Pendragon 8 - Ly Hương Tìm Quá Khứ

Chương 8



TRÁI ĐẤT THỨ NHẤT

Courtney cô đơn.

Suốt đời, cô chưa bao giờ cảm thấy cô đơn như thế này. Thậm chí, khi nằm bệnh viện, sau lần suýt bị Saint Dane giết chết, còn có người chăm sóc cô. Nhưng đó là chuyện trên Trái Đất Thứ Hai. Trên Trái Đất Thứ Nhất Courtney chẳng có ai. Thậm chí không ai biết cô đang tồn tại vì chính xác thì cô không tồn tại thật. Cô đang ở ngoài không gian và thời gian, và có chút cảm giác ở cả ngoài tâm trí của chính mình. Cô muốn khóc. Muốn về nhà khủng khiếp, nhưng không thể. Vì sử dụng ống dẫn mà không có một Lữ khách đồng nghĩa với thảm họa. Không, cô đã bị kẹt. Cô muốn nằm trên giường của ông Gunny, trùm chăn kín đầu, giả như đang ở nhà với ba má.

Thay vì vậy, Courtney tập trung vào nhiệm vụ. Cô không ấm ức vì Bobby ra đi. Cô đồng ý để bạn tới Ibara. Nhưng không khỏi ước sao cậu ấy vẫn quanh quẩn tại đây. Điều níu cô không bỏ cuộc là hi vọng sớm tìm ra Mark. Lịch sử nói Mark đã biến mất. Cô biết đó là chuyện chẳng lành. Courtney phải tìm ra Mark trước khi bất cứ chuyện gì xảy ra, đã xảy ra. Thậm chí cô còn nuôi hy vọng: dù cho Bobby nghĩ gì đi nữa thì việc tìm ra được Mark và biết được lý do những gì cậu ấy đã làm rất có thể sẽ xoay chuyển lại dòng lịch sử, và đặt Halla vào đúng quỹ đạo. Nhưng còn một lý do nữa khiến cô phải tìm ra Mark. Cô cần Mark. Cần bạn. Cô cần ôm lấy Mark mà khóc và nghe những tiếng lắp bắp ngớ ngẩn của bạn. Cô cần sát cánh với người duy nhất trong Halla đi chung một con đường với cô. Mark là người bạn tốt nhất, là nguồn động lực, là tri kỉ của cô. Mark đã cứu mạng cô. Cô cần đáp lại ân huệ đó. Cô cần đem Mark trở về.

Ưu tiên hàng đầu của cô là mua mấy bộ quần áo mới. Cô rất ghét bộ đầm hoa hoét trong ống dẫn. Cho dù tiêu chuẩn thời trang của nền văn hóa tại đây là gì, đầm xòe con gái và Courtney Chetwynde không hợp nhau. Sau bữa ăn vội vàng tại phòng ăn khách sạn, với thịt heo, muối, trứng, khoai tây và nước cam ( với giá rất thoải mái: ba mươi hai xu) cô đi tìm cậu bồi khách sạn Dodger. Cô thấy cậu ta đang đứng đón khách ngoài cửa khách sạn. Thấy cô, mắt Dodger sáng lên. Không biết vì cậu ta mừng được gặp cô, hay khiếp đảm lo cô la hét lần nữa.

Cậu ta e dè nói:

- Chào. Mọi việc ổn chứ?

- Tất cả đều tốt. Nhưng tôi cần giúp đỡ.

- Nói đi.

- Cần mua ít quần áo. Gần đây có cửa hàng nào không?

Dodger cười hì hì:

- Cô giỡn hả? Bước ra là gặp ngay những cửa hàng lớn nhất thế giới. Pendragon biết mà.

- À… ừ, đúng.

Cô suy nghĩ, tìm một lý do hợp lý về chuyện Pendragon ra

- Pendragon đã về nhà ở Stony Brook. Chuyện gia đình.

Dodger gật đầu:

- Không có việc gì nghiêm trọng chứ?

- Mọi việc vẫn ổn. Chỉ cho tôi cửa hàng ở đâu, được chứ?

- Còn hơn vậy nữa, tôi sẽ đưa cô đi. Tôi sắp hết ca trực rồi.

- Không cần đâu. Cứ chỉ đường cho tôi là được rồi.

Dodger xuýt xoa, cố tỏ ra là một cánh tay biết nịnh đầm:

- Chậc, chậc. Tôi và Pendragon quen biết nhau từ lâu, phải trải thảm đỏ mà tiếp đãi em gái cậu ấy chứ.

Courtney hơi hấp tấp hỏi:

- Em gái á? Sao anh biết Shannon…

Cô nín bặt. Hố rồi. Quên tịt màn đóng kịch.

- A, phải rồi, mình là em gái anh ấy. Tưởng anh nói tới đứa em khác nữa, Shannon ấy mà. Tất nhiên nó cũng là em tôi. Chúng tôi là anh chị em của nhau mà. Bobby là anh của chúng tôi, đúng không?

Dodger nhìn cô lạ lùng. Courtney cười, ra bộ ngây thơ. Mấy phút sau, cả hai đi dọc đường Năm Mươi Bảy, tiến tới những cửa hàng trên đường Madison.

Khi đi ngang qua một cửa hàng với mấy ma-nơ-canh mặc những bộ váy hoa như Courtney đang mặc, Dodger đề nghị:

- Cửa hàng xịn nhất đấy.

Courtney tiếp tục đi.

Tới một cửa hàng trưng bày những chiếc váy đầy tua ren và những cái nón rơm gắn hoa to đùng, Dodger lại nói:

- Rất nhiều cô gái thích cửa hàng này và…

Courtney vẫn bước đi. Dodger nhún vai, lóc cóc đi theo. Qua nhiều cửa hàng phục vụ quý cô và quý bà, nhưng Courtney vẫn không ngừng lại. Sau cùng, Dodger hỏi:

- Chính xác thì cô tìm gì?

Courtney thú thật:

- Tôi không biết. Một thứ gì đó ít… ít có vẻ Barbie hơn.

- Tôi chẳng hiểu cô nói gì. Nhưng có lẽ cô nên tới một nơi có đủ thứ hàng.

- Có một chỗ như vậy sao?

Sau mười lăm phút trên tàu điện ngầm, Courtney bước vào “Khu Cửa Hàng Lớn Nhất Thế Giới” trên đường Ba Mươi Bốn. Macy’s. Giống cửa hàng Macy’s cô từng biết tại quê nhà, có đủ loại hàng hóa, gồm cả một khu trưng bày cho Lễ Tạ Ơn. Dodger không đi theo vì đã hết giờ nghỉ. Càng tốt. Hắn hỏi nhiều quá. Cô cảm thấy hắn thể hiện rất đúng, theo lối cổ, cái kiểu: “Tôi là một gã lanh lợi, biết cách tốt nhất để săn sóc một cô gái nhỏ yếu đuối. ” nhưng cô không cần điều đó. Cô sẽ tránh xa Dodger như tránh xa bệnh dịch.

Bước đi trong Macy’s là một trải nghiệm thú vị. Không có gì giống với Macy’s trên Trái Đất Thứ Hai. Áo quần sẫm màu, nặng nề. Cửa hàng không có nhạc. Ánh sáng lờ mờ. Sàn gỗ. Thậm chí bậc thang cuốn cũng bằng gỗ. Nhưng vẫn là Macy’s, và Courtney biết là sẽ tìm ra những thử gì mình cần.

Đi qua những cửa hàng của quý cô quý bà, Courtney tiến thẳng tới cửa hàng bán y phục nam giới. Tại đó, trong khi người đàn ông bán hàng, trong bộ vét gọn gang với bông cẩm chướng trắng trên ve áo, bối rối nhìn cô – Courtney mua một cặp quần nam vải len và mấy cái sơ mi trắng vải cô- tông. Cô cũng mua mấy đôi vớ, một đôi giày da nâu, loại này thoải mái hơn đôi giày cô nhận được từ trong ống dẫn nhiều, và một cặp dây đeo quần màu xanh lục. Cô tìm được một mũ lưỡi trai bằng len màu xám có vành nhỏ và mềm, chiếc mũ đủ rộng để vén gọn mái tóc nâu dài của cô vào trong. Dút hai tay vào túi. Courtney ngắm nghía mình trong gương.

Người bán hàng cau có

- Lễ hội Halloween qua hai ngày rồi, tiểu thư.

Courtney cười cười:

- Cháu thấy mình khá xinh đó chứ.

Đúng vậy. Courtney đang mặc đồ đàn ông đấy, nhưng không che giấu được sự thật cô là một thiếu nữ. Sau cùng, mua thêm một áo len cổ lọ màu xanh lục sẫm và rộng thùng thình, cô biết là sẽ cần đến nó khi trời lạnh. Hài lòng, cô trả tiền rồi quay ra.

Người bán hàng la theo:

- Tôi làm gì với cái này?

Ông ta đang cầm cái váy hoa Courtney mặc khi vào cửa hàng. Cô vui vẻ nói:

- Cháu không cần nữa. Halloween qua hai ngày rồi.

Người bán hàng cau mày đẩy vẻ phản đối, Courtney bước ra ngoài. Cô còn một việc nhỏ nữa, trước khi tìm kiếm Mark. Courtney đi theo lộ trình cô đã từng đi nhiều lần trước đây, trong một kỉ nguyên khác. Từ đường Ba Mươi Bốn trong khu Manhattan, cô đi xe điện ngầm tới nhà ga trung tâm, với giá vé là năm xu. Từ đây, cô lên tàu lửa tuyến New Haven, về thị trấn nhà mình tại Stony Brook, Connecticut. Cuộc hành trình dài cả tiếng đồng hồ vừa quen vừa lạ. con tàu còn lâu mới bì được với sự tiện nghi thoải mái của những toa giảm sóc, bóng láng trên Trái Đất Thứ Hai. Người cô cứ nảy tưng lên như thể đang ngồi trên tàu trở hàng. Tiếng lọc xọc, cót két liên tục hình như không làm phiền ai, trừ cô. Nhất là vì cô đang đọc báo.

Nếu phải tìm Mark trên Trái Đất Thứ Hai, nơi dừng chân đầu tiên của cô sẽ là Internet. Trên Trái Đất Thứ Nhất chỉ có báo giấy và thỉnh thoảng có tin tức phát qua nhà phát thanh. Tại nhà ga trung tâm, cô đã mua năm tờ nhật báo khác nhau: New York Advocate, Manhattan Gazette, New York Daily Mirror, New York Post và New York Times. Cấp tốc tra cứu từng tờ, tha thiết tìm được một tiết lộ về Mark Dimond, Andy Mitchell, Dimond Alpha Digital Organization, hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn KEM. Cô nghĩ, giới thiệu một công nghệ quá quan trọng như Lò Rèn của Mark, chắc chắn các nhà báo phải đưa tin, dù là một mẩu tin nhỏ.

Cô không tìm thấy gì hết. Tin tức lớn trong ngày là vụ trật đườngí ẩn của tàu điện ngầm ở Bronx. Máy trưởng thề là đã thấy một người nhảy vào đoàn tàu đang phóng nhanh nhưng không tìm thấy xác. Vụ đó mãi mãi là một bí ẩn.

Không tìm thấy tin tức nào về Mark, Courtney vừa bực bội, vừa an tâm. Không có gì trên báo, cô hi vọng thông tin về công nghệ Lò Rèn của Mark chưa được công bố. Cô hớn hở hẳn lên. Có thể vẫn còn hy vọng cứu vãn trước khi thảm họa xảy ra.

Đoàn tàu vào ga Stony Brook, Courtney bước xuống một sảnh gỗ đã mục nát từ ba thế kỷ trước khi mình ra đời. Cô rất muốn nhìn xung quanh, xem thị trấn của cô ra sao trong quá khứ, nhưng biết là không có thời gian. Cô đến đây với một mục đích rất đặc biệt. Trở lại New York sớm chừng nào tốt chừng đó. Từ nhà ga tới phố chính của Stony Brook chỉ là một đoạn đường ngắn, con đường mà nhiều năm sau, được tất cả đám nhóc gọi là “Đại lộ”. Courtney nhận thấy một số tòa nhà cũ xì trông không còn cũ nữa. Một điểm bán kem và giải khát sẽ trở thành cửa hàng bán xe đạp trên Trái Đất Thứ Hai, một tiệm hớt tóc sẽ trở thành phòng triển lãm mỹ thuật vào thời đại của cô, chợ rau quả kia một ngày sẽ là cửa hàng của Apple, nơi ba má đã mua cho cô một cái Ipod. Cuộc hành trình xuyên quá khứ vừa hấp dẫn, vừa lạ lùng.

Điểm đến của cô là Ngân Hàng Quốc Gia của Stony Brook. Đó là ngân hàng Bobby đặt một hộp an toàn để giữ nhật ký của cậu ấy đã viết trên Trái Đất Thứ Nhất. Khoảng sáu mươi năm sau, trên Trái Đất Thứ Hai, Mark và Courtney sẽ mở cửa hầm ngân hàng để tìm nhật ký. Đó là nơi Mark lưu giữ tất cả nhật ký của Bobby. Bây giờ họ giao phó lại cho cô, và cô sẽ tiếp tục công việc của Mark. Một chìa khóa luôn đeo trên sợi dây chuyền của cô và cô phải ghi nhớ số tài khoản và số hộp. Tuyệt đối tự tin, cô trình thông tin cho người quản lý cổ hủ. Người đó đưa cô vào hầm rồi để cô một mình. Trong cái hộp an toàn là những quyển nhật ký từ chuyến phiêu lưu trước của Bobby trên Trái Đất Thứ Nhất, đang chờ cô và Mark khám phá ra nó trên Trái Đất Thứ Hai.

Từ lúc ra khỏi khách sạn, cô luôn xách theo một túi vải lớn, trong đó là nhật ký thứ 28 của Bobby. Courtney bỏ chung nó vào cùng những quyển nhật ký trước, rồi khóa hộp lại. Trong một thoáng, Courtney tự hỏi: liệu cô và Mark có thấy nhật ký mới này khi mở hộp lần đầu trên Trái Đất Thứ Hai không. Có thể nào như vậy không? Rồi nhận thấy cứ mãi bỡn cợt với lịch sử có thể thay đổi tương lai ra sao chỉ làm cô đau đầu. Cô cần ra khỏi đây và trở lại New York tìm Mark.

Vài tiếng sau cô đã rảo bước trên Đại Lộ Công Viên dẫn tới khách sạn Manhattan Tower. Mới xế chiều nhưng bóng tối của Thười Một đã trải dài. Trời sẽ tối rất nhanh. Chương trình của Courtney là trở về khách sạn, ăn một chút trong phòng ăn rồi rúc vào chăn trên giường ông Gunny, cố nghĩ ra một kế hoạch xuất sắc để tìm Mark. Vừa tới lối vào khu vườn trước khách sạn, cô bỗng có cảm giác khác thường. Lúc đầu không biết là gì, cô vội ngừng lại. Mọi giác quan đều cảnh giác. Một giây sau, cô nhận ra chuyện gì.

Cái nhẫn đang khởi động.

Cô vội nhìn quanh để biết chắc không có ai dòm ngó. Ngốc. Cô đang đứng giữa thị trấn Manhattan và mọi người đang nhìn. Mặt đá đen của nhẫn đã chuyển thành pha lê. Cô đặt bàn tay kia lên che nhẫn lại và chạy vào vườn khách sạn. Vội vàng nhìn quanh tìm một nơi kín đáo, cô thấy một chỗ dưới đám cây cỏ được chăm sóc gọn gàng. Nhảy khỏi lối đi, cô vào một tán là rậm rạp. Cái nhẫn đang nới rộng. Tiến tới khoảng trống nhỏ, có một ghế đá hoa cương trước ao đầy cá vàng. Không có ai tại đó. May quá. Vì dù cô muốn hay không, cái nhẫn sắp mở ra rồi.

Đặt nhẫn xuống đất, cô nhìn vòng tròn bạc nới rộng bằng cái đĩa, để lộ ra đường hầm dẫn tới các lãnh địa. Từ hố tối đen, những tia sáng tỏa ra cùng tiếng nhạc dịu dàng. Courtney liếc quanh để đảm bảo không ai chứng kiến sự kiện ma thuật khó tin này. Sau mấy giây, Courtney mới thở nổi. Sợ hãi chuyển thành hiếu kỳ, cô nhảy tới chiếc nhẫn, sẵn sàng chộp lấy nhật ký đầu tiên của Bobby gửi từ Ibara. Quỳ xuống, cô nhìn…

Không phải nhật ký của Bobby, đó là một bao thư màu xám. Tò mò lật lên, cô thấy đó là một phong bì bình thường ngày xưa vẫn dùng để gửi thư hàng ngày. VÌ sao Bobby lại gửi cho cô? Vội xỏ nhẫn vào lại ngón tay, cô bồn chồn xé bao thư bí ẩn. Bên trong là tờ giấy với chữ in. Courtney đọc một lần. Hai lần. Rồi chậm rãi đọc lại lần thứ ba để tin chắc là đã hiểu từng từ.

Không phải thư của Bobby, thư của Patrick. Gửi từ Trái Đất Thứ Ba. Rắc rối rồi.

Bobby và Courtney,

Tôi gửi thư này tới Trái Đất Thứ Nhất, với hy vọng hai bạn đang ở đó, và ống dẫn đã đưa bạn trở lại thời gian còn có thể can thiệp vào những gì xảy ra. Sau khi hai bạn rời Trái Đất Thứ Ba, tôi tiếp tục sưu tầm những gì có thể đã xảy ra cho Mark Dimond. Khi hai bạn ở đây, chúng ta đã được biết cậu ấy mất tích trong thời gian tháng M Một. Bây giờ tôi đã biết thêm vài điều phải báo cho các bạn.

Trước hết, tôi biết được công ty trách nhiệm hữu hạn KEM đặt tại Luân Đôn, Anh Quốc. KEM là viết tắt của Keaton Electrical Marvels. Các viên chức của công ty là những người đầu tiên được báo cáo về sự mất tích của Mark DImond. Theo kế hoạch, cậu ấy phải gặ bọn họ vào ngày 13 tháng Mười Một năm 1937 tại Luân Đôn. Cậu ấy đã không tới buổi họp và không bao giờ xuất hiện lại nữa. Không một chi tiết nào về những gì đã có thể xảy ra vói cậu ấy. Nghi ngờ có kẻ chơi xấu, nhưng không có bằng chứng.

Tôi cũng đã tìm thấy một mẩu tin nhỏ trên một tờ báo phát hành tại miền Nam New Jersey. Ngày 20 tháng 11 năm 1973. Một xác chết dạt vào bờ biển thành phố Atlantic. Một xác nam đã bị phân hủy, không thể nhận dạng được nữa, tuy nhiên, nguyên nhân cái chết đã được làm rõ. Nạn nhân không bị chết đuối. Bị bắn. Có điều lạ là, anh ta mặc áo dạ hội, trong túi có một cái thìa bạc khắc mấy chữ, RMS Queen Mary.

Bobby và Courtney, tôi tìm được một hồ sơ cho biết, Mark Dimond đăng kí tới Luân Đôn bằng đường thủy trên tàu Queen Mary vào ngày 7 tháng 11. Sự trùng hợp thật đáng sợ. Khả năng tình cờ ngẫu nhiên là quá lớn. Tôi sợ, Mark Dimond đã không bao giờ tới được Luân Đôn. Tôi e là cậu ấy đã bị giết trên tàu Queen Mary và bị quăng xác xuống biển.

Nếu đúng trường hợp đó, thì mục tiêu của hai bạn đã rõ ràng. Cô tiếp cận với Mark trước ngày 7 tháng 11, ngăn chặn cậu ấy lên tàu, vì có kẻ trên con tàu đó mưu hại cậu ấy.

Nếu biết gì thêm, tôi sẽ gửi tới hai bạn. Hi vọng hai bạn nhận được thư này. Chúc may mắn.

Patrick Mac.

Một giọng nói ngay kế bên:

- Thì ra cái nhẫn đó hoạt động như vậy hả?

Courtney giật thót người, la lên. Có người đang quan sát cô. Vò vội thư của Patrick, nhét vào túi, cô đứng dậy để… đối diện với Dodger.

Tức giận đến nghẹnô nói:

- Anh… anh rình mò tôi.

Đầu óc cô quay cuồng, quá nhiều chuyện xảy ra quá nhanh.

- Xin lỗi. Thấy cô tiến vào khách sạn, rồi thình lình run rẩy và chạy vào bụi cây. Tôi phải làm sao? Tôi lo cho cô mà.

Courtney đờ người. Hắn đã thấy được những gì? Vẻ bối rối, Dodger nhìn cô như muốn nói một điều gì, nhưng không tìm ra từ chính xác. Cô quyết định cách tốt nhất để đối phó với hắn là bỏ đi.

Vừa quay đi, cô vừa sẵng giọng:

- Bỏ ngay cái trò rình mò tôi đi.

- Khoan!

Courtney dừng chân, chờ thái độ của hắn.

Với giọng nói của một thằng bé sợ sệt, Dodger nói:

- Ông Gunny là bạn tôi. Ông ấy là một người tốt. Tôi sẵn lòng làm cho ông ấy bất kỳ điều gì.

Courtney không trả lời. Cô không biết hắn cố tình đưa câu chuyện tới đâu.

- Trước khi ra đi, chẳng biết đi đâu, ông ấy xin tôi một đặc ân. Chưa bao giờ ông Gunny xin ai một đặc ân, vì vậy, tôi đoán, hẳn là một chuyện quan trọng. Ông ấy bảo có thể đến một lúc nào đó ông cần tôi giúp. Ông ấy không nói rõ, chỉ bảo ông có việc quan trọng phải làm. Ông ấy Pendragon và Spader. Cô biết ông ấy nói vậy là thế nào không?

Tất nhiên Courtney biết, nhưng cô không nói.

- Dù sao, ông ấy nói là sẽ đi một thời gian, nhưng có thể đến lúc có người tới đây tìm sự giúp đỡ. Ông yêu cầu tôi hãy làm những gì có thể cho họ. Tất nhiên tôi nhận lời. Tôi sẽ làm bất cứ việc gì vì ông. Nhưng khi tôi hỏi tất cả những chuyện tôi phải làm là gì, ông chỉ nói rằng ông hi vọng tôi sẽ không bao giờ phải biết. Bây giờ, tôi nghĩ, đã đến lúc được

- Vì sao?

Dodger đưa bàn tay lên. Trên một ngón tay có cái khoen nhỏ bằng bạc. Hắn xoắn cái khoen, để Courtney thấy hắn đang đeo ngược nó. Khi cái khoen được xoay ra, Courtney nín thở.

Đó là nhẫn Lữ khách.

- Ông ấy yêu cầu tôi làm phụ tá. Tôi không biết phụ tá là gì, nhưng từ đó tôi vẫn đeo cái nhẫn này. Rồi thình lình, Pendragon trở lại với cô, rồi tôi thấy cô cũng đeo một cái nhẫn như vậy, rồi tôi thấy cô làm phun ra những tia lửa như pháo hoa ngày lễ độc lập. Tôi nghĩ đã đến lúc tìm hiểu những lời nói của ông Gunny.

Đầu óc Courtney bấn loạn. Cô phải làm gì? Rõ ràng cô đang cần một đồng minh. Nhưng liệu hắn có nói thật không? Trước đây, đã một lần cô đặt niềm tin vào một kẻ xa lạ và đã suýt bị giết. Liệu Dodger có chính xác là con người như hắn nói không? Một người bạn thật thà mà ông Gunny đã chọn làm phụ tá? Hay đây là một trò thám hiểm? Một kiểu ngụy trang nữa của Saint Dane?

Dodger chân thành nói:

- Tôi chỉ muốn làm những gì ông Gunny yêu cầu. Tôi muốn cô giúp tôi.

Courtney hỏi thẳng:

- Anh có phải làm Saint Dane không? Tôi không nghĩ là anh nói thật nếu anh là hắn, nhưng tôi phải hỏi để anh biết là tôi nghĩ rất có thể anh là hắn.

Dodger nhìn cô bối rối:

- Saint Dane? Cô lại định nói tới tên một con chó? Hay đó là thánh Bernard? Hay Dane vĩ đại? Cô làm tôi bối rối hơn rồi đấy.

Courtney không biết phải làm sao. Tin Dodger? Tống hắn đi? Co giò tẩu thoát? Biết là phải đi tới một quyết định nhưng cô không thể.

Một lúc sau, sự quyết định tới với cô.

Cô hỏi:

- Anh nói là không biết gì về tất cả những chuyện này?

- Không một manh mối nào.

- Vậy thì đây là manh mối đầu tiên.

Courtney đưa tay lên. Bàn tay có nhẫn. Mặt đá lại đang tỏa sáng.

Dodger trợn tròn mắt:

- Cái gì…

Nhật kí mới của Bobby đang tới.


NHẬT KÍ #29

IBARA

Courtney, hy vọng bạn đang đọc nhật ký này.

Và hy vọng bạn vẫn được bình thường. Có lẽ nói vậy thì nhẹ quá. Để lại bạn một mình trên Trái Đất Thứ Nhất mình vô cùng khổ tâm. Ước gì mình có cách khác, nhưng mình không đủ thông minh để nghĩ ra được cách nào khác nữa. Mừng là còn cô Dodger trong khách sạn. Cậu ta tỏ ra hơi mạnh bạo, nhưng bạn có thể tin tưởng cậu ấy. Vì ông Gunny đã tin tưởng cậu ấy. Nếu cần gì, đừng ngại hỏi Dodger.

Dù rất buồn vì để bạn tìm Mark một mình, nhưng việc mình tới Ibara là một điều tốt. Mình vẫn chưa kết nối được những gì Saint Dane đang làm tại đây, nhưng mình biết chắc một điều: Bước ngoặt đã cận kề. Dù chưa biết là gì, nhưng vài việc đã thấy làm mình tin lãnh địa này đang thay đổi lớn. Có thể là một sự thay đổi đáng sợ. Khi viết nhật ký này, mình đã tới đây được một tuần. Cứ với mỗi một mẩu thông tin mình mới có được, lại có nắm vấn đề nổi lên. Không có gì giống như mình vẫn tưởng, nhưng mình nghĩ là đã tìm ra cách kết nối những chuyện khó hiểu lại với nhau. Mình sắp lao vào một cuộc phiêu lưu và làm một điều mà chưa bao giờ mình nghĩ là

Mình sắp trở thành một kẻ sống ngoài vòng pháp luật.

Mình biết, chẳng là tin tốt lành gì, nhưng mình nghĩ đó là cách tốt nhất để đặt mình vào ngay giữa cuộc xung đột sẽ dẫn tới bước ngoặt của Ibara. Đó là lý do mình viết nhật ký vào lúc này. Chưa biết bao giờ mình mới lại có cơ hội viết, vì ngày mai mọi rắc rối sẽ bắt đầu.

Để mình tóm tắt nhanh gọn những gì đã xảy ra từ sau khi mình đi khỏi khách sạn Manhattan Tower. Chuyến đi tới Ibara không có gì bất bình thường.

Nhưng khi tới nơi thì có.

Mình rời căn hộ của ông Gunny trước khi bạn ngủ dậy. Chúng ta đã nói lời tạm biệt đêm hôm trước, và mình không thể trải qua sự đau khổ đó thêm lần nữa. Đi taxi tới ga tàu điện ngầm Bronx, mình thấy công nhân vận tải thành phố đã dọn dẹp vụ tai nạn tàu. Hệ thống dịch vụ đường sắt đã trở lại bình thường. Mình lẻn xuống đường ray, cấp tốc tiến tới cổng vào ống dẫn. Mình không lo quig, hay dado, hoặc bất cứ thứ gì khác ngăn chặn mình tới Ibara. Khi Saint Dane muốn mình tới một nơi nào, mình tới đó ngay. Mình cũng không quá bận tâm sẽ gặp gì tại lãnh địa mới đó. Mở cánh cửa gỗ, mình bước thẳng vào ống dẫn, thông báo “Ibara”. Có lẽ mình sợ nếu do dự, mình sẽ đổi ý. Cánh chỉ kịp khép lại trước khi mình bị cuốn đi.

Đầu óc mình đang ở trong một nơi xa lạ cùng với… toàn bộ phần thân thể còn lại của mình. Vì một lần nữa, lại trở lại là chính mình, mình có cơ hội để suy nghĩ. Đó luôn là điều nguy hiểm. Phản ứng lại hoàn cảnh là việc mình khá hơn nhiều. Khi đầu óc vơ vẩn lan man ý nghĩ mình lại hướng đến những câu hỏi lớn hơn, những câu hỏi mình không có câu trả lời. Trên hết là câu nói của Saint Dane. Hắn bảo Lữ khách tụi mình là ảo ảnh. Ảo ảnh. Là nghĩa chết tiệt gì? Chắc chắn mình không cảm thấy là một ảo ảnh, dù rõ ràng mình không biết một ảo ảnh phải cảm thấy ra sao. Hắn nói theo kiểu ẩn dụ, giống như: chúng ta không là kẻ chúng ta vẫn tưởng? Hay hắn nói theo đúng nghĩa đen?

Hắn bảo mình không là một Lữ khách cấp cao, nghĩa là mình không thể biến thành vật thể khác. Người chim, khói. Đúng. Nhưng Nevva Winter thì có thể. Hắn bảo là đã dạy cô ta. Đơn giản vậy sao? Với một vài bài học và một chút tập luyện, mình có thể biết cách trở thành người khác? Một phương tiện ngay trong tầm tay. Nhưng ngay cả không có khả năng biến hóa, thì vẫn có vài sự thật về Lữ khách mà mình không có giải thích. Chúng mình bình phục dễ dàng. Không tức thì, nhưng dễ dàng. Chúng mình có thể chi phối ý nghĩ của người khác, dù mình phải thú thật, chưa bao giờ mình làm rất tốt chuyện đó. Và, tất nhiên, sự thật hoang mang nhất là Loor đã bị giết chết, rồi qua sức mạnh ý chí gì đó mà mình có được, mình đã đưa cô ấy trở lại từ cõi chết.

Một vài điều đã biết đó làm mình tự nhủ, vụ ảo ảnh Saint Dane nói rất có thể là sự thật. Ý mình là, mình cảm thấy là một con người hoàn toàn bình thường. Nhưng người bình thường không thể sống lại. Chúng mình là máu và thịt? Hay là một thứ gì khác? Rắc rối là, mình không biết cái thứ khác đó là gì. Có lẽ nhiều người cho rằng biến hóa thành người khác là một điều rất tuyệt. Mình không ở trong số mấy người đó. Khái niệm thú vị hơn thực tế. Mình là Bobby Pendragon. Mình ra đời trên Trái Đất Thứ Hai. Mình có một ông bố và một bà mẹ tuyệt vời. Mình có một em gái nhỏ. Mình bình thường. Mình muốn cứ mãi bình thường. Không muốn là một ảo ảnh.

Mình cố không nghĩ hoài về điều này. Lo từng việc một thôi. Từng thử thách một thôi. Từng khủng hoảng một thôi. Trăn trở tất cả mọi chuyện cùng lúc làm mình quá khắc khoải. Mình chán trăn trở rồi. Mình muốn hành động.

Tiếng nhạc đã lớn hơn, báo hiệu mình sắp đi hết cuộc hành trình. Nhưng còn một âm thanh khác nữa. Một âm thanh mình không nghe trong cuối hành trình qua ống dẫn nước trước đây. Càng tới gần Ibara cái âm thanh nghe như tiếng xì-xào-xì-xào đó càng lớn hơn. Không còn đủ thời gian để thắc mắc đó là âm thanh gì, vì chỉ vài giây sau mình đã ở dưới nước.

Không hề cảnh báo. Mới giây trước mình đang bay đi, giây sau mình đã ướt sũng. Sức mạnh của cú hạ cánh làm nước bắn tung lên tới mũi, cứ như mình vừa từ trên cao phóng chân xuống nước trước mà không bịt mũi. Đau không là vấn đề tệ nhất. Tệ nhất là mình không thở được, vì… mình đang ở dưới nước. Chết đuối là cái chắc. Thật sự mình đã tự hỏi: nếu cư dân Ibara là cá, mình có thay đổi ý nghĩ không muốn có khả năng hóa thành sinh vật khác không. Mọc mang cá, hóa thành một con cá bơn ngay lúc này có ích lắm chứ. Mình không biết ngoi lên bằng cách nào, cũng chẳng biết đang chìm xuống bao sâu. Nhưng mình biết nếu không sớm tỉnh táo lại thì vài giây nữa mình sẽ tiêu luôn. Thư giãn, mình đẩy chút không khí quý giá còn lại trong phổi ra, để xem bọt nước trôi đi đâu. Chúng bập bềnh qua mắt mình, trôi đến một vòng ánh sáng rộng. Chắc đó là mặt nước. Mình đạp chân tiến tới.

Vui mừng báo cho bạn biết, mình mới chỉ chìm xuống gần một mét. Mình vội vàng ngoi khỏi mặt nước, hổn hển hít thở. Mình không sao, chỉ bị nhức đầu vì nước tràn vào mũi. Tống hết nước ra khỏi đầu, mình nhìn quanh. Mình đang đứng nước giữa một cái vạc tròn, được tạo bằng đá đen, trong một cái hang ngầm. Cái ao nước lớn này bề ngang chừng hơn bảy mét. Mình vội đạp nước tiến vào một bên vách, nắm lấy bờ đá để thở. Mình đã an toàn. Đã thành công. Đã ở trên Ibara.

Hang động được tạo ra bằng cùng một thứ đá giống như đá của cái ao, trông giống đá đen núi lửa. Mái trần không cao như cổng ống dẫn trên Cloral. Đây là một hang động nho nhỏ với bể nước khá lớn chiếm gần hết đáy hang. Đúng, ống dẫn đầy nước. Tóm lại, có khi nào cư dân Ibara là cá không?

Mình đu người lên khỏi ao. Thành ao cao khoảng tầm mươi phân, tạo thành một vòng tròn đá lớm chởm, làm cái ao giống như một núi lửa nhỏ. Vắt một chân ra ngoài, mình phát hiện bên ngoài ao là nền cát. Không là đất, mà là cát. Ngồi xuống mặt phẳng mềm, mình lại nhìn quanh. Ánh sáng lách qua những kẽ nứt dài trên vách hang đá, rải rác quanh mình. Điều đó có nghĩa hang động này không nằm quá sâu dưới đất. Hay dưới nước. Tất nhiên, bộ quần áo Trái Đất Thứ Nhất của mình ướt sũng, nhưng mình không hề lạnh. Mình chỉ cảm thấy nóng và dính dáp khó chịu. Nhìn quanh, mình thấy một chồng quần áo sặc sỡ gần chỗ mình đang ngồi. Có mấy cái quần ngắn, trông như quần lửng. Có vẻ như dài qua đầu gối mình. Mình thắc mắc, có thể đây thật sự là những cái quần dài và dân Ibara là những người nhỏ bé. Nếu vậy, mình sẽ là người khổng lồ trên Ibara. Hay ít ra là một gã thật sự cao lớn. Vậy cũng hay đấy chứ. Mình luôn là một gã có chiều cao trung bình. Sẽ chẳng áy náy gì nếu một lần được là một anh chàng cao lớn. Cái quần đơn giản, không khuy nút, không khóa kéo, chỉ có một sợi dây nịt. Vải nhẹ giống như vải bông, mặt sau không có nhãn hiệu. Mấy cái quần ngắn này cho mình biết, trên một mức độ nào đó dân Ibara là những người văn minh.

Có ba chiếc quần với ba màu chói lọi khác nhau: đỏ, cam và xanh lá. Sau vụ trên Quillan, mình không muốn mặc bất cứ thứ gì màu đỏ nữa. Vì vậy cởi bộ quần áo Trái Đất Thứ Nhất ướt sũng, mình xỏ vào cái quần ngắn màu xanh lá tươi rói. Tất nhiên là rất vừa vặn. Mình cân nhắc xem có nên mặc quần lót của mình không nhưng rồi thấy nó quá lộ liễu. Mình chơi kiểu người rừng luôn.

Còn có một chồng sơ mi. Ít ra mình nghĩ là sơ mi. Trông chúng giống như những cái áo vét… không tay. Mình không thể phân biệt mặt nào trước mặt nào sau. Mình đoán, điều đó không quan trọng. Nhặt lên cái áo màu xanh lá, phần nào “tông xuyệt tông” với cái quần cũng xanh lá, mình tròng qua đầu. Rộng rãi thoải mái, rất tốt vì trời Ibara nóng. Cái nóng nhiệt đới. Nếu có thể tìm hiểu được điều gì quacó thể biết người dân ở đây khá xuề xòa và sống trong thời tiết nhiệt đới ấm áp.

Ồ! Và họ.. không là cá.

Cuối cùng là giày, hay một thứ trông giống giày. Một đôi xăng-đan như được đan bằng chất liệu thiên nhiên. Mình nhặt lên một đôi vừa khít. Nó tuột vào giữa ngón chân mình như đôi dép tông, nhưng còn có một quai vừa khít ngón chân làm chúng không hẳn là đi dép tông. Chúng thoải mái, tiện lợi hơn dép tông. Mang chúng mình có thể chạy nếu cần. Mình đã sẵn sàng. Đã tới lúc ra khỏi nơi này.

Mình muốn nhìn Ibara.

Quan sát vách đá, mình thấy có nhiều kẽ nứt chạy thẳng từ nền cát lên. Có những chỗ nứt trông rộng như đủ lách qua. Đút đầu qua vài khe nứt, mình chỉ thấy bít bùng toàn là đá. Mình tiếp tục tìm kiếm vòng quanh mép hang, tin chắc một trong những khe hở đó là lối ra. Trong khi khảo sát, mình cảm nhận các âm thanh rõ hơn. Vẫn là âm thanh xì-xào-xì-xào mình đã nghe khi còn trong ống dẫn. Dù là gì, âm thanh đó đến từ bên ngoài vách hang động này. Còn một âm thanh khác nữa. Tiếng vo ve mờ nhạt, xa xa. Mình chỉ nghe loáng thoáng, nhưng rõ ràng là có. Liên tục. Đều đặn. Bí ẩn.

Đi gần trọn vòng hang, mình mới thấy lối ra. Khe hở này lớn hơn những khe khác. Đó là manh mối đầu tiên. Manh mối thứ hai là mặt cát trải dài bên trong. Chắc chắn đây là đường ra khỏi ống dẫn. Ra khỏi hang mình bước vào một đường hầm ngoằn ngoèo tăm tối. Hẹp tới nỗi, đôi lần mình phải quay ngang, mới qua lọt hai vai. Thỉnh thoảng đường đi dẫn vào một hang động khác, rồi lại thu hẹp lại. Qua những giao điểm, mình phải đoán nên đi theo lối nào. Những lối lắt léo bắt đầu gây cảm giác như một mê cung. Mình rẽ, bước mấy mét, và đâm ngay ngõ cụt. Đó là hàng loạt đường hầm rất phức tạp. Vậy cũng tốt, vì nó ngăn cản những kẻ vô tình phát hiện ra ống dẫn. Nhưng mặt khác, nó gây khó khăn khi tìm lối ra.

Khi tiếp tục đi, mình nghe tiếng vo ve lớn hơn. Qua một khe đá, mình nghe âm thanh đó càng rõ hơn. Mấy lần mình rẽ, âm thanh đó không còn rõ nữa. Càng lúc sự tò mò về Ibara càng tăng. Hang động ngoằn ngoèo tối om. Thỉnh thoảng một khe sáng giúp mình tiếp bước, nhưng hầu hết thời gian mình phải lấy tay mò mẫm phía trước vì sợ va mũi vào đá.

Sau cùng vừa qua một khúc rẽ, mình cảm thấy có sự chuyển động. Rất nhanh. Nhanh tới nỗi mình nghĩ là đã tưởng tượng. Đó là một tia sáng thoáng hiện, rồi biến mất. Mình dừng lại, nhìn lên nhưng không thấy gì. i thêm vài bước, mình lại thấy tia sáng chuyển động. Mắt mình vừa kịp nhìn là nó biến ngay. Cứ như mình đang cố nhìn một ánh sao băng vậy. Trừ khi bạn đang nhìn chăm chăm ngay nó trong lúc nó lóe lên, không thì bạn sẽ vuột mất nó.

m thanh xì-xào-xì-xào cũng trở nên lớn hơn. Có vẻ như mình đang tới gần bên ngoài. Mình rẽ, và thấy đang đứng trước một cái hang, nhỏ hơn hang có ống dẫn một chút. Mình nhận ra ngay sự thay đổi của âm thanh. Tiếng vo ve lớn hơn rất nhiều. Quá lớn, làm át đi âm thanh xì-xào-xì-xào. Dù vật gì đang tạo ra tiếng vo ve, thì mình cũng đang ở gần rồi.

Hang này không tối như phần mê cung kia. Nó tỏa ra một nguồn sáng mời gọi và thân thiện. Ánh sáng từ bên ngoài rọi qua những khe hở là ánh sáng trắng, như ánh sáng ban ngày. Nhưng ánh sáng tràn ngập hang này màu vàng kim. Mình đoán, chắc trong hang có một loại lân tinh. Tiến một bước qua khe hở, mình quan sát hang, tìm một khe hở khác để tiếp tục cuộc hành trình. Ngay khi mắt quen với nguồn sáng ấm áp, mình nhìn thấy… cuối hang, đối diện mình là một khe hở thẳng đứng. Đó là lối ra.

Không thể nói vì sao, nhưng ngay khi nhận ra lối ra, mình tràn ngập cảm giác khiếp đảm. Không có gì xảy ra. Chẳng có gì thay đổi. Chỉ là một cảm giác bồn chồn lo lắng. Giác quan thứ sáu cho mình biết cái hang này là một nơi không an toàn. Mình muốn ra khỏi đây thật nhanh, và bắt đầu bước về cuối hang. Mình mới đi được nửa đường, tiếng vo ve thoắt ngưng bặt. Im lặng. Mình chỉ còn nghe âm thanh xì-xào-xì-xào. Cái gì làm nó ngừng bặt? Câu hỏi đúng hơn là: cái quái gì tạo ra âm thanh đó? Mình có cảm giác, sự di chuyển đột ngột của mình qua hang đã làm âm thanh đó ngừng lại. Nhưng bằng cách nào? Đó có phải là một thứ gì bằng máy? Mình đã đi qua một cái nút làm tắt máy?

Tóc gáy dựng đứng, mình không biết nên tiếp tục di chuyển hay đứng im tại chỗ. Mình quyết định chờ một chuyện gì đó xảy ra. Không phải chờ lâu. Ánh sáng vàng kim bắt đầu sáng chói hơn. Tiếng vo ve trở lại. Lúc đầu thấp, nhưng khi ánh sáng tăng, tiếng vo ve tăng theo. Tiếng vo ve đều đều lớn hơn khi ánh sáng quanh mình tăng lên. Ánh sáng ấm áp.

Ánh sáng vàng.

Một vật gì đó lóc lên trước mặt mình. Đó là tia sáng biến nhanh như khi xuất hiện. Đúng tia sáng mình đã cảm thấy trong đường hầm. Lần này mình nhìn thấy. Một tia khác lướt qua. Nó phóng tới trước mình, ngừng lại, rồi vụt phóng qua ngả khác. Rất nhanh. Dù vật đó là gì, nó được điều khiển. Thêm một tia nữa vụt qua sát mặt mình. Mình nghe tiếng vù vù. Không là lân tinh. Đó là một lo ti côn trùng, giống như đom đóm. Thêm tia nữa vút qua, rồi một tia nữa. Ánh sáng vàng rực rỡ hơn. Tiếng vo ve lớn hơn. Mình nhận ra đó không phải là tiếng vo ve. Đó là tiếng vù vù. Ánh áng chói lòa hơn, như một ngọn đèn lớn trên đầu đang tăng độ sáng rọi khắp hang. Từ từ ngước lên, mình thấy một quang cảnh diệu kỳ.

Toàn thể trần hang đang lấp lánh. Cứ như mặt đá được trang hoàng bằng hàng ngàn ngọn đèn Giáng Sinh màu vàng đến lóa mắt. Mái trần sống động hẳn lên. Đây là nguồn năng lượng thiên nhiên kỳ lạ? Hóa chất? Điện? Hay là…

- Uiii!

Một vật gì đó châm vào chân mình. Vội vàng phủi văng nó đi, mình nhận ra đó là một con đom đóm. Những con vật nhỏ bé này châm chích như ong.

- Ui da!

Một con khác chích ngay vai trái mình, đau điếng. Một con vù vù trước mặt mình. Hai con vù vù trên đầu. Thực tế ớn lạnh làm mình bàng hoàng. Ánh sáng trên mái trần không là hóa chất hay điện. Cũng không là mái vòm thân thiện, ấm áp dẫn lối cho mình. Không. Mái trần phủ hàng ngàn những nữ thần báo tử nhỏ xíu. Chúng đang nổi giận, tiếng vù vù lớn hơn. Chúng đang tỏa ra màu vàng chói lọi. Tất cả tóm gọn lại một kết luận khủng khiếp:

Quig.

Quig trên Ibara là ong. Như có âm hiệu, mái trần sống động lên, những con quig-ong lao xuống như một bầy đom đóm hung dữ, nóng nảy. Chúng phóng tới mình! Mình co giò chạy lại một kẽ đá nứt. Cơn dông quig giận dữ. Mình không có đường thoát. Chỉ còn một hy vọng: chạy ra khỏi hang trước khi chúng tóm được mình. Hi vọng ánh sáng ban ngày sẽ ngăn chặn chúng. Tới khe nứt, vai va mạnh vào đá, nhưng mình không ngừng lại. Mình chỉ thoáng cảm thấy là bị va. Sợ thì đâu còn cảm thấy gì nổi. Mọi thận trọng đều tan biến trong khi mình nhảy nhót như điên qua cái hang lắt léo. Tiếng bầy ong lớn hơn, như tiếng cưa rì rì sau gót chân mình.

Phía trước, mình thấy đường hầm sáng dần lên. Chắc đã gần cuối đường hầm rồi.

Một con quig chích vào lưng mình. Rồi một con nữa. Vì sao chúng không nhào cả bầy, tấn công cùng một lúc? Mình không biết. Cóc cần biết. Điều đó chỉ làm mình chạy nhanhĐường hầm sáng dần lên. Lối ra đã gần kề. Mình phải tới được đó. Phải thoát ra ngoài. Phải tới vùng sáng. Phải hy vọng những con bọ sát nhân này sẽ không đuổi theo nữa. Đó là cơ hội cuối cùng của mình. Thêm ba cú đau nhói nữa. Chẳng khác nào bị kim đâm. Mình không đập chúng. Làm vậy chỉ thêm chậm bước.

Mình rẽ qua một khúc cua và đã thấy nó – khoảng trống sáng chói dẫn vào hang động. Lối vào Ibara. Hy vọng an toàn duy nhất của mình. Phải thành công. Mình sắp ra khỏi hang, vào vùng sáng trước khi bị đám quig gây thương tích trầm trọng.

Tin tốt là: mình đã thành công.

Tin xấu là: thành công cũng vô ích.

Mình phóng ra ngoài, để rồi thấy mình đang đứng trên một bãi biển. Phía trước là đại dương êm đềm xanh ngăn ngắt, trông như một tấm bưu ảnh vùng Ca-ri-bê. Mình nhận ra những cây cọ cao vút lắc lư trong làn gió nhẹ, mùi thơm ngọt ngào của hoa cỏ vùng nhiệt đới, và sóng vỗ dạt dào êm ả. Đó chính là cái âm thanh xì-xào-xì-xào: tiếng sóng vỗ. Hang đá có ống dẫn ở gần đại dương này. Khi chạy vào vùng sáng, mình cách bờ nước không tới ba mươi mét. Phóng qua cát, mình hướng tới bờ biển. Kế hoạch của mình là lao vào sóng, ngâm mình dưới nước để bảo vệ bản thân khỏi những con quig-ong kia.

Mình không thành công. Lũ quig tấn công. Đồng loạt. Ánh sáng mặt trời không ngăn được chúng mà còn làm cho chúng hung hăng hơn. Bây giờ đã ra ngoài, chúng không còn giống những con đom đóm phát ra ánh sáng vàng nữa. Bây giờ trông chúng giống những con ong bẩn thỉu, đen thui. Một bày ong. Những con ong giận dữ. Cứ như có một làn sóng nhỏ ập lên mình từ phía sau. Tiếp ngay sau đó là cái đau nhức nhối. Như hàng trăm mũi kim nhỏ xíu bỏng rát, lũ quig cắm phập ngòi chích vào mình. Chúng bu lấy chân mình. Một giây nhột nhạt. Một giây ngắn ngủi thôi. Ngay sau đó là sự đau đớn. Dường như cả bầy châm chích cùng một lúc. Khó diễn tả nổi đau như thế nào, vì mình chưa trải qua cảm giác này bao giờ. Chúng bu kín đầu mình. Chúng quá đông, đến nỗi bờ biển sáng rực dường như tối thui. Mình như bị một cái kén đen kịt bao phủ. Mình cố phủi chúng đi. Vô ích. Chúng quá đông. Thay vì đánh đuổi chúng, mình che kín đầu, sợ chúng tấn công vào hai mắt.

Chúng chích hai cánh tay mình. Hàng trăm, hàng trăm lần. Chẳng khác nào bị tra tấn bằng những giọt a-xít rát bỏng. Má, mũi mình đều bị châm chích. Hai tai, hai nách cũng không thoát. Muốn gào lên, nhưng lại sợ chúng bay tọt vào trong mi

Tiếng vù vù đến chói tai. Chúng đã tóm được mình. Mình là của chúng. Đau đến không còn cảm giác. Đau đến quá tải. Bộ não mình tê liệt. Lơ mơ, choáng váng. Dù nọc độc chúng đang tống vào mình là cái gì, nó đang hoạt động. Mình lảo đảo, cố tiến tới làn nước với hy vọng được nhào xuống, rũ sạch lũ quig. Không thể. Mình ở quá xa bờ nước. Bãi biển bắt đầu quay mòng mòng. Chỉ còn tiếng vù vù. Mình quỵ một gối xuống, cố tỉnh táo, dù không hiểu vì sao. Tỉnh táo đồng nghĩa với đau đớn. Mình nên đầu hàng nọc độc. Như vậy là giải thoát.

Ý nghĩ cuối cùng của mình là: mình không cách gì là ảo ảnh được. Ảo ảnh không thể nào đau đớn đến thế này. Rồi, tất cả trở nên tăm tối.


NHẬT KÍ #29

(Tiếp theo)

IBARA

Mình lại đang bơi.

Ít ra là mình cảm thấy giống như bơi. Mình trôi dạt, không trọng lượng. Không biết là lên, xuống hay ở giữa. Mình cũng thở được. Thoáng một giây, mình nghĩ có lẽ sau cùng thì mình đã mọc mang. Trong trạng thái lơ mơ đó, dường như không có gì là lạ lùng. Mình bị lôi kéo đâu đó về phía nam, và chawrnt chút lăn tăn nghĩ ngợi gì về điều đó.

Tình trạng đó không kéo dài. Mang mối đầu tiên cho biết mình đang trở về với thực tại chính là trọng lượng. Thân thể mình có cảm giác thật nặng nề. Nặng nề đến không ngời. Cứ như mình đang sống trong thân thể người khác. Mình không thích thú gì cảm giác này. Cảm giác như tê liệt. Và nóng. Rất nóng. Cứ như mình bị cuốn chặt trong một cái mền len ngứa ngáy, nhưng không thể đưa tay lên gãi. Dù sao thì mình cũng đâu biết phải gãi chỗ nào. Mình là một khối ngứa ngáy và bỏng rát. Sau cùng, mình đã đủ tỉnh táo để nhận ra là đang nằm, hai mắt nhắm tịt. Hé mắt ra là cả một nỗ lực, vì vật mình quyết định không cố nữa. Mình cũng sợ những gì sẽ nhìn thấy. Cảm giác như ai đó đang đặt hai bàn tay lên hai bên thái dương mình mà xiết chặt. Muốn bảo người đó dừng lại, nhưng môi mình không mở ra được. Hai môi mình gắn chặt vào nhau. Mình nuốt nước bUi cha. Cổ họng như giấy nhám.

Thực tế dần dần trở lại. Thà đừng tỉnh lại, vì càng ý thức được, mình càng nhận biết đang đau đơn đến ngần nào. Sau cùng, mình hé một mắt. Ánh sáng cũng làm mình đau. Mình cố nhìn quanh. Chẳng hiểu vì sao phải bận tâm nhìn, vì chung quanh chẳng có gì. Mình đang nằm ngửa, nhìn lên một biển cỏ. Phải, toàn cỏ. Mình có tập trung, nhưng không nghĩ gì nổi ngoài cảm giác khó chịu. Cái đầu như bị bóp nát, mình cảm thấy như bị ngộ độc cây trường xuân, rất nặng. Không, cây sồi. Độc cây sồi càng khiếp hơn. Nếu có gì khiếp hơn độc cây sồi, thì chính là những gì mình đang cảm thấy. Nhưng đây không là cây sồi độc. Đây là ong. Ong-qig. Mình đủ tỉnh táo để nhớ lại những con vật khốn kiếp đó. Nhìn cuống, mình thấy cánh tay đỏ lòm. Đầy những vết sưng tấy đau nhức. Những vết chích. Ôi, mình hẳn đã bị chích không biết bao nhiêu lần. Ghi nhớ. Hãy tránh xa những tấm gương. Quá xấu! Mình đóan, trông mình như cái gã “Đến lúc bị đập te tua rồi!” trong Bộ tứ siêu đẳng* (Fantasic Four: Bộ truyện tranh của Mỹ xuất bản năm 1961, được dựng thành phim hoạt hình, phim truyện và video game). Dù khốn khổ như vậy, nhưng mình cũng nhận ra một điều đáng mừng trong chuyện này: mình còn sống. Mình sẽ bình phục. Vụ này mình khá lắm. Chỉ không biết là đã đáp xuống đâu và bằng cách nào mình lại nằm đây.

- Anh tỉnh rồi.

Một giọng nữ dịu dàng. Tốt. Giọng nữ dịu dàng là tốt rồi. Nghe cũng không có vẻ gì là một con cá. Mình lạ hé mắt. Cô ta cúi xuống, đầu lộn ngược, nhìn vào mắt mình. Chính xác là nhìn vào một bên mắt. Trước hết, mình chú ý đến mái tóc. Mái tóc dài, đỏ sẫm, chải ngược ra sau được buộc bằng một dải ruy băng vàng. Rất phù hợp. Mắt màu xanh lục. Chưa bao giờ mình thấy một đôi mắt xanh thăm thẳm như thế. Chắc phải là màu của kính sát tròng thì mới đẹp đến vậy. Khá xinh, mình đoán thế. Vì, với một con mắt, nhìn ai đó đang cúi ngược xuống khó mà xét đoán cho chính xác.

Khi cô nhìn, mình thấy vẻ lo lắng trong đôi mắt xanh đó. Lo lắng là tốt. Vì chính mình cũng đang lo. Ít ra, chúng mình cùng một phe.

Mình khào khào hỏi:

- Bao lâu rồi?

- Anh đã ngủ ba ngày. Chúng tôi cho anh dùng thuốc ngủ. Anh cần phải bình phục. Anh thật may mắn.

Mình rên rỉ, cố làm ra vẻ mỉa mai

- Thật ư!

Cô ta hiểu, mỉm cười, nói:

- Nọc độc của ong không làm chết người, trừ khi anh bị dị ứng với nó. Tôi đoán anh không bị dị ứng, nếu có thì anh chết rồi.

Đoán hay ghê!

- Anh cần phải nằm yên cho đến khi chất độc đi qua các bộ phận trong cơ thể anh.

Tốt. Sao cũng được, Mình cũng không hề muốn ngồi dậy. Hay bước đi. Hay nói chuyện. Hay là bất cứ thứ gì khác liên qua tới hoạt động và suy nghĩ. Vậy là loại trừ được hết mấy chuyện đó rồi, trừ chuyện ngủ thôi.

Cô ta ân cần nói:

- Chưa bao giờ tôi thấy qua nhiều vết chích như thế này. Anh có làm gì khiến bầy ong nổi giận không?

Minh khào khào:

- Không.

- Uống cái này đi.

Cô đưa một tách nhỏ lên môi mình. Mình phải nhấc cái đầu đau buốt lên, cố hớp vài ngụm, dù chảy xuống cằm nhiều hơn là vào cổ họng.

- Anh đang hồi phục nhanh khác thường. Tôi chưa hề thấy một ca nào giống vậy.

Mình đã từng thấy.

- Ngủ thêm một chút là anh đã có thể đứng dậy được rồi. Lúc đó chúng tôi mới có thể bắt đầu.

Cô cúi xuống nói:

- Chúng tôi cần tìm hiểu anh là ai, và vì sao lại ở trên Ibara.

Ồ, ra vậy.

Chẳng biết cô ta cho mình uống gì, nó thật sự đã làm mình buồn ngủ. Mình lại đang bơi. Mình thích thế. Trước khi trởi lại hồ bơi, mình có mở mắt lần nữa, để hỏi:

- Cô tên gì?

- Telleo.

Telleo. Một cái tên dễ chịu. Một mái tóc dễ chịu. Được biết có người săn sóc mình cũng thật dễ chịu, dù cô ta là ai.

- Cám ơn cô, Telleo.

Nở nụ cười thân thiện, cô hỏi:

- Còn tên anh là gì?

Một câu hỏi dễ dàng. Những câu hỏi gay go sẽ tới sau. Mình sẽ phải chế ra vài câu trả lời. Nhưng không phải lúc này. Mình đi bơi cái đã.

- Là Pendragon. Chúc ngủ ngon.

Thức dậy, mình thấy khá hơn. Không khỏe hẳn, chỉ khá hơn. Những vết bỏng rát ngứa ngáy giảm còn một nửa. Hàng trăm vết ong chích đã đóng vẩy. Đôi khi làm một Lữ khách cũng tốt. Mình tự hỏi, gặp kiểu tấn công như thế, một người không phải là Lữ khách sẽ phải cần thời gian bao lâu bình phục. Đừng hiểu lầm, mình cũng vẫn là một đống te tua. Nhưng có thể hoạt động được.

- Ngồi dậy được không?

Một giọng nói quen quen. Telleo xuất hiện cuối giường mình.

- Tôi nghĩ là được. Lần này tôi ngủ bao lâu vậy?

- Hai ngày. Sáng nay tôi ngưng cho anh uống thuốc. Đã đến lúc anh trả lời những câu hỏi của chúng tôi.

Mình tê cứng đến không thể nhúc nhích. Không biết vì nọc ong hay vì nằm suốt năm ngày. Có lẽ

Mình lẩm bẩm qua hai hàm răng nghiến chặt:

- Bình Dầu.[6]

- Xin lỗi, anh nói gì?

- Không có gì.

Mình không nên nói đùa theo kiểu Trái Đất Thứ Hai nữa.

Khi Telleo giúp mình ngồi dậy, đầu mình nhẹ hẫng. Mình lèm bèm:

- Ui! Không được rồi.

Cô đặt mình nằm xuống:

- Để lần sau thử lại.

Mình nằm ngửa, nhìn lên trần. Trần đan bằng cỏ xanh. Không tưởng tượng nổi. Thật sự mình đang nhìn thấy cỏ. Đây là một căn lều đơn giản với cách gỗ. Mình đang nằm trên một cái giường các mặt sàn gỗ chừng ba mươi phân. Đệm giường thoải mái nhưng mỏng. Cửa thiết kế sơ sài bằng những thanh dài trông như tre. Đồ đạc cũng đơn giản, thẳng đuột và bằng gỗ. Vài cái ghế, một cái bàn làm bằng cùng một vật liệu trông như tre, giống cánh cửa. Trên bàn chất đầy những bình gốm đủ kích cỡ. Mình đoán đây là những bình chứa loại thuốc Telleo vẫn cho mình uống. Từ những gì mình có thể thấy, thì không còn phòng nào khác nữa. Chỉ có vậy thôi. Thoánh nhìn, nơi này giống như một căn chòi thời nguyên thủy.

Nhìn kỹ hơn, mình thấy có những thứ không hợp với những hình ảnh thô sơ mới thoáng nhìn. Gần sát trần, trên mỗi bức tường là một đèn ống chạy dài, giống như bóng đèn nê-ông. Những con người này không lệ thuộc vào lửa để có ánh sáng. Họ có điện. Dù ở trong nhà, vẫn thoang thoảng gió. Nhìn qua phòng, mình thấy một loại cánh quạt, đặt trong khung, quay chầm chậm. Lặp lại lần nửa: họ có điện. Điều kỳ lạ sau cùng xảy ra khi Telleo tiến tới cái bàn lủ khủ bình đất nung, cầm lên một dụng cụ nhỏ, màu kem, giống như bánh xà phòng.

Cô chạm vào vật đó vài lần rồi nói vào đó:

- Anh ta tỉnh rồi.

Đó là điện thoại. Mình chăm chú nhìn trong khi cô ta pha trộn một hỗn hợp trong mấy cái bình đất. Telleo là một cô gái nhỏ bé. Chỉ cao hơn mét rưỡi. Da sáng, nhưng rám nắng. Cô ta mặc một váy áo ngắn màu vàng, hình như cùng loại vải với quần áo của mình. Cùng kiểu, rộng rãi, không tay. Cô cũng đi một đôi xăng-đan giống mình. Mình đoán, cô ta lớn tuổi hơn mình, nhưng không nhiều lắm.

Nhìn cô làm việc, mình tự hỏi: cô ta sẽ đóng vai trò quan trọng đến đâu trong chuyến phiêu lưu của mình trên Ibara. Là bạn? Thù? Hay vai trò của cô sẽ kết thúc ngay khi mình rời khỏi túp lều này?

Cô đem cho mình một cốc gì đó màu nâu, rồi hỏi:

- Đói không?

- Tôi không muốn ngủ nữa.

- Không đâu. Đây là nước súp. Anh cần lấy lại sức.

Mình nhận cốc với vẻ biết ơn, rồi nhấp từng ngụm. Ấm, mặn và ngon. Mùi vị như súp gà. Mình đoán, dù ở đâu, khi nào, thì súp gà vẫn là món bổ dưỡng phổ biến. Trong khi mình nhấp nháp, Telleo trở lại với công việc trên bàn. Cô bận rộn làm việc gì đó không biết, nhưng luôn tò mò nhìn trộm mình. Cô không biết mình là ai, từ đâu tới. Phần mình, trái lại, không biết đang ở đâu và tới đây bằng cách nào. Cả hai đều mù tịt về nhau. Mình cần tìm hiểu về Ibara, nhưng phải thận trọng lựa lời. Mình nói:

- Cảm ơn cô đã săn sóc cho tôi.

- Có gì đâu, công việc của tôi mà.

- Cô là bác sĩ?

- Phụ tá bác sĩ.

- Vậy… đây là bệnh viện?

- Không. Đây là lều cộng đồng dành cho tòa án.

Tòa án. Mình đ bắt đầu tìm hiểu. Mình vẫn không biết xã hội này như thế nào. Từ những gì mình thấy trong lều này, đây là một sự pha trộn kỳ lạ giữa người nguyên thủy và hiện đại. Mình chợt có ý nghĩ: đây rất có thể là một khu nghỉ dưỡng. Bạn biết rồi đó, nơi người ta bỏ ra cả đống tiền để ở trong những căn lều hoang sơ thứ thiệt, và giả đò như đang sống đời sống đạm bác.

Telleo giải thích:

- Một nhóm dân chài thấy anh bị ong tấn công, họ đã đưa anh về làng. Nếu họ không tới kịp, xua bầy ong đi, không biết anh sẽ bị thương nặng tới cỡ nào.

- Tôi nghĩ mình đã thật sự may mắn.

Telleo trông có vẻ như có điều muốn nói, nhưng không biết có nên nói không. Mình hỏi:

- Có muốn nói gì?

Nhìn quanh như để biết chắc chỉ có hai chúng mình, cô ta quỳ xuống bên mình, vội vã nói như sợ không có đủ thời gian:

- Anh từ đâu tới? Tôi biết anh không phải là ngưởi ở đây.

Không có vẻ gây hấn hay gì khác, hình như cô chỉ thật sự tò mò. Rắc rối là, mình không biết phải trả lời sao. Đã đến lúc nói kiểu mơ hồ.

- Cô nói đúng. Tôi không phải là người ở đây.

Mình nghỉ đó là câu trả lời chung chung và thành thật mà mình có thể mạo hiểm nói. Cô nhìn mình với đôi mắt mở to, khờ khạo. Thình lình cô ấy có vẻ như trẻ hơn là mình mình nghĩ lúc đầu nhiều. Mình như đang chuyện trò với một cô gái nhỏ, ngây thơ.

Cô ta phản đối:

- Nhưng không có thuyền. Ít ra là không có thuyền tại nơi dân chài tìm thấy anh. Họ đã rà soát bãi biển.

Mình lại nói kiểu mơ hồ:

- Có nhiều cách đi.

Cô tò mò nhìn mình:

- Tôi không hiểu. Nếu không có thuyền thì còn cách nào khác nửa để anh tới đây?

Không nhắc tới ống dẫn, mình chỉ trả lời bằng một cái nhún vai không dứt khoát.

Cô lẩm bẩm như nói một mình:

- Quá nhiều điều mình không biết.

Rồi hai mắt trở nên sắc sảo, cô nhìn mình:

- Có người muốn bỏ mặc anh chết trên bờ biển. Nhưng tôi không để họ làm thế. Chúng tôi không phải là dân man rợ.

- Nghe vậy tôi rất mừng. Cảm ơn cô.

- Đừng cảm ơn tôi. Hãy cho tôi biết sự thật. Anh có phải là một kẻ Đào tẩu không?

Hả? Kẻ Đào tẩu? Mình không hiểu. Kẻ Đào tẩu là tốt hay xấu? Mình lại nói kiểu mơ hồ.

- Tôi không tới đây để gây rắc rối. Đó là một sự thật hoàn toàn.

Telleo lom lom nhìn mình một lúc, như để quyết định nên tin mình hay không. Sau cùng nở nụ cười nhẹ nhõm, cô nói:

- Tôi củng không nghĩ anh là một kẻ Đào Tẩu. Trong anh chẳng giống một kẻ Đào tẩu tí nào. Tôi rất mừng.

Phù! Mình củng mừng. Ghi nhớ cho mình: Kẻ Đào tẩu = Xấu.

Cô đứng dậy, phấn chấn lại:

- Vậy nó cho tôi biết anh từ đâu tới đi. Chưa bào giờ tôi ra khỏi ranh giới Rayne. Chắc có nhiều điều thú vị lắm. Tôi nghe nhiều chuyện, nhưng làm sao bằng chính mắt chứng kiến được.

Rayne. Là gì thế? Ước sao mình có thể hỏi, nhưng làm vật sẽ đẻ ra cả đống câu hỏi trời lại. Mình đánh trống lảng:

- Tôi muốn ra ngoài.

Telleo cắn môi bối rối:

- Thế là không khôn ngoan đâu.

Mình cố gượng ngồi dậy, lần này rất từ từ.

- Tại sao? Tôi cảm thấy khỏe hơn. Tôi nghỉ mình có thể…

Cánh cửa bỗng bật mở. Ba người đàn ông bước vào. Tất cả đều mặc quần áo giống như mình. Đứng sát nhau, họ nhìn mình trừng trừng. Nhìn trừng trừng là điềm xấu rồi. Họ đều cỡ mình, hoặc to con hơn. Nghĩa là mình sẽ không là một gã cao lớn. Ồ, còn nữa. Tất cả đều để tóc dài gần tới thắt lưng, đeo đai da quanh bụng như dây nịt. Gài trong đai là những thanh gỗ ngắn. Vũ khí. Mỗi bên hông là một thanh. Đây không là một ủy ban tiếp đón.

Telleo lì lợm nhìn họ, hai chân dạng ra:

- Chưa thể đưa anh ta đi được.

Cô cố làm ra giọng ghê gớm, nhưng cô vốn đâu có ghê gớm nổi.

Gã đứng giữa – to lớn nhất đám – bước qua cô, cúi nhìn như mình là một tệ nạn, làu bàu:

- Mi đã bị bắt.

Ôi tuyệt vời! Mới tỉnh lại trên Ibara được mấy phút, mình đã gặp rắc rối rồi. Không muốn thách thức quyền uy của hắn, mình không đứng dậy, ngây thơ hỏi:

- Vì sao? Tôi đâu có làm gì nên tội.

Hắn nạt:

- Mi sẽ không có cơ hội để phạm tội đâu.

Mình kêu van

- Các anh không thể bắt tôi vì những gì tôi chưa làm.

Telleo lên tiếng:

- Anh ta không phải là kẻ Đào tẩu. Anh ta vô hại.

Gã to lớn lạnh lùng nhìn cô, hỏi:

- Nhưng sao cô biết chứ?

Telleo nói rất thành thật:

- Vì anh ta nói với tôi và tôi tin anh ấy.

Hay quá, cố lên Telleo!

Hắn cười khểnh. Mình ghét cười khểnh.

- Đó là lý do cô săn sóc bệnh nhân, còn chúng tôi là an ninh.

Telleo không chịu thua:

- Anh ta phải ở đây cho tới khi khỏe lại.

Gã to c

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện