông dài thêm một phen nữa, mới nói: “Sức khoẻ thí chủ vừa có chút khởi sắc, còn cần tĩnh dưỡng vài ngày, đừng để lại nhiễm phong hàn. Chi bằng thí chủ cứ nằm trên giường nghỉ ngơi thêm mấy ngày đã”.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Đa tạ đạo trưởng”, sau đó nhìn về phía bàn, nói tiếp: “Tại hạ đã quấy rầy đạo trưởng cùng mấy vị đây dùng bữa, thật ngại quá”.
Ta cười khan, rõ ràng chúng ta mới là người đem cơm canh vào phòng y ăn uống, vậy mà Thiên Xu vẫn khách khí thế này. Hoành Văn vốn ngồi quay về phía giường, lúc này nghiêng đầu lại, mỉm cười với y: “Công tử khách khí rồi, là chúng ta quấy rầy công tử mới đúng”.
Mộ Nhược Ngôn tựa như người đứng trên đỉnh núi giá rét khôn cùng, bị một chậu nước băng tan giội thẳng xuống đầu, nhất thời thân thể cứng lại như bị đóng băng.
Ánh mắt kinh ngạc, sắc mặt trắng bệch.
Hoành Văn khoan thai đứng dậy, “Xem ra công tử vẫn còn nhận ra tại hại”.
Chủ quán hết nhìn trái lại nhìn phải, “Thì ra hai vị công tử đã quen nhau từ trước, chẳng trách vị đạo trưởng này lại dốc lòng dốc sức, hao tâm tổn trí chữa bệnh cho công tử. Ha ha ha ha, thì ra các vị đều là người quen cũ cả. Gặp được nhau trong căn điếm nhỏ này, quả rất có duyên, ha ha”.
Đạo trưởng ta phải làm người ngoài cuộc, đứng yên tại chỗ.
Mộ Nhược Ngôn nhìn Hoành Văn, giọng khàn đặc: “Ngươi…”.
Hoành Văn nói: “Có thể gặp nhau ở chỗ này, quả thật là duyên phận, nếu công tử đã qua cơn bệnh thập tử nhất sinh, cũng coi như sống lại một lần. Những chuyện ngày hôm đó, dù bất đắc dĩ cũng đã xảy ra rồi. Cứ xem nó như chuyện xưa từ kiếp trước, quên nó đi, rồi sống quãng đời sau này cho vui vẻ”.
Hoành Văn chắp tay, nói với chủ quán: “Làm phiền ông chủ dọn cơm nước xuống dưới lầu, ta cùng với đạo trưởng sẽ dùng bữa ở sảnh chính, để vị công tử này yên tĩnh nghỉ ngơi”.
Chủ quán thưa vâng ngay lập tức, đám tiểu nhị nhanh tay lẹ chân thu dọn đồ trên bàn. Hồ ly thì lề mề nhảy từ trên ghế xuống, lủi vào trong lòng của Hoành Văn. Hoành Văn đứng sát bên ta, thấp giọng hỏi: “Ngươi muốn ở lại chỗ này, hay cùng ta xuống lầu dùng bữa?”.
Ánh mắt của Mộ Nhược Ngôn cũng theo về phía này, ánh sáng lấp lánh nơi đáy mắt, khác hẳn so với bộ dạng ban nãy. Bản tiên quân thấy da đầu tê rần, lập tức chắp tay nói: “Thí chủ hãy tĩnh tâm nghỉ ngơi, bần đạo xin cáo từ trước”. Ta theo sau Hoành Văn, bước ra khỏi phòng, trong khoảnh khắc khi ta xoay người lại, thấy đôi mắt lạnh lẽo thê lương của Mộ Nhược Ngôn.
Tiên lực của Kim La Linh Chi do hồ ly tặng quả thực rất tuyệt. Ta bắt đầu có chút hối hận vì đã chữa khỏi bệnh cho Thiên Xu.
Gần tối, đèn đuốc được thắp hết lên, ta và Hoành Văn ngồi ở sảnh lớn dưới lầu ăn cơm tối, Mộ Nhược Ngôn bắt đầu ra khỏi phòng, đi dạo loanh quanh.
Y mặc một bộ trường sam màu lam nhạt, tiếng bước chân rất nhẹ, dáng đi vững vàng, trường sam trên người nhẹ nhàng lay động, vừa nhìn đã biết là người bệnh nặng mới khỏi, hơn nữa sau khi khỏi bệnh tinh thần đã khôi phục mười phần.
Mộ Nhược Ngôn xuống cầu thang, bước về phía sảnh lớn. Ta đứng dậy, chắp hai tay trước ngực cất tiếng hỏi thăm, Hoành Văn chỉ gật đầu một cái. Mộ Nhược ngôn sau khi đáp lễ xong liền ngồi xuống chiếc bàn ngay bên cạnh, tiểu nhị tiến tới thăm hỏi, y liền gọi món ăn.
Hôm nay Hoành Văn nói rất ít, bản tiên quân bởi vậy có chút rầu rĩ. Ta và Hoành Văn ngồi đối diện nhau, Cục Lông thì ngồi chồm hỗm trên một cái ghế bên người Hoành Văn, ra vẻ ngây thơ, há miệng ăn trứng gà rán mà Hoành Văn đút cho.
Hoành Văn bỏ hết hành băm ra khỏi trứng rán, sau đó gắp từng miếng một vào trong chiếc đĩa sứ để bên cạnh hồ ly, hồ ly cứ thế chóp chép ăn, ăn xong thì liếm láp khoé miệng cùng ria mép, ngửa đầu nhìn Hoành Văn, đuôi quẩy tít mù.
Bản tiên quân vẫn bình thường như không, điềm nhiên húp cháo.
Thỉnh thoảng gắp thêm ít cải cúc mùa thu.
Đám tiểu nhị cũng đứng ở bên cạnh nhìn, thấy vậy liền nói: “Công tử thực lợi hại quá, súc sinh này vào tay ngài sao lại ngoan ngoãn thế, trông nó ăn thật là thú vị”.
Ta cười lạnh trong lòng, nếu nó mà hoá thành hình người, lộ ra cơ ngực cuồn cuộn như hôm trước mà xem, một gã nam tử cao bảy tám thước lại cúi đầu quẫy đuôi, trông càng thú vị nữa.
Quán trọ “Nhà trên sông” này cũng chẳng có bao nhiêu khách, tất cả mọi người trong sảnh đều đang nhìn hồ ly, cả Mộ Nhược Ngôn cũng nhìn.
Ở một chiếc bàn trong góc phòng, có mấy người mang dáng vẻ thương nhân đang ngồi, một kẻ trong số đó nói: “Có thể thuần dưỡng một con vật hoang dã trở nên ngoan ngoãn nghe lời như thế, công tử cùng vị đạo trưởng này có phương pháp thần kỳ nào chăng?”.
Hoành Văn thản nhiên nở một nụ cười, ta nói: “Không dám, không dám, chỉ là chút tài mọn thôi”.
Hồ ly dùng khoé mắt liếc bản tiên quân, rất là bất kính, ta liền nói tiếp, “Thật ra thuần phục những thứ sống trong rừng hoang núi thẳm này rất dễ, chỉ cần một chén nước bùa của bần đạo là có thể khiến cho toàn bộ dã tính biến mất ngay tức khắc”.
Những người còn lại ngồi ở bàn đó đều gọi người có dáng vẻ mập mạp đang nói chuyện là “Đổng viên ngoại”, Đổng viên ngoại nhìn bản tiên quân bằng vẻ bán tín bán nghi, nói: “Tại hạ đời này, tứ hải ngũ hồ[1] đã ngang dọc hơn nửa, lại không biết phép tiên của đạo gia còn có thể dùng vào việc này”.
[1] Ngũ hồ: Chỉ năm hồ lớn trong địa phận Trung Hoa, có rất nhiều cách nói. Thông thường để chỉ: Hồ Động Đình, hồ Bà Dương, hồ Sào, hồ Thái, hồ Hồng Trạch.
Tứ hải: Bốn biển, người Trung Quốc xưa cho rằng, Trung Quốc được vây quanh bởi biển, thế nên tứ hải cũng để phiếm chỉ toàn bộ đất nước.
Ta vân vê chòm râu, không nói lời nào. Im lặng đúng lúc, mới là cảnh giới của cao nhân.
Lập tức có một tên tiểu nhị lên tiếng: “Đổng viên ngoại có điều không biết, vị Quảng Vân đạo trưởng này thật sự là một cao nhân, ngài nhìn vị công tử ngồi ở chiếc bàn kia mà xem, là được Quảng Vân đạo trưởng chữa cho lành bệnh, chỉ dùng có một thang thuốc thôi đấy. Thật đúng là diệu thủ hồi xuân”.
Đổng viên ngoại cùng đám người mập mạp ngồi cùng bàn lập tức tỏ vẻ cung kính hẳn, rối rít nói thất kính cùng thứ tội. Ta cũng luôn mồm “các vị khen nhầm rồi” với lại “bần đạo không dám nhận”.
Đổng viên ngoại liền nói: “Đạo trưởng cốt tiên chói sáng, chắc hẳn cũng rất tinh thông việc hàng yêu bắt quái cũng như thuật cải tử hoàn sinh”.
Thấy chuyện càng nói càng xa, ta đành đáp rằng: “Thỉnh thoảng khi nhà cửa không yên ổn, yêu ma quỷ quái hoành hành quấy nhiễu thì bần đạo còn có thể dốc sức mọn ra xua đuổi. Nhưng riêng chuyện cải tử hoàn sinh, ta vạn lần không dám nói bừa. Chuyện sinh tử, số mệnh đều có Âm ty cai quản. Bản thân bần đạo còn chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi[2] , làm sao dám huênh hoang chuyện sống chết”.
[2]Lục đạo luân hồi: Sáu đường luân hồi của chúng sinh, gồm: Thiên (tiên), A-tu-la (Thần), Nhân (Người), Địa ngục, Ngạ Quỷ (Ma đói), Súc sinh (Thú vật).
Đổng viên ngoại khâm phục sự khiêm nhường của bản tiên quân, tán thán.
Hoành Văn nhàn nhã cầm đũa tấn công cả bàn ăn, toàn bộ trứng gà trên mâm đều bị hắn đem cho hồ ly ăn hết, chỉ còn sót lại mỗi mộc nhĩ cùng với đám hành băm, gừng vụn bị nhặt ra.
Ta thò đũa về phía đám mộc nhĩ, lại nghe thấy Mộ Nhược Ngôn mở miệng, “Người ta vẫn nói, sinh là duyên bắt đầu, chết là duyên tàn lụi. Vậy thì những hồn phách vẫn còn nợ nần trần thế, những linh hồn còn mang nặng oán hận, oan khuất lại tới từ nơi đâu? Hay chỉ là lời thế gian đồn nhảm”.
Ta gắp mộc nhĩ vào trong bát, đang ngẫm nghĩ xem nên nói cái gì. Hoành Văn lại đột nhiên lên tiếng: “Loại chuyện này thực khó mà nói cho rành mạch, cũng khó khẳng định có phải lời đồn nhảm hay không. Nhân sinh trên đời này ví như một người sống trong một căn phòng vậy, đến lúc phòng không ở được nữa, thì cũng là khi sự sống sắp tàn, duyên phận sắp tan. Có điều, tuy duyên phận với căn phòng ấy hết thật, nhưng nói không chừng lại còn duyên phận với căn phòng khác”. Hắn cầm đũa chĩa thẳng về phía ta, “Giống như vị đạo trưởng này, ông nói ông không biết cải tử hoàn sinh, nhưng ai dám khẳng định ông không biết đổi phòng để ở”.
Hoành Văn, ngươi đang lột mặt ta đấy à?
Mộ Nhược Ngôn lập tức nhìn về phía bản tiên quân, ta liền cười khan một tiếng, “Triệu công tử nói đùa cũng thật dí dỏm, bần đạo cũng không biết nên đối đáp thế nào bây giờ”.
Hoành Văn đặt đũa xuống, hồ ly nhảy lên trên đùi hắn, mở miệng ngáp dài. Hoành Văn nói một tiếng “Ta đi trước”, liền ôm theo hồ ly, nghênh ngang bước lên lầu.
Bản tiên quân vì vậy cũng trở về phòng.
Ta chần chừ đứng ở hành lang: Giờ về phòng ta hay vào phòng Hoành Văn đây. Ta ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng vẫn bước tới trước phòng Hoành Văn, đẩy cửa vào. Hoành Văn đang ngồi uống trà, ta bước tới bên bàn, ngồi xuống, Hoành Văn nhấc ấm trà lên rót, ta liền cầm một cái chén lên, để sát miệng của ấm trà.
Hoành Văn nói: “Có chút sức thế thôi mà ngươi cũng muốn tiết kiệm cho ta à?”.
Ta cười nói: “Người rót cho ta một chén, phần trà còn lại ta sẽ rót thay ngươi”.
Hoành Văn bật cười, sau đó rót đầy chén trà trong tay ta.
Ta liếc mắt nhìn hồ ly đang nằm ở đầu giường, “Cục Lông, ta muốn thương lượng với người một chuyện. Tối nay ngươi hãy dẫn đường, ta và Thanh quân sẽ tới động của người một chuyến, ngươi thả tên họ Đan đang bị giam giữ trong động ra được không?”.
Hồ ly nhảy xuống đất, hoá thành hình người, cau mày, đứng tựa người vào cột giường. Vết sẹo Đan Thành Lăng để lại trên tay nó vẫn còn, căm hận trong lòng nó nhất định cũng chưa tan, nghe ta bảo thả người, nó liền sa sầm mặt.
Ta nói: “Lần này ta cùng Thanh quân phụng mệnh xuống trần làm việc, người ngươi đang nhốt lại vừa khéo là nhân vật mấu chốt. Thật ra bản tiên cùng kẻ đó có chút ân oán, nếu không phải mệnh trời đè nặng trên vai, thì ngươi có muốn nướng hắn lên ăn ta cũng mặc, còn nguyện giúp ngươi nhóm lửa nữa kìa”.
Hồ ly ôm cánh tay, không nói câu nào, mãi đến khi Hoành Văn lên tiếng: “Những lời Tống Dao Nguyên quân nói ban nãy đều là sự thật, tuy rằng có lỗi với ngươi, nhưng rất mong ngươi có thể giúp chúng ta”.
Hồ ly vâng lời ngay lập tức, đáp: “Nếu đó là ý của Thanh Quân, vậy đêm nay ta sẽ lập tức thả người”, bộ dạng cam tâm tình nguyện vì người mà đầu rơi máu chảy, thịt nát xương tan.
Thế là vào lúc nửa đêm, ta cùng với hồ ly đi tới hang ổ của nó. Hoành Văn chỉ lôi chân thân của ban tiên quân ra, nói hắn không đi. Dáng vẻ bây giờ của hắn không khác chân thân là mấy, chỉ sợ bị Đan Thành Lăng biết thì lại thêm phiền phức.
Hồ ly vừa nghe Hoành Văn không đi liền mặt mày u ám, lầm lì dẫn bản tiên quân tới hang động nó ở, suốt cả quảng đường không nói lấy một câu.
Trời tối đen, gió gầm gào, lúc lên đường vừa khi thuận gió, bọn ta liền cưỡi gió đạp mây, chỉ mất hơn một khắc[3] đồng hồ đã tới được ngọn núi mà hồ ly cư ngụ.
[3]Một khắc: Mười lăm phút.
Ta và hồ ly đặt chân xuống lưng chừng núi, bóng cây đan nhau, cỏ cao dày đặc, ta hỏi hồ ly núi này tên là gì nó lạnh giọng đáp: “Núi Tuyên Thanh”. Tuyên trong Tuyên Ly, Thanh trong Hoành Văn Thanh quân, bản tiên quân nghe mà thấy tê dại cả người, hỏi lại: “Trước khi ngươi đặt cái tên này thì ngọn núi này tên gì?”.
Hồ ly hậm hực nói: “Núi Khô Đằng”, bực bội đi được vài bước, nó lại nói: “Sao ngươi biết tên đó là do ta đổi?”.
Ta không đáp lại. Lúc bản tiên quân ở nhân gian đọc thơ, đau tình tan vỡ, thì không biết ngươi còn đang bắt trộm gà nhà ai.
Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com
Cửa động của hồ ly được che đậy sau tầng tầng dây leo phủ kín vách núi, bọn ta men theo một con đường đá hẹp dài, quanh co uốn lượn để tiến vào trong. Hồ ly cũng là một con cáo biết hưởng thụ, đào một dòng nước chảy cắt qua con đường phía trước, trên mặt nước có một cây cầu đá vắt ngang, bước qua cầu, lại vòng qua một tấm bình phong bằng đá. Hồ ly vung tay áo bắn ra ánh lửa, đuốc cháy hừng hực trên bốn bức tường xung quanh, lộ ra một khung cảnh bồng lai khác. Một hang đá cực kỳ rộng rãi, phỏng theo cung cách trang hoàng của phòng khách, bố trí cũng tử tế ra trò. Trên bàn đá bày hoa quả, rượu và đồ ăn, ghế đá còn trải đệm bằng lụa gấm, bên phải còn có một tấm bình phong lưu ly khảm trai.
Ta còn đang định khen ngợi động đá của hồ ly mấy câu, đã thấy nó đứng trong sảnh, nhíu mày, lầm bẩm nói: “Không ổn”, sau đó liền sải bước qua tấm bình phong.
Bản tiên quân bám theo gót nó, sau tấm bình phong lại là một con đường đá, có rất nhiều ngã rẽ, hồ ly vội vã đi trước, ta lúi húi theo sau, rẽ qua vô số khúc ngoặt, mở một cánh cửa đá ra, lại bước vào trong một hang động khác. Hồ ly giơ tay thắp cây đuốc bên trong lên, trong hang động chỉ có một cây cột trơ trụi, dưới chân cột là những mảnh xích bằng sắt vụn nát.
Xem ra hồ ly đã nhốt Đan Thành Lăng ở chỗ này.
Ta nhìn đám xích sắt văng tứ tán trên mặt đất, cau mày, không ngờ Đan Thành Lăng lại dũng mảnh đến mức này, có thể giãy đứt xích sắt, trốn khỏi hang động của hồ ly?
Hồ ly nghiến răng nghiến lợi oán hận câu gì đó, liền lao ra khỏi động, lại men theo một con đường đá, rẽ qua bảy tám chục khúc quanh, đẩy một cánh cửa đá ra. Một cơn gió từ ngoài cửa thổi vào, bản tiên quân ngẩng đầu lên, có thể trông thấy được bầu trời đen kịt, nơi này là một khe nứt trong núi, bị hồ ly cải tạo thành nội viện.
Một bóng đen nhỏm dậy từ trong chỗ tối, lao thẳng về phía này.
Nghẹn ngào một tiếng, nó nhào vào vòng tay của hồ ly, nhúc nhích một hồi, liền biến thành đứa bé trai, ôm chặt lấy hồ ly mà khóc rống lên: “Đại vương! Cuối cùng đại vương cũng đã về rồi… Hu hu, có một kẻ rất lợi hại đã tới đây, cứu kẻ bị nhốt trong động ra rồi… Hồng tỷ tỷ, Thu tỷ tỷ, Hoa ca ca, Tiểu Thất, mọi người đều bị bọn họ bắt vào trong củi hết, hu hu, con khó khăn lắm mới trốn được, con sợ quá đại vương ơi, hu hu…”.
Đứa bé dúi đầu vào lồng ngực của hồ ly, vừa khóc, vừa nói, vừa quệt nước mắt nước mũi vương đầy trên mặt.
Khó khăn lắm mới chờ được đứa bé khóc xong, hồ ly liền mang theo nó, dẫn bản tiên quân trở về sảnh đá. Thằng bé co người trên một chiếc ghế đá, đang thút thít sụt sùi, vừa sụt sùi vừa len lén đưa mắt nhìn bản tiên quân. Một đôi mắt xanh biếc, hai cái tai nhọn hoắt trên đỉnh đầu còn vương vài vằn nâu xám. Đứa bé bày, hoá ra là một con mèo rừng tinh.
Mèo rừng nói chuyện rất không rõ ràng, câu từ cứ rối beng hết lên, lắp bắp cả nữa ngày mới kể được sơ qua về những chuyện đã xảy ra.
Theo lời nó nói, sáng sớm hôm nay, có một người tay cầm phất trần xông vào trong động, cứu Đan Thành Lăng ra, tóm gọn hơn mười yêu tinh lớn nhỏ trong động: có đám hồ nữ xinh đẹp động lòng người, cũng có những con tiểu yêu quái khác đạo hạnh không cao lắm, trong số đó tu vi của mèo rừng nông cạn nhất, yêu khí cũng yếu nhất, chui vào trong một xó của khe đá, may mắn giữ được cái mạng nhỏ.
Sắc mặt hồ ly tái nhợt, ánh mắt sắc bén, bản tiên quân biết, từ giờ phút này trở đi, nó với Đan Thành Lăng đã thành kẻ thù không đội trời chung.
Về bộ dạng của kẻ cầm phất trần tới cứu người kia, mèo rừng cũng tả không rõ ràng, mơ mơ hồ hồ. Kể tới kể lui cũng chỉ có mấy cụm từ “Không có râu”, “Trông giống đạo sĩ”, “mặc áo màu xanh”. Sau đó nó vươn hai cái chân trước bị thương của nó cho hồ ly xem, vẻ mặt vô cùng ấm ức.
Bản tiên quân nghe xong, nhìn xong, lại không thể không nói: “Nếu người trong động đã đi thì việc bản tiên quân tới đây cũng xem như kết thúc, thời gian không còn sớm, đến lúc phải trở về quán trọ rồi”. Ta nhìn hồ ly và mèo rừng, “Ngươi… Hai người các ngươi tính thế nào?”.
Hồ ly lặng yên không nói, mèo rừng cuộn tròn trên ghế dựa, co ro tấm thân của nó.
Lúc này, trại yêu tinh cỏn con của hồ ly đang lâm vào cảnh yêu tinh thì hết, động lại trống không, nó cứ cúi đầu ngồi như thế, bộ dạng có chút thê lương.
Cũng không biết vị khách cầm phất trần có pháp lực cao thâm kia có quay trở lại chém giết thêm lần nữa hay không, cả hồ ly và mèo rừng này đều đang lâm vào thế nguy hiểm.
Kỳ thật, bản tiên quân là người rất dễ mềm lòng. Ta nhìn tình cảnh này, trái tim không kìm được mà mềm ra một chút.
Chỉ vì một phút yếu lòng này, mà khi ta trở về phòng của Hoành Văn, sau người có một con hồ ly, còn cả một con mèo rừng vằn xám.
Hồ ly nhảy lên đùi của Hoành Văn, rên lên một tiếng, cả người nằm phủ phục xuống, trông bộ dạng rất suy sụp chán chường. Hoành Văn xoa đầu nó, hồ ly ngẩng lên, thè lưỡi liếm tay của Hoành Văn.
Mèo rừng nhảy lên góc chăn ở cuối giường, nằm xuống, tiu nghỉu liếm chân trước bị thương.
Đối với lần nhẹ dạ này, bản tiên quân quả thật vô cùng hối hận.
Chủ quán lúc này đang đứng bên cạnh bản tiên quân, đích thân rót rượu cho ta và Hoành Văn, thấy thế liền ôm bầu rượu đứng ngây ra đó. Cũng nên biết Mộ Nhược Ngôn đã nằm liệt trên giường lâu lắm rồi, chủ quán trông thấy y có thể tự mình ngồi dậy, cũng chẳng khác gì tận mắt nhìn Hằng Nga bay lên cung trăng, kích động đến độ cả người run lên bần bật, run được một lúc liền bổ nhào tới quỳ sụp xuống trước mặt bản tiên quân.
“Đạo trưởng đúng là thần tiên sống! Đạo trưởng đúng là thần tiên sống!”
Ta vuốt râu cười mỉm, đầu tiên là cười mỉm với chủ quán, sau đó là cười mỉm với Mộ Nhược Ngôn. Đợi đến lúc mở miệng ra mới phát hiện miếng đậu phụ khô vẫn còn trong miệng, thế là bản tiên quân lại ung dung nuốt nó xuống, lại cười mỉm, nói với chủ quán rằng: “Chỉ là chuyện nhỏ mà thôi, ông chủ không cần khách khí”. Sau đó lại dùng chất giọng hoà nhã hỏi Mộ Nhược Ngôn đang nằm trên giường, “Công tử cảm thấy trong người đã khá hơn chưa?”.
Mộ Nhược Ngôn chăm chú nhìn ta, trên gương mặt vẫn phảng phất vài phần mờ mịt, chủ quán liền lên tiếng: “Công tử, mấy hôm nay ngài bệnh đến độ không hay biết gì, may nhờ có liều thuốc của vị đạo trưởng này. Bây giờ công tử thấy thân thể ra sao?”.
Vẻ mờ mịt trên mặt Mộ Nhược Ngôn dần biến mất, phỏng chừng đã tỉnh táo lại rồi. Y ngồi thẳng người dậy, trên gương mặt là vẻ tang thương pha lẫn chút mỉa mai tự giễu. Nhược Ngôn điều chỉnh lại nét mặt một chút, sau đó lật chăn ra, tác dụng của Kim La Linh Chi quả thực không tồi, y vừa đặt chân xuống liền đứng được thẳng người, nhận lấy tấm áo choàng từ tay tiểu nhị, sau đó lại nhìn ta: “Y phục không chỉnh tề, mong đạo trưởng thứ lỗi. Nghe nói đạo trưởng đã vất vả cứu mạng cho tại hạ”.
Ta đứng dậy, chắp tay đáp lễ, “Chỉ là một đơn thuốc dân dã bần đạo mang theo khi hành tẩu giang hồ, thí chủ có thể khoẻ lại là tốt rồi”.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Tại hạ chỉ là một kẻ thư sinh, không có gì để cảm tạ ơn này của đạo trưởng, xin đạo trưởng hãy nhận lấy một lạy của tại hạ, xem như tạ lễ”.
Khi đôi chân của y cong lại cũng là lúc bản tiên quân sững cả người, Mộ Nhược Ngôn lại muốn quỳ xuống trước mặt ta ư? Một kẻ không muốn sống như y lại quỳ đáp tạ kẻ đã cứu mình, đây chẳng phải là chuyện nực cười sao.
Trong lòng thì nghĩ vậy, còn chân ta đã sớm vô thức bước tới, vươn tay đỡ lấy cơ thể còn chưa kịp quỳ hẳn xuống của Mộ Nhược Ngôn. Chén rượu bị Hoành văn dằn xuống bàn, một tiếng “cốp” vang lên. Bản tiên quân ngay lập tức buông y ra, lùi lại phía sau, chắp hai tay lại, “Thí chủ đáp lễ thế này là quá lớn rồi, bần đạo quả tình không dám nhận, không dám nhận”.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Đạo trưởng không chịu nhận một lạy này, vậy thì hãy để tại hạ thi lễ với ngài”, nói rồi y cúi người xuống, vái bản tiên một vái. Ta chẳng còn cách nào, cũng đành chắp tay lại, cố khom lưng thật thấp.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Ơn này của đạo trưởng, nếu ngày sau có đủ khả năng, tại hạ nhất định sẽ báo đáp. Tại hạ họ Nghiêm, tên là Tử Mộ, chẳng hay tên hiệu của đạo trưởng là gì?”.
Quả nhiên, hạ phàm rồi nhưng Thiên Xu vẫn lợi hại như xưa, hôn mê một thời gian dài, mới tỉnh dậy chưa bao lâu đã bịa ngay ra được một cái tên giả, ngay cả mắt cũng không thèm chớp một cái.
Ta lại chắp tay: “Thí chủ quá lời rồi, bần đạo quả thật không dám nhận. Tên hiệu của bần đạo là Quảng Vân Tử, những người khác đều gọi là Quảng Vân Đạo Nhân”.
Ta lại cùng Thiên xu khách sáo dông dài thêm một phen nữa, mới nói: “Sức khoẻ thí chủ vừa có chút khởi sắc, còn cần tĩnh dưỡng vài ngày, đừng để lại nhiễm phong hàn. Chi bằng thí chủ cứ nằm trên giường nghỉ ngơi thêm mấy ngày đã”.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Đa tạ đạo trưởng”, sau đó nhìn về phía bàn, nói tiếp: “Tại hạ đã quấy rầy đạo trưởng cùng mấy vị đây dùng bữa, thật ngại quá”.
Ta cười khan, rõ ràng chúng ta mới là người đem cơm canh vào phòng y ăn uống, vậy mà Thiên Xu vẫn khách khí thế này. Hoành Văn vốn ngồi quay về phía giường, lúc này nghiêng đầu lại, mỉm cười với y: “Công tử khách khí rồi, là chúng ta quấy rầy công tử mới đúng”.
Mộ Nhược Ngôn tựa như người đứng trên đỉnh núi giá rét khôn cùng, bị một chậu nước băng tan giội thẳng xuống đầu, nhất thời thân thể cứng lại như bị đóng băng.
Ánh mắt kinh ngạc, sắc mặt trắng bệch.
Hoành Văn khoan thai đứng dậy, “Xem ra công tử vẫn còn nhận ra tại hại”.
Chủ quán hết nhìn trái lại nhìn phải, “Thì ra hai vị công tử đã quen nhau từ trước, chẳng trách vị đạo trưởng này lại dốc lòng dốc sức, hao tâm tổn trí chữa bệnh cho công tử. Ha ha ha ha, thì ra các vị đều là người quen cũ cả. Gặp được nhau trong căn điếm nhỏ này, quả rất có duyên, ha ha”.
Đạo trưởng ta phải làm người ngoài cuộc, đứng yên tại chỗ.
Mộ Nhược Ngôn nhìn Hoành Văn, giọng khàn đặc: “Ngươi…”.
Hoành Văn nói: “Có thể gặp nhau ở chỗ này, quả thật là duyên phận, nếu công tử đã qua cơn bệnh thập tử nhất sinh, cũng coi như sống lại một lần. Những chuyện ngày hôm đó, dù bất đắc dĩ cũng đã xảy ra rồi. Cứ xem nó như chuyện xưa từ kiếp trước, quên nó đi, rồi sống quãng đời sau này cho vui vẻ”.
Hoành Văn chắp tay, nói với chủ quán: “Làm phiền ông chủ dọn cơm nước xuống dưới lầu, ta cùng với đạo trưởng sẽ dùng bữa ở sảnh chính, để vị công tử này yên tĩnh nghỉ ngơi”.
Chủ quán thưa vâng ngay lập tức, đám tiểu nhị nhanh tay lẹ chân thu dọn đồ trên bàn. Hồ ly thì lề mề nhảy từ trên ghế xuống, lủi vào trong lòng của Hoành Văn. Hoành Văn đứng sát bên ta, thấp giọng hỏi: “Ngươi muốn ở lại chỗ này, hay cùng ta xuống lầu dùng bữa?”.
Ánh mắt của Mộ Nhược Ngôn cũng theo về phía này, ánh sáng lấp lánh nơi đáy mắt, khác hẳn so với bộ dạng ban nãy. Bản tiên quân thấy da đầu tê rần, lập tức chắp tay nói: “Thí chủ hãy tĩnh tâm nghỉ ngơi, bần đạo xin cáo từ trước”. Ta theo sau Hoành Văn, bước ra khỏi phòng, trong khoảnh khắc khi ta xoay người lại, thấy đôi mắt lạnh lẽo thê lương của Mộ Nhược Ngôn.
Tiên lực của Kim La Linh Chi do hồ ly tặng quả thực rất tuyệt. Ta bắt đầu có chút hối hận vì đã chữa khỏi bệnh cho Thiên Xu.
Gần tối, đèn đuốc được thắp hết lên, ta và Hoành Văn ngồi ở sảnh lớn dưới lầu ăn cơm tối, Mộ Nhược Ngôn bắt đầu ra khỏi phòng, đi dạo loanh quanh.
Y mặc một bộ trường sam màu lam nhạt, tiếng bước chân rất nhẹ, dáng đi vững vàng, trường sam trên người nhẹ nhàng lay động, vừa nhìn đã biết là người bệnh nặng mới khỏi, hơn nữa sau khi khỏi bệnh tinh thần đã khôi phục mười phần.
Mộ Nhược Ngôn xuống cầu thang, bước về phía sảnh lớn. Ta đứng dậy, chắp hai tay trước ngực cất tiếng hỏi thăm, Hoành Văn chỉ gật đầu một cái. Mộ Nhược ngôn sau khi đáp lễ xong liền ngồi xuống chiếc bàn ngay bên cạnh, tiểu nhị tiến tới thăm hỏi, y liền gọi món ăn.
Hôm nay Hoành Văn nói rất ít, bản tiên quân bởi vậy có chút rầu rĩ. Ta và Hoành Văn ngồi đối diện nhau, Cục Lông thì ngồi chồm hỗm trên một cái ghế bên người Hoành Văn, ra vẻ ngây thơ, há miệng ăn trứng gà rán mà Hoành Văn đút cho.
Hoành Văn bỏ hết hành băm ra khỏi trứng rán, sau đó gắp từng miếng một vào trong chiếc đĩa sứ để bên cạnh hồ ly, hồ ly cứ thế chóp chép ăn, ăn xong thì liếm láp khoé miệng cùng ria mép, ngửa đầu nhìn Hoành Văn, đuôi quẩy tít mù.
Bản tiên quân vẫn bình thường như không, điềm nhiên húp cháo.
Thỉnh thoảng gắp thêm ít cải cúc mùa thu.
Đám tiểu nhị cũng đứng ở bên cạnh nhìn, thấy vậy liền nói: “Công tử thực lợi hại quá, súc sinh này vào tay ngài sao lại ngoan ngoãn thế, trông nó ăn thật là thú vị”.
Ta cười lạnh trong lòng, nếu nó mà hoá thành hình người, lộ ra cơ ngực cuồn cuộn như hôm trước mà xem, một gã nam tử cao bảy tám thước lại cúi đầu quẫy đuôi, trông càng thú vị nữa.
Quán trọ “Nhà trên sông” này cũng chẳng có bao nhiêu khách, tất cả mọi người trong sảnh đều đang nhìn hồ ly, cả Mộ Nhược Ngôn cũng nhìn.
Ở một chiếc bàn trong góc phòng, có mấy người mang dáng vẻ thương nhân đang ngồi, một kẻ trong số đó nói: “Có thể thuần dưỡng một con vật hoang dã trở nên ngoan ngoãn nghe lời như thế, công tử cùng vị đạo trưởng này có phương pháp thần kỳ nào chăng?”.
Hoành Văn thản nhiên nở một nụ cười, ta nói: “Không dám, không dám, chỉ là chút tài mọn thôi”.
Hồ ly dùng khoé mắt liếc bản tiên quân, rất là bất kính, ta liền nói tiếp, “Thật ra thuần phục những thứ sống trong rừng hoang núi thẳm này rất dễ, chỉ cần một chén nước bùa của bần đạo là có thể khiến cho toàn bộ dã tính biến mất ngay tức khắc”.
Những người còn lại ngồi ở bàn đó đều gọi người có dáng vẻ mập mạp đang nói chuyện là “Đổng viên ngoại”, Đổng viên ngoại nhìn bản tiên quân bằng vẻ bán tín bán nghi, nói: “Tại hạ đời này, tứ hải ngũ hồ[1] đã ngang dọc hơn nửa, lại không biết phép tiên của đạo gia còn có thể dùng vào việc này”.
[1] Ngũ hồ: Chỉ năm hồ lớn trong địa phận Trung Hoa, có rất nhiều cách nói. Thông thường để chỉ: Hồ Động Đình, hồ Bà Dương, hồ Sào, hồ Thái, hồ Hồng Trạch.
Tứ hải: Bốn biển, người Trung Quốc xưa cho rằng, Trung Quốc được vây quanh bởi biển, thế nên tứ hải cũng để phiếm chỉ toàn bộ đất nước.
Ta vân vê chòm râu, không nói lời nào. Im lặng đúng lúc, mới là cảnh giới của cao nhân.
Lập tức có một tên tiểu nhị lên tiếng: “Đổng viên ngoại có điều không biết, vị Quảng Vân đạo trưởng này thật sự là một cao nhân, ngài nhìn vị công tử ngồi ở chiếc bàn kia mà xem, là được Quảng Vân đạo trưởng chữa cho lành bệnh, chỉ dùng có một thang thuốc thôi đấy. Thật đúng là diệu thủ hồi xuân”.
Đổng viên ngoại cùng đám người mập mạp ngồi cùng bàn lập tức tỏ vẻ cung kính hẳn, rối rít nói thất kính cùng thứ tội. Ta cũng luôn mồm “các vị khen nhầm rồi” với lại “bần đạo không dám nhận”.
Đổng viên ngoại liền nói: “Đạo trưởng cốt tiên chói sáng, chắc hẳn cũng rất tinh thông việc hàng yêu bắt quái cũng như thuật cải tử hoàn sinh”.
Thấy chuyện càng nói càng xa, ta đành đáp rằng: “Thỉnh thoảng khi nhà cửa không yên ổn, yêu ma quỷ quái hoành hành quấy nhiễu thì bần đạo còn có thể dốc sức mọn ra xua đuổi. Nhưng riêng chuyện cải tử hoàn sinh, ta vạn lần không dám nói bừa. Chuyện sinh tử, số mệnh đều có Âm ty cai quản. Bản thân bần đạo còn chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi[2] , làm sao dám huênh hoang chuyện sống chết”.
[2]Lục đạo luân hồi: Sáu đường luân hồi của chúng sinh, gồm: Thiên (tiên), A-tu-la (Thần), Nhân (Người), Địa ngục, Ngạ Quỷ (Ma đói), Súc sinh (Thú vật).
Đổng viên ngoại khâm phục sự khiêm nhường của bản tiên quân, tán thán.
Hoành Văn nhàn nhã cầm đũa tấn công cả bàn ăn, toàn bộ trứng gà trên mâm đều bị hắn đem cho hồ ly ăn hết, chỉ còn sót lại mỗi mộc nhĩ cùng với đám hành băm, gừng vụn bị nhặt ra.
Ta thò đũa về phía đám mộc nhĩ, lại nghe thấy Mộ Nhược Ngôn mở miệng, “Người ta vẫn nói, sinh là duyên bắt đầu, chết là duyên tàn lụi. Vậy thì những hồn phách vẫn còn nợ nần trần thế, những linh hồn còn mang nặng oán hận, oan khuất lại tới từ nơi đâu? Hay chỉ là lời thế gian đồn nhảm”.
Ta gắp mộc nhĩ vào trong bát, đang ngẫm nghĩ xem nên nói cái gì. Hoành Văn lại đột nhiên lên tiếng: “Loại chuyện này thực khó mà nói cho rành mạch, cũng khó khẳng định có phải lời đồn nhảm hay không. Nhân sinh trên đời này ví như một người sống trong một căn phòng vậy, đến lúc phòng không ở được nữa, thì cũng là khi sự sống sắp tàn, duyên phận sắp tan. Có điều, tuy duyên phận với căn phòng ấy hết thật, nhưng nói không chừng lại còn duyên phận với căn phòng khác”. Hắn cầm đũa chĩa thẳng về phía ta, “Giống như vị đạo trưởng này, ông nói ông không biết cải tử hoàn sinh, nhưng ai dám khẳng định ông không biết đổi phòng để ở”.
Hoành Văn, ngươi đang lột mặt ta đấy à?
Mộ Nhược Ngôn lập tức nhìn về phía bản tiên quân, ta liền cười khan một tiếng, “Triệu công tử nói đùa cũng thật dí dỏm, bần đạo cũng không biết nên đối đáp thế nào bây giờ”.
Hoành Văn đặt đũa xuống, hồ ly nhảy lên trên đùi hắn, mở miệng ngáp dài. Hoành Văn nói một tiếng “Ta đi trước”, liền ôm theo hồ ly, nghênh ngang bước lên lầu.
Bản tiên quân vì vậy cũng trở về phòng.
Ta chần chừ đứng ở hành lang: Giờ về phòng ta hay vào phòng Hoành Văn đây. Ta ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng vẫn bước tới trước phòng Hoành Văn, đẩy cửa vào. Hoành Văn đang ngồi uống trà, ta bước tới bên bàn, ngồi xuống, Hoành Văn nhấc ấm trà lên rót, ta liền cầm một cái chén lên, để sát miệng của ấm trà.
Hoành Văn nói: “Có chút sức thế thôi mà ngươi cũng muốn tiết kiệm cho ta à?”.
Ta cười nói: “Người rót cho ta một chén, phần trà còn lại ta sẽ rót thay ngươi”.
Hoành Văn bật cười, sau đó rót đầy chén trà trong tay ta.
Ta liếc mắt nhìn hồ ly đang nằm ở đầu giường, “Cục Lông, ta muốn thương lượng với người một chuyện. Tối nay ngươi hãy dẫn đường, ta và Thanh quân sẽ tới động của người một chuyến, ngươi thả tên họ Đan đang bị giam giữ trong động ra được không?”.
Hồ ly nhảy xuống đất, hoá thành hình người, cau mày, đứng tựa người vào cột giường. Vết sẹo Đan Thành Lăng để lại trên tay nó vẫn còn, căm hận trong lòng nó nhất định cũng chưa tan, nghe ta bảo thả người, nó liền sa sầm mặt.
Ta nói: “Lần này ta cùng Thanh quân phụng mệnh xuống trần làm việc, người ngươi đang nhốt lại vừa khéo là nhân vật mấu chốt. Thật ra bản tiên cùng kẻ đó có chút ân oán, nếu không phải mệnh trời đè nặng trên vai, thì ngươi có muốn nướng hắn lên ăn ta cũng mặc, còn nguyện giúp ngươi nhóm lửa nữa kìa”.
Hồ ly ôm cánh tay, không nói câu nào, mãi đến khi Hoành Văn lên tiếng: “Những lời Tống Dao Nguyên quân nói ban nãy đều là sự thật, tuy rằng có lỗi với ngươi, nhưng rất mong ngươi có thể giúp chúng ta”.
Hồ ly vâng lời ngay lập tức, đáp: “Nếu đó là ý của Thanh Quân, vậy đêm nay ta sẽ lập tức thả người”, bộ dạng cam tâm tình nguyện vì người mà đầu rơi máu chảy, thịt nát xương tan.
Thế là vào lúc nửa đêm, ta cùng với hồ ly đi tới hang ổ của nó. Hoành Văn chỉ lôi chân thân của ban tiên quân ra, nói hắn không đi. Dáng vẻ bây giờ của hắn không khác chân thân là mấy, chỉ sợ bị Đan Thành Lăng biết thì lại thêm phiền phức.
Hồ ly vừa nghe Hoành Văn không đi liền mặt mày u ám, lầm lì dẫn bản tiên quân tới hang động nó ở, suốt cả quảng đường không nói lấy một câu.
Trời tối đen, gió gầm gào, lúc lên đường vừa khi thuận gió, bọn ta liền cưỡi gió đạp mây, chỉ mất hơn một khắc[3] đồng hồ đã tới được ngọn núi mà hồ ly cư ngụ.
[3]Một khắc: Mười lăm phút.
Ta và hồ ly đặt chân xuống lưng chừng núi, bóng cây đan nhau, cỏ cao dày đặc, ta hỏi hồ ly núi này tên là gì nó lạnh giọng đáp: “Núi Tuyên Thanh”. Tuyên trong Tuyên Ly, Thanh trong Hoành Văn Thanh quân, bản tiên quân nghe mà thấy tê dại cả người, hỏi lại: “Trước khi ngươi đặt cái tên này thì ngọn núi này tên gì?”.
Hồ ly hậm hực nói: “Núi Khô Đằng”, bực bội đi được vài bước, nó lại nói: “Sao ngươi biết tên đó là do ta đổi?”.
Ta không đáp lại. Lúc bản tiên quân ở nhân gian đọc thơ, đau tình tan vỡ, thì không biết ngươi còn đang bắt trộm gà nhà ai.
Nguồn ebooks: http://www.luv-ebook.com
Cửa động của hồ ly được che đậy sau tầng tầng dây leo phủ kín vách núi, bọn ta men theo một con đường đá hẹp dài, quanh co uốn lượn để tiến vào trong. Hồ ly cũng là một con cáo biết hưởng thụ, đào một dòng nước chảy cắt qua con đường phía trước, trên mặt nước có một cây cầu đá vắt ngang, bước qua cầu, lại vòng qua một tấm bình phong bằng đá. Hồ ly vung tay áo bắn ra ánh lửa, đuốc cháy hừng hực trên bốn bức tường xung quanh, lộ ra một khung cảnh bồng lai khác. Một hang đá cực kỳ rộng rãi, phỏng theo cung cách trang hoàng của phòng khách, bố trí cũng tử tế ra trò. Trên bàn đá bày hoa quả, rượu và đồ ăn, ghế đá còn trải đệm bằng lụa gấm, bên phải còn có một tấm bình phong lưu ly khảm trai.
Ta còn đang định khen ngợi động đá của hồ ly mấy câu, đã thấy nó đứng trong sảnh, nhíu mày, lầm bẩm nói: “Không ổn”, sau đó liền sải bước qua tấm bình phong.
Bản tiên quân bám theo gót nó, sau tấm bình phong lại là một con đường đá, có rất nhiều ngã rẽ, hồ ly vội vã đi trước, ta lúi húi theo sau, rẽ qua vô số khúc ngoặt, mở một cánh cửa đá ra, lại bước vào trong một hang động khác. Hồ ly giơ tay thắp cây đuốc bên trong lên, trong hang động chỉ có một cây cột trơ trụi, dưới chân cột là những mảnh xích bằng sắt vụn nát.
Xem ra hồ ly đã nhốt Đan Thành Lăng ở chỗ này.
Ta nhìn đám xích sắt văng tứ tán trên mặt đất, cau mày, không ngờ Đan Thành Lăng lại dũng mảnh đến mức này, có thể giãy đứt xích sắt, trốn khỏi hang động của hồ ly?
Hồ ly nghiến răng nghiến lợi oán hận câu gì đó, liền lao ra khỏi động, lại men theo một con đường đá, rẽ qua bảy tám chục khúc quanh, đẩy một cánh cửa đá ra. Một cơn gió từ ngoài cửa thổi vào, bản tiên quân ngẩng đầu lên, có thể trông thấy được bầu trời đen kịt, nơi này là một khe nứt trong núi, bị hồ ly cải tạo thành nội viện.
Một bóng đen nhỏm dậy từ trong chỗ tối, lao thẳng về phía này.
Nghẹn ngào một tiếng, nó nhào vào vòng tay của hồ ly, nhúc nhích một hồi, liền biến thành đứa bé trai, ôm chặt lấy hồ ly mà khóc rống lên: “Đại vương! Cuối cùng đại vương cũng đã về rồi… Hu hu, có một kẻ rất lợi hại đã tới đây, cứu kẻ bị nhốt trong động ra rồi… Hồng tỷ tỷ, Thu tỷ tỷ, Hoa ca ca, Tiểu Thất, mọi người đều bị bọn họ bắt vào trong củi hết, hu hu, con khó khăn lắm mới trốn được, con sợ quá đại vương ơi, hu hu…”.
Đứa bé dúi đầu vào lồng ngực của hồ ly, vừa khóc, vừa nói, vừa quệt nước mắt nước mũi vương đầy trên mặt.
Khó khăn lắm mới chờ được đứa bé khóc xong, hồ ly liền mang theo nó, dẫn bản tiên quân trở về sảnh đá. Thằng bé co người trên một chiếc ghế đá, đang thút thít sụt sùi, vừa sụt sùi vừa len lén đưa mắt nhìn bản tiên quân. Một đôi mắt xanh biếc, hai cái tai nhọn hoắt trên đỉnh đầu còn vương vài vằn nâu xám. Đứa bé bày, hoá ra là một con mèo rừng tinh.
Mèo rừng nói chuyện rất không rõ ràng, câu từ cứ rối beng hết lên, lắp bắp cả nữa ngày mới kể được sơ qua về những chuyện đã xảy ra.
Theo lời nó nói, sáng sớm hôm nay, có một người tay cầm phất trần xông vào trong động, cứu Đan Thành Lăng ra, tóm gọn hơn mười yêu tinh lớn nhỏ trong động: có đám hồ nữ xinh đẹp động lòng người, cũng có những con tiểu yêu quái khác đạo hạnh không cao lắm, trong số đó tu vi của mèo rừng nông cạn nhất, yêu khí cũng yếu nhất, chui vào trong một xó của khe đá, may mắn giữ được cái mạng nhỏ.
Sắc mặt hồ ly tái nhợt, ánh mắt sắc bén, bản tiên quân biết, từ giờ phút này trở đi, nó với Đan Thành Lăng đã thành kẻ thù không đội trời chung.
Về bộ dạng của kẻ cầm phất trần tới cứu người kia, mèo rừng cũng tả không rõ ràng, mơ mơ hồ hồ. Kể tới kể lui cũng chỉ có mấy cụm từ “Không có râu”, “Trông giống đạo sĩ”, “mặc áo màu xanh”. Sau đó nó vươn hai cái chân trước bị thương của nó cho hồ ly xem, vẻ mặt vô cùng ấm ức.
Bản tiên quân nghe xong, nhìn xong, lại không thể không nói: “Nếu người trong động đã đi thì việc bản tiên quân tới đây cũng xem như kết thúc, thời gian không còn sớm, đến lúc phải trở về quán trọ rồi”. Ta nhìn hồ ly và mèo rừng, “Ngươi… Hai người các ngươi tính thế nào?”.
Hồ ly lặng yên không nói, mèo rừng cuộn tròn trên ghế dựa, co ro tấm thân của nó.
Lúc này, trại yêu tinh cỏn con của hồ ly đang lâm vào cảnh yêu tinh thì hết, động lại trống không, nó cứ cúi đầu ngồi như thế, bộ dạng có chút thê lương.
Cũng không biết vị khách cầm phất trần có pháp lực cao thâm kia có quay trở lại chém giết thêm lần nữa hay không, cả hồ ly và mèo rừng này đều đang lâm vào thế nguy hiểm.
Kỳ thật, bản tiên quân là người rất dễ mềm lòng. Ta nhìn tình cảnh này, trái tim không kìm được mà mềm ra một chút.
Chỉ vì một phút yếu lòng này, mà khi ta trở về phòng của Hoành Văn, sau người có một con hồ ly, còn cả một con mèo rừng vằn xám.
Hồ ly nhảy lên đùi của Hoành Văn, rên lên một tiếng, cả người nằm phủ phục xuống, trông bộ dạng rất suy sụp chán chường. Hoành Văn xoa đầu nó, hồ ly ngẩng lên, thè lưỡi liếm tay của Hoành Văn.
Mèo rừng nhảy lên góc chăn ở cuối giường, nằm xuống, tiu nghỉu liếm chân trước bị thương.
Đối với lần nhẹ dạ này, bản tiên quân quả thật vô cùng hối hận.
Bình luận truyện