Nhà Giả Kim (Câu Chuyện Một Giấc Mơ)
Chương 10
Chàng trai tiến đến những người gác cổng trước một lều to lớn mảu trắng tại trung tâm của ốc đảo.
"Tôi muốn gặp tộc trưởng. Tôi đem đến một điềm chỉ bảo của sa mạc."
Không trả lời, người gác cổng đi vào lều, nơi chàng đã đến một vài lần. Khi ông ta đi ra, đấy là người Ả Rập trẻ, mặc đồ trắng và vàng kim. Chàng trai nói với người trẻ tuổi ấy những gì chàng thấy, người đàn ông yêu cầu chàng chờ đợi ở đấy. Anh ta biến mất trong lều.
Màn đêm buông xuống, và một đội ngủ phân hạng những chiến binh và thương gia vào và ra lều. Những đám lửa được dập tắt từng đống một, và ốc đảo chìm trong yên lặng như sa mạc. Chỉ có những ngọn lữa trong ngôi lều to lớn được duy trì. Cùng trong thời gian ấy, chàng trai nghĩ về Fatima, và chàng vẫn không hiểu mẫu đối thoại sau cùng với nàng.
Cuối cùng, sau hàng giờ chờ đợi, người gác cổng đưa chàng vào. Chàng trai lấy làm ngạc nhiên những gì chàng thấy trong lều. Chẳng bao giờ chàng có thể tưởng tượng rằng, giữa sa mạc, lại có thể hiện hữu một ngôi lều to lớn vĩ đại như thế này. Trên nền được bao phủ với những tấm thảm đẹp nhất mà chàng có bao giờ đặt chân lên, và từ trên đỉnh của lều treo những chiếc đèn bằng vàng chạm trổ, và mỗi chiếc được thắp sáng bằng những ngọn nến. Người tộc trưởng ngồi phía sau của lều trong một bán nguyệt, ngã lưng trên những chiếc gối thêu bạc trưởng giả. Những người hầu hạ đến và đi với những chiếc mâm bạc chất đầy những gia vị và trà. Những người phục vụ khác duy trì lửa trong những ống điếu hookah. Không khí ngập tràn với làn hương thơm ngọt ngào của khói thuốc.
Có cả thảy tám người tộc trưởng, nhưng chàng trai có thể thấy ngay những ai trong họ là quan trọng nhất: một người Ả Rập ăn mặc trong đồ vàng kim và trắng, ngồi tại trung tâm của vòng bán nguyệt. Và bên cạnh ông ta là anh chàng Ả Rập trẻ tuổi mà chàng trai đã nói chuyện trước đấy.
"Ai là người lạ mặt đã nói về những điềm chỉ bảo? một trong những người tộc trưởng hỏi, nhìn về chàng trai.
"Đấy là tôi," chàng trai trả lời. Và chàng kể lại những gì chàng đã thấy.
"Tại sao sa mạc lại hé mở những điều như thế cho một người lạ, khi nó biết rằng chúng ta đã ở đây bao nhiêu thế hệ rồi?" một người tộc trưởng khác nói.
""Bởi vì đôi mắt tôi chưa quen với sa mạc," chàng trai trả lời. "Tôi có thể thấy những điều mà những cặp mắt quen thuộc với sa mạc không thể thấy."
Và cũng bởi vì mình biết về Tâm Linh của Thế Giới, chàng tự nghĩ.
"Ốc đảo là vùng đất trung lập. Không ai tấn công một ốc đảo," tộc trưởng thứ ba nói.
"Tôi chỉ có thể nói với các ông những điều tôi thấy. Nếu các ông không tin tôi, thì các ông không phải làm gì về nó cả."
Những người đàn ông rơi vào sự bàn tán sôi nổi. Họ nói bằng một phương ngữ Ả Rập mà chàng trai không thể hiểu, nhưng khi chàng định rời đi, người lính gác bảo chàng ở lại. Chàng trai trở nên sợ hải; những điềm chỉ bảo nói với chàng những gì không đúng. Chàng hối hận vì đã nói cho anh chàng chăn lạc đà về những gì chàng thấy trên sa mạc.
Bổng nhiên, vị trưởng lão tại trung tâm mĩm cười tế nhị, và chàng trai cảm thấy dễ chịu hơn. Ông ta không tham dự vào bàn thảo, và, thực tế, không nói một lời nào cho đến lúc ấy. Nhưng chàng trai đã dùng Ngôn Ngữ của Thế Giới, chàng cảm nhận làn sóng của hòa bình lan tỏa trong lều. Giờ đây trực giác của chàng là chàng đã đúng khi đến đây.
Cuộc bàn thảo chấm dứt. Những tộc trưởng im lặng trong một lúc khi họ nghe những gì vị trưỡng lão nói. Rồi thì họ trở lại với chàng trai: lần này lời tuyên bố của ông ta thì lạnh lẽo và xa xăm.
"Hai nghìn năm trước, trong một vùng đất xa xôi, một người đàn ông tin tưởng vào những giấc mộng bị ném vào trong một hầm tối và rồi thì bị bán làm nô lệ," ông lão nói, bây giờ trong phương ngữ chàng trai có thể hiểu. "Những người thương gia của chúng ta mua người đàn ông ấy, và mang ông ta đến Ai Cập. Tất cả chúng tôi biết rằng bất cứ ai tin tưởng ở những giấc mơ cũng biết diễn dịch chúng thế nào."
Trưỡng lão nói tiếp, "Khi pharaoh -vua Ai Cập- mơ về những con bò, ông ta ốm và những con bò thì mập, người đàn ông này nói về việc cứu Ai Cập khỏi nạn đói. Tên ông ta là Joseph. Ông ta cũng là một người lạ trên vùng đất lạ, như cậu, và ông ta cũng bằng tuổi cở cậu."
Ông ta dừng lại, và đôi mắt ông vẫn không thân thiện.
"Chúng tôi luôn luôn quán sát Truyền thống. Truyền thống đã cứu Ai Cập khỏi nạn đói những ngày ấy, và làm cho những người Ai Cập thành những người giàu có. Truyền thống dạy những người đàn ông vượt qua sa mạc như thế nào, và con cái của họ phải kết hôn như thế nào. Truyền thống nói rằng ốc đảo là một vùng trung lập, bởi vì cả đôi bên đều có ốc đảo, và vì thế cả đôi bên có chỗ nhược, có thể bị công kích.
Không ai nói một lời nào khi ông lão tiếp tục.
"Nhưng Truyền thống cũng nói rằng chúng ta nên tin tưởng những thông điệp của sa mạc. Mọi thứ chúng ta biết đều được dạy bởi sa mạc."
Trưởng lão ra dấu hiệu, và mọi người đều đứng dậy. Buổi họp mặt chấm dứt. Những ống điếu hookah được dập tắt, và những người gác đứng lên trong sự chú ý. Chàng trai chuẩn bị rời đi, nhưng ông lão nói lại lần nữa:
"Ngày mai, chúng tôi sẽ xé bỏ thỏa ước nói rằng không ai tại ốc đảo có thể mang vũ khí. Trọn cả ngày chúng tôi sẽ đề phòng kẻ thù của chúng tôi. Khi hoàng hôn, mọi người một lần nữa sẽ nộp lại vũ khí cho tôi. Cho mỗi mười người của kẻ thù chết đi, cậu sẽ nhận một miếng vàng.
“Nhưng vũ khí không thể được mang ngoại trừ họ cũng dự vào chiến trận. Vũ khí cũng quái dị như sa mạc, và, nếu chúng không được sử dụng, lần kế tiếp chúng có thể không hoạt động. Nếu ít nhất một vũ khí không được sử dụng cho đến cuối ngày mai, một thứ vũ khí sẽ được sử dụng cho cậu.”
Khi chàng trai rời lều, ốc đảo chỉ được chiếu soi bởi ánh sáng của mặt trăng. Chàng có hai mươi phút về lều mình, và chàng bắt đầu hướng về đấy.
Chàng đã được cảnh báo bởi những gì xảy ra. Chàng đã thành công để tiếp xúc với Tâm Linh của Thế Giới, và giờ đây cái giá cho việc này có thể là mạng sống của chàng. Thật là một cuộc đánh cược đáng sợ. Những chàng đang làm một cú liều lĩnh kể từ khi chàng bán đàn cừu hầu nhắm mục tiêu đạt đến “huyền thoại cá nhân”. Và, như anh chàng chăn lạc đà đã nói, để chết trong ngày mai, chẳng có gì tệ hơn để chết trong những ngày khác. Mỗi ngày thì ở đấy để sống hay đánh dấu sự khởi hành của ai đấy trong thế giới này. Mọi thứ tùy thuộc vào một chữ: “Maktub.”
Thả bộ trong yên lặng, chàng chẳng có gì hối hận. Nếu chàng chết ngày mai, nó là bởi vì Tạo Hóa sẽ không muốn thay đổi tương lai. Chàng có thể chết ít nhất cũng đã sau khi vượt qua eo biển, sau khi làm việc trong cửa hàng pha lê, sau khi đã biết sự yên lặng của sa mạc và đôi mắt của Fatima. Chàng đã sống mỗi ngày trong đời mình tự hào, nhiệt tình, sôi nổi kể từ khi chàng rời nhà đã lâu lắm rồi. Nếu chàng chết ngày mai, chàng đã thấy rồi những gì hơn là những con cừu, và chàng tự hào về việc ấy.
Đột nhiên chàng nghe tiếng sấm, chàng bị cuốn ngã xuống đất bởi một làn gió mà chàng chưa bao giờ biết như thế. Chỗ ấy bị xoáy đi trong cát bụi thật mãnh liệt làm mờ đi ánh trăng. Trước mặt chàng là một con ngựa trắng to lớn, chồm lên trên chàng ta với một tiếng thét sợ hải.
Khi bụi mù đã lắng đọng xuống một ít, chàng trai rùng mình trước những gì chàng thấy. Trên lưng con thú là một kỵ mã ăn mặc đen tuyền, với một con ó đứng trên vai trái ông ta. Ông đội một vành khăn xếp và mặt che phủ toàn bộ, trừ đôi mắt, với một khăn tay đen. Ông ta xuất hiện là một thông điệp của sa mạc, nhưng sự hiện diện của ông ta thật mạnh mẽ hơn nhiều so với chỉ một thông điệp đơn thuần.
Người kỵ mã lạ mặt rút ra một thanh gươm to và cong từ võ gươm treo trên yên ngựa. Thép của lưỡi gươm lấp lánh dưới ánh trăng.
“Ai dám đọc ý nghĩa của cánh chim ưng bay?” ông ta đòi hỏi, rất lớn tiếng và lời của ông ta dường như vang dội xuyên qua năm mươi nghìn cây chà là của Al-Fayoum.
“Nó là tôi, người dám làm như thế,” chàng trai nói. Chàng nhớ lại hình ảnh của Santiago Matamoro, trèo lên con ngựa trắng của anh ta, với những người không tín ngưỡng dưới móng chân của nó. Người đàn ông này thật giống y chang như thế, ngoại trừ vai trò bây giờ ngược lại.
“Nó là tôi, người dám làm như thế,” chàng trai lập lại, và chàng cúi đầu để nhận làn gió từ thanh gươm. “Biết bao mạng sống sẽ được cứu, bời vì mình có thể thấy qua Tâm Linh của Thế Giới.”
Thanh gươm không hạ xuống. Thay vì thế, người lạ hạ nó một cách chậm chạp, cho đến khi điểm trúng trán của chàng trai. Nó trích ra một giọt máu nhỏ.
Người kỵ mã hoàn toàn bất động, chàng trai cũng thế. Nó chẳng thể làm cho chàng trai ngay cả trốn chạy. Trong tim chàng, chàng cảm thấy một cảm giác mạnh mẽ của sung sướng: chàng đang chờ chết cho mục tiêu của Huyền thoại Cá nhân. Và cho Fatima. Những điềm chỉ bảo đã đúng thật, cuối cùng. Ở đây, chàng đang mặt đối mặt với kẻ thù, những không cần thiết để lưu tâm về cái chết - Tâm Linh của Thế Giới đang chờ đợi chàng, và chàng sẽ là một phần của nó. Và ngày mai, kẻ thù của chàng cũng sẽ là một phần của Tâm linh ấy.
Người lạ mặt tiếp tục dí thanh gươm vào trán chàng trai. “Tại sao ngươi lại đọc ý nghĩa những cánh chim bay?”
“Tôi đọc chỉ vì những con chim muốn nói với tôi. Chúng muốn tôi cứu ốc đảo. Ngày mai, tất cả bọn ông sẽ chết, vì có nhiều người đàn ông trong ốc đảo hơn bọn các ông.”
Thanh gươm vẫn giữ trong tư thế ấy. “Ngươi là ai để thay đổi những gì Allah muốn?”
“Allah tạo dựng nên những đội binh, và ngài cũng tạo nên những con chim ưng. Allah dạy tôi ngôn ngữ của loài chim. Mọi thứ đã được viết bởi một bàn tay giống nhau,” chàng trai nói, nhớ lại những lời của người chăn lạc đà.
Người lạ mặt rút thanh gươm từ trán chàng trai, và chàng trai cảm thấy một sự an lòng khôn tả. Nhưng chàng vẫn không thể trốn chạy.
“Hãy cẩn thận với những tiên đoán của ngươi,” người lạ mặt nói. “Khi những gì đã được viết, thì không có cách nào để thay đổi nó.”
“Tất cả những gì tôi thấy là một đoàn binh,” chàng trai nói. “Tôi không thấy sự xảy ra của chiến trận.”
Người lạ mặt dường như hài lòng với câu trả lời. Nhưng vẫn giữ thanh gươm trong tay. “Một người lạ mặt làm gì ở vùng đất lạ?”
“Tôi đang theo đuổi Huyền thoại Cá nhân của tôi. Nó không là những gì ông có thể hiểu.”
Người lạ mặt tra gươm vào võ, và chàng trai cảm thấy nhẹ nhỏm.
“Ta phải thử thách lòng can đảm của ngươi,” người lạ mặt trả lời.
“Can trường là phẩm chất thiết yếu nhất để hiểu Ngôn ngữ của Thế giới.”
Chàng trai ngạc nhiên. Người lạ mặt đang nói về những thứ mà rất ít người biết đến.
“Ngươi phải ngừng lại, ngay cả sau khi đã đi quá xa,” ông ta tiếp tục. “Ngươi phải yêu mến sa mạc, nhưng đừng bao giờ tin nó hoàn toàn. Bời vì sa mạc thử thách tất cả mọi người: nó thử thách từng bước chân, và giết đi những kẻ trở nên điên cuồng quẩn trí.”
Những gì ông ta nói nhắc chàng trai về vị vua già.
“Nếu những chiến binh đến đây, và đầu nhà vẫn còn trên vai lúc hoàng hôn, hãy đến và tìm ta,” người lạ mặt nói.
Bàn tay đã vung gươm giờ đây cầm roi ngựa. Con ngựa hí lên lần nữa, tung một đám mây mù của bụi.
“Ông sống ở đâu?” chàng trai hét lớn lên, khi kỵ mã phi đi.
Cánh tay với roi ngựa chỉ về hướng nam.
Chàng trai đã gặp nhà giả kim.
SÁNG HÔM SAU, CÓ HAI NGHÌN NGƯỜI VŨ TRANG RÃI RÁC dọc theo những cây chà là của Al-Fayoum. Trước khi mặt trời lên đỉnh cao của nó, năm trăm người bộ tộc xuất hiện ở chân trời. Đoàn kỵ sĩ tiến vào ốc đảo từ hướng bắc; nó xuất hiện như là một đoàn người bình thường, yên lặng, những tất cả đều giấu vũ khí trong lớp áo choàng của họ. Khi đoàn người tiến sát đến ngôi lều trắng ở trung tâm của Al-Fayoum, họ rút mã tấu và súng trường . Và họ đã tấn công một ngôi lều trống không.
Những người đàn ông của ốc đảo bao vây những kỵ mã từ sa mạc, và trong vòng nữa giờ đồng hồ, tất cả người xâm nhập đã chết, trừ một thoát thân . Những đứa trẻ con đã được giữ ở phía khu cây chà là, và không thấy những gì xảy ra. Những người đàn bà vẫn duy trì ở lều của họ, cầu nguyện cho sự an toàn của chồng, con và người thân của họ, và cũng không thấy gì về chiến trận. Những xác người không thể ở đó dưới đất, ốc đảo sẽ xuất hiện là một ngày bình thưởng của nó.
Người duy nhất thoát thân là thủ lĩnh của đám người xâm nhập. Trưa hôm ấy, hắn đã bị đem đến trước mặt những tộc trưởng, họ đã hỏi hắn tại sao hắn lại vi phạm Truyền Thống. Người thủ lĩnh nói rằng, đoàn người của hắn đã bị đói và khát, mệt mỏi sau nhiều chiến trận, và đã quyết định chiếm lấy ốc đảo để có thể trở lại chiến cuộc. Tộc trưởng nói rằng ông ta cảm thấy đáng tiếc cho đám người ấy, nhưng Truyền Thống là thiêng liêng. Ông ta lên án người thủ lĩnh và tuyên án tử hình mà không có danh dự. Thay vì bị hành quyết dưới một lưỡi gươm hay một viên đạn, hắn sẽ bị xử giảo ở một cây chà là chết, nơi xác của hắn sẽ bị quay cuồng bởi gió của sa mạc.
Tộc trưởng gọi chàng trai, và tặng chàng năm mươi miếng vàng. Ông ta nhắc lại câu chuyện về chàng Joseph của Ai Cập, và ông ta yêu cầu chàng trai trở thành cố vấn của ốc đảo.
KHI HOÀNG HÔN ĐÃ HOÀN TOÀN BUÔNG PHỦ XUỐNG SA MẠC, VÀ NGÔI SAO ĐẦU tiên xuất hiện, chàng trai bắt đầu bước chân về hướng nam. Cuối cùng chàng thấy một ngôi lều đơn độc, và một nhóm người Ả Rập đi ngàng nói với chàng rằng nó là một địa điểm cư trú của những vị thần. Nhưng chàng trai ngồi xuống và chờ đợi.
Không đợi đến khi trăng lên cao nhà giả kim đã cưỡi ngựa đến cảnh này. Ông ta mang theo hai con chim ưng chết trên vai:
“ Tôi ở đây,” chàng trai nói.
“Cậu không nên đến đây,” nhà giả kim trả lời. “Hay có phải Huyền Thoại Cá Nhân đã đem cậu đến đây?”
“Với cuộc chiến giữa những bộ tộc, không thể vượt sa mạc. Vì thế tôi ở đây.”
Nhà giả kim leo xuống ngựa, và ra hiệu chàng trai nên vào lều với ông ta. Nó giống như nhiều ngôi lều khác trong ốc đảo. Chàng trai nhìn quanh tìm những lò nung và những dụng cụ dùng trong thuật giả kim, nhưng chẳng thấy thứ gì cả. Chỉ có vài quyển sách chất chồng lên nhau, một lò nấu ăn nhỏ, và những tấm thảm, bọc ngoài với trang trí huyền bí.
“Ngồi xuống. Chúng ta sẽ có một vài thứ để uống và ăn những con chim ưng này,” nhà giả kim nói.
Chàng trai đoàn rằng chúng là những con chim ưng chàng đã thấy chúng ngày hôm trước, nhưng chàng không nói gì cả. Nhà giả kim đốt lửa lên, và chẳng bao lâu một mùi vị thực phẩm thơm tho bốc lên đầy cả lều. Nó quả là khá hơn mùi của những ống điếu hookah.
“Tại sao cụ muốn gặp tôi?” chàng trai hỏi.
“Bởi vì những điềm chỉ bảo,” nhà giả kim trả lời. “Làn gió nói với ta rằng cậu sẽ đến, và rằng cậu sẽ cần giúp đở.”
“Không phải làn gió nói. Đấy là một người ngoại quốc khác, người Anh Cát Lợi. Ông ta là người tìm kiếm cụ.”
“Ông ta có những việc khác để làm trước. Nhưng ông ta đang bước đúng trên đường. Ông ta đang cố gắng để hiểu sa mạc.”
“Và tôi thì thế nào?”
“Khi một người thật sự khao khát những gì đấy, toàn vũ trụ hiệp sức để hổ trợ người ấy hiện thực giấc mơ”, nhà giả kim nói, lập lại những lời của vị vua già. Chàng trai hiểu. Một người khác nữa ở đấy để giúp chàng đạt được Huyền Thoại Cá Nhân.
“Thế thì cụ sẽ hướng dẫn tôi chứ?”
“Không. Cậu đã biết tất cả những gì cậu cần biết rồi. Ta sẽ duy chỉ sẽ chỉ cậu phương hướng đến kho tàng của cậu.”
“Nhưng đang là chiến tranh bộ tộc,” chàng trai lập lại.
“Ta biết những gì đang xảy ra ở sa mạc.”
“Tôi đã tìm ra kho tàng của tôi. Tôi có một con lạc đà, tôi có tiền từ cửa hàng pha lê, và tôi có năm mươi miếng vàng. Ở xứ sở tôi, tôi sẽ là một người giàu có.”
“Nhưng không có thứ nào từ Kim Tự Tháp cả,” nhà giả kim nói.
“Tôi cũng có Fatima. Nàng là một kho tàng hơn hẳn bất cứ thứ gì khác mà tôi có.”
“Cô bé ấy cũng không phải được tìm từ Kim Tự Tháp.”
Họ ăn trong im lặng. Nhà giả kim mở một lọ nhỏ và đổ ra một dung dịch đỏ vào trong cốc chàng trai. Nó là một loại rượu vang tuyệt vời nhất mà chàng nếm được từ trước đến nay.
‘’Không phải rượu vang bị cấm ở đây sao?” chàng trai hỏi.
“Không phải những gì vào miệng của người là xấu,” nhà giả kim nói. “Những gì phát ra từ miệng con người mới là thế.”
Nhà giả kim như đang dọa dẫm một tí, nhưng, khi chàng trai đã uống rượu vang, chàng cảm thấy thoải mái. Sau khi họ ăn uống xong, họ ngồi phía ngoài lều, dưới ánh trăng sáng rực làm những ánh sao mờ nhạt đi.
“Uống rượu và sung sướng,’’ nhà giả kim nói, chú ý thấy chàng trai vui vẻ hơn. “Nghĩ ngơi khỏe đêm nay, như thể cậu là một chiến binh chuẩn bị ra chiến trận. Nhớ là trái tim cậu ở bất cứ nơi nào, nơi ấy cậu sẽ tìm thấy kho tàng của cậu, thế là những gì cậu đã học trên những chặng đường có thể làm nên ý nghĩa.
“Ngày mai, bán con lạc đà và mua một con ngựa. Lạc đà là những kẻ phản bội: chúng bước đi hàng nghìn bước và chẳng bao giờ tỏ vẻ mệt mỏi. Nhưng đột nhiên, chúng quỵ xuống và chết. Nhưng những con ngựa mệt từng chút một. Cậu luôn luôn biết có thể yêu cầu chúng ở mức độ nào, và đến đúng mức thì chúng chết.
TỐI NGÀY HÔM SAU, CHÀNG TRAI XUẤT HIỆN TẠI LỀU CUẢ NHÀ GIẢ KIM VỚI MỘT CON ngựa. Nhà giả kim đã sẵn sàng, ông ta leo lên chiến mã, và đặt một con chim ưng trên vai trái ông ta. Ông ta nói với chàng trai rằng, “Hãy chỉ cho ta nơi nào có sự sống trên sa mạc. Chỉ những ai có thê thấy những dấu hiệu như thế của đời sống mới có thể tìm thấy kho tàng.”
Họ bắt đầu cởi ngửa lướt trên cát, với ánh trăng soi tỏ con đường. Mình không biết mình có thể itmf đời sống trên sa mạc không, chàng trai nghĩ. Mình chưa biết rõ sa mạc đến như thế.
Chàng muốn nói như thế bới nhà giả kim, nhưng chàng sợ ông cụ. Họ đến một vùng núi đá nơi chàng trai từng thấy những con chim ưng trên bầu trời, những bây giờ chỉ có sự lặng yên và gió vi vu.
“Tôi không biết tìm đời sống trên sa mạc,” chàng trai nói. “Tôi biết có đời sống ở đây, nhưng tôi không biết tìm ở đâu.”
“Đời sống hấp dẫn đời sống,” nhà giả kim trả lời.
Và thế là chàng trai đã hiểu. Chàng buông thõng dây cương, con ngựa phi nước đại lướt trên sỏi đá và cát. Nhà giả kim theo chàng trai khi ngựa chàng trai cất vó gần nửa tiếng đồng hồ. Họ không thể thấy những hàng chà là của ốc đảo – chỉ có ánh trăng khổng lồ phía trên họ, và nó lấp lánh chiếu trên những hòn sỏi đá của sa mạc. Đột nhiên, không biết lý do gì, con ngựa của chàng trai bắt đầu chậm lại.
“Có sự sống ở đây”, Santiago nói với nhà giả kim. “Tôi không biết ngôn ngữ của sa mạc, nhưng con ngựa của tôi biết ngôn ngữ của sự sống.”
Họ xuống ngựa, nhưng nhà giả kim cũng không nói gì. Họ cất bước một cách chậm chạp, và tìm kiếm nơi những hòn đá. Nhà giả kim dừng lại đột ngột, và cúi xuống đất. Có một cái lổ ở đó giữa những hòn đá. Nhà giả kim đưa tay vào lỗ, và rồi thì cả cánh tay ông ta, tận đến vai. Có cái gì chuyển động ở đấy, và mắt nhà giả kim - Santiago chỉ có thể thấy mắt ông ta – nheo lại với tác động của ông. Cánh tay ông dường như đang chiến đấu với bất cứ thứ gì trong hang. Rồi thì với một động tác làm cậu ta giật mình, ông rút tay ra và nhảy xuống chân. Trong tay, ông ta nắm đuôi một con rắn.
Santiago cũng nhảy, nhưng nhảy ra xa nhà giả kim. Con rắn uốn éo mãnh liệt điên cuồng, rít lên những âm thanh làm tan vở sự yên lặng của sa mạc. Nó là một con rắn hoo hổ mang, mà nọc độc của nó thể giết chết một người trong vài phút.
“Coi chừng nọc độc cuả nó,” Santiago nói. Nhưng mặc dù, nhà giả kim đã đưa tay vào hang, và chắc chắn đã bị nó cắn, những ông ta vẫn thản nhiên. “Ông cụ này đã hai trăm tuổi,” người Anh Cát Lợi từng nói với chàng trai. Ông ta phải biết đối phó với những con rắn của sa mạc.
Santiago nhìn người đồng hành của mình đi đến con ngựa của ông và rút ra một thanh mã tấu. Ông ta vẽ một vòng tròn bằng lưỡi của mã tấu trên cát, và rồi thì đặt con rắn trong vòng ấy. Con rắn lập tức ngừng nghĩ.
“Không phải lo lắng,” nhà giả kim nói. “Hắn sẽ không rời vòng tròn. Cậu tìm thấy sự sống ở sa mạc, điềm chỉ dẫn mà ta cần.”
“Tại sao điều ấy lại quá quan trọng?”
“Bởi vì những Kim Tự Tháp được bao quanh bởi sa mạc.”
Santiago không muốn nói về những Kim Tự Tháp. Trái tim của cậu nặng nề, và cậu ta đã phiền muộn từ đêm trước. Để tìm kiếm kho tàng, cậu ta phải từ bỏ Fatima.
"Tôi sẽ hướng dẫn cậu vượt qua sa mạc," nhà giả kim nói.
"Tôi sẽ ở lại ốc đảo," Santiago trả lời. "Tôi đã tìm thấy Fatima, và xa hơn thế nữa là tôi quan tâm, nàng giá trị hơn cả kho tàng."
"Fatima là một cô gái của sa mạc," nhà giả kim nói. "Cô ấy biết rằng những người đàn ông phải ra đi để mà trở lại. Và cô ta đã có kho tàng của cô ta rồi: nó là cậu. Bây giờ cô ấy dự tính rằng cậu phải tìm ra những gì cậu đang tìm kiếm."
"Ô, nếu tôi quyết định ở lại thì thế nào?"
"Để ta nói cho cậu biết những gì sẽ xãy ra. Cậu sẽ là cố vấn của ốc đảo. Cậu có đủ tiền để mua nhiều cừu và nhiều lạc đà. Cậu sẽ kết hôn với Fatima, và cả hai sẽ hạnh phúc một năm. Cậu sẽ học để yêu mến sa mạc, và cậu sẽ biết từng cây một trong năm mươi nghìn cây chà là. Cậu sẽ nhìn chúng lớn lên, chứng tỏ thế giới luôn luôn thay đổi thế nào. Và cậu sẽ ngày càng thông hiều hơn về những điềm chỉ dẫn, bởi vì sa mạc là một vị thầy tuyệt vời nhất có thể có.
"Một lúc nào đấy trong năm thứ hai, cậu lại nhớ đến kho tàng. Những điềm chỉ dẫn sẽ bắt đầu lập đi lập lại để nói về nó, và cậu sẽ cố gắng để lẫn tránh nó. Cậu sẽ dùng kiến thức của cậu cho lợi ích của ốc đảo và cư dân của nó. Tộc trưởng sẽ cảm kích những gì cậu làm. Và những con lạc đà sẽ mang đến cho cậu sự giàu sang và quyền lực.
"Trong năm thứ ba, những điềm chỉ dẫn sẽ tiếp tục nhắc nhở về kho tàng và Huyền Thoại Cá Nhân của cậu. Cậu sẽ bách bộ vòng quanh đêm này sang đêm khác ở ốc đảo, và Fatima sẽ không hạnh phúc vì cô ta cảm thấy quả cô ta là người đã làm gián đoạn mục tiêu của cậu. Nhưng cậu sẽ yêu cô ta, và cô ta đáp lại tình yêu của cậu. Cậu sẽ nhớ rằng cô ta không hề đòi hỏi cậu ở lại, bởi vì một người đàn bà của sa mạc biết rằng người ấy phải đợi chờ người đàn ông của bà ta. Vì thế cậu không phiền trách cô ta. Nhưng nhiều lần cậu sẽ bước chân trên của sa mạc, nghĩ rằng có thể cậu sẽ rời...rằng cậu có thể tin tưởng hơn trong tình yêu của cậu dành cho Fatima. Bởi vì những gì giữ cậu ở lại ốc đảo là sự lo sợ rằng cậu sẽ không bao giờ trở lại. Lúc ấy, những điềm chỉ dẫn sẽ nói với cậu rằng kho tàng của cậu sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn.
"Thế rồi, một lúc nào đấy trong năm thứ tư, những điềm chỉ dẫn sẽ từ bỏ cậu, bởi vì cậu đã không còn để ý và nghe theo chúng. Tộc trưởng sẽ thấy điều ấy, và cậu sẽ bị mất đi vị trí của một vị cố vấn. Nhưng cùng lúc ấy, cậu đã là một thương gia giàu có, với rắt nhiều lạc đà và một sự thương mãi đồ sộ. Cậu sẽ dành trọn cuộc đời còn lại của cậu biết rằng cậu đã không theo đuổi Huyền Thoại Cá Nhân của cậu, và lúc bấy giờ thì cũng đã quá muộn.
"Cậu phải biết rằng tình yêu chẳng bao giờ nắm giữ và làm gián đoạn một người theo đuổi Huyền Thoại Cá Nhân của ai. Nếu người ấy từ bỏ mục tiêu theo đuổi, chỉ bởi vì đó không phải là tình yêu chân chính...tình yêu nói lên Ngôn Ngữ của Thế Giới."
Nhà giả kim xóa vòng tròn trên cát và con rắn trườn di theo những hòn đá. Santiago nhớ lại ông già pha lê người luôn luôn muốn đi Mecca, và người Anh Cát Lợi trong việc tìm kiếm nhà giả kim. Cậu ta nghĩ về người đàn bà tin tưởng nơi sa mạc. Và cậu nhìn về sa mạc mà đã mang đến cho cậu người đàn bà cậu yêu thương.
Họ leo lên lưng ngựa, và lần này Santiago cưỡi ngựa theo ông cụ về ốc đảo. Làn gió mang những âm thinh của ốc đảo đến với họ, và Santiago cố gắng để nghe giọng của Fatima.
Nhưng tối hôm ấy, khi Santiago nhìn con rắn hổ mang trong vòng tròn, người kỵ mã lạ lùng với con chim ưng trên vai đã nói về tình yêu và kho tàng, về người con gái của sa mạc và về Huyền Thoại Cá Nhân của cậu ta.
"Tôi sẽ đi với cụ", Santiago nói. Và cậu ta cảm thấy sự yên bình trong tim mình lập tức.
"Chúng ta sẽ lên đường sáng mai trước khi mặt trời mọc," nhà giả kim chỉ trả lời thế thôi.
SANTIAGO ĐÃ TRẢI QUA MỘT ĐÊM KHÔNG NGỦ. HAI GIỜ ĐỒNG HỒ TRƯỚC KHI MẶT trời mọc, cậu ta đánh thức những chàng trai ngủ cùng lều, và hỏi họ chỉ nơi Fatima ở. Họ đến lều của Fatima, và Santiago cho những người bạn của mình một số vàng đủ để mua cừu nuôi.
Rồi cậu ta yêu cầu một người bạn vào trong lều của cô nàng đang ngủ, đánh thức cô ta dậy và nói với cô rằng Santiago đang chờ cô ta bên ngoài. Chàng trai trẻ Ả Rập làm theo lời yêu cầu và chàng ta được cho một số vàng để mua một con cừu khác nữa.
“Bây giờ để chúng tôi một mình,” Santiago nói như thế. Chàng trai Ả Rập trở lại lều ngủ tiếp, tự hào rằng anh ta đã làm được việc cho cố vấn của ốc đảo, và vui vẻ vì có đủ tiền để mua một số con cừu.
Fatima xuất hiện ở cửa lều. Hai người thả bộ theo những hàng cây chà là. Santiago biết như thế là vi phạm Truyền Thống, những điều đó chẳng quan trọng đối với chàng bây giờ.
“Tôi sẽ đi xa,” Santiago nói. “Và tôi muốn nàng biết rằng tôi sẽ trở lại. Tôi yêu nàng bởi vì…”
“Đừng nói gì cả,” Fatima ngăn lại. “Một người được yêu bởi vì người ấy được yêu. Không có lý do đòi hỏi cho tình yêu.”
Nhưng Santiago tiếp tục, “Tôi có một giấc mơ, và tôi đã gặp một vị vua. Tôi đã bán pha lê và băng qua sa mạc. Và, bởi vì các bộ tộc tuyên bố chiến tranh, Tôi đã đến giếng nước, tìm kiếm nhà giả kim. Thế nên, tôi yêu nàng vì toàn thể vũ trụ đã hiệp sức giúp tôi tìm ra nàng.”
Hai người ôm nhau. Đây là lần đầu tiên cả hai chạm thân thể vào nhau.
“Tôi sẽ trở lại,” Santiago nói.
“Trước đây, tôi luôn luôn nhìn vào sa mạc với lòng khao khát mong đợi,” Fatima nói. “Bây giờ nó sẽ là hy vọng. Bố tôi đã ra đi vào một ngày, nhưng ông ta trở lại với mẹ tôi, và ông ta luôn luôn trở lại từ lúc ấy.”
Họ không nói gì nữa. Họ đi bộ xa hơn tí nữa theo những cây chà là, và rồi thì Fatima chia tay Fatima trước cửa vào của lều nàng.
“Tôi sẽ trở lại giống như bố nàng đã trở lại với mẹ nàng,” cậu ta nói.
Cậu ta đã thấy trong mắt Fatima ngấn lệ.
“Nàng đang khóc?”
“Tôi là một cô gái sa mạc,” nàng nói, trong khi ngoảnh mặt đi. “Nhưng trên tất cả, tôi là một phụ nữ.”
Fatima trở vào lều, khi ánh sáng ban ngày lan đến, cô nàng đi làm những việc thường ngày mà nàng đã làm qua bao năm này. Nhưng mọi thứ đã thay đổi. Chàng trai không còn ở ốc đảo nữa, và ốc đảo sẽ không bao giờ cùng ý nghĩa mà nó có mới ngày hôm qua. Nó không còn là một nơi với năm mươi nghìn cây chà là, và ba trăm giếng nước, nơi mà những người hành hương đến nghĩ ngơi sau những chuyến du hành dài đăng đẳng. Từ ngày hôm ấy trở đi, ốc đảo sẽ là một nơi trống trải với nàng.
Từ ngày hôm ấy trở đi, sa mạc sẽ là quan trọng. Nàng sẽ nhìn nó mỗi ngày, và sẽ cố đoán rằng ngôi sao nào Santiago đang đi theo để tìm ra kho tàng của cậu. Nàng sẽ gởi nụ hôn của nàng theo làn gió, hy vọng làn gió sẽ chạm và mặt Santiago, và nói với cậu ta là nàng vẫn sống. Đấy là nàng chờ đợi Santiago, một người đàn bà chờ đợi một người đàn ông can đảm đi tìm kho tàng của ông ta. Từ ngày hôm ấy trở đi, sa mạc sẽ chỉ đại diện cho một điều với nàng: hy vọng cho sự trở lại của người nàng yêu.
"Tôi muốn gặp tộc trưởng. Tôi đem đến một điềm chỉ bảo của sa mạc."
Không trả lời, người gác cổng đi vào lều, nơi chàng đã đến một vài lần. Khi ông ta đi ra, đấy là người Ả Rập trẻ, mặc đồ trắng và vàng kim. Chàng trai nói với người trẻ tuổi ấy những gì chàng thấy, người đàn ông yêu cầu chàng chờ đợi ở đấy. Anh ta biến mất trong lều.
Màn đêm buông xuống, và một đội ngủ phân hạng những chiến binh và thương gia vào và ra lều. Những đám lửa được dập tắt từng đống một, và ốc đảo chìm trong yên lặng như sa mạc. Chỉ có những ngọn lữa trong ngôi lều to lớn được duy trì. Cùng trong thời gian ấy, chàng trai nghĩ về Fatima, và chàng vẫn không hiểu mẫu đối thoại sau cùng với nàng.
Cuối cùng, sau hàng giờ chờ đợi, người gác cổng đưa chàng vào. Chàng trai lấy làm ngạc nhiên những gì chàng thấy trong lều. Chẳng bao giờ chàng có thể tưởng tượng rằng, giữa sa mạc, lại có thể hiện hữu một ngôi lều to lớn vĩ đại như thế này. Trên nền được bao phủ với những tấm thảm đẹp nhất mà chàng có bao giờ đặt chân lên, và từ trên đỉnh của lều treo những chiếc đèn bằng vàng chạm trổ, và mỗi chiếc được thắp sáng bằng những ngọn nến. Người tộc trưởng ngồi phía sau của lều trong một bán nguyệt, ngã lưng trên những chiếc gối thêu bạc trưởng giả. Những người hầu hạ đến và đi với những chiếc mâm bạc chất đầy những gia vị và trà. Những người phục vụ khác duy trì lửa trong những ống điếu hookah. Không khí ngập tràn với làn hương thơm ngọt ngào của khói thuốc.
Có cả thảy tám người tộc trưởng, nhưng chàng trai có thể thấy ngay những ai trong họ là quan trọng nhất: một người Ả Rập ăn mặc trong đồ vàng kim và trắng, ngồi tại trung tâm của vòng bán nguyệt. Và bên cạnh ông ta là anh chàng Ả Rập trẻ tuổi mà chàng trai đã nói chuyện trước đấy.
"Ai là người lạ mặt đã nói về những điềm chỉ bảo? một trong những người tộc trưởng hỏi, nhìn về chàng trai.
"Đấy là tôi," chàng trai trả lời. Và chàng kể lại những gì chàng đã thấy.
"Tại sao sa mạc lại hé mở những điều như thế cho một người lạ, khi nó biết rằng chúng ta đã ở đây bao nhiêu thế hệ rồi?" một người tộc trưởng khác nói.
""Bởi vì đôi mắt tôi chưa quen với sa mạc," chàng trai trả lời. "Tôi có thể thấy những điều mà những cặp mắt quen thuộc với sa mạc không thể thấy."
Và cũng bởi vì mình biết về Tâm Linh của Thế Giới, chàng tự nghĩ.
"Ốc đảo là vùng đất trung lập. Không ai tấn công một ốc đảo," tộc trưởng thứ ba nói.
"Tôi chỉ có thể nói với các ông những điều tôi thấy. Nếu các ông không tin tôi, thì các ông không phải làm gì về nó cả."
Những người đàn ông rơi vào sự bàn tán sôi nổi. Họ nói bằng một phương ngữ Ả Rập mà chàng trai không thể hiểu, nhưng khi chàng định rời đi, người lính gác bảo chàng ở lại. Chàng trai trở nên sợ hải; những điềm chỉ bảo nói với chàng những gì không đúng. Chàng hối hận vì đã nói cho anh chàng chăn lạc đà về những gì chàng thấy trên sa mạc.
Bổng nhiên, vị trưởng lão tại trung tâm mĩm cười tế nhị, và chàng trai cảm thấy dễ chịu hơn. Ông ta không tham dự vào bàn thảo, và, thực tế, không nói một lời nào cho đến lúc ấy. Nhưng chàng trai đã dùng Ngôn Ngữ của Thế Giới, chàng cảm nhận làn sóng của hòa bình lan tỏa trong lều. Giờ đây trực giác của chàng là chàng đã đúng khi đến đây.
Cuộc bàn thảo chấm dứt. Những tộc trưởng im lặng trong một lúc khi họ nghe những gì vị trưỡng lão nói. Rồi thì họ trở lại với chàng trai: lần này lời tuyên bố của ông ta thì lạnh lẽo và xa xăm.
"Hai nghìn năm trước, trong một vùng đất xa xôi, một người đàn ông tin tưởng vào những giấc mộng bị ném vào trong một hầm tối và rồi thì bị bán làm nô lệ," ông lão nói, bây giờ trong phương ngữ chàng trai có thể hiểu. "Những người thương gia của chúng ta mua người đàn ông ấy, và mang ông ta đến Ai Cập. Tất cả chúng tôi biết rằng bất cứ ai tin tưởng ở những giấc mơ cũng biết diễn dịch chúng thế nào."
Trưỡng lão nói tiếp, "Khi pharaoh -vua Ai Cập- mơ về những con bò, ông ta ốm và những con bò thì mập, người đàn ông này nói về việc cứu Ai Cập khỏi nạn đói. Tên ông ta là Joseph. Ông ta cũng là một người lạ trên vùng đất lạ, như cậu, và ông ta cũng bằng tuổi cở cậu."
Ông ta dừng lại, và đôi mắt ông vẫn không thân thiện.
"Chúng tôi luôn luôn quán sát Truyền thống. Truyền thống đã cứu Ai Cập khỏi nạn đói những ngày ấy, và làm cho những người Ai Cập thành những người giàu có. Truyền thống dạy những người đàn ông vượt qua sa mạc như thế nào, và con cái của họ phải kết hôn như thế nào. Truyền thống nói rằng ốc đảo là một vùng trung lập, bởi vì cả đôi bên đều có ốc đảo, và vì thế cả đôi bên có chỗ nhược, có thể bị công kích.
Không ai nói một lời nào khi ông lão tiếp tục.
"Nhưng Truyền thống cũng nói rằng chúng ta nên tin tưởng những thông điệp của sa mạc. Mọi thứ chúng ta biết đều được dạy bởi sa mạc."
Trưởng lão ra dấu hiệu, và mọi người đều đứng dậy. Buổi họp mặt chấm dứt. Những ống điếu hookah được dập tắt, và những người gác đứng lên trong sự chú ý. Chàng trai chuẩn bị rời đi, nhưng ông lão nói lại lần nữa:
"Ngày mai, chúng tôi sẽ xé bỏ thỏa ước nói rằng không ai tại ốc đảo có thể mang vũ khí. Trọn cả ngày chúng tôi sẽ đề phòng kẻ thù của chúng tôi. Khi hoàng hôn, mọi người một lần nữa sẽ nộp lại vũ khí cho tôi. Cho mỗi mười người của kẻ thù chết đi, cậu sẽ nhận một miếng vàng.
“Nhưng vũ khí không thể được mang ngoại trừ họ cũng dự vào chiến trận. Vũ khí cũng quái dị như sa mạc, và, nếu chúng không được sử dụng, lần kế tiếp chúng có thể không hoạt động. Nếu ít nhất một vũ khí không được sử dụng cho đến cuối ngày mai, một thứ vũ khí sẽ được sử dụng cho cậu.”
Khi chàng trai rời lều, ốc đảo chỉ được chiếu soi bởi ánh sáng của mặt trăng. Chàng có hai mươi phút về lều mình, và chàng bắt đầu hướng về đấy.
Chàng đã được cảnh báo bởi những gì xảy ra. Chàng đã thành công để tiếp xúc với Tâm Linh của Thế Giới, và giờ đây cái giá cho việc này có thể là mạng sống của chàng. Thật là một cuộc đánh cược đáng sợ. Những chàng đang làm một cú liều lĩnh kể từ khi chàng bán đàn cừu hầu nhắm mục tiêu đạt đến “huyền thoại cá nhân”. Và, như anh chàng chăn lạc đà đã nói, để chết trong ngày mai, chẳng có gì tệ hơn để chết trong những ngày khác. Mỗi ngày thì ở đấy để sống hay đánh dấu sự khởi hành của ai đấy trong thế giới này. Mọi thứ tùy thuộc vào một chữ: “Maktub.”
Thả bộ trong yên lặng, chàng chẳng có gì hối hận. Nếu chàng chết ngày mai, nó là bởi vì Tạo Hóa sẽ không muốn thay đổi tương lai. Chàng có thể chết ít nhất cũng đã sau khi vượt qua eo biển, sau khi làm việc trong cửa hàng pha lê, sau khi đã biết sự yên lặng của sa mạc và đôi mắt của Fatima. Chàng đã sống mỗi ngày trong đời mình tự hào, nhiệt tình, sôi nổi kể từ khi chàng rời nhà đã lâu lắm rồi. Nếu chàng chết ngày mai, chàng đã thấy rồi những gì hơn là những con cừu, và chàng tự hào về việc ấy.
Đột nhiên chàng nghe tiếng sấm, chàng bị cuốn ngã xuống đất bởi một làn gió mà chàng chưa bao giờ biết như thế. Chỗ ấy bị xoáy đi trong cát bụi thật mãnh liệt làm mờ đi ánh trăng. Trước mặt chàng là một con ngựa trắng to lớn, chồm lên trên chàng ta với một tiếng thét sợ hải.
Khi bụi mù đã lắng đọng xuống một ít, chàng trai rùng mình trước những gì chàng thấy. Trên lưng con thú là một kỵ mã ăn mặc đen tuyền, với một con ó đứng trên vai trái ông ta. Ông đội một vành khăn xếp và mặt che phủ toàn bộ, trừ đôi mắt, với một khăn tay đen. Ông ta xuất hiện là một thông điệp của sa mạc, nhưng sự hiện diện của ông ta thật mạnh mẽ hơn nhiều so với chỉ một thông điệp đơn thuần.
Người kỵ mã lạ mặt rút ra một thanh gươm to và cong từ võ gươm treo trên yên ngựa. Thép của lưỡi gươm lấp lánh dưới ánh trăng.
“Ai dám đọc ý nghĩa của cánh chim ưng bay?” ông ta đòi hỏi, rất lớn tiếng và lời của ông ta dường như vang dội xuyên qua năm mươi nghìn cây chà là của Al-Fayoum.
“Nó là tôi, người dám làm như thế,” chàng trai nói. Chàng nhớ lại hình ảnh của Santiago Matamoro, trèo lên con ngựa trắng của anh ta, với những người không tín ngưỡng dưới móng chân của nó. Người đàn ông này thật giống y chang như thế, ngoại trừ vai trò bây giờ ngược lại.
“Nó là tôi, người dám làm như thế,” chàng trai lập lại, và chàng cúi đầu để nhận làn gió từ thanh gươm. “Biết bao mạng sống sẽ được cứu, bời vì mình có thể thấy qua Tâm Linh của Thế Giới.”
Thanh gươm không hạ xuống. Thay vì thế, người lạ hạ nó một cách chậm chạp, cho đến khi điểm trúng trán của chàng trai. Nó trích ra một giọt máu nhỏ.
Người kỵ mã hoàn toàn bất động, chàng trai cũng thế. Nó chẳng thể làm cho chàng trai ngay cả trốn chạy. Trong tim chàng, chàng cảm thấy một cảm giác mạnh mẽ của sung sướng: chàng đang chờ chết cho mục tiêu của Huyền thoại Cá nhân. Và cho Fatima. Những điềm chỉ bảo đã đúng thật, cuối cùng. Ở đây, chàng đang mặt đối mặt với kẻ thù, những không cần thiết để lưu tâm về cái chết - Tâm Linh của Thế Giới đang chờ đợi chàng, và chàng sẽ là một phần của nó. Và ngày mai, kẻ thù của chàng cũng sẽ là một phần của Tâm linh ấy.
Người lạ mặt tiếp tục dí thanh gươm vào trán chàng trai. “Tại sao ngươi lại đọc ý nghĩa những cánh chim bay?”
“Tôi đọc chỉ vì những con chim muốn nói với tôi. Chúng muốn tôi cứu ốc đảo. Ngày mai, tất cả bọn ông sẽ chết, vì có nhiều người đàn ông trong ốc đảo hơn bọn các ông.”
Thanh gươm vẫn giữ trong tư thế ấy. “Ngươi là ai để thay đổi những gì Allah muốn?”
“Allah tạo dựng nên những đội binh, và ngài cũng tạo nên những con chim ưng. Allah dạy tôi ngôn ngữ của loài chim. Mọi thứ đã được viết bởi một bàn tay giống nhau,” chàng trai nói, nhớ lại những lời của người chăn lạc đà.
Người lạ mặt rút thanh gươm từ trán chàng trai, và chàng trai cảm thấy một sự an lòng khôn tả. Nhưng chàng vẫn không thể trốn chạy.
“Hãy cẩn thận với những tiên đoán của ngươi,” người lạ mặt nói. “Khi những gì đã được viết, thì không có cách nào để thay đổi nó.”
“Tất cả những gì tôi thấy là một đoàn binh,” chàng trai nói. “Tôi không thấy sự xảy ra của chiến trận.”
Người lạ mặt dường như hài lòng với câu trả lời. Nhưng vẫn giữ thanh gươm trong tay. “Một người lạ mặt làm gì ở vùng đất lạ?”
“Tôi đang theo đuổi Huyền thoại Cá nhân của tôi. Nó không là những gì ông có thể hiểu.”
Người lạ mặt tra gươm vào võ, và chàng trai cảm thấy nhẹ nhỏm.
“Ta phải thử thách lòng can đảm của ngươi,” người lạ mặt trả lời.
“Can trường là phẩm chất thiết yếu nhất để hiểu Ngôn ngữ của Thế giới.”
Chàng trai ngạc nhiên. Người lạ mặt đang nói về những thứ mà rất ít người biết đến.
“Ngươi phải ngừng lại, ngay cả sau khi đã đi quá xa,” ông ta tiếp tục. “Ngươi phải yêu mến sa mạc, nhưng đừng bao giờ tin nó hoàn toàn. Bời vì sa mạc thử thách tất cả mọi người: nó thử thách từng bước chân, và giết đi những kẻ trở nên điên cuồng quẩn trí.”
Những gì ông ta nói nhắc chàng trai về vị vua già.
“Nếu những chiến binh đến đây, và đầu nhà vẫn còn trên vai lúc hoàng hôn, hãy đến và tìm ta,” người lạ mặt nói.
Bàn tay đã vung gươm giờ đây cầm roi ngựa. Con ngựa hí lên lần nữa, tung một đám mây mù của bụi.
“Ông sống ở đâu?” chàng trai hét lớn lên, khi kỵ mã phi đi.
Cánh tay với roi ngựa chỉ về hướng nam.
Chàng trai đã gặp nhà giả kim.
SÁNG HÔM SAU, CÓ HAI NGHÌN NGƯỜI VŨ TRANG RÃI RÁC dọc theo những cây chà là của Al-Fayoum. Trước khi mặt trời lên đỉnh cao của nó, năm trăm người bộ tộc xuất hiện ở chân trời. Đoàn kỵ sĩ tiến vào ốc đảo từ hướng bắc; nó xuất hiện như là một đoàn người bình thường, yên lặng, những tất cả đều giấu vũ khí trong lớp áo choàng của họ. Khi đoàn người tiến sát đến ngôi lều trắng ở trung tâm của Al-Fayoum, họ rút mã tấu và súng trường . Và họ đã tấn công một ngôi lều trống không.
Những người đàn ông của ốc đảo bao vây những kỵ mã từ sa mạc, và trong vòng nữa giờ đồng hồ, tất cả người xâm nhập đã chết, trừ một thoát thân . Những đứa trẻ con đã được giữ ở phía khu cây chà là, và không thấy những gì xảy ra. Những người đàn bà vẫn duy trì ở lều của họ, cầu nguyện cho sự an toàn của chồng, con và người thân của họ, và cũng không thấy gì về chiến trận. Những xác người không thể ở đó dưới đất, ốc đảo sẽ xuất hiện là một ngày bình thưởng của nó.
Người duy nhất thoát thân là thủ lĩnh của đám người xâm nhập. Trưa hôm ấy, hắn đã bị đem đến trước mặt những tộc trưởng, họ đã hỏi hắn tại sao hắn lại vi phạm Truyền Thống. Người thủ lĩnh nói rằng, đoàn người của hắn đã bị đói và khát, mệt mỏi sau nhiều chiến trận, và đã quyết định chiếm lấy ốc đảo để có thể trở lại chiến cuộc. Tộc trưởng nói rằng ông ta cảm thấy đáng tiếc cho đám người ấy, nhưng Truyền Thống là thiêng liêng. Ông ta lên án người thủ lĩnh và tuyên án tử hình mà không có danh dự. Thay vì bị hành quyết dưới một lưỡi gươm hay một viên đạn, hắn sẽ bị xử giảo ở một cây chà là chết, nơi xác của hắn sẽ bị quay cuồng bởi gió của sa mạc.
Tộc trưởng gọi chàng trai, và tặng chàng năm mươi miếng vàng. Ông ta nhắc lại câu chuyện về chàng Joseph của Ai Cập, và ông ta yêu cầu chàng trai trở thành cố vấn của ốc đảo.
KHI HOÀNG HÔN ĐÃ HOÀN TOÀN BUÔNG PHỦ XUỐNG SA MẠC, VÀ NGÔI SAO ĐẦU tiên xuất hiện, chàng trai bắt đầu bước chân về hướng nam. Cuối cùng chàng thấy một ngôi lều đơn độc, và một nhóm người Ả Rập đi ngàng nói với chàng rằng nó là một địa điểm cư trú của những vị thần. Nhưng chàng trai ngồi xuống và chờ đợi.
Không đợi đến khi trăng lên cao nhà giả kim đã cưỡi ngựa đến cảnh này. Ông ta mang theo hai con chim ưng chết trên vai:
“ Tôi ở đây,” chàng trai nói.
“Cậu không nên đến đây,” nhà giả kim trả lời. “Hay có phải Huyền Thoại Cá Nhân đã đem cậu đến đây?”
“Với cuộc chiến giữa những bộ tộc, không thể vượt sa mạc. Vì thế tôi ở đây.”
Nhà giả kim leo xuống ngựa, và ra hiệu chàng trai nên vào lều với ông ta. Nó giống như nhiều ngôi lều khác trong ốc đảo. Chàng trai nhìn quanh tìm những lò nung và những dụng cụ dùng trong thuật giả kim, nhưng chẳng thấy thứ gì cả. Chỉ có vài quyển sách chất chồng lên nhau, một lò nấu ăn nhỏ, và những tấm thảm, bọc ngoài với trang trí huyền bí.
“Ngồi xuống. Chúng ta sẽ có một vài thứ để uống và ăn những con chim ưng này,” nhà giả kim nói.
Chàng trai đoàn rằng chúng là những con chim ưng chàng đã thấy chúng ngày hôm trước, nhưng chàng không nói gì cả. Nhà giả kim đốt lửa lên, và chẳng bao lâu một mùi vị thực phẩm thơm tho bốc lên đầy cả lều. Nó quả là khá hơn mùi của những ống điếu hookah.
“Tại sao cụ muốn gặp tôi?” chàng trai hỏi.
“Bởi vì những điềm chỉ bảo,” nhà giả kim trả lời. “Làn gió nói với ta rằng cậu sẽ đến, và rằng cậu sẽ cần giúp đở.”
“Không phải làn gió nói. Đấy là một người ngoại quốc khác, người Anh Cát Lợi. Ông ta là người tìm kiếm cụ.”
“Ông ta có những việc khác để làm trước. Nhưng ông ta đang bước đúng trên đường. Ông ta đang cố gắng để hiểu sa mạc.”
“Và tôi thì thế nào?”
“Khi một người thật sự khao khát những gì đấy, toàn vũ trụ hiệp sức để hổ trợ người ấy hiện thực giấc mơ”, nhà giả kim nói, lập lại những lời của vị vua già. Chàng trai hiểu. Một người khác nữa ở đấy để giúp chàng đạt được Huyền Thoại Cá Nhân.
“Thế thì cụ sẽ hướng dẫn tôi chứ?”
“Không. Cậu đã biết tất cả những gì cậu cần biết rồi. Ta sẽ duy chỉ sẽ chỉ cậu phương hướng đến kho tàng của cậu.”
“Nhưng đang là chiến tranh bộ tộc,” chàng trai lập lại.
“Ta biết những gì đang xảy ra ở sa mạc.”
“Tôi đã tìm ra kho tàng của tôi. Tôi có một con lạc đà, tôi có tiền từ cửa hàng pha lê, và tôi có năm mươi miếng vàng. Ở xứ sở tôi, tôi sẽ là một người giàu có.”
“Nhưng không có thứ nào từ Kim Tự Tháp cả,” nhà giả kim nói.
“Tôi cũng có Fatima. Nàng là một kho tàng hơn hẳn bất cứ thứ gì khác mà tôi có.”
“Cô bé ấy cũng không phải được tìm từ Kim Tự Tháp.”
Họ ăn trong im lặng. Nhà giả kim mở một lọ nhỏ và đổ ra một dung dịch đỏ vào trong cốc chàng trai. Nó là một loại rượu vang tuyệt vời nhất mà chàng nếm được từ trước đến nay.
‘’Không phải rượu vang bị cấm ở đây sao?” chàng trai hỏi.
“Không phải những gì vào miệng của người là xấu,” nhà giả kim nói. “Những gì phát ra từ miệng con người mới là thế.”
Nhà giả kim như đang dọa dẫm một tí, nhưng, khi chàng trai đã uống rượu vang, chàng cảm thấy thoải mái. Sau khi họ ăn uống xong, họ ngồi phía ngoài lều, dưới ánh trăng sáng rực làm những ánh sao mờ nhạt đi.
“Uống rượu và sung sướng,’’ nhà giả kim nói, chú ý thấy chàng trai vui vẻ hơn. “Nghĩ ngơi khỏe đêm nay, như thể cậu là một chiến binh chuẩn bị ra chiến trận. Nhớ là trái tim cậu ở bất cứ nơi nào, nơi ấy cậu sẽ tìm thấy kho tàng của cậu, thế là những gì cậu đã học trên những chặng đường có thể làm nên ý nghĩa.
“Ngày mai, bán con lạc đà và mua một con ngựa. Lạc đà là những kẻ phản bội: chúng bước đi hàng nghìn bước và chẳng bao giờ tỏ vẻ mệt mỏi. Nhưng đột nhiên, chúng quỵ xuống và chết. Nhưng những con ngựa mệt từng chút một. Cậu luôn luôn biết có thể yêu cầu chúng ở mức độ nào, và đến đúng mức thì chúng chết.
TỐI NGÀY HÔM SAU, CHÀNG TRAI XUẤT HIỆN TẠI LỀU CUẢ NHÀ GIẢ KIM VỚI MỘT CON ngựa. Nhà giả kim đã sẵn sàng, ông ta leo lên chiến mã, và đặt một con chim ưng trên vai trái ông ta. Ông ta nói với chàng trai rằng, “Hãy chỉ cho ta nơi nào có sự sống trên sa mạc. Chỉ những ai có thê thấy những dấu hiệu như thế của đời sống mới có thể tìm thấy kho tàng.”
Họ bắt đầu cởi ngửa lướt trên cát, với ánh trăng soi tỏ con đường. Mình không biết mình có thể itmf đời sống trên sa mạc không, chàng trai nghĩ. Mình chưa biết rõ sa mạc đến như thế.
Chàng muốn nói như thế bới nhà giả kim, nhưng chàng sợ ông cụ. Họ đến một vùng núi đá nơi chàng trai từng thấy những con chim ưng trên bầu trời, những bây giờ chỉ có sự lặng yên và gió vi vu.
“Tôi không biết tìm đời sống trên sa mạc,” chàng trai nói. “Tôi biết có đời sống ở đây, nhưng tôi không biết tìm ở đâu.”
“Đời sống hấp dẫn đời sống,” nhà giả kim trả lời.
Và thế là chàng trai đã hiểu. Chàng buông thõng dây cương, con ngựa phi nước đại lướt trên sỏi đá và cát. Nhà giả kim theo chàng trai khi ngựa chàng trai cất vó gần nửa tiếng đồng hồ. Họ không thể thấy những hàng chà là của ốc đảo – chỉ có ánh trăng khổng lồ phía trên họ, và nó lấp lánh chiếu trên những hòn sỏi đá của sa mạc. Đột nhiên, không biết lý do gì, con ngựa của chàng trai bắt đầu chậm lại.
“Có sự sống ở đây”, Santiago nói với nhà giả kim. “Tôi không biết ngôn ngữ của sa mạc, nhưng con ngựa của tôi biết ngôn ngữ của sự sống.”
Họ xuống ngựa, nhưng nhà giả kim cũng không nói gì. Họ cất bước một cách chậm chạp, và tìm kiếm nơi những hòn đá. Nhà giả kim dừng lại đột ngột, và cúi xuống đất. Có một cái lổ ở đó giữa những hòn đá. Nhà giả kim đưa tay vào lỗ, và rồi thì cả cánh tay ông ta, tận đến vai. Có cái gì chuyển động ở đấy, và mắt nhà giả kim - Santiago chỉ có thể thấy mắt ông ta – nheo lại với tác động của ông. Cánh tay ông dường như đang chiến đấu với bất cứ thứ gì trong hang. Rồi thì với một động tác làm cậu ta giật mình, ông rút tay ra và nhảy xuống chân. Trong tay, ông ta nắm đuôi một con rắn.
Santiago cũng nhảy, nhưng nhảy ra xa nhà giả kim. Con rắn uốn éo mãnh liệt điên cuồng, rít lên những âm thanh làm tan vở sự yên lặng của sa mạc. Nó là một con rắn hoo hổ mang, mà nọc độc của nó thể giết chết một người trong vài phút.
“Coi chừng nọc độc cuả nó,” Santiago nói. Nhưng mặc dù, nhà giả kim đã đưa tay vào hang, và chắc chắn đã bị nó cắn, những ông ta vẫn thản nhiên. “Ông cụ này đã hai trăm tuổi,” người Anh Cát Lợi từng nói với chàng trai. Ông ta phải biết đối phó với những con rắn của sa mạc.
Santiago nhìn người đồng hành của mình đi đến con ngựa của ông và rút ra một thanh mã tấu. Ông ta vẽ một vòng tròn bằng lưỡi của mã tấu trên cát, và rồi thì đặt con rắn trong vòng ấy. Con rắn lập tức ngừng nghĩ.
“Không phải lo lắng,” nhà giả kim nói. “Hắn sẽ không rời vòng tròn. Cậu tìm thấy sự sống ở sa mạc, điềm chỉ dẫn mà ta cần.”
“Tại sao điều ấy lại quá quan trọng?”
“Bởi vì những Kim Tự Tháp được bao quanh bởi sa mạc.”
Santiago không muốn nói về những Kim Tự Tháp. Trái tim của cậu nặng nề, và cậu ta đã phiền muộn từ đêm trước. Để tìm kiếm kho tàng, cậu ta phải từ bỏ Fatima.
"Tôi sẽ hướng dẫn cậu vượt qua sa mạc," nhà giả kim nói.
"Tôi sẽ ở lại ốc đảo," Santiago trả lời. "Tôi đã tìm thấy Fatima, và xa hơn thế nữa là tôi quan tâm, nàng giá trị hơn cả kho tàng."
"Fatima là một cô gái của sa mạc," nhà giả kim nói. "Cô ấy biết rằng những người đàn ông phải ra đi để mà trở lại. Và cô ta đã có kho tàng của cô ta rồi: nó là cậu. Bây giờ cô ấy dự tính rằng cậu phải tìm ra những gì cậu đang tìm kiếm."
"Ô, nếu tôi quyết định ở lại thì thế nào?"
"Để ta nói cho cậu biết những gì sẽ xãy ra. Cậu sẽ là cố vấn của ốc đảo. Cậu có đủ tiền để mua nhiều cừu và nhiều lạc đà. Cậu sẽ kết hôn với Fatima, và cả hai sẽ hạnh phúc một năm. Cậu sẽ học để yêu mến sa mạc, và cậu sẽ biết từng cây một trong năm mươi nghìn cây chà là. Cậu sẽ nhìn chúng lớn lên, chứng tỏ thế giới luôn luôn thay đổi thế nào. Và cậu sẽ ngày càng thông hiều hơn về những điềm chỉ dẫn, bởi vì sa mạc là một vị thầy tuyệt vời nhất có thể có.
"Một lúc nào đấy trong năm thứ hai, cậu lại nhớ đến kho tàng. Những điềm chỉ dẫn sẽ bắt đầu lập đi lập lại để nói về nó, và cậu sẽ cố gắng để lẫn tránh nó. Cậu sẽ dùng kiến thức của cậu cho lợi ích của ốc đảo và cư dân của nó. Tộc trưởng sẽ cảm kích những gì cậu làm. Và những con lạc đà sẽ mang đến cho cậu sự giàu sang và quyền lực.
"Trong năm thứ ba, những điềm chỉ dẫn sẽ tiếp tục nhắc nhở về kho tàng và Huyền Thoại Cá Nhân của cậu. Cậu sẽ bách bộ vòng quanh đêm này sang đêm khác ở ốc đảo, và Fatima sẽ không hạnh phúc vì cô ta cảm thấy quả cô ta là người đã làm gián đoạn mục tiêu của cậu. Nhưng cậu sẽ yêu cô ta, và cô ta đáp lại tình yêu của cậu. Cậu sẽ nhớ rằng cô ta không hề đòi hỏi cậu ở lại, bởi vì một người đàn bà của sa mạc biết rằng người ấy phải đợi chờ người đàn ông của bà ta. Vì thế cậu không phiền trách cô ta. Nhưng nhiều lần cậu sẽ bước chân trên của sa mạc, nghĩ rằng có thể cậu sẽ rời...rằng cậu có thể tin tưởng hơn trong tình yêu của cậu dành cho Fatima. Bởi vì những gì giữ cậu ở lại ốc đảo là sự lo sợ rằng cậu sẽ không bao giờ trở lại. Lúc ấy, những điềm chỉ dẫn sẽ nói với cậu rằng kho tàng của cậu sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn.
"Thế rồi, một lúc nào đấy trong năm thứ tư, những điềm chỉ dẫn sẽ từ bỏ cậu, bởi vì cậu đã không còn để ý và nghe theo chúng. Tộc trưởng sẽ thấy điều ấy, và cậu sẽ bị mất đi vị trí của một vị cố vấn. Nhưng cùng lúc ấy, cậu đã là một thương gia giàu có, với rắt nhiều lạc đà và một sự thương mãi đồ sộ. Cậu sẽ dành trọn cuộc đời còn lại của cậu biết rằng cậu đã không theo đuổi Huyền Thoại Cá Nhân của cậu, và lúc bấy giờ thì cũng đã quá muộn.
"Cậu phải biết rằng tình yêu chẳng bao giờ nắm giữ và làm gián đoạn một người theo đuổi Huyền Thoại Cá Nhân của ai. Nếu người ấy từ bỏ mục tiêu theo đuổi, chỉ bởi vì đó không phải là tình yêu chân chính...tình yêu nói lên Ngôn Ngữ của Thế Giới."
Nhà giả kim xóa vòng tròn trên cát và con rắn trườn di theo những hòn đá. Santiago nhớ lại ông già pha lê người luôn luôn muốn đi Mecca, và người Anh Cát Lợi trong việc tìm kiếm nhà giả kim. Cậu ta nghĩ về người đàn bà tin tưởng nơi sa mạc. Và cậu nhìn về sa mạc mà đã mang đến cho cậu người đàn bà cậu yêu thương.
Họ leo lên lưng ngựa, và lần này Santiago cưỡi ngựa theo ông cụ về ốc đảo. Làn gió mang những âm thinh của ốc đảo đến với họ, và Santiago cố gắng để nghe giọng của Fatima.
Nhưng tối hôm ấy, khi Santiago nhìn con rắn hổ mang trong vòng tròn, người kỵ mã lạ lùng với con chim ưng trên vai đã nói về tình yêu và kho tàng, về người con gái của sa mạc và về Huyền Thoại Cá Nhân của cậu ta.
"Tôi sẽ đi với cụ", Santiago nói. Và cậu ta cảm thấy sự yên bình trong tim mình lập tức.
"Chúng ta sẽ lên đường sáng mai trước khi mặt trời mọc," nhà giả kim chỉ trả lời thế thôi.
SANTIAGO ĐÃ TRẢI QUA MỘT ĐÊM KHÔNG NGỦ. HAI GIỜ ĐỒNG HỒ TRƯỚC KHI MẶT trời mọc, cậu ta đánh thức những chàng trai ngủ cùng lều, và hỏi họ chỉ nơi Fatima ở. Họ đến lều của Fatima, và Santiago cho những người bạn của mình một số vàng đủ để mua cừu nuôi.
Rồi cậu ta yêu cầu một người bạn vào trong lều của cô nàng đang ngủ, đánh thức cô ta dậy và nói với cô rằng Santiago đang chờ cô ta bên ngoài. Chàng trai trẻ Ả Rập làm theo lời yêu cầu và chàng ta được cho một số vàng để mua một con cừu khác nữa.
“Bây giờ để chúng tôi một mình,” Santiago nói như thế. Chàng trai Ả Rập trở lại lều ngủ tiếp, tự hào rằng anh ta đã làm được việc cho cố vấn của ốc đảo, và vui vẻ vì có đủ tiền để mua một số con cừu.
Fatima xuất hiện ở cửa lều. Hai người thả bộ theo những hàng cây chà là. Santiago biết như thế là vi phạm Truyền Thống, những điều đó chẳng quan trọng đối với chàng bây giờ.
“Tôi sẽ đi xa,” Santiago nói. “Và tôi muốn nàng biết rằng tôi sẽ trở lại. Tôi yêu nàng bởi vì…”
“Đừng nói gì cả,” Fatima ngăn lại. “Một người được yêu bởi vì người ấy được yêu. Không có lý do đòi hỏi cho tình yêu.”
Nhưng Santiago tiếp tục, “Tôi có một giấc mơ, và tôi đã gặp một vị vua. Tôi đã bán pha lê và băng qua sa mạc. Và, bởi vì các bộ tộc tuyên bố chiến tranh, Tôi đã đến giếng nước, tìm kiếm nhà giả kim. Thế nên, tôi yêu nàng vì toàn thể vũ trụ đã hiệp sức giúp tôi tìm ra nàng.”
Hai người ôm nhau. Đây là lần đầu tiên cả hai chạm thân thể vào nhau.
“Tôi sẽ trở lại,” Santiago nói.
“Trước đây, tôi luôn luôn nhìn vào sa mạc với lòng khao khát mong đợi,” Fatima nói. “Bây giờ nó sẽ là hy vọng. Bố tôi đã ra đi vào một ngày, nhưng ông ta trở lại với mẹ tôi, và ông ta luôn luôn trở lại từ lúc ấy.”
Họ không nói gì nữa. Họ đi bộ xa hơn tí nữa theo những cây chà là, và rồi thì Fatima chia tay Fatima trước cửa vào của lều nàng.
“Tôi sẽ trở lại giống như bố nàng đã trở lại với mẹ nàng,” cậu ta nói.
Cậu ta đã thấy trong mắt Fatima ngấn lệ.
“Nàng đang khóc?”
“Tôi là một cô gái sa mạc,” nàng nói, trong khi ngoảnh mặt đi. “Nhưng trên tất cả, tôi là một phụ nữ.”
Fatima trở vào lều, khi ánh sáng ban ngày lan đến, cô nàng đi làm những việc thường ngày mà nàng đã làm qua bao năm này. Nhưng mọi thứ đã thay đổi. Chàng trai không còn ở ốc đảo nữa, và ốc đảo sẽ không bao giờ cùng ý nghĩa mà nó có mới ngày hôm qua. Nó không còn là một nơi với năm mươi nghìn cây chà là, và ba trăm giếng nước, nơi mà những người hành hương đến nghĩ ngơi sau những chuyến du hành dài đăng đẳng. Từ ngày hôm ấy trở đi, ốc đảo sẽ là một nơi trống trải với nàng.
Từ ngày hôm ấy trở đi, sa mạc sẽ là quan trọng. Nàng sẽ nhìn nó mỗi ngày, và sẽ cố đoán rằng ngôi sao nào Santiago đang đi theo để tìm ra kho tàng của cậu. Nàng sẽ gởi nụ hôn của nàng theo làn gió, hy vọng làn gió sẽ chạm và mặt Santiago, và nói với cậu ta là nàng vẫn sống. Đấy là nàng chờ đợi Santiago, một người đàn bà chờ đợi một người đàn ông can đảm đi tìm kho tàng của ông ta. Từ ngày hôm ấy trở đi, sa mạc sẽ chỉ đại diện cho một điều với nàng: hy vọng cho sự trở lại của người nàng yêu.
Bình luận truyện