Mùa Trăng Của Người Thợ Săn

Chương 1: Truyền thuyết về những cánh rừng



Năm mười chín tuổi là lúc tôi bắt đầu biết đến truyền thuyết về những cánh rừng. Giờ đây nhìn lại, tôi nhận ra nó đã trở thành một cái gì có vẻ rất huyền bí, giống như thể đã xảy ra trong một giấc mơ. Sự thật thì đã có rất nhiều lần tôi gần như thuyết phục được mình là điều này đã xảy ra trong tưởng tượng của tôi. Tuy vậy, ngay từ lúc còn bé, tôi đã là một người có suy nghĩ rất thực tế, không mất thời gian để mơ mộng nhiều; nhưng vào cái năm 19 tuổi ấy tôi là một cô gái thiếu kinh nghiệm, hầu như không rời khỏi khuôn viên nhà trường và đang ở giai đoạn cuối cùng của thời niên thiếu.

Chuyện này xảy ra vào một chiều cuối tháng Mười tại một cánh rừng ở Thụy Điển không xa biên giới với nước Đức là bao. Tôi đang học năm cuối cùng ở một trong những trường tư cao cấp nhất châu Âu, một ngôi trường mà cô Patty quyết định tôi phải sang học để “hoàn thiện tư chất” như cô nhấn mạnh.

“Hai năm sẽ làm được nhiều chuyện”, cô nói. “Không phải là quá nhiều đối với cháu, mà là với những điều người ta tin tưởng là nhà trường làm được. Nếu các bậc phụ huynh biết rằng một người chúng ta đã qua học ở Schaffenbrucken họ sẽ vui lòng gửi gắm con gái cho chúng ta.”

Cô Patty là Hiệu trưởng một trường tư thục dành cho nữ sinh và đã hoạch định tương lai đâu vào đấy: khi học xong tôi sẽ gia nhập vào công cuộc đầu tư này. Nhưng để đến lúc ấy tôi phải có những phẩm chất tối ưu, phù hợp với nhiệm vụ, cương vị mới và phải có cốt cách cao quí đáng mơ ước của một thiếu nữ thượng lưu khiến cho các bậc cha mẹ không thể cưỡng lại được, chỉ muốn con gái họ chia sẻ ánh hào quang rực rỡ có từ danh tiếng lẫy lừng của Schaffenbrucken.

“Màu mè,” cô Patty nói. “chỉ là một sự hợm hĩnh thuần túy không pha trộn. Nhưng phàn nàn làm gì nếu như nhờ nó mà trường nữ sinh tư thục Patience Grant có được một sự quan tâm đặc biệt có lợi?”

Cô Patty trông giống hệt một cái thùng tônô bởi vì cô vừa lùn vừa tròn xoay. “Tôi khoái ăn uống,” cô thường nói, “vậy thì tại sao tôi lại phải tước của mình thú vui ấy. Tôi tin rằng đó là tiếng gọi của lương tâm đối với mọi người để ai cũng thưởng thức những thứ tốt lành mà Chúa đã ban tặng cho hết thảy mọi người. Đấy, món bò bít-tết và bánh putding sôcôla chẳng phải được tạo ra để ăn hay sao?”

Thức ăn ở trường Patience Grant thì thật tuyệt – tôi tin là nó khác hẳn với những món người ta bày trên bàn ăn ở hầu hết các trường tư thục trên vương quốc Anh.

Cô Patty vẫn chưa lấy chồng “vì một lý do rất đơn giản,” cô thường nói, “chẳng có ai ngỏ lời với tôi cả. Với lại, nếu có thì việc tôi có chấp nhận lời cầu hôn hay không lại là một vấn đề khác. Nhưng bởi vì vấn đề này chưa bao giờ được đặt ra, vậy thì cả tôi lẫn những người khác cần gì phải quan tâm chứ.”

Nhưng với riêng tôi thì cô Patty sẵn lòng thổ lộ. “Cô là như thế từ ngày còn ở mẫu giáo kia. Mãi mãi là một kẻ ngoài rìa trong các buổi dạ hôi. Con biết không, ngày ấy cô leo trèo giỏi lắm, cô quậy hết biết luôn. Nếu có bất cứ đứa con trai nào dám giật tóc cô, nó sẽ phải lủi thật mau để tránh một cuộc chiến. Ngày ấy, Cordelia thân yêu ạ, cô bao giờ cũng là người chiến thắng.” Tôi tin thế và thường nghĩ đàn ông mới ngu ngốc làm sao bởi vì không có ông nào đủ sáng suốt để hỏi cưới cô Patty làm vợ. Cô sẽ là một người vợ trên cả tuyệt vời cũng như cô chính là người mẹ hoàn thiện, hoàn mĩ của tôi.

Cha mẹ đẻ ra tôi là những người truyền giáo ở châu Phi. Họ được coi là những người tận trung với lí tưởng, là những vị thánh; nhưng cũng như quá nhiều những vị thánh khác, họ chỉ chăm chăm đem đến những điều tốt lành cho nhân gian mà không buồn bận tâm đến những vấn đề của đứa con gái nhỏ. Tôi chỉ có những kí ức mơ hồ về họ – bởi vì tôi mới có bảy tuổi đầu lúc tôi được gửi về quê nhà ở Anh – thỉnh thoảng hai người ngắm nhìn tôi, khuôn mặt bừng sáng lòng nhiệt tình cao quý và vẻ thánh thiện, cứ như thể chính cha mẹ cũng không biết rõ tôi là ai. Sau này, tôi tự hỏi không biết trong cuộc sống với toàn những việc làm cao thượng, tốt lành của mình, có bao giờ họ áy náy về những điều đã gây ra cho tôi không.

Tuy vậy – chắc đây là một sự giải thoát kịp thời đối với họ – cuộc sống ở những vùng rừng rậm châu Phi không phải là chỗ dành cho một đứa trẻ. Tôi phải được đưa về quê nhà, đến chỗ người em gái của cha tôi, cô Patience hay cô Patty.

Tôi được đưa về Anh cùng với một người truyền giáo về thăm nhà trong một đợt nghỉ ngắn hạn. Chuyến đi dài dường như chẳng để lại trong tôi một hình ảnh rõ nét nào nhưng cái mà tôi bao giờ cũng nhớ là cái dáng phục phịch của cô Patty đứng đợi tôi ngoài bến tàu. Cái mũ của cô là vật đầu tiên thu hút sự chú ý của tôi: một cái mũ màu sắc sặc sỡ với một chiếc lông chim màu xanh da trời ngất ngưởng trên chỏm. Cô Patty thích mũ cũng gần bằng thích các món ăn khoái khẩu. Đôi khi cô còn đội mũ khi ngồi trong nhà. Và đây cô đứng đấy – đôi mắt phóng to lên sau cặp kính dày cộm, khuôn mặt, như vầng trăng đầy đặn sáng lên nhờ xà bông và nước lạnh, tràn trề sức sống dưới cái mũ lộng lẫy và chiếc lông chim gật gù khi cô ghì tôi vào bộ ngực đồ sộ thơm nức mùi hoa oải hương của mình.

“Ôi, cháu đây rồi. Con gái của Alen... Cháu đã về nhà.”

Ngay vào giây phút đầu tiên, cô đã thuyết phục tôi là tôi có tồn tại trên đời.

Hai năm sau, cha tôi chết vì bệnh lỵ rồi vài tuần sau mẹ cũng nối gót cha vì cũng căn bệnh ấy.

Cô Patty chỉ cho tôi xem một vài đoạn trong Thánh Kinh. “Họ đã trao cuộc đời mình để phụng sự Chúa,” cuốn sách viết như thế.

Tôi sợ rằng tôi cũng chẳng buồn lắm đâu. Tôi đã quên mất những hình ảnh về cha mẹ mà cũng chẳng có lúc nào để nhớ nhung, nghĩ ngợi. Tôi đã hoàn toàn đắm mình trong cuộc sống ở thái ấp Grantley, một dinh thự theo kiểu Elizabeth cổ xưa mà cô Patty đã mua, hai năm trước khi tôi ra đời.

Cô cháu tôi rất tâm đầu ý hợp, cứ trò chuyện với nhau suốt – chỉ hai người thôi. Dường như cô không bao giờ giấu giếm điều gì. Sau này tôi thường tự hỏi tại sao hầu hết mọi người đều có những bí mật lớn nhỏ trong đời. Điều này chẳng đúng với cô Patty chút nào. Lời lẽ cứ tuôn rào rào ra khỏi miệng cô và không gì có thể giữ lại. “Khi cô đi học ấy mà,” cô kể, “cô có nhiều trò vui lắm nhưng lại không có cái bỏ bụng. Người ta chỉ đổ nước lã vào nồi hầm. Thế mà người ta gọi đó là món xúp của ngày Thứ Hai. Thế cũng còn chưa tệ lắm. Món ấy còn loãng hơn vào ngày Thứ Ba, rồi chỉ còn là bọt vào ngày Thứ Tư, đến nỗi cô thường tự hỏi nó còn kéo được đến bao giờ trước khi nó thuần túy chỉ còn là H2O. Bánh mì thì bao giờ cũng có mùi mốc. Cô nghĩ trường nội trú đã làm cho cô trở thành một kẻ phàm ăn bởi vì cô đã thề với lòng mình khi nào tốt nghiệp, cô sẽ chỉ có ăn, ăn và ăn. Cô tự nhủ, nếu mình mở trường tư thì nó sẽ phải khác hẳn. Rồi khi tiền tới tay, cô tự hỏi, “Tại sao lại không thử một phen?” Ông già Lucas chẳng nói “Đó là một trò đánh bạc” là gì. Ông ta là luật sư của cô. “Thế thì sao nào?” Cô cự lại, “Tôi khoái bài bạc lắm.” Ông ta càng chống lại chuyện này bao nhiêu cô lại càng tha thiết bấy nhiêu. Cô thích có những thách đố như vậy. Cứ bảo với cô là “đừng làm đi,” cô sẽ tìm cách làm cho bằng được. Thế rồi cô tìm thấy thái ấp cổ xưa này.. rất rẻ với một số thứ cần phải sửa sang lại. Một chỗ thật thích hợp để mở trường. Cô đặt tên cho nó là thái ấp Grantley. Con thấy đấy, cái tên Grantley hơi có chút màu mè, khoe mẽ phải không? Cô Grant ở Grantley. Phải, con có thể nghĩ cô ấy đã sống ở đây hàng thế kỉ, đúng chưa? Mà con sẽ không hỏi, chỉ nghĩ trong bụng thôi đây là một nơi lí tưởng cho các tiểu thư nhà nòi. Cô đã có kế hoạch xây dựng trường Grantley trở thành một ngôi trường bậc nhất Anh quốc, cũng giống như Schaffenbrucken ở Thụy Điển.”

Đó là lần đầu tiên tôi nghe cái tên Schaffenbrucken.

Cô giải thích thêm cho tôi rõ. “Tất cả đều đã được suy tính thấu đáo. Schaffenbrucken rất kén học sinh thế nên không dễ gì mà được nhận vào học. “Chúng tôi sợ rằng không còn chỗ cho tiểu thư Amelia, thưa bà Smith. Xin bà hãy thử một lần nữa vào khóa sau. Ai biết được, có thể bà gặp may. Bây giờ chúng tôi đầy ắp học sinh và có cả một danh sách chờ đợi.” Một danh sách chờ đợi! Đó là cụm từ màu nhiệm nhất trong vốn từ của một bà hiệu trưởng. Đó là cái mà tất cả chúng ta đều hi vọng đạt được... Người ta phải tranh nhau gửi con gái mình vào trường học của chúng ta, không giống những trường hợp khác con phải cố gắng dụ dỗ họ làm thế.”

“Schaffenbrucken rất đắt,” cô Patty nói tiếp trong một lần trò chuyện khác, “nhưng cô nghĩ nó đáng giá tới từng đồng peny bỏ ra. Con có thể học tiếng Pháp và tiếng Đức từ những người nói thứ tiếng đó như nó phải và chỉ được nói như thế, bởi vì đó là tiếng mẹ đẻ của họ, con có thể khiêu vũ, xoay tròn và đi lại quanh phòng với một cuốn sách đặt trên đầu. Ồ phải, con đang nghĩ: Con có thể học những điều đó ở hàng ngàn trường học khác. Đúng thế, nhưng con sẽ không bao giờ có được cái nước sơn ấy nếu con không có được cái tiếng là học sinh của Schaffenbrucken.”

Câu chuyện của cô tôi bao giờ cũng bị ngắt quãng bởi tiếng cười.

“Schaffenbrucken chỉ làm được chút chút cho con thôi, Cordelia thân yêu ạ. Sau đó con sẽ trở về đây và khi chúng ta thông báo về thành tích của con, các bà mẹ cứ gọi là tranh nhau gửi con gái họ đến chỗ chúng ta. “Miss Cordelia có một phong thái thật đặc biệt. Cô ấy học ở trường Schaffenbrucken đấy, các ông bà có biết không?” Ồ, con yêu của ta, chúng ta sẽ bảo họ rằng chúng ta có cả một danh sách các cô tiểu thư chờ đợi sự dìu dắt của Miss Cordelia Grant từ Schaffenbrucken để ra mắt xã hội thượng lưu.”

Điều này bao giờ cũng đi đến một sự nhất trí là tôi, một khi đã “hoàn thành” việc học hành, sẽ phụ tá cô Patty trong một ngôi trường của cô.

“Một ngày nào đó,” cô khẳng định, “nó sẽ là của con, Cordelia yêu dấu ạ.”

Tôi biết cô muốn nói đến khi cô chết mà tôi thì không thể hình dung cuộc đời này vắng cô. Chẳng phải cô chính là trung tâm trong cuộc sống của tôi, với khuôn mặt bừng sáng, tiếng cười hồ hởi, những câu chuyện tâm tình bất tận, sự khoái khẩu và những chiếc mũ lộng lẫy sao?

Năm tôi mười bảy tuổi, cô nói đã đến lúc tôi đi thụ giáo ở Schaffenbrucken.

Một lần nữa tôi rong ruổi trên đường dài – lần này với ba quý bà đưa tôi đến Thụy Điển. Ở Balse có một người của trường đợi tôi và tháp tùng tôi đến trường. Chuyến đi thật thú vị và suốt dọc đường tôi cứ nhớ lại cuộc hành trình đằng đẵng từ châu Phi về nhà. Chuyến đi này khác hẳn. Giờ đây, tôi đã khôn lớn hơn; tôi biết nơi tôi đến và tôi không hề trải qua nỗi sợ hãi mơ hồ của các cô gái nhỏ trong một cuộc hành trình đến một nơi xa lạ, không quen biết.

Các quý bà tháp tùng tôi đi ngang qua lãnh thổ châu Âu có nhiệm vụ trông nom tôi và với một sự nhẹ nhõm, tôi tin chắc thế, họ trao tôi cho Miss Mainz, cô giáo dạy môn tiếng Đức ở Schaffenbrucken. Đó là một người đàn bà đứng tuổi, trông nhàn nhạt không có gì đáng chú ý. Cô rất vui khi biết tôi có nói được chút ít tiếng Đức. Cô nói cách phát âm của tôi thật tệ nhưng vẫn còn có cơ hội sửa lại; cô nhất định chỉ dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong suốt chuyến đi.

Cô nói về danh tiếng lẫy lừng của Schaffenbrucken và về việc tôi đã may mắn như thế nào mới lọt được vào danh sách chọn lọc ở đây. Đó là một câu chuyện xưa như trái đất và tôi nghĩ cô Mainz là người tẻ nhạt nhất mà tôi từng gặp. Thậm chí tôi còn so sánh cô với cô Patty để lấy làm ngán ngẩm. Schaffenbrucken chẳng gây được ấn tượng gì đặc sắc. Tuy vậy cảnh vật xung quanh như trong chốn bồng lai. Rời khỏi thị trấn chừng một dặm chúng tôi lọt ngay vào một vùng trùng điệp những cánh rừng thơ mộng và núi non hùng vĩ. Madame de Guérin là một quý bà không còn trẻ, mang hai dòng máu Pháp và Thụy Sĩ. Bà có quyền cao nhất ở đây nhưng rất kín tiếng và tôi chỉ có thể nói là bà có “hiện diện”. Bà đóng một vai trò quan trọng ghê gớm đối với huyền thoại về Schaffenbrucken. Nhưng bà ít có liên hệ với bọn nữ sinh chúng tôi mà giao phó trọng trách ấy cho các cô giáo. Chúng tôi học khiêu vũ, đóng kịch, tiếng Pháp, tiếng Đức và một bộ môn mà người ta gọi là nhận thức xã hội. Ở Schaffenbrucken, chúng tôi chỉ hấp thụ những gì tinh túy nhất, chọn lọc nhất, đáp ứng những nấc thang giá trị cao nhất ngoài xã hội.

Tôi nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới và cảm thấy các cô gái ở đây rất thú vị. Họ đến từ nhiều quốc gia khác nhau và lẽ tự nhiên tôi trở nên thân thiện với các cô gái người Anh hơn. Hai nữ sinh ở chung một phòng và bao giờ người ta cũng sắp xếp sao cho những người khác quốc tịch được ở chung với nhau. Năm học đầu tiên tôi ở chung với một cô người Đức, năm thứ hai với một cô người Pháp. Đó là một sự sắp đặt rất khéo bởi vì nó giúp chúng tôi hoàn thiện khả năng ngoại ngữ.

Kỉ luật ở đây cũng không khắt khe lắm. Chúng tôi đâu còn là trẻ con nữa. Các cô gái thường nhập học vào năm mười sáu, mười bảy và ra trường vào năm mười chín, hai mươi tuổi. Chúng tôi không có mặt ở đây để học hỏi những kiến thức cao siêu, mỗi một người phải tự phấn đấu để trở thành một femme comme il faut như Madame de Guérin nhấn mạnh. Khiêu vũ thật điêu luyện và ăn nói duyên dáng quyến rũ còn quan trọng gấp mấy lần kiến thức về văn chương hoặc toán học.

Hầu hết các cô gái ở đây sẽ đi thẳng từ Schaffenbrucken đến buổi ra mắt xã hội thượng lưu lần đầu tiên. Chỉ có một hai người, giống như tôi, có một sự chỉ định khác. Hầu hết các nữ sinh đều hài lòng, coi thời gian ở Schaffenbrucken như một giai đoạn quan trọng trong sự trưởng thành của họ – phù du và càng tận hưởng niềm vui trong trẻo của cuộc đời thiếu nữ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

Mặc dù cuộc sống ở các lớp học trôi qua một cách dễ chịu, vẫn có một sự giám sát ngặt nghèo đối với bọn con gái và tôi chắc rằng nếu có bất cứ cô gái nào sắp sửa dấn thân vào một vụ xì-căng-đan nào đó sẽ lập tức bị đuổi về nhà bởi vì ở đây bao giờ cũng có những bậc phụ huynh đầy tham vọng, nóng lòng muốn gửi con gái mình vào chỗ trống đó. Tôi về nhà với cô Patty vào ngày Giáng sinh và kì nghỉ hè, chúng tôi có bao nhiêu ngày vui vẻ đầy ắp tiếng cười khi thảo luận về Schaffenbrucken. “Chúng ta phải làm được điều này,” cô Patty nói. “Cô đảm bảo với cháu là khi cháu tốt nghiệp Schaffenbrucken, chúng ta sẽ có một trường trung học nữ danh giá bậc nhất Anh quốc. Chúng ta sẽ làm Miss Daisy Hetherington tức uất người vì ganh tị.”

Đó cũng là lần đầu tiên tôi nghe tên Miss Hetherington. Tôi thờ ơ hỏi bà là ai và được biết bà có một ngôi trường ở Devonshire, cũng gần tốt như cô nghĩ và thực ra trường này cũng có được những thành tích nhất định.

Ước gì tôi hỏi nhiều hơn thế. Nhưng lúc ấy tôi đâu có biết điều ấy quan trọng như thế nào.

Tôi đang ở học kì cuối cùng ở Schaffenbrucken. Lúc đó đã cuối tháng Mười – khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong năm. Có rất nhiều nắng ở vùng này khiến cho mùa hè dường như kéo dài hơn. Có những ngày ấm áp và bất thình lình khi mặt trời vừa khuất sau một đám mây, bạn có thể nhận ra là một năm nữa sắp hết. Rồi chúng tôi túm tụm trong phòng sinh hoạt chung nhóm lửa và trò chuyện. Những người bạn thân nhất của tôi vào lúc ấy là Monique Delorme, ở chung phòng với tôi và một cô gái người Anh tên là Lidya Markham và bạn cùng phòng của cô ấy là Frieda Schmidt. Bốn chúng tôi bao giờ cũng ở bên nhau. Chúng tôi trò chuyện với nhau suốt và cùng nhau đi du ngoạn trong thị trấn. Đôi khi chúng tôi dung dăng dung dẻ đi bộ với nhau, hoặc nếu có một cỗ xe đi vào phố thì chúng tôi sẽ đi theo xe. Chúng tôi đi dạo trong rừng, được phép đi một nhóm sáu người hoặc ít nhất là bốn người. Cũng có một chút tự do nào đó và chúng tôi không cảm thấy bị gò bó.

Lydia nói học ở trường này cũng giống như đứng ở một sân ga chờ một đoàn tàu tới mang bạn đến một nơi bạn có thể làm một người lớn thực sự. Tôi biết bạn ấy muốn nói gì. Đây chỉ là một giai đoạn dừng chân trong cuộc đời – một bệ phóng mai này sẽ đưa chúng tôi đến những chân trời mới.

Chúng tôi kể cho nhau nghe về bản thân. Monique là ái nữ của một nhà quý tộc, sẽ lập tức lấy chồng sau khi ra trường. Frieda là con gái một doanh nghiệp có nhiều mối quan tâm và ông làm giàu bằng nghề đồ gốm. Lydia thuộc về một dòng họ làm chủ nhà băng nhiều đời. Tôi nhỉnh hơn các bạn vài tháng, tôi sẽ rời đây vào kì Giáng sinh và luôn cảm thấy mình là đàn chị.

Chúng tôi chú ý đến Elsa ngay khi cô có mặt ở trường. Đó là một cô gái nhỏ nhắn thật xinh với mái tóc quăn kiều diễm, đôi mắt xanh biếc. Cô ta đầy sức sống và có một cái vẻ láu lỉnh tinh quái. Cô không giống bất cứ một cô hầu phòng nào khác, cô đến làm ở đây qua một thông báo tìm người sau khi có một người giúp việc bỏ trốn với một người đàn ông. Madame de Guérin chắc chỉ nghĩ bà cho Elsa thử việc cho đến cuối học kì.

Tôi chắc rằng nếu bà hiệu trưởng biết rõ Elsa là người thế nào bà sẽ không cho phép cô ở lại dù chỉ đến hết học kì. Cô ta chẳng những không tôn trọng ai hết mà dường như còn không buồn nể sợ danh tiếng của Schaffenbrucken hoặc bất cứ ai khác. Cô ta có một vẻ thân mật suồng sã ngụ ý rằng cô cũng cùng giai cấp với chúng tôi. Một nữ sinh rất ghét thái độ này, bản thân tôi lại cảm thấy cô vui vui, ngộ ngộ, có lẽ đó là lí do tại sao Elsa hay lui tới phòng chúng tôi.

Thi thoảng, cô ta có thể đến, bất chợt, khi bốn chúng tôi đang ngồi với nhau và bằng một cách nào đó xen vào giữa câu chuyện của chúng tôi.

Cô thích nghe chuyện về gia thế của chúng tôi và hỏi rất nhiều thứ. “Ồ, tôi thích sang Anh lắm lắm,” Elsa nói. “Hoặc Pháp, hoặc Đức... Tuyệt làm sao..” Cô gợi chuyện rất khéo làm cho chúng tôi cứ tranh nhau kể về gia đình mình và chả còn giữ được bí mật nào.

Bản thân cô cũng nếm trải những bước thăng trầm trong đời, có lần cô thổ lộ như thế. Cô không phải là một người làm công đâu. “Ồ không! Tôi đã từng nghĩ là bản thân mình cũng có một tương lai tươi sáng. Cha tôi đã từng, phải... không thật sự giàu có, nhưng cũng không mong muốn điều gì hơn. Tôi đã chuẩn bị bước chân vào đời rồi đấy chứ. Không giống như các tiểu thư, tất nhiên, mà bằng một cách thức giản dị nhất. Thế rồi cha tôi mất. Thế là hết!” Cô giang hai tay ra, ngước mắt nhìn lên trần nhà. “Thế là chấm dứt niềm tự hào của Elsa bé nhỏ. Không có tiền có bạc. Elsa chỉ có bản thân mình. Chẳng có gì ngoài việc tìm một chỗ làm. Mà tôi thì có thể làm gì? Trước giờ tôi có được đào tạo để làm gì đâu.” “Không phải với tư cách là một người hầu gái,” Monique nói với thứ logic chặt chẽ của người Pháp. Đến đây tất cả chúng tôi đều cười, kể cả Elsa. Chúng tôi không thể không quý cô gái này và thường khuyến khích cô lại chỗ chúng tôi tán dóc. Cô ấy mới vui vẻ và dễ chịu làm sao, lại biết rất nhiều huyền thoại về những khu rừng Đức, nơi cô nói là đã sống hồi còn nhỏ trước khi cha cô mang cô đến Anh sống một thời gian rồi mới sang Thụy Điển.

“Tôi cứ có ý nghĩ là có những chú lùn tinh ranh sống ở dưới đất.” Elsa nói. “Họ thường làm tôi nổi da gà. Có bao nhiêu câu chuyện thật hay về các chàng hiệp sĩ mang cung tên, cưỡi trên những con tuấn mã đưa các cô thiếu nữ đến Valahalla... hoặc một nơi nào đó.”

“Đó là nơi người ta đến khi đã chết,” tôi nhắc cô. “Phải, đến một chỗ nào đó thật dễ thương, chỉ có tiệc tùng và hội hè thôi.”

Cứ thế, hầu như chiều nào Elsa cũng gia nhập bọn với chúng tôi.

“Madame de Guérin sẽ nói gì khi bà ấy biết điều này?” một lần Lydia hỏi.

“Chắc chắn chúng ta sẽ bị đuổi cả lũ,” Monique đoán.

“Thật may cho những người xếp hàng đợi đến lượt. Bốn chỗ trống cùng một lúc.”

Elsa sẽ ngồi ở một đầu ghế cười góp vui với chúng tôi. “Kể cho tôi nghe về lâu đài của cha cô đi, Monique,” Elsa nài Monique.

Thế là cô tiểu thư quý tộc người Pháp bèn miêu tả vẻ tráng lệ của tòa lâu đài cổ nơi cô sinh ra và bằng cách nào mà cô lại là vị hôn thê của Henri de la Creseuse, người mà điền trang rộng lớn của mình sẽ nhập vào của cha cô sau hôn lễ.

Đến lượt Frieda nói rằng ông bố nghiêm nghị của cô chắc chắn sẽ tìm một nhà đại tư bản mới xứng đáng với ái nữ của ông. Còn Lydia thì nói hai người anh trai của cô rồi cũng trở thành các chủ ngân hàng như ông bố.

“Còn Cordelia thì sao,” Elsa gặn hỏi.

“Cordelia là người may mắn nhất hội,” Lydia thốt lên. “Bạn ấy có người cô dễ thương nhất trần đời, sẽ để cho bạn ấy làm điều mà bạn ấy thích. Sao tôi thích nghe chuyện về cô Patty đến thế. Tôi chắc là cô sẽ không bao giờ cố bắt Cordelia cưới một lão nam tước hay một ông già chỉ bởi vì ông ta có tước vị và tiền bạc. Cordelia sẽ chỉ cưới người mà bạn ấy yêu thôi.”

“Mà lại còn làm giàu bằng chính bàn tay mình nữa chứ. Cordelia sẽ thừa hưởng một thái ấp cổ rộng mênh mông. Tất cả sẽ là của bạn vào một ngày đẹp trời nào đó Cordelia ạ, mà bạn không phải cưới ai để có nó.”

“Mình sẽ chẳng muốn có đất đai gì hết vì nó có nghĩa là cô Patty sẽ chết trước khi mình làm chủ.”

“Nhưng rồi nó sẽ là của cậu mà. Cậu sẽ giàu có và hoàn toàn độc lập.”

Elsa muốn biết về thái ấp Grantley và tôi đem nhiệt tình ra miêu tả sao cho thật ấn tượng. Tôi chắc là mình có phóng đại đôi chút và quả có hơi tô vẽ thêm vẻ đẹp vốn đã đặc biệt của Grantley. Chắc chắn là tôi không miêu tả nét duyên dáng có phần lập dị của cô Patty. Không một ai có quyền đánh giá cô Patty. Tôi chỉ cảm thấy sung sướng là đã có dịp ca ngợi cô Patty và chứng kiến cảnh bạn bè ghen tỵ với tôi, bởi vì họ xuất thân từ những gia đình danh giá hơn, khắt khe hơn và câu nệ hơn.

Một hôm, Elsa nói: “Tôi chắc tất cả các cô sẽ mau chóng lên xe hoa thôi.”

“Thiên đường cấm đoán,” Lydia làu nhàu, “tôi chỉ muốn vui thú trong khi còn chưa muộn.”

“Các cô đã bao giờ đi đến đỉnh núi Pilcher chưa?”

“Tôi mới chỉ nghe nói đến thôi” Frieda đáp.

“Chỉ cách đây có hai dặm” Elsa săn đón.

“Có gì đáng xem không?” Tôi hỏi.

“Ồ có chứ. Nó ở trong một cánh rừng, đó chỉ là một mỏm núi đá rất lạ thôi. Có cả một câu chuyện về nó đấy. Bao giờ tôi cũng khoái các câu chuyện.”

“Chuyện gì vậy?”

“Nếu các cô đến đây vào những khoảng thời gian nhất định nào đó, các cô có thể nhìn thấy người yêu tương lai hoặc chồng của mình.”

Tất cả chúng tôi đều cười vang.

Monique nói: “Tôi chẳng hề mong gặp Henri de la Creseuse vào lúc này. Vẫn còn đủ thời gian cho đến khi tôi đi khỏi đây.”

“Ồ!” Elsa chống chế, “Nhưng có thể số phận sẽ quyết định khác và Henri không phải dành cho cô.”

“Và người đàn ông dành cho tôi sẽ xuất hiện ở chốn này ư? Có phải ở đỉnh Pilcher không?”

“Tôi sẽ kể cho các cô nghe một câu chuyện. Nhiều năm về trước, người ta thường giải những người bị bắt về tội ngoại tình đến vùng núi Pilcher, bắt họ trèo lên đỉnh rồi ném họ xuống vực sâu. Người ta bao giờ cũng đưa những kẻ tội đồ này đến đây vào những đêm trăng tròn. Có quá nhiều người chết đến nỗi máu của họ làm đất đai ở đây thêm màu mỡ, cây mọc lên quanh đỉnh núi và chẳng bao lâu đã làm thành một khu rừng.”

“Và đấy là nơi chúng tôi nên đến ư?”

“Cordelia đang học năm cuối. Cô ấy chẳng có mấy cơ hội, cô ấy nên đến đấy trong khi còn có thể đi được. Đêm mai là đêm rằm và đó cũng là vầng trăng của người thợ săn. Thật là một thời điểm đẹp mọi đường.”

“Vầng trăng của người thợ săn ư?” Monique nhắc lại.

“Đó là tháng tiếp theo tháng gặt hái. Đây là mùa trăng đẹp nhất và cũng là mùa đi săn. Nó đến vào tháng Mười.”

“Bây giờ cũng đang là tháng Mười, và tiết trời vẫn còn ấm áp lắm.” Frieda nói.

“Đêm qua trời bắt đầu trở lạnh rồi,” Lydia nói, rùng mình khi nhớ lại.

“Những tháng ngày mới tươi đẹp làm sao.” Tôi mơ mộng “Chúng mình cần phải giữ lại những ngày này. Thật là kì cục khi nghĩ rằng mình sẽ không có dịp quay lại đây nữa.”

“Cậu nghĩ gì?” Monique gặng hỏi.

“Tớ sẽ nhớ tất cả các cậu.”

“Và cậu sẽ về với người cô tuyệt vời của mình,” Lydia nói, không phải không có chút ghen tị.

“Cô sẽ giàu có,” Elsa nói đế thêm “lại không phụ thuộc vào ai, cô chẳng làm chủ cái trường học ấy và cả một dinh thự cổ tuyệt đẹp nữa sao?”

“Không, không. Còn phải nhiều năm nữa. Tôi chỉ được thừa hưởng khi cô Patty qua đời, mà tôi thì không muốn điều đó xảy ra.”

Elsa gật gù: “Thôi được, nếu cô không muốn đến đó thì để tôi nói chuyện này với những người khác vậy.”

“Mà tại sao chúng ta lại không đi chứ? Ngày mai là ngày rằm rồi, phải không?”

“Chúng ta có thể đi xe ngựa.”

“Bọn mình sẽ nói với mọi người là muốn đi hái mấy bông hoa dại mọc trong rừng.”

“Thế cậu nghĩ là chúng ta được phép sao? Hoa dại là một chủ đề cấm kị trong những cuộc trao đổi ở một phòng khách quý tộc. Với lại mùa này làm gì còn hoa với hoét nữa.”

“Chúng ta có thể nghĩ ra một cái cớ nào đó,” Lydia khăng khăng.

Tuy vậy, chả ai nghĩ ra được cái cớ gì, và chúng tôi càng nôn nóng bao nhiêu thì một chuyến đi như vậy càng xa vời bấy nhiêu.

“Tôi có ý này,” cuối cùng Elsa lên tiếng, “các cô viện lí do đi ra phố mua một đôi găng tay cho cô của Cordelia. Cô Patty rất thích đôi găng mà Cordelia mang và tất nhiên không ở đâu có thể làm được một đôi găng... một cách tinh xảo và hợp lí đến thế... ngoài Thụy Điển. Điều này sẽ được Madame ủng hộ. Thế rồi chiếc xe ngựa không đánh đường ra thành phố mà lại đi vào rừng. Chỉ có hai dặm đường thôi mà. Các cô có thể xin thêm một ít thời gian để uống cafê hoặc ăn một cái bánh gatô, những thứ cũng chỉ ở trên đất Thụy Điển này mới ngon lành đến thế. Tôi chắc như bắp là các cô sẽ được phép, rồi các cô sẽ được vào rừng và ngồi chơi dưới gốc cây sồi của các cặp tình nhân.”

“Đó là một điều dối trá quá lắm!” Tôi kêu lên. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bà Guérin biết chuyện chị đang làm hỏng chúng tôi. Lúc ấy sợ rằng chính chị phải lang thang giữa những đỉnh núi đầy tuyết phủ đó.”

Elsa chắp hai tay như đang cầu nguyện. “Tôi chỉ cầu mong các cô không phản bội tôi. Đây chỉ là một trò đùa thôi mà. Tôi chỉ muốn thêm vào một chút lãng mạn trong cuộc sống của các cô.”

Tôi cũng bật cười với các bạn. “Được rồi, tại sao chúng ta không thử một phen? Hãy bảo chúng tôi phải làm gì đi Elsa.”

“Mọi người chỉ việc ngồi dưới gốc cây sồi. Các cô không bị té ngã đâu. Nó ở dưới chân núi. Cứ việc ngồi và trò chuyện... một cách tự nhiên, thoải mái. Nếu các cô may mắn người chồng tương lai sẽ hiện ra.”

“Chỉ có một người trong bốn chúng tôi!” Monique kêu lên.

“Có thể nhiều hơn... Ai mà nói trước được. Nhưng nếu chỉ một người xuất hiện thì cũng đủ để chứng minh cho các cô thấy huyền thoại kia là có cơ sở.”

“Nghe thật ngớ ngẩn!” Frieda nói.

“Ít ra thì ta cũng có một chỗ nào đó để chơi đùa,” Monique vun vào.

“Chuyến đi chơi cuối cùng của chúng ta trước khi mùa đông về,” Lydia nói.

“Ai biết được. Có thể mùa đông sẽ về vào ngày mai.”

“Vậy thì lại quá muộn đối với Cordelia rồi,” Lydia nhắc nhở. “Này bạn thân mến, sao cậu không thuyết phục cô Patty cho bạn ở lại thêm một năm nữa.”

“Hai năm là quá đủ để một thiếu nữ có được cung cách hoàn hảo. Mình phải chuẩn bị sẵn sàng để nhập cuộc rồi.”

Chúng tôi cùng cười một chút và quyết định chiều hôm sau chúng tôi sẽ đi đến đỉnh núi Pilcher.

Đó là một buổi chiều trong trẻo. Mặt trời ấm áp như thể đang là mùa xuân và mấy cô gái trẻ chúng tôi lòng lâng lâng, thơ thới khi chiếc xe ngựa rẽ khỏi đường đi vào thị trấn để đưa chúng tôi vào rừng. Không khí trong lành, khô lạnh và tuyết sáng lên lấp lánh trên các mỏm núi xa xa. Tôi có thể ngửi thấy mùi nhựa thông thoang thoảng là một mùi đặc trưng trong các cánh rừng, xung quanh chúng tôi là những cây sồi vạm vỡ với màu xanh muôn thuở, và trong số đó có một cây mà chúng tôi phải tìm đến.

Chúng tôi hỏi bác xà ích về đỉnh núi Pilcher và ông trả lời là chúng tôi không thể nhận ra nó. Rồi ông chỉ cho chúng tôi xem khi đi đến chỗ rẽ. Bây giờ thì chúng tôi có thể nhìn thấy ngọn núi vươn cao từ một thung lũng xanh tươi.

Quang cảnh ở đây thật đẹp. Từ đằng xa, chúng tôi đã nhìn thấy cái khe núi, hai bên sườn cây mọc thành rừng men đến tận các thung lũng xa xa. Cỏ cây có một sắc xanh đặc biệt, thăm thẳm đến ngút mắt.

“Không biết ai trong số chúng ta sẽ gặp người ấy?” Lydia thì thầm.

“Chẳng có người nào như vậy đâu.”

Monique cười: “Không thể là mình bởi vì mình đã đính hôn rồi.”

Cứ thế tiếng cười của chúng tôi vang động cả góc rừng.

“Mình nghĩ Elsa bịa ra một nửa những điều cô ta nói,” tôi nói.

“Các cậu có tin vào câu chuyện xuống dốc của cô ta không?”

“Mình không biết,” tôi nói một cách cân nhắc. “Ở Elsa có một cái gì đó thật khác lạ. Có thể điều đó là sự thật. Mặt khác, cô ta cũng có thể bịa ra cũng nên.”

“Giống như chuyện cái đỉnh núi Pilcher này ấy. Cô ta rồi sẽ cười vào mặt chúng ta khi ta quay trở lại.”

Tiếng vó ngựa nện xuống nền đất ẩm hòa điệu với câu chuyện sôi nổi giữa chúng tôi làm nên một không khí thật thi vị. Tôi sẽ nhớ những điều này lắm đây. Nhưng tất nhiên về với cô Patty cũng là một điều rất tuyệt.

“Đỉnh núi kia rồi,” người xà ích vung cây roi chỉ cho chúng tôi.

Cả bốn cô gái đều sững người nhìn. Từ phía này trông nó thật ấn tượng, giống hệt như một khuôn mặt già nua nhăn nheo... đen đúa, rúm ró và hiểm ác.

“Mình tự hỏi tại sao nó lại có cái tên là Pilcher?” Monique thắc mắc. “Dù sao thì ai là Pilcher mới được chứ?”

“Chúng ta sẽ hỏi Elsa,” tôi đáp. “Cô ta dường như là một cái mỏ thông tin về những chuyện như thế này.

Bây giờ thì chúng tôi đã ở sâu trong rừng. Chiếc xe dừng lại, bác xà ích nói: “Tôi sẽ đứng đợi ở đây. Các quý cô cứ đi theo con đường này. Nó sẽ dẫn thẳng đến ngọn núi đá. Dưới chân nó có một cây sồi đại thụ có tên là Cây sồi dưới chân núi Pilcher.”

“Đó là chỗ chúng cháu muốn đến,” Monique nói.

“Các đây chỉ không đầy nửa dặm.” Ông nhìn đồng hồ. “Tôi sẽ sẵn sàng đánh xe chở các tiểu thư về sau một tiếng rưỡi. Qui định không cho phép các cô về trễ.”

“Cảm ơn bác.” Chúng tôi đồng thanh nói và tiến bước trên con đường mòn gồ ghề đi về phía núi đá.

“Ở đây chắc phải xảy ra một trận động đất dữ dội,” tôi nhận định. “Nhờ thế mà Pilcher hình thành và sau đó thật lâu, cây sồi này mới mọc lên. Hạt giống là do những con chim mang tới, mình chắc thế. Đa số cây sồi ở đây đều thuộc họ thông mà. Chúng không tỏa ra một mùi thơm dễ chịu đó sao?”

Chúng tôi đi đến gần cây sồi mọc bên núi đá. “Nó đây rồi.” Lydia nói, ngồi phịch xuống rồi nằm dài trên bãi cỏ. “Mùi của rừng làm mình buồn ngủ quá.”

“Cái mùi hương sực nức của nó thật quyến rũ,” tôi nói, háo hức hít hít, ngửi ngửi. “Phải, quả là có một cái gì gây ngủ.”

“Bây giờ ta phải làm gì nào?” Frieda nói.

“Thì cứ ngồi xuống... chờ đợi và nhìn ngắm.”

“Mình nghĩ chuyện này thật ngu xuẩn,” Frieda nói. “Dào ơi, cứ coi như một chuyến dã ngoại. Đi đến một chỗ nào đó. Giả vờ là đi mua găng tay cho cô Patty. Mình sẽ mua cho cô một đôi trước khi rời khỏi đây.”

“Thôi đừng nói chuyện bỏ đi đâu hết,” Lydia phụng phịu. “Mình không thích chuyện đó đâu.”

Frieda ngáp ngắn ngáp dài.

“Phải,” tôi nói, “mình cũng không muốn thế tí nào.”

Tôi nằm dài trên cỏ và mấy đứa kia cũng làm theo. Chúng tôi nằm đấy, đầu gối lên hai bàn tay, mắt nhìn qua các cành cây đan chéo trên đầu. “Tớ tự hỏi chuyện gì xảy ra khi người ta ném những xác người xuống đây,” tôi tiếp tục câu chuyện. “Cứ hình dung bị mang lên trên đỉnh, biết rằng mình sẽ bị ném xuống... hoặc có thể bị buộc phải nhảy xuống. Eo ơi! Có lẽ có một số người ngã quay lơ từ trên ấy.”

“Cậu làm mình sởn gai ốc!” Lydia nhăn nhó.

“Tớ cho rằng,” Frieda nhấm nhẳn, “mình nên quay lại chỗ xe đậu và đi vào thị trấn chơi một chuyến.”

“Chà, những cái bánh nhỏ với món kem đủ mầu sao mà ngon lành đến thế!” Monique ao ước.

“Có đủ thời gian không?”

“Không.”

“Im lặng,” tôi ra lệnh. “Hãy chịu khó chờ một chút.”

Tất cả mọi người đều nằm im rồi chàng ta hiện lên sau một lùm cây.

Chàng cao dong dỏng và mới tuấn nhã làm sao. Tôi lập tức để ý đến đôi mắt chàng, biếc xanh và sắc sảo, tinh anh; có một cái gì đó thật khác thường trong đôi mắt ấy; dường như nó vượt qua chúng tôi dõi nhìn vào một cõi xa xăm vô định mà chúng tôi không sao thấy được... hoặc có lẽ đó chỉ là điều sau này tôi tưởng tượng ra. Quần áo chàng sậm màu, hài hòa với vẻ tao nhã của chàng. Một bộ quần áo cắt rất đẹp nhưng không phải theo mốt mới nhất. Áo khoác của chàng có lót một chiếc cổ bằng nhung và đính những chiếc cúc bạc, mũ màu đen cao và sáng bóng.

Tất cả chúng tôi đều nín thở khi chàng bước đến gần – sững sờ, tôi đoán thế và như vậy để tuột mất vẻ duyên dáng, lịch thiệp của các cô gái ở Schaffenbrucken.

“Chào các cô,” chàng nói bằng tiếng Anh, cúi đầu rất thấp, rồi tiếp. “Tôi nghe thấy tiếng cười của các cô và không thể cưỡng được ý muốn lại gần, chào các cô một tiếng.”

Chúng tôi vẫn sững người không thốt ra được tiếng nào còn chàng thì tiếp tục: “Cho tôi biết, có phải các cô là học sinh của trường Schaffenbrucken không?”

Tôi đáp: “Phải.”

“Đi dã ngoại đến núi Pilcher ư?”

“Chúng tôi chỉ ngồi chơi, nghỉ chân trước khi quay về.” Tôi trả lời chàng trong khi mấy cô bạn vẫn ngồi im tựa như lưỡi bị dính vào răng.

“Đây là một chốn thần tiên,” chàng tiếp tục. “Các cô có vui lòng cho phép tôi tham gia vào câu chuyện không?”

“Tất nhiên là rất vui lòng,” bọn tôi đồng thanh đáp, như vậy mấy cô bạn tôi đã qua được giây phút sững sờ.

Chàng ngồi cách chúng tôi một đoạn, duỗi đôi chân dài ra,

“Tiểu thư là người Anh?” chàng nói, nhìn vào mắt tôi.

“Vâng, tôi và cô Markham. Đây là Mademoiselle Delorme và Fraulein Schmidt.”

“À một nhóm học sinh quốc tế,” chàng nhận xét, “Trường của các quý cô là trường dành cho các tiểu thư quý tộc ở khắp châu Âu. Tôi đoán không lầm chứ?”

“Phải, chính thế.”

“Cho tôi biết tại sao các cô lại đi dã ngoại ở núi Pilcher này? Không phải là một cuộc cắm trại mùa hè phải không nào?”

“Chúng tôi thích đi thăm thú,” tôi đáp, “có lẽ tôi chẳng còn dịp nào nữa. Tôi sẽ ra trường vào cuối năm nay.”

Chàng nhướn lông mày kinh ngạc. “À ra thế! Vậy các quý tiểu thư khác thì sao?”

“Chúng tôi sẽ rời đây vài năm sau,” Monique đáp.

“Cô sẽ quay về Pháp?”

“Vâng.”

“Các cô tất cả đều trẻ trung... phơi phới,” chàng trầm ngâm nói. “Thật khoan khoái khi nghe tiếng cười trong như tiếng hạc của các cô. Tôi bị thu hút về phía này. Tôi cảm thấy mình phải gia nhập bọn với các cô, phải chia sẻ với các cô niềm vui sống tự nhiên.”

“Chúng tôi đã không nhận ra là chúng tôi có một sức hút đến như vậy,” tôi đáp lời và cả bọn cùng cười vang.

Chàng nhìn xuống, trầm ngâm: “Thật là một buổi chiều tuyệt đẹp! Có một cái gì thật êm ả, tĩnh lặng nơi đây, các cô có cảm thấy thế không?”

“Có, tôi nghĩ là có,” Lydia đáp.

Chàng ngước nhìn lên trời. “Mùa hè Ấn Độ,” chàng lặng lẽ nói. “Tất cả các cô sẽ đi về những ngôi nhà khác nhau trong lễ Giáng sinh, phải không?”

“Đó là một trong những kì lễ chúng tôi được phép về nhà. Kể cả dịp hè, lễ Phục sinh, và cả những dịp khác nữa...”

“Cuộc hành trình thật dài,” chàng kết thúc hộ tôi. “Và người thân sẽ giang rộng vòng tay chào đón các cô trở về. Sẽ có nhiều bữa tiệc tùng, hội hè dành cho các cô, rồi tất cả sẽ đều lấy chồng và sống vui vẻ hạnh phúc suốt đời. Thì số phận còn có thể làm điều gì khác cho tất cả các tiểu thư trẻ trung, xinh đẹp này?”

“Không phải bao giờ cũng vậy hoặc thường xuyên như thế.” Monique mở miệng nói.

“A ha, chúng ta có một kẻ đa nghi ở đây. Hãy cho tôi biết” - đôi mắt chàng nhìn tôi đăm đắm - “cô có tin vào điều đó không?”

“Tôi nghĩ cuộc sống là những gì mà bạn tự tạo ra,” Tôi nói theo kiểu của cô Patty. “Cái không thể chịu đựng nổi đối với người này lại là dễ chịu đối với người khác. Tất cả tùy thuộc vào cách người ta nhìn nhận mọi chuyện.”

“Chắc chắn người ta đã dạy các cô được nhiều điều.”

“Đó là điều mà cô tôi bao giờ cũng nói.”

“Cô không còn cha me.” Một câu khẳng định hơn là một câu hỏi.

“Không, cha mẹ tôi chết ở châu Phi. Cô tôi là người nuôi dạy tôi.”

“Cô ấy là một người tuyệt diệu,” Monique ca ngợi. “Cô Patty trông coi một trường nữ sinh. Mà cô ấy rất khác bà Guérin hoặc bất cứ ai khác. Cordelia thật may mắn. Bạn ấy sẽ làm việc với cô mình và chia sẻ thành công ở trường học với cô và ngôi trường này sẽ là của bạn ấy. Ông có thể tưởng tượng Cordelia là một cô hiệu trưởng không?”

Chàng mỉm cười nhìn tôi. “Tôi có thể hình dung Cordelia trở thành bất cứ cái gì mà cô ấy muốn. Cô ấy là một phụ nữ có phong cách rất đặc biệt, phải không nào?”

“Nếu ông hỏi tôi thì tôi sẽ trả lời: Bạn ấy là người may mắn nhất trong bốn chúng tôi,” lại là Monique nhanh nhảu đáp.

Chàng lại tiếp tục nhìn tôi với cái nhìn như có ẩn ý. “Phải, tôi nghĩ Cordelia có thể là một người may mắn hết sức.”

“Tại sao ông lại nói “có thể”?” Frieda hỏi.

“Bởi vì điều này còn tùy thuộc vào Cordelia. Cô ấy có cẩn trọng không? Cô ấy do dự hay sẵn sàng chộp lấy bất cứ cơ hội nào đến với mình?”

Bọn con gái nhìn nhau và quay lại nhìn tôi.

“Tôi dám nói là bạn ấy sẽ làm thế đấy.” Monique quả quyết.

“Thời gian sẽ trả lời,” chàng nói đầy ẩn ý.

Ở chàng toát ra một cái gì thật lạ lùng, gần như một người nệ cổ. Có thể đó là vì chàng nói tiếng Anh, một thứ tiếng rõ ràng không phải tiếng mẹ đẻ của chàng, dù chàng nói rất trôi chảy. Tôi tự hỏi không biết nó có pha giọng Đức không.

“Chúng ta bao giờ cũng phải chờ đợi để có thể biết tất cả,” Frieda nói, có phần nóng nảy. “Vậy cô mơ ước điều gì, thưa tiểu thư? Để biết một chút gì đó về tương lai?”

“Sẽ là một cái gì vui phải biết.” Monique hào hứng nói: “Có một người thầy bói trong thành phố. Bà Guérin đã ra lệnh cấm... nhưng tôi tin có vài người vẫn lén đi xem bói...”

“Chắc phải là cái gì hấp dẫn lắm,” chàng nói theo.

“Ông muốn nói... để nhìn vào tương lai ư?” Lại là Monique và chàng cúi người về phía trước, cầm tay cô. Monique thốt lên ngỡ ngàng: “Ồ, ông có thể nói về tương lai ư?”

“Nói về tương lai! Ai có thể nói trước về những điều còn chưa xảy ra? Mặc dầu đôi khi cũng có những điều báo trước...”

Tất cả chúng tôi cùng trầm ngâm một lúc. Tôi cảm thấy tim mình đập như điên như dại. Có một cái gì thật kì vĩ trong chuyện này.

“Thưa tiểu thư,” chàng nói, nhìn vào mặt Monique, “cô sẽ cười suốt cuộc đời này. Cô sẽ trở về tòa lâu đài của dòng họ.” Chàng bỏ tay cô gái xuống và khép mi mắt lại. “Tòa lâu đài nằm ở trung tâm của đất nước. Có các vườn nho bao quanh, những cái tháp cao đến chạm cả bầu trời. Cha tiểu thư là người quyết định các giá trị trong dòng họ. Ông là một người kiêu hãnh. Tiểu thư sẽ cưới người mà ông lựa chọn, phải không?”

Monique có vẻ bối rối, sững sờ.

“Tôi cho rằng tôi sẽ lấy Henri... tôi cũng mến anh ấy lắm.”

“Và cha tiểu thư sẽ không cho phép mọi chuyện xảy ra khác đi. Còn cô, tiểu thư, cô có ngoan ngoãn như bạn mình không?” Chàng nhìn Frieda, hỏi. “Cũng khó nói lắm,” cô nàng người Đức trả lời vẻ dửng dưng. “Đôi khi tôi muốn làm điều gì đó khiến tôi vui lòng nhưng khi về đến nhà... mọi việc lại khác đi.”

Chàng cười với cô: “Tiểu thư không thích lừa dối mình và đó là điều đáng quý nhất trong đời. Tiểu thư bao giờ cũng biết mình đang đi đến đâu và tại sao – mặc dù đó không phải lúc nào cũng là con đường tiểu thư muốn chọn.”

Nói đoạn chàng quay sang Lydia, “Còn tiểu thư, điều gì sẽ đợi cô phía trước?”

“Chỉ có Chúa mới biết được. Cha tôi sẽ quan tâm đến các anh trai của tôi hơn. Họ lớn tuổi hơn tôi và bao giờ cũng nghĩ con trai quan trọng hơn con gái.”

“Cô sẽ có một cuộc đời thật tốt đẹp.”

Lydia cười: “Đó là điều mà ông nói về tương lai của tất cả chúng tôi.”

“Những gì ở phía trước là do các cô tạo ra,” chàng điềm tĩnh. “Tôi chỉ biết một điều chắc chắn... À mà điều tôi nói có thể... chỉ là... dự cảm.”

“Đến lượt Cordelia,” Monique tuyên bố.

“Đến lượt Cordelia ư?” chàng hỏi lại.

“Ông còn chưa nói gì về bạn ấy... về điều gì sẽ xảy ra.”

“Tôi đã nói rồi mà,” chàng đáp vẻ nhẫn nại, “rằng mọi cái đều tùy thuộc vào cô ấy.”

“Nhưng ông còn chưa nói gì với bạn ấy mà.”

“Không, Cordelia sẽ biết... vào những thời điểm thích hợp.”

Có một khoảng im lặng sâu lắng. Tôi chợt nhận ra không khí im phăng phắc trong rừng trùm lên tất cả cảnh vật là hình dáng cổ quái của núi đá, một thứ mà trong trí tưởng tượng của con người dễ dàng biến thành những bóng ma đầy đe dọa.

Lại là Monique lên tiếng đầu tiên: “Có một cái gì đó thật ngớ ngẩn trong chuyện này.” Tôi có thể nhận rõ cô rùng mình khi nói thế.

Bất thình lình có một tiếng động phá tan bầu không khí lặng như tờ. Đó là tiếng gọi xa xôi của người xà ích. Giọng ông dường như vang dội vào núi đá và vọng lên trong suốt cánh rừng.

“Đáng lí chúng ta phải quay về xe được mười phút rồi,” Frieda nói. “Chúng ta phải nhanh chân lên.”

Tất cả chúng tôi đều bật dây.

“Tạm biệt,” chúng tôi nói với người lạ.

Rồi cả bọn bắt đầu quay ra xe. Vài giây sau tôi ngoái đầu nhìn lại. Chàng đã biến mất.

Chúng tôi về trễ nhưng không bị khiển trách và cũng chẳng ai hỏi về đôi găng tay mà người ta hi vọng chúng tôi mua về.

Elsa bước vào phòng chúng tôi sau bữa tối, trước giờ cầu nguyện nửa tiếng, một nghi thức vẫn diễn ra trước khi đi ngủ.

“Này, các cô có thấy cái gì không vậy?” Elsa hỏi, đôi mắt sáng lên vì tò mò.

“Có... một chuyện đã xảy ra,” Frieda thừa nhận.

“Một cái gì...?”

“Phải, một người đàn ông,” Monique nói thêm.

“Mình càng nghĩ về người này bao nhiêu,” Lydia thừa nhận, “mình càng thấy anh ta lạ lùng bấy nhiêu.”

“Kể đi, làm ơn kể đi mà.” Elsa nài nỉ.

“Phải, chúng tôi đang ngồi ở đấy...”

“Nằm dưới gốc cây.” Frieda, người thích chính xác đến từng chi tiết, sửa lại.

“Nằm dài trên bãi cỏ,” Lydia tiếp tục một cách nóng nảy, “thì anh ta đột ngột hiện ra.”

“Cô muốn nói hiện ra?”

“Chị có thể hiểu như thế.”

“Trông anh ta thế nào?”

“Đẹp trai. Khác thường thế nào ấy...”

“Kể tiếp đi! Làm ơn mà!”

Tất cả chúng tôi đều im lặng, cố nhớ một cách chính xác hình ảnh chàng trai.

“Điều gì gây ấn tượng mạnh nhất đối với các cô?”

“Phải, có một cái gì thật lạ lùng khi các bạn nghĩ về điều đó phải không,” Monique hỏi. “Có vẻ như mọi người lấy làm lạ dường như anh ta biết một cái gì đó về chúng ta, phải không? Anh ta mô tả lâu đài của mình với vườn nho và tháp canh.” Frieda lẩm bẩm: “Có nhiều tòa lâu đài ở Pháp có vườn nho và hầu hết đều có tháp canh.”

“Phải,” Monique tự lự. “Tuy vậy... vẫn...”

“Tớ nghĩ anh ta quan tâm đến Cordelia nhất.” Lydia tuyên bố.

“Tại sao cậu lại nghĩ thế. Anh ta chẳng nói gì về mình cả.”

“Cứ theo cái cách mà anh ấy nhìn cậu.”

“Các cô chẳng nói tôi biết cái gì cả.” Elsa than vãn. “Tôi đã đưa các cô đến đấy, đừng quên điều đó. Tôi có quyền được biết chứ!”

“Để tôi cho chị biết chuyện gì đã xảy ra,” Frieda nói. “Chúng tôi đủ ngu ngốc đến mức dẫn xác vào rừng thay vì ra thị trấn xơi bánh quế với kem... Và bởi vì quá ngớ ngẩn, chúng tôi cố làm cho một chuyện gì đó xảy ra. Chợt người đàn ông ấy hiện ra nói anh ta thích nghe tiếng chúng tôi nói cười rồi nán lại tán chuyện với chúng tôi một lúc.”

“Frieda đã nói rõ mọi chuyện rồi đấy,” Lydia nói. “Nhưng tôi không thể không nghĩ là mọi chuyện không chỉ có thế.”

“Tôi thì cho rằng anh ta sẽ là vị hôn phu của một trong các cô,” Elsa nói. “Chuyện này nhất định dẫn đến chỗ đó.”

“Nếu chị tin như vậy sao chị không đến đó mà gặp người ấy của mình?” Tôi gặng hỏi.

“Sao tôi có thể bỏ ra ngoài được? Tôi bị canh gác cẩn thận. Họ sẽ nghi ngờ tôi không làm tròn phận sự.”

“Tất cả sẽ đâu vào đấy,” Frieda kết luận, “những nghi ngờ này sẽ được giải quyết.”

Elsa cùng cười với cả bọn.

Ít nhất cô ta cũng chia vui với cuộc đi chơi của chúng tôi.

Suốt trong tháng Mười một, chúng tôi chỉ bàn chuyện về thăm nhà. Với tôi, lần chuẩn bị này có trộn thêm nỗi buồn tiếc nuối. Tôi sẽ phải chia tay với tất cả bạn bè, nhưng mặt khác tôi cũng háo hức được về nhà. Cả bọn đã thề với nhau là sẽ giữ liên lạc. Lydia sống ở London nhưng gia đình cô có một nhà nghỉ ở Essex, nơi cô thường đến vào kì nghỉ vì thế chúng tôi cũng không xa nhau lắm.

Vài ngày sau chuyện xảy ra ở trong rừng, chúng tôi thường thảo luận rất nhiều về cái mà chúng tôi gọi là cuộc phiêu lưu ở núi Pilcher. Chúng tôi nhanh chóng biến nó thành một kỉ niệm ngớ ngẩn và khoác cho người lạ mặt tất cả những gì kì ảo nhất. Rằng đôi mắt chàng sáng lấp lánh một thứ ánh sáng huyền bí khó tả, Monique khẳng định. Cô phóng đại những điều chàng nói với cô và bắt đầu tin rằng anh đã miêu tả tòa lâu đài của gia đình cô một cách chi tiết và y như thật. Lydia nói rằng chàng làm cô run rẩy, ớn lạnh và cô tin anh không phải là người.

“Thật ngớ ngẩn,” Frieda cự lại, “anh ta chỉ đi dạo trong rừng và cảm thấy muốn tán dóc với mấy cô gái đang nô đùa thôi.”

Tôi không chắc về điều này, và mặc dù tôi nhận ra tất cả chuyện này chỉ là một câu chuyện vui tô điểm cho cuộc sống thì nó vẫn gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh mẽ.

Khóa học kết thúc vào tuần lễ đầu tiên của tháng Mười hai. Mặc dù tất cả học sinh đều phải đi một chặng đường dài, bà Guérin bao giờ cũng muốn chúng tôi lên đường trước khi tuyết rơi nhiều làm cho đường sá trở nên khó đi lại.

Có tất cả bảy nữ sinh người Anh sẽ đi cùng một lộ trình. Miss Maiz sẽ tháp tùng chúng tôi ra tàu hỏa và trên quãng đường đến Calais sẽ có một nhân viên du lịch dẫn chúng tôi lên tàu vượt biển. Gia đình sẽ đợi chúng tôi ở Dover.

Tôi đã đi qua những đoạn đường như vậy nhiều lần, nhưng đầy là lần cuối vì thế mà nó khác với những lần trước. Có cả một khoang dành riêng cho học sinh và chỉ có những cô gái trẻ mới vào học mới trầm trồ trước cảnh non xanh nước biếc hữu tình và nhất định ngồi bên cửa sổ khi đoàn tàu đi qua biên giới nước Thụy Sĩ tuyệt đẹp. Những cô gái lớn hơn thì chín chắn và điềm đạm hơn – Lydia và tôi ở trong số này.

Cuộc hành trình tưởng chừng như dài vô tận, chúng tôi trò chuyện, đọc sách báo, chơi trò chơi và ngủ gà ngủ gật.

Lúc ấy hầu hết mọi người đã ngủ và tôi đang lơ đãng nhìn quanh quất thì chợt thoáng thấy một người đàn ông. Người này lướt qua lối đi, nhìn vào khoang của chúng tôi khi đi ngang qua. Tôi há hốc mồm kinh ngạc. Anh ta hình như liếc nhìn tôi nhưng lại không tỏ vẻ đã nhận ra tôi, cái bóng thoáng qua chỉ trong vòng vài ba giây.

Tôi quay sang Lydia lúc này đang ngồi cạnh tôi, ngủ gà ngủ gật. Tôi vội bật dậy, chạy ra ngoài lối đi. Chẳng thấy tăm hơi người đàn ông đâu hết.

Tôi quay lại chỗ ngồi, gọi Lydia dậy.

“Mình... mình đã thấy anh ta.” Tôi lắp bắp nói.

“Thấy cái gì?”

“Người đàn ông... Người đàn ông trong rừng.”

“Cậu đang nằm mơ đấy à?”

“Không. Mình đang thức mà. Anh ta lướt đi như một tia chớp.”

“Tại sao cậu không gọi anh ta lại.”

“Anh ta đi nhanh quá. Mình có đi theo nhưng không kịp, anh ta đã biến mất.”

“Cậu chỉ nằm mơ thấy người ta thôi,” Lydia nói và nhắm mắt lại.

Tôi vẫn còn run rẩy. Chẳng lẽ đó lại là một bóng ma?

Tất cả trôi qua quá nhanh. Chàng đã ở đây... và chàng đã đi mất. Chàng lướt đi như một vệt sáng. Đó chính là chàng hay tôi chỉ mơ mộng về chàng?

Có lẽ là Lydia đã đúng.

Tôi cố ý tìm chàng trong suốt chuyến đi đến Calais nhưng chàng không có ở đây.

Chuyến tàu đến trễ vì các đụn tuyết trên đường ray và chúng tôi đến Calais trễ mất tám tiếng. Điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ đi phà đêm và sẽ cập bến vào lúc hai giờ sáng. Lydia không được khỏe, cô bị cảm lạnh và rất mệt. Cô tìm được một chỗ dưới boong tàu, ở đây cô có thể cuốn một tấm mền và nằm nghỉ.

Tôi lại muốn hít thở không khí trong lành, thế là tôi nói với Lydia là tôi sẽ lên boong. Tôi được người ta phát cho một tấm đắp và tìm được một cái ghế trống. Quả là có hơi lạnh, nhưng co ro dưới tấm đắp tôi thầm nghĩ, Lydia sẽ khôn ngoan hơn nếu lên trên này với tôi hơn là nằm trong không khí tù túng của các khoang tàu chật chội.

Vầng trăng lưỡi liềm và hàng triệu vì sao lấp lánh trên nền trời đêm trong sáng. Tôi có thể nghe thấy tiếng nói lao xao của cánh thủy thủ đứng cách tôi không xa, tôi thích nhịp điệu dập dềnh của con tàu – êm ái và bồng bềnh, tuy vậy trời không có gió và tôi không nghĩ là sẽ có một sự cố trục trặc nào.

Tôi mơ màng nghĩ về tương lai. Nó sẽ tràn đầy niềm vui với cô Patty. Tôi có thể mường tượng những buổi tối êm đềm cùng cô bên ngọn lửa hồng trong lúc cô thưởng thức món sữa sôcôla nóng và nhấm nháp cái bánh hạnh nhân mà cô đặc biệt thích. Chúng tôi sẽ cười trước tất cả mọi sự kiện trong ngày. Bao giờ cũng có một cái gì đó để cười vui. Ồ, tôi mới nóng lòng muốn về với cô Patty làm sao.

Tôi nhắm mắt. Có lẽ tôi thiu thiu ngủ. Chuyến đi dài và mệt mỏi, nhất là sau nhiều giờ ngồi trên tàu hỏa. Tôi không thể ngủ say vì tôi biết mình phải quay về chỗ Lydia trước khi tàu cập bến.

Tôi nhận ra có một cử động sột soạt nào đó bên cạnh, bèn mở choàng mắt. Một cái ghế đã được chuyển đến một cách lặng lẽ và bây giờ có ai đó ngồi sát bên cạnh tôi.

“Cô không phiền nếu tôi ngồi cạnh cô chứ?”

Tim tôi giật thót lên và đập như điên như dại. Cũng cái giọng nói ấy. Cũng cái vẻ có mặt đấy mà lại không thuộc về thế giới này. Đó là người đàn ông trong rừng. Tôi sửng sốt đến mức không thốt ra được một tiếng nào.

Chàng nói: “Tôi sẽ im như thóc nếu tiểu thư muốn ngủ.”

“Ồ không..

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện