Thích Khách - Thẩm Nhạn
Chương 25
Tử lâu Trương Kí hôm nay ế khách, có kẻ thù hằn đánh chết thực khách ngay tại chỗ, chưởng quỹ báo quan, bộ khoái chạy tới điệu hung phạm đi. Thực khách cả sảnh đường tản ra như chim muông, trong tửu lâu bừa bãi lộn xộn, bát đĩa vỡ hòa lẫn với canh thừa thịt nguội.
Thu dọn được một nửa thì có khách tới.
Hầu bàn trông thấy người, thoạt tiên là vui mừng, sau đó thì tỏ vẻ khó xử: “Khách quan, ghế ngài ngồi bị người ta đập gãy rồi…”
Vị thực khách này đến không quá siêng, dăm hôm một chuyến, có lúc sáng sớm tửu lâu vừa mở cửa đã đến, có lúc sắp đóng cửa mới đến. Trừ bữa đầu tiên tìm đại ghế trống ra, những bữa khác đều ngồi chỗ cạnh cửa sổ lầu hai, bữa nào cũng chỉ đích danh đầu bếp Phùng Bảo Vinh làm món “Cá vượt long môn”.
“Không sao, dọn dẹp sạch sẽ là được.” Phùng Thiếu Mị nói, “Cho nửa con gà ống, một chân giò kho tàu, một mề gà xào giá, một ‘Cá vượt long môn’ trước đi… Thêm hai suất cơm bát bảo, hai bát canh dạ dày thái sợi, một bầu rượu hoa điêu hâm nóng nữa.”
Có vẻ như là gặp bạn, gọi nhiều hơn bình thường khi đi một mình rất nhiều.
“Ngài tới không khéo rồi, hôm nay thầy Phùng không ở đây.” Hầu bàn nói, “Đầu bếp đang trực cũng biết làm món ‘Cá vượt long môn’ này, ngài thấy thế nào?”
Phùng Thiếu Mị thoáng sửng sốt: “Vậy thì thôi.”
Hầu bàn đáp lời, vừa xoay người đi thì bị gọi lại: “Chưa thấy ông ấy nghỉ bao giờ, chẳng lẽ xảy ra chuyện gì?”
“Ý ngài là thầy Phùng ạ?” Hầu bàn vung cái giẻ nhớp nháp, “Nghe chưởng quỹ nói là vợ ở nhà ốm nặng, bảo là bệnh gì nhỉ… Bệnh hủi, nằm liệt trên giường bán thân bất toại, e là không sống nổi.”
Cơm bát bảo mới bưng lên một bát thì Hoắc Hạnh Nhi đến. Trông thấy sảnh đường hỗn loạn, cô nàng bĩu môi: “Đây chính là chỗ tốt cô nói ấy hả?”
Không nghe thấy trả lời, lại thấy Phùng Thiếu Mị đan hai bàn tay đặt dưới mũi, ánh mắt đọng lại trong khoảng không, vững như đá tảng.
Hoắc Hạnh Nhi huơ tay trước mặt nàng.
Phùng Thiếu Mị hoàn hồn: “Đến rồi à? Hôm nay tới không khéo.”
Hoắc Hạnh Nhi kéo ghế ra ngồi xuống, cô nàng nặng lòng ăn uống, thấy trên bàn là rượu đầy thịt béo đúng ý mình thì mặt tươi như hoa: “Vẫn là cô hiểu tôi.”
Gần đây, Giang Đô vương liên tiếp có hành động, thuộc hạ cũng xoay như con quay theo, đã hơn nửa ngày cô nàng không được ăn cơm, bụng xép lép ngực dính vào lưng.
“Nhà họ Tạ xong rồi.” Hoắc Hạnh Nhi nhấc bình sứ trên bàn lên, dùng trà tráng bát, “Chiêu gài tang vật của vương gia tài tình lắm, cứ thế khiến ổ nhà họ Tạ tay chân tương tàn, oan oan tương báo, lần này Tạ tam Tạ ngũ cùng thiệt mạng, không tránh khỏi huynh đệ bất hòa, lưới rách cá chết.”
Dưới lầu vọng lên tiếng giáp trụ va chạm và giày lính đạp đất.
Cô nàng ngó ra cửa sổ: “Thấy không? Tới rồi kìa.”
Vị trí tửu lâu Trương Kí đẹp, cách đất quyền quý tụ họp chỉ một con đường. Người tới là Hổ Bôn quân cấm binh cận vệ của thiên tử, ước chừng phải đến năm mươi người, giáp bạc đai vàng, cầm giáo cầm khiên, xông thẳng đến phủ Tạ thừa tướng.
Đàn ông phận nộ kêu gào, đàn bà la hét khóc lóc, ồn ào náo động vọng từ xa tới.
Đám đông tụ lại dưới lầu: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Trở trời rồi!” Người khác đáp, “Hôm nay lâm triều, Tạ tướng bị hặc nhận hói lộ mấy chục ngàn lượng bạc trắng, chứng cớ xác thật, đang tịch thu tài sản đấy.”
Phùng Thiếu Mị gắp một miếng mề gà, đầu bếp nêm nếm vừa vặn, tròn vị ngon miệng: “Nhà họ Tạ đổ, Tạ Thiêm cũng chẳng được sống yên, đại tiểu thư có làm loạn không?”
“Có chứ, sao lại không.” Hoắc Hạnh Nhi bĩu môi, “Hôm trước đại tiểu thư núp trong thư phòng nghe lén được vương gia định khai đao với nhà họ Tạ, chạy đi báo tin cho Tạ Thiêm được nửa đường thì bị vương gia bắt về. Có thế trên dưới cả phủ mới biết đại tiểu thư tự hẹn ước chung thân với Tạ Thiêm, còn mười ngày nữa là đến ngày thành hôn của cô bé và cháu ruột đại tư mã rồi, hai ngày nay trong vương phủ ầm ĩ suốt ngày.”
Phùng Thiếu Mị cầm khăn lau khóe miệng: “Đáng tiếc.”
“Lại chẳng.” Hoắc Hạnh Nhi chống quai hàm nhìn hỗn loạn bên ngoài, “Đẹp làm sao một đôi tài tử giai nhân, tiếc là tình không gặp thời.”
Đàn ông đàn bà nhà họ Tạ nối thành một chuỗi, bị cấm binh áp giải ra khỏi phủ họ Tạ, áo quần xốc xếch, mặt mũi lấm lem. Theo sau là tài sản bị tịch thu, có kẻ nhiều chuyện đếm từng xe, đầu váng mắt hoa đếm sai đếm lại vẫn chưa hết.
Phường trò cách vách đang hát “Đào hoa phiến”, giọng hoa đán cao vút chói tai vượt tường trôi dạt: “Trông người xây cất lầu son, trông người thết tiệc đãi khách, trông người lầu đổ tiệc tàn!”
Thanh la đồng gõ “cheng cheng”, đinh tai nhức óc.
Phùng Thiếu Mị không ham rượu, rượu mạnh lại càng xin miễn không kham, rượu hoa điêu nàng chọn là loại ôn hòa, thơm dịu không gắt. Hoắc Hạnh Nhi là con gái nương tử bán rượu, từ nhỏ đã sống trong tiệm rượu, chê không đủ mạnh, gọi thêm một bầu trúc diệp thanh, biết Phùng Thiểu Mị không rành món này nên tự rót tự uống.
Rượu ấm xuống bụng, hơi nóng xộc lên, mồ hôi hột túa ra ngoài.
Rượu qua ba tuần, món qua năm vị, Hoắc Hạnh Nhi nhón vạt áo bị mồ hôi thấm ướt dính vào da lên giũ, móc tẩu thuốc làm từ trúc tương phi ra, cầm miệng tẩu ghé vào miệng rít một hơi, một luồng khí xoay vòng trong lồng ngực, chậm rãi nhả ra.
Cách khói mù lượn lờ, Hoắc Hạnh Nhi nói: “Thiếu Mị, vũng nước đục này trước mắt càng ngày càng khó lội.”
Nước canh nguội ngắt nổi một lớp váng dầu teo tóp, dưới ánh nắng rực rỡ sóng sánh, bên ngoài vàng ngọc bên trong rữa nát.
Đặt bát rượu đã thấy đáy xuống, cô nàng đứng dậy: “Chỗ vương gia còn có việc, đi đây.”
Phùng Thiếu Mị gật đầu: “Đi đường cẩn thận, bảo trọng.”
Hoắc Hanh Nhi cười toét miệng: “Cô cũng vậy.”
Kịch hay phủ họ Tạ bên ngoài đã gần đến hồi cuối, xe ngựa chở tài vật cuối cùng chạy ra cửa, cấm binh dán giấy niêm phong trước cửa, cưỡi ngựa lớn về cung phục mệnh. Đám đông tan tác chim muông, trước cửa nhà họ Tạ bừa bộn, hiu quạnh yên ắng.
Phùng Thiếu Mị gọi hầu bàn lên thanh toán tiền cơm, đối phương nói: “Thầy Phùng đến rồi, khách quan muốn gọi ‘Cá vượt long môn’ nữa không ạ?”
Nàng sững người, gật đầu: “Có.”
Thức ăn lên bàn, con cá chép này chọn không tốt, thịt hơi bã. Vừa ăn lưng dạ nên lúc này cũng chẳng thèm ăn lắm, Phùng Thiếu Mị gảy đũa, trong vô thức cũng ăn được hơn nửa.
Vừa định buông đũa thì đối diện ngồi xuống một người đàn ông trung niên tóc mai điểm bạc, mặc áo vải thô.
Ngẩng lên, là một gương mặt vừa quen thuộc vừa xa lạ nở nụ cười, khe rãnh trên mặt như sẹo đao: “Tôi là Phùng Bảo Vinh, nghe họ nói cô nương thích ăn món ‘Cá vượt long môn’ này của tôi. Bây giờ đang vắng khách, dưới bếp rảnh rỗi nên muốn lên làm quen với cô nương.”
Phùng Thiếu Mị từ từ siết chặt đũa trong tay: “Khi còn bé cha cháu thường nấu, nhớ hương vị này.”
“Muốn ăn thì mau về nhà đi thôi.” Phùng Bảo Vinh nói, “Tôi cũng từng có một đứa con gái, chẳng biết giờ đang nơi đâu, còn sống hay đã chết, nếu còn sống thì chắc cũng lớn bằng cô nương.”
Phùng Thiếu Mị mím môi: “Bệnh của phu nhân thế nào rồi ạ?”
Phùng Bảo Vinh thoáng sửng sốt: “Bệnh hủi phát tác nhanh lắm, lấy thuốc buộc mạng thôi, đại phu nói không sống qua cuối năm.”
Trước khi đi, Phùng Bảo Vinh hỏi họ Phùng Thiếu Mị.
“Cháu…” Nàng đáp, “Cháu họ Tiết.”
Rời khỏi tửu lâu Trương Kí chưa được hai bước, Phùng Thiếu Mị bị người ngoài phố chặn lại, người chặn là một gương mặt quen thuộc, thư đồng của Thôi Thanh Giang.
Đối phương dẫn nàng đến Tụ Phong Trai, cách Trương Kí ba cửa hàng, đều là tửu lâu nhưng bên trong khác nhau trời vực. Trương Kí giá rẻ, người tới ăn nhậu quá nửa là dân thường, Tụ Phong Trai đứng tên Giang Đô vương, chuyên cung cấp hưởng lạc cho vương công quý tộc.
Giang Đô vương thường tiếp khách ở đây, Phùng Thiếu Mị cũng chẳng xa lạ gì.
Đi vào gian nhã, trước Thôi Thanh Giang bày một bàn cờ, cờ đen cờ trắng đan xen, ván cờ đã qua nửa, hắn đang tự mình đánh với mình.
Nghe thấy động tĩnh, hắn ngẩng đầu lên, câu đầu tiên mở miệng là: “Tôi nên gọi là Phùng cô nương hay là cữu mẫu đây?”
Phùng Thiếu Mị hỏi: “Thôi tiên sinh muốn gọi thế nào?”
Thôi Thanh Giang đáp: “Phùng cô nương, mời ngồi.”
“Chơi cờ có câu thế này, hai phe đấu cờ đều có một quân có cũng được không cũng chẳng sao, gọi nó là quân phế, dùng để dụ địch hoặc đánh yểm trợ thì gọi là quân bỏ.” Ngón trỏ hắn chỉ vào một góc ván cờ, “Hôm nay Thôi mỗ mời Phùng cô nương tới là muốn mời cô nghe một vở kịch hay.”
Thư đồng dời giàn hoa cao cỡ nửa người bên tường ra, bên trên đặt một chậu hoa lam cảnh thái tráng men vẽ vàng, bên trong trồng cây tùng mỹ nhân. Trên mặt tường lộ ra một cái lỗ nhỏ bằng ngón cái, trát bùn cỏ lên, đầy tớ bóc ra, có thể nghe rõ tiếng gian nhã bên cạnh.
Đợi chừng nửa nén nhang, cách vách trước sau vọng lại tiếng đẩy cửa đi vào, tiếng bước chân không đồng nhất giao thoa.
Tiếng kéo ghế ngồi vừa lắng xuống thì nghe một giọng nam quen tai truyền tới: “Chuyện nhà họ Tạ được Vô Nhai Tông dốc lòng trợ giúp, cô cảm kích khôn xiết.”
Là Giang Đô vương.
Tiếp đó vang lên một giọng nói khác, hẳn là Tô Ngạo: “Chuyện bổn phận không thể chối từ.”
Giang Đô vương nói: “Gần đây bọn mãng phu không biết điều có đến quý tông gây sự không? Cô đã sai người lấy tội trái đạo đức lùng bắt đưa lên quan phủ. Có chuyện gì khó xử, cô có thể giúp đỡ, Tô chưởng môn cứ việc mở lời.”
Tô Ngạo cảm ơn, ngừng một chút lại nói: “Vương gia nghiệp lớn sắp thành, không dám làm phiền, duy có một chuyện – thù giết thầy một ngày không báo, làm đồ đệ một ngày không an tâm. Bao giờ vương gia định giao độc phụ sát hại gia sư cho Tô mỗ?”
Giang Đô vương đáp: “Sau khi sự thành, Phùng thị mặc ngài xử trí.”
Sau đó chỉ còn lại hàn huyên xã giao, thư đồng được Thôi Thanh Giang ra hiệu, rón rén dùng bùn cỏ bịt lại lỗ trên tường, trong phòng tĩnh lặng như trước.
Phùng Thiếu Mị nhìn chằm chằm bàn cờ trước mắt, quân phế thành quân bỏ, con đường phía trước đứt đoạn.
Khi còn bé nàng từng xem một buổi khẩu kĩ trên đường, rất nhiều tiếng người, tiếng vật lần lượt đan xen tung hoành, rất sống động. Màn vải vén lên, trước mặt tiên sinh khẩu kĩ chỉ có một bàn một ghế một quạt một thước mà thôi.
Nàng vô cùng hốt hoảng, có một khoảng thời gian đêm nào cũng gặp ác mộng, mơ thấy sống đến cuối mới biết mình là một con rối dây, bị điều khiểu đi hết cả đời. Thoáng chốc tỉnh ngộ, bên ngoài vang lên tiếng khách xem hoan hô, người điều khiển buông dây, nàng không thể nhúc nhích được nữa.
“Vương gia có ơn tri ngộ với cô là thật,” Thôi Thanh Giang bưng chung trà trên bàn lên nhấp một ngụm, “Nhưng người không vì mình trời tru đất diệt, Phùng cô nương, cô nói xem có phải không?”
Phùng Thiếu Mị hỏi: “Thôi tiên sinh là người của thái tử?”
Thôi Thanh Giang không chối.
Phùng Thiếu Mị nói: “Vương gia đối xử với anh không tệ.”
Trước đây Thôi Thanh Giang chỉ là học trò nhà nghèo vào kinh đi thi, không cẩn thận bị cuốn vào tranh đấu đảng phái, thi mãi không đỗ, được Giang Đô vương thưởng thức nên mới thi triển được hoài bão. Bàn về ơn tri ngộ, so với Phùng Thiếu Mị chỉ có hơn chứ không có kém, chẳng biết là nửa đường đổi phe hay đã sớm mưu toan.
“Lúc theo vương gia Thôi mỗ chỉ là một phụ tá, nhoáng cái đã bảy năm mà nay vẫn là bình dân áo vải, chuyện hạt vừng hạt mè gì cũng có thể hô tới quát lui.” Thôi Thanh Giang khẽ cười, “Làm người đều lên chỗ cao, làm chuyện chính nghĩa thì được ủng hộ, làm chuyện trái nghĩa thì ít ai thương.”
Thư đồng tiễn Phùng Thiếu Mị đi, quay lại thắc mắc: “Nô tài thấy không giống người được việc.”
“Cho biết cắn sẽ không sủa.” Thôi Thanh Giang giơ tay áo phất qua bàn cờ, quân cờ mài giũa từ đá cuội phát ra tiếng giòn tan, “Nuôi càng thân, lúc cắn chủ càng đau.”
Thu dọn được một nửa thì có khách tới.
Hầu bàn trông thấy người, thoạt tiên là vui mừng, sau đó thì tỏ vẻ khó xử: “Khách quan, ghế ngài ngồi bị người ta đập gãy rồi…”
Vị thực khách này đến không quá siêng, dăm hôm một chuyến, có lúc sáng sớm tửu lâu vừa mở cửa đã đến, có lúc sắp đóng cửa mới đến. Trừ bữa đầu tiên tìm đại ghế trống ra, những bữa khác đều ngồi chỗ cạnh cửa sổ lầu hai, bữa nào cũng chỉ đích danh đầu bếp Phùng Bảo Vinh làm món “Cá vượt long môn”.
“Không sao, dọn dẹp sạch sẽ là được.” Phùng Thiếu Mị nói, “Cho nửa con gà ống, một chân giò kho tàu, một mề gà xào giá, một ‘Cá vượt long môn’ trước đi… Thêm hai suất cơm bát bảo, hai bát canh dạ dày thái sợi, một bầu rượu hoa điêu hâm nóng nữa.”
Có vẻ như là gặp bạn, gọi nhiều hơn bình thường khi đi một mình rất nhiều.
“Ngài tới không khéo rồi, hôm nay thầy Phùng không ở đây.” Hầu bàn nói, “Đầu bếp đang trực cũng biết làm món ‘Cá vượt long môn’ này, ngài thấy thế nào?”
Phùng Thiếu Mị thoáng sửng sốt: “Vậy thì thôi.”
Hầu bàn đáp lời, vừa xoay người đi thì bị gọi lại: “Chưa thấy ông ấy nghỉ bao giờ, chẳng lẽ xảy ra chuyện gì?”
“Ý ngài là thầy Phùng ạ?” Hầu bàn vung cái giẻ nhớp nháp, “Nghe chưởng quỹ nói là vợ ở nhà ốm nặng, bảo là bệnh gì nhỉ… Bệnh hủi, nằm liệt trên giường bán thân bất toại, e là không sống nổi.”
Cơm bát bảo mới bưng lên một bát thì Hoắc Hạnh Nhi đến. Trông thấy sảnh đường hỗn loạn, cô nàng bĩu môi: “Đây chính là chỗ tốt cô nói ấy hả?”
Không nghe thấy trả lời, lại thấy Phùng Thiếu Mị đan hai bàn tay đặt dưới mũi, ánh mắt đọng lại trong khoảng không, vững như đá tảng.
Hoắc Hạnh Nhi huơ tay trước mặt nàng.
Phùng Thiếu Mị hoàn hồn: “Đến rồi à? Hôm nay tới không khéo.”
Hoắc Hạnh Nhi kéo ghế ra ngồi xuống, cô nàng nặng lòng ăn uống, thấy trên bàn là rượu đầy thịt béo đúng ý mình thì mặt tươi như hoa: “Vẫn là cô hiểu tôi.”
Gần đây, Giang Đô vương liên tiếp có hành động, thuộc hạ cũng xoay như con quay theo, đã hơn nửa ngày cô nàng không được ăn cơm, bụng xép lép ngực dính vào lưng.
“Nhà họ Tạ xong rồi.” Hoắc Hạnh Nhi nhấc bình sứ trên bàn lên, dùng trà tráng bát, “Chiêu gài tang vật của vương gia tài tình lắm, cứ thế khiến ổ nhà họ Tạ tay chân tương tàn, oan oan tương báo, lần này Tạ tam Tạ ngũ cùng thiệt mạng, không tránh khỏi huynh đệ bất hòa, lưới rách cá chết.”
Dưới lầu vọng lên tiếng giáp trụ va chạm và giày lính đạp đất.
Cô nàng ngó ra cửa sổ: “Thấy không? Tới rồi kìa.”
Vị trí tửu lâu Trương Kí đẹp, cách đất quyền quý tụ họp chỉ một con đường. Người tới là Hổ Bôn quân cấm binh cận vệ của thiên tử, ước chừng phải đến năm mươi người, giáp bạc đai vàng, cầm giáo cầm khiên, xông thẳng đến phủ Tạ thừa tướng.
Đàn ông phận nộ kêu gào, đàn bà la hét khóc lóc, ồn ào náo động vọng từ xa tới.
Đám đông tụ lại dưới lầu: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Trở trời rồi!” Người khác đáp, “Hôm nay lâm triều, Tạ tướng bị hặc nhận hói lộ mấy chục ngàn lượng bạc trắng, chứng cớ xác thật, đang tịch thu tài sản đấy.”
Phùng Thiếu Mị gắp một miếng mề gà, đầu bếp nêm nếm vừa vặn, tròn vị ngon miệng: “Nhà họ Tạ đổ, Tạ Thiêm cũng chẳng được sống yên, đại tiểu thư có làm loạn không?”
“Có chứ, sao lại không.” Hoắc Hạnh Nhi bĩu môi, “Hôm trước đại tiểu thư núp trong thư phòng nghe lén được vương gia định khai đao với nhà họ Tạ, chạy đi báo tin cho Tạ Thiêm được nửa đường thì bị vương gia bắt về. Có thế trên dưới cả phủ mới biết đại tiểu thư tự hẹn ước chung thân với Tạ Thiêm, còn mười ngày nữa là đến ngày thành hôn của cô bé và cháu ruột đại tư mã rồi, hai ngày nay trong vương phủ ầm ĩ suốt ngày.”
Phùng Thiếu Mị cầm khăn lau khóe miệng: “Đáng tiếc.”
“Lại chẳng.” Hoắc Hạnh Nhi chống quai hàm nhìn hỗn loạn bên ngoài, “Đẹp làm sao một đôi tài tử giai nhân, tiếc là tình không gặp thời.”
Đàn ông đàn bà nhà họ Tạ nối thành một chuỗi, bị cấm binh áp giải ra khỏi phủ họ Tạ, áo quần xốc xếch, mặt mũi lấm lem. Theo sau là tài sản bị tịch thu, có kẻ nhiều chuyện đếm từng xe, đầu váng mắt hoa đếm sai đếm lại vẫn chưa hết.
Phường trò cách vách đang hát “Đào hoa phiến”, giọng hoa đán cao vút chói tai vượt tường trôi dạt: “Trông người xây cất lầu son, trông người thết tiệc đãi khách, trông người lầu đổ tiệc tàn!”
Thanh la đồng gõ “cheng cheng”, đinh tai nhức óc.
Phùng Thiếu Mị không ham rượu, rượu mạnh lại càng xin miễn không kham, rượu hoa điêu nàng chọn là loại ôn hòa, thơm dịu không gắt. Hoắc Hạnh Nhi là con gái nương tử bán rượu, từ nhỏ đã sống trong tiệm rượu, chê không đủ mạnh, gọi thêm một bầu trúc diệp thanh, biết Phùng Thiểu Mị không rành món này nên tự rót tự uống.
Rượu ấm xuống bụng, hơi nóng xộc lên, mồ hôi hột túa ra ngoài.
Rượu qua ba tuần, món qua năm vị, Hoắc Hạnh Nhi nhón vạt áo bị mồ hôi thấm ướt dính vào da lên giũ, móc tẩu thuốc làm từ trúc tương phi ra, cầm miệng tẩu ghé vào miệng rít một hơi, một luồng khí xoay vòng trong lồng ngực, chậm rãi nhả ra.
Cách khói mù lượn lờ, Hoắc Hạnh Nhi nói: “Thiếu Mị, vũng nước đục này trước mắt càng ngày càng khó lội.”
Nước canh nguội ngắt nổi một lớp váng dầu teo tóp, dưới ánh nắng rực rỡ sóng sánh, bên ngoài vàng ngọc bên trong rữa nát.
Đặt bát rượu đã thấy đáy xuống, cô nàng đứng dậy: “Chỗ vương gia còn có việc, đi đây.”
Phùng Thiếu Mị gật đầu: “Đi đường cẩn thận, bảo trọng.”
Hoắc Hanh Nhi cười toét miệng: “Cô cũng vậy.”
Kịch hay phủ họ Tạ bên ngoài đã gần đến hồi cuối, xe ngựa chở tài vật cuối cùng chạy ra cửa, cấm binh dán giấy niêm phong trước cửa, cưỡi ngựa lớn về cung phục mệnh. Đám đông tan tác chim muông, trước cửa nhà họ Tạ bừa bộn, hiu quạnh yên ắng.
Phùng Thiếu Mị gọi hầu bàn lên thanh toán tiền cơm, đối phương nói: “Thầy Phùng đến rồi, khách quan muốn gọi ‘Cá vượt long môn’ nữa không ạ?”
Nàng sững người, gật đầu: “Có.”
Thức ăn lên bàn, con cá chép này chọn không tốt, thịt hơi bã. Vừa ăn lưng dạ nên lúc này cũng chẳng thèm ăn lắm, Phùng Thiếu Mị gảy đũa, trong vô thức cũng ăn được hơn nửa.
Vừa định buông đũa thì đối diện ngồi xuống một người đàn ông trung niên tóc mai điểm bạc, mặc áo vải thô.
Ngẩng lên, là một gương mặt vừa quen thuộc vừa xa lạ nở nụ cười, khe rãnh trên mặt như sẹo đao: “Tôi là Phùng Bảo Vinh, nghe họ nói cô nương thích ăn món ‘Cá vượt long môn’ này của tôi. Bây giờ đang vắng khách, dưới bếp rảnh rỗi nên muốn lên làm quen với cô nương.”
Phùng Thiếu Mị từ từ siết chặt đũa trong tay: “Khi còn bé cha cháu thường nấu, nhớ hương vị này.”
“Muốn ăn thì mau về nhà đi thôi.” Phùng Bảo Vinh nói, “Tôi cũng từng có một đứa con gái, chẳng biết giờ đang nơi đâu, còn sống hay đã chết, nếu còn sống thì chắc cũng lớn bằng cô nương.”
Phùng Thiếu Mị mím môi: “Bệnh của phu nhân thế nào rồi ạ?”
Phùng Bảo Vinh thoáng sửng sốt: “Bệnh hủi phát tác nhanh lắm, lấy thuốc buộc mạng thôi, đại phu nói không sống qua cuối năm.”
Trước khi đi, Phùng Bảo Vinh hỏi họ Phùng Thiếu Mị.
“Cháu…” Nàng đáp, “Cháu họ Tiết.”
Rời khỏi tửu lâu Trương Kí chưa được hai bước, Phùng Thiếu Mị bị người ngoài phố chặn lại, người chặn là một gương mặt quen thuộc, thư đồng của Thôi Thanh Giang.
Đối phương dẫn nàng đến Tụ Phong Trai, cách Trương Kí ba cửa hàng, đều là tửu lâu nhưng bên trong khác nhau trời vực. Trương Kí giá rẻ, người tới ăn nhậu quá nửa là dân thường, Tụ Phong Trai đứng tên Giang Đô vương, chuyên cung cấp hưởng lạc cho vương công quý tộc.
Giang Đô vương thường tiếp khách ở đây, Phùng Thiếu Mị cũng chẳng xa lạ gì.
Đi vào gian nhã, trước Thôi Thanh Giang bày một bàn cờ, cờ đen cờ trắng đan xen, ván cờ đã qua nửa, hắn đang tự mình đánh với mình.
Nghe thấy động tĩnh, hắn ngẩng đầu lên, câu đầu tiên mở miệng là: “Tôi nên gọi là Phùng cô nương hay là cữu mẫu đây?”
Phùng Thiếu Mị hỏi: “Thôi tiên sinh muốn gọi thế nào?”
Thôi Thanh Giang đáp: “Phùng cô nương, mời ngồi.”
“Chơi cờ có câu thế này, hai phe đấu cờ đều có một quân có cũng được không cũng chẳng sao, gọi nó là quân phế, dùng để dụ địch hoặc đánh yểm trợ thì gọi là quân bỏ.” Ngón trỏ hắn chỉ vào một góc ván cờ, “Hôm nay Thôi mỗ mời Phùng cô nương tới là muốn mời cô nghe một vở kịch hay.”
Thư đồng dời giàn hoa cao cỡ nửa người bên tường ra, bên trên đặt một chậu hoa lam cảnh thái tráng men vẽ vàng, bên trong trồng cây tùng mỹ nhân. Trên mặt tường lộ ra một cái lỗ nhỏ bằng ngón cái, trát bùn cỏ lên, đầy tớ bóc ra, có thể nghe rõ tiếng gian nhã bên cạnh.
Đợi chừng nửa nén nhang, cách vách trước sau vọng lại tiếng đẩy cửa đi vào, tiếng bước chân không đồng nhất giao thoa.
Tiếng kéo ghế ngồi vừa lắng xuống thì nghe một giọng nam quen tai truyền tới: “Chuyện nhà họ Tạ được Vô Nhai Tông dốc lòng trợ giúp, cô cảm kích khôn xiết.”
Là Giang Đô vương.
Tiếp đó vang lên một giọng nói khác, hẳn là Tô Ngạo: “Chuyện bổn phận không thể chối từ.”
Giang Đô vương nói: “Gần đây bọn mãng phu không biết điều có đến quý tông gây sự không? Cô đã sai người lấy tội trái đạo đức lùng bắt đưa lên quan phủ. Có chuyện gì khó xử, cô có thể giúp đỡ, Tô chưởng môn cứ việc mở lời.”
Tô Ngạo cảm ơn, ngừng một chút lại nói: “Vương gia nghiệp lớn sắp thành, không dám làm phiền, duy có một chuyện – thù giết thầy một ngày không báo, làm đồ đệ một ngày không an tâm. Bao giờ vương gia định giao độc phụ sát hại gia sư cho Tô mỗ?”
Giang Đô vương đáp: “Sau khi sự thành, Phùng thị mặc ngài xử trí.”
Sau đó chỉ còn lại hàn huyên xã giao, thư đồng được Thôi Thanh Giang ra hiệu, rón rén dùng bùn cỏ bịt lại lỗ trên tường, trong phòng tĩnh lặng như trước.
Phùng Thiếu Mị nhìn chằm chằm bàn cờ trước mắt, quân phế thành quân bỏ, con đường phía trước đứt đoạn.
Khi còn bé nàng từng xem một buổi khẩu kĩ trên đường, rất nhiều tiếng người, tiếng vật lần lượt đan xen tung hoành, rất sống động. Màn vải vén lên, trước mặt tiên sinh khẩu kĩ chỉ có một bàn một ghế một quạt một thước mà thôi.
Nàng vô cùng hốt hoảng, có một khoảng thời gian đêm nào cũng gặp ác mộng, mơ thấy sống đến cuối mới biết mình là một con rối dây, bị điều khiểu đi hết cả đời. Thoáng chốc tỉnh ngộ, bên ngoài vang lên tiếng khách xem hoan hô, người điều khiển buông dây, nàng không thể nhúc nhích được nữa.
“Vương gia có ơn tri ngộ với cô là thật,” Thôi Thanh Giang bưng chung trà trên bàn lên nhấp một ngụm, “Nhưng người không vì mình trời tru đất diệt, Phùng cô nương, cô nói xem có phải không?”
Phùng Thiếu Mị hỏi: “Thôi tiên sinh là người của thái tử?”
Thôi Thanh Giang không chối.
Phùng Thiếu Mị nói: “Vương gia đối xử với anh không tệ.”
Trước đây Thôi Thanh Giang chỉ là học trò nhà nghèo vào kinh đi thi, không cẩn thận bị cuốn vào tranh đấu đảng phái, thi mãi không đỗ, được Giang Đô vương thưởng thức nên mới thi triển được hoài bão. Bàn về ơn tri ngộ, so với Phùng Thiếu Mị chỉ có hơn chứ không có kém, chẳng biết là nửa đường đổi phe hay đã sớm mưu toan.
“Lúc theo vương gia Thôi mỗ chỉ là một phụ tá, nhoáng cái đã bảy năm mà nay vẫn là bình dân áo vải, chuyện hạt vừng hạt mè gì cũng có thể hô tới quát lui.” Thôi Thanh Giang khẽ cười, “Làm người đều lên chỗ cao, làm chuyện chính nghĩa thì được ủng hộ, làm chuyện trái nghĩa thì ít ai thương.”
Thư đồng tiễn Phùng Thiếu Mị đi, quay lại thắc mắc: “Nô tài thấy không giống người được việc.”
“Cho biết cắn sẽ không sủa.” Thôi Thanh Giang giơ tay áo phất qua bàn cờ, quân cờ mài giũa từ đá cuội phát ra tiếng giòn tan, “Nuôi càng thân, lúc cắn chủ càng đau.”
Bình luận truyện