Khúc Cầu Hồn
Chương 47
Hunt lượn hai lần qua khu phố nhà Yoakum, nhưng mỗi lần ông đi qua con đường nhà Yoakum, chiếc xe bán tải của Cục Điều tra SBI vẫn đậu ở đường ra vào nhà, cho nên ông bỏ đi. Ông gọi Cross kiểm tra tình hình ở hiện trường nhà Jarvis. Cross trả lời điện thoại sau khi chuông reo bốn tiếng. “Dạ. Bác sĩ khám nghiệm y khoa đang có mặt tại đây. Thi thể đầu tiên sẽ được trục lên trong giờ này. Ông ta nghĩ tất cả các thi thể sẽ được mang đi trong nội ngày hôm nay. Có thể khoảng giữa trưa sẽ xong. Cùng lắm là chiều tối.”
“Còn giới truyền thông thì sao?”
“Thì như ông mong đợi vậy. Ông có ra ngoài này không?”
“Có gì để nhìn ngắm không?”
Cross ngưng. Giọng ông ta nghẹt lại. “Chưa.”
“Gọi cho tôi ngay khi có tin gì mới.”
Hunt tắt máy. Ông đang ở một ngã tư thuộc khu vực nghèo nhất của thị xã. Nhà cửa cũ kỹ, với những đường rạn nứt ở ván áp tường. Những áo thun xám treo trên hàng dây phơi quần áo. Ông thấy những bồn chứa dầu rỉ sét, những khối đá granite dùng để nâng giữ kèo sàn nhà lên khỏi mặt đất ẩm ướt. Nhiều năm tháng đất cát rác rưởi tồn đọng ở phía bên dưới căn nhà gần nhất, và Hunt thấy một điểm đất trơn bóng nơi chó chạy ra chạy vào. Cách đây hàng trăm năm, đây là nơi định cư của những người tá điền thất cơ lỡ vận, và nó hiển lộ sự nghèo khó ra. Hunt đỗ xe cách xa nghĩa trang dành cho người nô lệ được tự do khoảng một dặm đường, bao bọc xung quanh là sự nghèo đói và tuyệt vọng, vương vấn hình bóng những bất công của một thời quá khứ.
Đèn đường chuyển qua màu xanh.
Hunt không hề di chuyển.
Một điều gì đó chuyển dịch sâu thẳm trong đầu. Một chiếc xe bóp còi ở ngay đằng sau ông, nên ông lái xe qua ngã tư và tấp sát vào lề trong khi gã tài xế đằng sau ông rú máy inh ỏi và lao nhanh qua mặt. Hunt thấy đèn neon dưới gầm xe, đĩa quay trên mâm bánh xe, và màu sắc băng đảng treo tòng teng ở phía sau. Cặp mắt bất tín nhìn chằm chằm từ một khuôn mặt cảnh giác, tiếng base đập huỳnh huỵch từ các thùng loa, nhưng Hunt tống khứ hình ảnh này ra ngoài. Đầu óc ông đang suy toan chuyện quá khứ.
Tá điền. Quần áo ướt đẫm.
Cái lưỡi hồng của con chó lai trong bóng râm...
Ông nhớ lại những hình ảnh cuối cùng.
Và sau đó ông nghĩ ông tìm ra đáp số.
Ông với cái điện thoại và gọi cho Yoakum, nhưng sau đó ông chực nhớ rằng Yoakum đang ngồi trên băng sau của xe tuần tiễu cảnh sát tiểu bang trên đường đi Raleigh. Thay vào đó, ông gọi cho bà Katherine Merrimon. Bà trả lời, tràn đầy hy vọng nhưng giọng mệt mỏi. “Tôi cần biết bà có ở nhà hay không,” Hunt nói.
Bất thình lình đời sống vươn trỗi dậy. “Chuyện Johnny hả?”
“Chưa. Tôi đang trên đường đến nhà bà.”
Mất hai mươi ba phút len lách qua dòng xe cộ trên đường phố, Hunt mới tới được nơi. Katherine mặc chiếc quần jeans bạc màu, cắt ngắn, di dép xăng-đan, và chiếc áo sơ mi nhăn dúm treo trên đôi vai gầy guộc như cái giá xương của bà. “Bà nhìn mệt mỏi quá,” Hunt nói với bà. Và bà mệt. Đôi mắt bà rút sâu vào trong hốc mắt. Bà không còn lung linh sắc màu như bình thường.
“Gã Ken xuất hiện lúc ba giờ sáng. Tôi không tài nào chợp mắt trở lại.”
“Ở đây? Gã ta đến đây?”
“Tôi không để gã vào nhà hoặc bất cứ gì. Gã đập cửa, nói những lời nói xấu xa. Gã say rượu. Gã chắc cần chỗ để sủa.”
Sự tức giận được chế ngự trong đôi mắt Hunt. Ông biết cái nhìn của một người phụ nữ bị bạo hành tự lừa dối chính họ. “Bà đừng đứng ra bào chữa cho gã ta.”
“Tôi có thể đương đầu với gã.”
Hunt buộc mình phải bình tĩnh. Bà ta bắt đầu rút vào cố thủ, và có nhiều cách khác tốt hơn để kiểm soát vấn đề. “Tôi cần vào phòng cậu Johnny.”
“Được.” Bên trong, bà dắt ông xuống hành lang dẫn đến phòng của Johnny. Hunt bật công tắc đèn và nhìn giường ngủ của Johnny. Khi không thấy cuốn sách mà ông muốn, ông chuyển qua hàng sách nằm trên tủ áo của Johnny. Ông dò tìm gáy từng cuốn sách. “Nó không có đây.”
“Cái gì không có?”
“Johnny có cuốn sách về lịch sử quận hạt Raven. Như thế này.” Ông tạo hình dáng cuốn sách bằng đôi tay, ám chỉ kích thước cuốn sách. “Nó nằm trên giường ngủ cậu ấy vài ngày trước. Bà có biết gì về nó không?”
“Không. Không biết gì. Nó quan trọng lắm không?”
“Tôi không biết. Có thể.” Ông bắt đầu bước đi.
“Ông ra về đấy hả?”
“Tôi sẽ giữ liên lạc với bà.”
Ngoài cửa, bà đặt một bàn tay trên cánh tay ông. “Nghe này. Về gã Ken. Tôi cảm ơn ông đã đứng ra bảo vệ. Nếu gã ta trở nên hung hãn hoặc đe dọa hoặc bất cứ trò gì giống vậy, tôi sẽ gọi cho ông. Được chứ?” Bà bóp cánh tay ông nhẹ nhàng. “Tôi sẽ gọi.”
“Bà nên làm như vậy,” ông nói, nhưng những bánh nhông đã chuyển động trong đầu ông. Katherine vẫn đứng bên cánh cửa khi ông đi, và không trở vào bên trong cho đến khi xe ông trở ra đường lộ. Nhà bà vẫn còn nằm trong kính chiếu hậu xe của Hunt khi ông gọi liên lạc với sĩ quan cảnh sát Taylor. “Tôi ở nhà bà Katherine Merrimon,” ông nói.
“Tại sao tôi lại không ngạc nhiên nhỉ?”
“Tôi cần cô giúp tôi một việc.”
“Anh hết cờ để cắm rồi sao?”
“Về chuyện gã Ken Holloway. Kiểm tra văn phòng của gã. Kiểm tra nhà của gã. Tôi muốn cô tìm gã ta, và tôi muốn cô tống giam gã ta.”
Giây phút yên lặng theo sau. Hunt biết cô đang nhớ lại lần vừa rồi, suy nghĩ về vụ kiện và bằng cách nào cô cố gắng giữ tên mình không có trong tờ giấy kế tiếp đệ nạp lên văn phòng Thư ký Toà án. “Và lý do là gì?”
“Cản trở. Y bắn tin cho gã Meechum rằng chúng tôi đang trên đường đến hỏi chuyện gã. Tôi sẽ hoàn tất thủ tục giấy tờ trưa hôm nay, nhưng tôi muốn y bị tống giam bây giờ, ngay bây giờ. Bất cứ chỉ trích nào, tôi sẽ chịu trách nhiệm; nhưng tôi muốn gã vô lại đó bị nhốt cái đã.”
“Sự bắt giữ này có chính đáng không?”
“Một tuần trước, cô không bao giờ hỏi tôi như vậy.”
“Một tuần trước, tôi không hề có cảm giác cần thiết như vậy.”
“Hãy thi hành đi.”
Hunt tắt máy, rồi gọi tổng đài và hỏi số điện thoại Thư viện Công cộng Quận hạt Raven. Nhân viên tổng đài cho ông số điện thoại, và nối đường dây.
“Bàn quản thư nghe.” Giọng nói của một người đàn ông. Hunt nói với ông ta những gì ông cần và nghe tiếng gõ lọc cọc trên bàn phím. “Cuốn sách đó đã được mượn rồi.”
“Tôi biết như vậy. Ông còn bản nào khác không?”
“Tôi đang kiểm tra. Có, chúng tôi còn một quyển nữa.”
“Giữ nó cho tôi,” Hunt nói. “Và cho tôi xin tên của ông.”
Hunt cúp máy và rẽ xe về hướng thư viện. Chuyện của Yoakum ngoài tầm tay với của ông. Hiện trường nhà gã Jarvis giờ nằm trong tầm kiểm soát. Chỉ còn lại Johnny. Một anh nhóc đầu óc lung tung và quá rắc rối. Kẻ trốn nhà đi hoang với cây súng lấy cắp.
Nô lệ tự do.
Freemantle.
Hunt biết cái tên vì ông thấy nó trong cuốn sách của Johnny. Chỉ là một lần liếc qua, nhưng bây giờ ông vẫn nhớ cảm giác về nó: “John Pendleton Merrimon, Bác sĩ giải phẫu và Người theo chủ nghĩa bãi nô.” Có một bức ảnh khác trên trang tiếp theo. Ông không hề để ý nó lần trước, nhưng giờ thì ông biết.
Isaac Freemantle.
Và có một tấm bản đồ.
Hunt tống ga, lưng ông ép chặt vào ghế da nóng. Johnny biết nơi tìm Freemantle, và Freemantle là kẻ đào thoát khi đang thọ án, một kẻ giết người. Xe Hunt trờ đến đèn đường. Ông lao nhanh xuống Phố chính chạy bảy mươi lăm km/giờ, tạt xe vào bãi đậu, tắt máy. Hai phút sau, ông trở ra với cuốn sách. Ông lật những trang sách cho đến khi tìm đúng trang ông cần. Ông nghiên cứu bức ảnh chụp John Pendleton Merrimon: đầu to, nặng cân, những đặc điểm nam tính. Ông ta mặc bộ vest đen may gọn chật và nhìn không giống Johnny, ngoại trừ đôi mắt, có thể. Đôi mắt ông ta màu đen.
Hunt đọc về Isaac, người đã chọn cái tên Freemantle để biểu tượng cho sự tự do mới của ông ta. Và cũng có một bức ảnh về ông ta, một người đàn ông to lớn trong bộ áo quần xuềnh xoàng và chiếc mũ rủ. Ông ta có bàn tay rất to và hàm râu lởm chởm đốm trắng. Johnny từng nói với Hunt rằng Freemantle là cái tên Mustee, và Hunt nghĩ ông có thể thấy được phần nào vết tích của người Da đỏ trong dáng nét của Isaac Freemantle. Một cái gì đó trong đôi mắt, có thể. Hay trên phần góc cạnh của đôi gò má.
Bản đồ tràn sang trang tiếp theo. Trong đó có dòng sông, đầm lầy, một dải đất thò ra với nước bao bọc ở ba phía.
Rừng Vĩnh hằng.
Hunt so sánh bản đồ trong cuốn sách với bản đồ ông có trong hộc trên táp-lô. Rừng Vĩnh hằng, hoặc là cái gì đi chăng nữa, nằm ở vùng đất hoang vu nhất quận hạt. Ngoài ấy không có gì ngoại trừ cây rừng, đầm lầy và con sông. Không có hồ sơ danh bạ về việc Freemantle từng dùng dịch vụ điện thoại hoặc điện nước ở Quận hạt Raven, cho nên thông tin có thể không mang ý nghĩa gì, ngày tháng ghi chép đã một thế kỷ rưỡi, nhưng Hunt cần anh nhóc. Vì cả chục lý do, ông cần anh nhóc.
Ông gài số chiếc xe ô tô.
Rừng Vĩnh hằng ở hướng tây bắc.
“Còn giới truyền thông thì sao?”
“Thì như ông mong đợi vậy. Ông có ra ngoài này không?”
“Có gì để nhìn ngắm không?”
Cross ngưng. Giọng ông ta nghẹt lại. “Chưa.”
“Gọi cho tôi ngay khi có tin gì mới.”
Hunt tắt máy. Ông đang ở một ngã tư thuộc khu vực nghèo nhất của thị xã. Nhà cửa cũ kỹ, với những đường rạn nứt ở ván áp tường. Những áo thun xám treo trên hàng dây phơi quần áo. Ông thấy những bồn chứa dầu rỉ sét, những khối đá granite dùng để nâng giữ kèo sàn nhà lên khỏi mặt đất ẩm ướt. Nhiều năm tháng đất cát rác rưởi tồn đọng ở phía bên dưới căn nhà gần nhất, và Hunt thấy một điểm đất trơn bóng nơi chó chạy ra chạy vào. Cách đây hàng trăm năm, đây là nơi định cư của những người tá điền thất cơ lỡ vận, và nó hiển lộ sự nghèo khó ra. Hunt đỗ xe cách xa nghĩa trang dành cho người nô lệ được tự do khoảng một dặm đường, bao bọc xung quanh là sự nghèo đói và tuyệt vọng, vương vấn hình bóng những bất công của một thời quá khứ.
Đèn đường chuyển qua màu xanh.
Hunt không hề di chuyển.
Một điều gì đó chuyển dịch sâu thẳm trong đầu. Một chiếc xe bóp còi ở ngay đằng sau ông, nên ông lái xe qua ngã tư và tấp sát vào lề trong khi gã tài xế đằng sau ông rú máy inh ỏi và lao nhanh qua mặt. Hunt thấy đèn neon dưới gầm xe, đĩa quay trên mâm bánh xe, và màu sắc băng đảng treo tòng teng ở phía sau. Cặp mắt bất tín nhìn chằm chằm từ một khuôn mặt cảnh giác, tiếng base đập huỳnh huỵch từ các thùng loa, nhưng Hunt tống khứ hình ảnh này ra ngoài. Đầu óc ông đang suy toan chuyện quá khứ.
Tá điền. Quần áo ướt đẫm.
Cái lưỡi hồng của con chó lai trong bóng râm...
Ông nhớ lại những hình ảnh cuối cùng.
Và sau đó ông nghĩ ông tìm ra đáp số.
Ông với cái điện thoại và gọi cho Yoakum, nhưng sau đó ông chực nhớ rằng Yoakum đang ngồi trên băng sau của xe tuần tiễu cảnh sát tiểu bang trên đường đi Raleigh. Thay vào đó, ông gọi cho bà Katherine Merrimon. Bà trả lời, tràn đầy hy vọng nhưng giọng mệt mỏi. “Tôi cần biết bà có ở nhà hay không,” Hunt nói.
Bất thình lình đời sống vươn trỗi dậy. “Chuyện Johnny hả?”
“Chưa. Tôi đang trên đường đến nhà bà.”
Mất hai mươi ba phút len lách qua dòng xe cộ trên đường phố, Hunt mới tới được nơi. Katherine mặc chiếc quần jeans bạc màu, cắt ngắn, di dép xăng-đan, và chiếc áo sơ mi nhăn dúm treo trên đôi vai gầy guộc như cái giá xương của bà. “Bà nhìn mệt mỏi quá,” Hunt nói với bà. Và bà mệt. Đôi mắt bà rút sâu vào trong hốc mắt. Bà không còn lung linh sắc màu như bình thường.
“Gã Ken xuất hiện lúc ba giờ sáng. Tôi không tài nào chợp mắt trở lại.”
“Ở đây? Gã ta đến đây?”
“Tôi không để gã vào nhà hoặc bất cứ gì. Gã đập cửa, nói những lời nói xấu xa. Gã say rượu. Gã chắc cần chỗ để sủa.”
Sự tức giận được chế ngự trong đôi mắt Hunt. Ông biết cái nhìn của một người phụ nữ bị bạo hành tự lừa dối chính họ. “Bà đừng đứng ra bào chữa cho gã ta.”
“Tôi có thể đương đầu với gã.”
Hunt buộc mình phải bình tĩnh. Bà ta bắt đầu rút vào cố thủ, và có nhiều cách khác tốt hơn để kiểm soát vấn đề. “Tôi cần vào phòng cậu Johnny.”
“Được.” Bên trong, bà dắt ông xuống hành lang dẫn đến phòng của Johnny. Hunt bật công tắc đèn và nhìn giường ngủ của Johnny. Khi không thấy cuốn sách mà ông muốn, ông chuyển qua hàng sách nằm trên tủ áo của Johnny. Ông dò tìm gáy từng cuốn sách. “Nó không có đây.”
“Cái gì không có?”
“Johnny có cuốn sách về lịch sử quận hạt Raven. Như thế này.” Ông tạo hình dáng cuốn sách bằng đôi tay, ám chỉ kích thước cuốn sách. “Nó nằm trên giường ngủ cậu ấy vài ngày trước. Bà có biết gì về nó không?”
“Không. Không biết gì. Nó quan trọng lắm không?”
“Tôi không biết. Có thể.” Ông bắt đầu bước đi.
“Ông ra về đấy hả?”
“Tôi sẽ giữ liên lạc với bà.”
Ngoài cửa, bà đặt một bàn tay trên cánh tay ông. “Nghe này. Về gã Ken. Tôi cảm ơn ông đã đứng ra bảo vệ. Nếu gã ta trở nên hung hãn hoặc đe dọa hoặc bất cứ trò gì giống vậy, tôi sẽ gọi cho ông. Được chứ?” Bà bóp cánh tay ông nhẹ nhàng. “Tôi sẽ gọi.”
“Bà nên làm như vậy,” ông nói, nhưng những bánh nhông đã chuyển động trong đầu ông. Katherine vẫn đứng bên cánh cửa khi ông đi, và không trở vào bên trong cho đến khi xe ông trở ra đường lộ. Nhà bà vẫn còn nằm trong kính chiếu hậu xe của Hunt khi ông gọi liên lạc với sĩ quan cảnh sát Taylor. “Tôi ở nhà bà Katherine Merrimon,” ông nói.
“Tại sao tôi lại không ngạc nhiên nhỉ?”
“Tôi cần cô giúp tôi một việc.”
“Anh hết cờ để cắm rồi sao?”
“Về chuyện gã Ken Holloway. Kiểm tra văn phòng của gã. Kiểm tra nhà của gã. Tôi muốn cô tìm gã ta, và tôi muốn cô tống giam gã ta.”
Giây phút yên lặng theo sau. Hunt biết cô đang nhớ lại lần vừa rồi, suy nghĩ về vụ kiện và bằng cách nào cô cố gắng giữ tên mình không có trong tờ giấy kế tiếp đệ nạp lên văn phòng Thư ký Toà án. “Và lý do là gì?”
“Cản trở. Y bắn tin cho gã Meechum rằng chúng tôi đang trên đường đến hỏi chuyện gã. Tôi sẽ hoàn tất thủ tục giấy tờ trưa hôm nay, nhưng tôi muốn y bị tống giam bây giờ, ngay bây giờ. Bất cứ chỉ trích nào, tôi sẽ chịu trách nhiệm; nhưng tôi muốn gã vô lại đó bị nhốt cái đã.”
“Sự bắt giữ này có chính đáng không?”
“Một tuần trước, cô không bao giờ hỏi tôi như vậy.”
“Một tuần trước, tôi không hề có cảm giác cần thiết như vậy.”
“Hãy thi hành đi.”
Hunt tắt máy, rồi gọi tổng đài và hỏi số điện thoại Thư viện Công cộng Quận hạt Raven. Nhân viên tổng đài cho ông số điện thoại, và nối đường dây.
“Bàn quản thư nghe.” Giọng nói của một người đàn ông. Hunt nói với ông ta những gì ông cần và nghe tiếng gõ lọc cọc trên bàn phím. “Cuốn sách đó đã được mượn rồi.”
“Tôi biết như vậy. Ông còn bản nào khác không?”
“Tôi đang kiểm tra. Có, chúng tôi còn một quyển nữa.”
“Giữ nó cho tôi,” Hunt nói. “Và cho tôi xin tên của ông.”
Hunt cúp máy và rẽ xe về hướng thư viện. Chuyện của Yoakum ngoài tầm tay với của ông. Hiện trường nhà gã Jarvis giờ nằm trong tầm kiểm soát. Chỉ còn lại Johnny. Một anh nhóc đầu óc lung tung và quá rắc rối. Kẻ trốn nhà đi hoang với cây súng lấy cắp.
Nô lệ tự do.
Freemantle.
Hunt biết cái tên vì ông thấy nó trong cuốn sách của Johnny. Chỉ là một lần liếc qua, nhưng bây giờ ông vẫn nhớ cảm giác về nó: “John Pendleton Merrimon, Bác sĩ giải phẫu và Người theo chủ nghĩa bãi nô.” Có một bức ảnh khác trên trang tiếp theo. Ông không hề để ý nó lần trước, nhưng giờ thì ông biết.
Isaac Freemantle.
Và có một tấm bản đồ.
Hunt tống ga, lưng ông ép chặt vào ghế da nóng. Johnny biết nơi tìm Freemantle, và Freemantle là kẻ đào thoát khi đang thọ án, một kẻ giết người. Xe Hunt trờ đến đèn đường. Ông lao nhanh xuống Phố chính chạy bảy mươi lăm km/giờ, tạt xe vào bãi đậu, tắt máy. Hai phút sau, ông trở ra với cuốn sách. Ông lật những trang sách cho đến khi tìm đúng trang ông cần. Ông nghiên cứu bức ảnh chụp John Pendleton Merrimon: đầu to, nặng cân, những đặc điểm nam tính. Ông ta mặc bộ vest đen may gọn chật và nhìn không giống Johnny, ngoại trừ đôi mắt, có thể. Đôi mắt ông ta màu đen.
Hunt đọc về Isaac, người đã chọn cái tên Freemantle để biểu tượng cho sự tự do mới của ông ta. Và cũng có một bức ảnh về ông ta, một người đàn ông to lớn trong bộ áo quần xuềnh xoàng và chiếc mũ rủ. Ông ta có bàn tay rất to và hàm râu lởm chởm đốm trắng. Johnny từng nói với Hunt rằng Freemantle là cái tên Mustee, và Hunt nghĩ ông có thể thấy được phần nào vết tích của người Da đỏ trong dáng nét của Isaac Freemantle. Một cái gì đó trong đôi mắt, có thể. Hay trên phần góc cạnh của đôi gò má.
Bản đồ tràn sang trang tiếp theo. Trong đó có dòng sông, đầm lầy, một dải đất thò ra với nước bao bọc ở ba phía.
Rừng Vĩnh hằng.
Hunt so sánh bản đồ trong cuốn sách với bản đồ ông có trong hộc trên táp-lô. Rừng Vĩnh hằng, hoặc là cái gì đi chăng nữa, nằm ở vùng đất hoang vu nhất quận hạt. Ngoài ấy không có gì ngoại trừ cây rừng, đầm lầy và con sông. Không có hồ sơ danh bạ về việc Freemantle từng dùng dịch vụ điện thoại hoặc điện nước ở Quận hạt Raven, cho nên thông tin có thể không mang ý nghĩa gì, ngày tháng ghi chép đã một thế kỷ rưỡi, nhưng Hunt cần anh nhóc. Vì cả chục lý do, ông cần anh nhóc.
Ông gài số chiếc xe ô tô.
Rừng Vĩnh hằng ở hướng tây bắc.
Bình luận truyện