Trăng Sáng Cố Hương

Chương 5: Địch ta



Type: bjh

Ba năm sau.

Mười tư tháng Tám, trăng như một chiếc mâm ngọc. Trong thành Dung An vô cùng náo nhiệt, khắp phố phường treo đủ các loại hoa đăng, tỏa ánh sáng ấm áp. Ngày mai đã là đêm Trung thu rồi, các quán hàng trong thành đều nhân cơ hội này, chăng đèn kết hoa để chào mời khách. Son phấn sáp hương, vòng ngọc trâm bạc, quạt giấy thư họa, trà cụ đồ sứ, trước mắt đều không có gì bán chạy bằng những chiếc bánh trung thu vừa thơm vừa ngọt. Miếng bánh vừa giòn vừa quện, vị ngọt lịm, lại chứa đựng những lời chúc phúc cát tường, đoàn viên mỹ mãn, là thứ được ưa chuộng dễ thấy nhất trong chợ đêm này.

Trên đường phố phồn tráng lệ, ngựa xe rầm rập, người đi lại như mắc cửi, trong đám đông ồn ào náo nhiệt, nghe thấy không ít những tiếng rao hàng, những lời hỏi giá, mặc cả. Chỉ thấy dưới những mái hiên bên đường, treo một dãy đèn hoa đăng đỏ rực, những chiếc đèn hình cá chép càng hiếm càng đẹp. Ánh lửa vàng ấm áp, soi sáng những gương mặt tươi cười của mọi người trên đường phố, cũng soi sáng quầy hàng bán quạt giấy bên dưới đèn. Chủ hàng tuổi còn rất trẻ, chỉ ước khoảng đôi mươi, mình mặc bộ trường sam màu xanh, theo lối thư sinh. Nếu không phải anh ta cài chiếc quạt ra sau cổ áo, trông có vẻ hơi ngang tàng, thì đó quả là một thư sinh khôi ngô mi thanh mục tú. Anh ta nheo mắt, ngồi thong dong trên chiếc ghế nhỏ bên quầy hàng, cũng không rao mời ồn ã. Thỉnh thoảng có mĩ nhân nào áo thơm vòng ngọc đi qua, thư sinh ấy mới vội vàng lấy lại tinh thần, đứng lên cười nói với cô nương ấy:

“Tiểu thư, quạt lụa, quạt tròn, quạt cung đình loại thượng hạng đây, xin mời xem hàng!”

Có thể do anh ta có nụ cười nịnh nọt quá, nên những nữ nhân được chào mời đến đáp lời cũng chẳng dám, vội vàng lánh đi luôn. Thư sinh ấy cũng không lấy thế làm tiếc, vẫn cười cười, rồi lại ngồi xuống ghế, duỗi dài hai chân, lấy cây quạt trên cổ áo xuống đủng đỉnh phe phẩy.

Đúng lúc ấy, trong màn đêm tĩnh lặng, có ba chiếc đèn trời bay lên. Hai chiếc trắng tinh, một chiếc ngang lưng có ngấn mực, lờ mờ có thể đọc được ra là chữ “Thiên”. Trông thấy mấy chiếc đèn đó, thư sinh lập tức đứng dậy, giở ra một tấm khăn vuông, gói qua loa tất cả quạt trên quầy hàng lại, rồi quay người đếm từ dưới lên trên dây đèn cá chép, đến ngọn thứ ba thì thổi tắt. Sau đó, anh ta khoác tay nải, đi nhanh về phía đông thành, đầu không ngoái lại, nháy mắt đã mất dạng giữa dòng người cuồn cuộn.

Phía đông thành Dung An, có sông Lăng Giang chảy ngang qua. Trong đêm tối mịt mùng, không nhìn thấy nước sông chảy xiết, chỉ nghe tiếng nước nhẹ trầm miên man, tựa như một tiếng xao xác. Mặt nước mênh mông, soi bóng vầng trăng tròn vành vạnh, hơi lay động theo sóng nước dập dềnh. Thư sinh ấy đi đến bên bờ sông, nheo mắt nhìn, thấy xa xa trong màn sương khói mờ mịt trên sông có ánh đèn ẩn hiện. Anh ta lập tức lấy ra một ống pháo sáng từ ngang lưng, đốt rồi phóng lên. Một đốm sáng bung nở trên bầu không, ánh đèn ở giữa sông trong chớp mắt cũng ghé lại gần bờ.

Dưới ánh trăng, trông rõ một hán tử đầu đội nón lá, mình khoác áo tơi đứng dưới ngọn đèn ở mui thuyền. Tay ông ta cầm một cần trúc dài, tựa như chỉ cần đẩy nhẹ một cái là chiếc thuyền mui đã có thể lại gần đến hơn trượng vậy. Thứ sinh lập tức để khí phi thân nhảy lên một bước, lộn hai vòng trên không trung, nhẹ nhàng đáp xuống mạn thuyền.

“Hà lão đại, có chuyện gì mà gọi gấp vậy, đốt liền ba ngọn đèn?” Thư sinh cười nói, cũng không đợi đối phương đáp lời, liền vén rèm, bước vào trong khoang thuyền.

Ở đó lúc này đã có khoảng chục người ngồi chen chúc. Thư sinh đưa mắt quét qua tám hán tử cao lớn, rồi nhìn về phía nữ nhân duy nhất có mặt, nở nụ cười chào hỏi: “Vân Hy muội, lâu lắm không gặp. Đêm thanh gió mát thế này, sao lại không đi thưởng nguyệt, xem hoa đăng?”

Nữ nhân mà thư sinh chào hỏi đang ngồi tựa bên song cửa, nhìn ra bờ sông phía xa xa. Tóc búi cao, ăn vận gọn gàng, chiếc áo ngoài màu thiên thanh làm nổi bật nước da trắng ngần, khiến cô càng toát lên vẻ thanh tân tú lệ. Một cây võ khí dài bọc trong lớp vải màu xám tro, không biết là thương hay côn được đeo trên lưng. Nghe tiếng thư sinh gọi mình, cô thu lại tầm mắt, quay sang anh ta nhoẻn miệng, lịch sự cười nhẹ đáp: “Trương huynh, đã lâu không gặp.”

“Trương huynh gì chứ, nghe khách sáo quá, gọi ta là Văn Thư được rồi, nếu không thì “hảo đại ca” cũng tạm được!” Trương Văn Thư nhân đà được thể, liền sán lại gần.

Anh ta vừa định ghé đến ngồi cạnh Vân Hy thì lập lức bị ai đó túm gáy. Chỉ nghe giọng nói hào sảng cùng tiếng cười lớn: “Trương mọt sách, chớ muốn ăn đòn, lát nữa tiểu tử họ Khương đến, không khéo bị hắn cho trăm chục chiêu đấy!”

Người nói là một đại hán lưng beo mình hổ, ông ta có khuôn mặt chữ điền, mắt to mày rậm, dưới cằm chòm râu xanh tua tủa, lưng đeo cây đại đao rộng bản sáng loáng. Trương Văn Thư cũng không phải thấp, nhưng đứng trước hàn tử to lớn này cũng chỉ như một con gà nhép bị ông ta xách cổ. Thư sinh vội vàng xua xua tay. “Được rồi, được rồi! Đại cô nương, tiểu sinh biết sai rồi, còn không được ư? Có quỷ mới dám đọ chiêu với Khương Hằng, tên ấy chỉ cần thắng không cần mạng, xuất chiêu nào cũng y như liều mạng vậy, có ngốc mới đánh với hắn.”

“Đại cô nương” mà thư sinh ấy nói chính là chỉ vị đại hán kia. Ông ta là người mà trên giang hồ gọi là “Cuồng Đao Khách”, họ Cố, tên chỉ một chữ Lương. Cái tên ấy vốn rất bình thường, nhưng từ khi gia nhập Thương Thiên, gặp phải ‘Điểm Mặc Giang Sơn” Trương Văn Thư, nó liền bị biến điệu đi. Trương Văn Thư rất thích mồm mép, chiếm thế hơn người, liền gọi ngay Cố Lương chệch thành “cô nương”, làm mọi người cũng thi nhau bắt chước, khiến Cố Lương phải tức giận lập tức rút đao, đấu với anh ta. Nhưng đừng tưởng Trương Văn Thư bộ dạng thư sinh đầy bụng chữ nghĩa, đôi phán quan bút ấy mà dùng đến thì chính là thiên hạ vô song. Hai người đấu hơn trăm chiêu vẫn không phân thắng bại, từ đó họ không đánh thì không quen biết, trở thành đối thủ cứ dăm bữa nửa tháng lại gây sự với nhau.

Trong lúc mọi người trò chuyện, rấm rèm trước khoang thuyền lại được vén lên, Hà Nhân và một chàng trai trẻ bước vào. Chàng trai đó diện mạo tuấn tú, dáng cao gầy, lưng đeo cây trường kích đen bóng loáng. Y tuy mặc áo vải bình thường nhưng sống lưng thẳng tắp, lộ rõ khí chất con nhà võ, lại thêm ngũ quan sáng sủa, ánh mắt có thần, trông tựa như một chiến thần đã kinh qua nhiều trận mạc. Chỉ đáng tiếc là y đã bị mất cánh tay phải, giờ thế vào chỗ đó là chiếc thiết trảo màu trắng bạc.

“Hằng ca!” Mắt Tùy Vân Hy chợt sáng lên, cất tiếng gọi. Khương Hằng gật đầu, không nói gì, coi như đã chào hỏi.

Sau khi Hà Nhân và Phương Hằng vào rồi, cuộc họp kín trên thuyền chính thức bắt đầu. Hà Nhân bỏ chiếc nón lá che kín quá nửa mặt mình ra, ánh mắt sắc lẹm quét nhìn một lượt mọi người, trầm giọng nói: ”Chư vị, những câu khách sáo ta không nói nhiều, hôm trước ở huyện Bình Dao xảy ra vụ án mạng, cả nhà huyện lệnh Bình Dao trên dưới hai mươi mốt mạng người đều bị giết sạch…”

Nghe thấy hai tiếng “Bình Dao”, bàn tay đang đặt trên đầu gối của Tùy Vân Hy dần dần thu lại thành nắm đấm. Tùy gia thương ở trên núi Kỳ Sơn chính là nơi ngoại ô lân cận của Bình Dao. Mười một năm trước, chính quan huyện Bình Dao khi ấy là Tôn Bồi Nguyên đã dẫn Thống lĩnh cấm vệ quân Triệu Hãn lên Kỳ Sơn tuyên đọc Thái Bình Ước, mở ra giang hồ huyết lộ cho cô và Khương Hằng…

Trong lúc Tùy Vân Hy đang nghĩ lại chuyện xưa, cô chợt thấy vai mình bị đè nặng, không biết Hằng ca đã ngồi cạnh từ lúc nào, đang đặt bàn tay ấm áp lên vai cô. Nhận ra đó là hành động an ủi của Khương Hằng, Vân Hy ngước mắt quay sang nhìn y khẽ mỉm cười, tỏ ý rằng mình không sao.

Chỉ nghe Hà Nhân tiếp tục nói: “…Quan pháp y đã kiểm tra qua thi thể, tất cả xác chết đều có sắc mặt hồng thuận, lộ vẻ hơi cười, thần sắc an lành, tựa như bị chết trong khi đang ngủ vậy…”

“Thần Túy Mộng Mê!” Một vị trưởng giả tóc hai bên mái đã đốm bạc, tay cầm tẩu thuốc kinh hãi nói. Ông ta tuổi đã quá lục tuần, họ Âu Dương, tên Tiên. Trong Thương Thiên, ông ta tuy võ công bình thường, nhưng lại là chuyên gia về lý luận, nắm rất rõ các phương pháp và chiêu thức võ học của các môn phái. Biệt hiệu “Võ Si” và “Học Cứu” cũng từ đó mà có.

“Lão Học Cứu, cái gọi “Thần Túy Mộng Mê” này là thứ gì vậy, chớ có úp úp mở mở nữa!” Cố Lương tính khí nóng nảy, lập tức hỏi to.

Âu Dương Tiên lấy ra từ trong tay nải mang theo một cuốn sách, lật giở hồi lâu, rồi mới chỉ vào hàng chữ nói: “Lão phu quả nhiên không nhớ nhầm, cách làm chết người ấy không khác chút nào so với Thần Túy Mộng Mê – độc dược hạng nhất của “ Dược Vương” Lạc Dương. Giang hồ đồn đại, người vợ đã mất của Lạc Dương từng mắc một căn bệnh rất khổ sở, trong khi Lạc Dương thân là Dược Vương, đã cứu được tính mạng bao nhiêu người, vậy mà không cứu nổi ái thê của mình. Ông ta không đành lòng nhìn thê tử bị bệnh tật dày vò, sống chẳng bằng chết, bèn nghiên cứu chế ra một loại độc dược gọi là Thần Tùy Mộng Mê, có thể khiến người ta an nhiên từ giã cõi đời trong cơn hôn mê. Chỉ là...”

Nói đến đây, Võ Si Âu Dương Tiên vuốt râu thở dài, lại nói: “Dược Vương hành tẩu giang hồ mấy chục năm, trước sau vẫn giữ ý “đại ẩn ẩn thành thị”, rất ít khi tham gia vào việc tranh giành trên giang hồ. Mấy năm nay, Thái Bình Ước làm cho giang hồ cuộn sôi sùng sục, Lạc Dương càng cho bang phái tản đi, dẫn theo người nhà ẩn cư sơn dã, làm sao lại đột nhiên nhúng tay vào vụ án lớn này?”

“Lẽ nào Lạc lão đầu có thù oán với viên huyện lệnh kia?” Cố Lương phỏng đoán. “Hơ hơ, lẽ nào tên quan đen đủi ấy đã bắt trộm vợ của ông ta, nên ông ta mới tức giận cho cả nhà hắn phải chết...”

“Đừng nói bậy!” Trương Văn Thư cắt ngang lời Cố Lương, chỉ trích: “Ngươi thật đầu to mà không có não, nếu thực sự có oán thù, thì với năng lực của Dược Vương, lại há có thể cho nhà kẻ thù chết một cách dễ dàng thanh thản như thế ư?”

Khương Hằng trước sau vẫn im lặng, lúc này mới chậm rãi lên tiếng: “Đúng là vu oan giá họa. Trương huynh nói rất có lý, nếu như Dược Vương có ý báo thù, phần nhiều sẽ chọn cách khiến nhà kẻ thù phải muốn sống không được, muốn chết chẳng xong. Còn Thuần Túy Mộng Mê là thứ độc dược thiên hạ vô song của Lạc gia. Hung thủ giết cả nhà quan huyện đã cố ý để lại manh mối rõ ràng như vậy, không còn nghi ngờ gì, chính là muốn hướng quan binh và Thái Bình minh nhắm tới Dược Vương. Lần này, lại có thêm một gia môn bị coi là tà ma ngoại đạo không thể không tiễu trừ rồi.”

Hà Nhân gật đầu nói: “Khương lão đệ nói không sai. Dược Vương Lạc Dương sau khi nghe được chuyện này cũng đã kêu lên rằng có kẻ vu hãm. Trước mắt, triều đình đang liên thủ với Thái Bình minh lùng bắt cả nhà ông ta, ông ta biết rõ khó tránh khỏi tội vạ, bèn cầu cứu Thương Thiên chúng ta giúp đỡ.”

“Vậy còn chờ gì nữa! Chúng ta hãy xuất phát luôn, giúp họ một tay!” Cố Lương đấm mạnh xuống bàn, làm ly trà nảy lên tới hơn tấc, rồi lại rơi mạnh xuống.

“Người tất phải cứu không nghi ngờ gì, chỉ là hung thủ thực sự hạ độc vu hãm, cũng phải điều tra đến cùng.” Hà Nhân liếc nhìn Sái Tiểu Xà vẫn im lặng bấy giờ, hỏi: “Chuyện lạ kiểu này, trên giang hồ cũng không phải là lần đầu mới có. Chín năm trước, hai mươi tư hộ dân ở phía bắc Xương Tần trấn, tất cả đều chết vì nọc độc rắn, dân chúng phần lớn đều cho rằng là do nạn rắn, nhưng Thái Bình minh lại chĩa mũi dùi về phía Tiểu Xà, quan phủ cũng phát lệnh truy nã, muốn bắt Tiểu Xà đền mạng…”

Nghe vậy, mọi người đều dồn ánh mắt về phía Tiểu Xà, chỉ thấy ông ta mắt vẫn không đổi sắc, tựa như không nghe thấy những lời Hà Nhân nói, chăm chú đùa nghịch với con rắn cạp nong trong tay, để nó bò trườn quanh cổ.

Hà Nhân nói tiếp: “Lại còn hai mươi năm trước, một trăm năm mươi ba người trong ấp nọ bị giết thê thảm, những vết thương trên người đều là do thất hoàn luân gây ra. Khi đó trong võ lâm duy chỉ Hàn Hải bang sử dụng loại binh khí này, mà mới dùng ba ngày, liền bị Thái Bình minh diệt sạch…”

Trương Văn Thư đập “phạch” cán quạt vào lòng bàn tay, nói: “Hà lão đại, ý của ông là, những vụ án đó đều do ai đó dựng lên nhằm mượn đao giết người, mượn tay Thái Bình minh trừ bỏ những bang phái và dị nhân ấy?”

“Có phải là mượn đao giết người hay không, cũng còn chưa biết.” Khương Hằng sắc mặt trầm lặng, lạnh lùng nói chen vào. “ Những vụ án này nếu như tách lẻ ra mà xem xét, thì tựa như những kẻ thù của bang phái nhân thời cuộc rối ren, cố ý dựng kịch giá họa, mượn đao giết người để trừ cừu địch. Nhưng nhìn tổng thể lại thấy điểm chung giữa các vụ án này đều có kết cục bị Thái Bình minh trảm yêu trừ ma tiêu diệt. Kẻ giấu mặt sau chuyện này có thể chỉ là một người, cũng có thể là một hay vài tổ chức…”

“Cậu có ý gì? Tổ chức nào muốn hại những người như Tiểu Xà?” Cố Lương vẫn chưa nghĩ ra, chau mày nói. “Hơn nữa, Tiểu Xà và bọn Dược Vương, Hàn Hải bang không hề có quan hệ gì với nhau!”

“Sai rồi, có quan hệ.” Khương Hằng trầm giọng nói. “Bất luận là Sái Tiêu Xà hay Hàn Hải bang, hoặc Dược Vương Lạc Dương, bọn họ đều chưa từng kí kết Thái Bình Ước.”

Trương Văn Thư bỗng nhiên ngộ ra, nói: “Khương huynh, ý huynh là kẻ giấu mặt đứng sau chuyện này cố ý vu oan giá họa, đem những người như Sái Tiêu Xà bức vào tà phái? Cũng phải, trước mắt giang hồ rối loạn, thế lực của Thái Bình minh càng ngày càng lớn, đã tiêu diệt mấy môn phái tà đạo rồi, những hắc phái còn lại, nếu không đưa ra vài con dê tế thần thế mạng cho mình thì tất yếu sẽ chết nhanh hơn!”

Mọi người ai nấy đều gật gù, cùng nói: “Có lý!” Chỉ có Khương Hằng chậm rãi bảo: “Các vị còn quên một khả năng nữa. “Là gì? Trừ tà đạo hắc phái ra, còn ai muốn tàn hại võ lâm đồng đạo?”

Trước câu hỏi của Trương Văn Thư, Khương Hằng lạnh lùng thốt ra hai tiếng: “Thương Thiên.”

“Hằng ca!” Vân Hy đã đoán ra Khương Hằng muốn nói gì, vội cất lời khuyên ngăn. Khương Hằng liếc nhìn cô, rồi điềm tĩnh nói: “Vân Hy, muội hành sự quá cảm tính, không muốn hoài nghi bạn hữu của mình. Nhưng muội nên biết, bất kể là Sái Tiêu Xà, Hàn Hải Băng hay Dược Vương, khi phải chịu một nỗi oan không thể chứng minh được, không có bất kì cách nào khác, lại không muốn rơi vào hắc đạo, chung đường với các tà phái, thì sự lựa chọn duy nhất của họ chính là Thương Thiên.”

Nói đến đây, ánh mắt Khương Hằng quét qua hết một lượt những người có mặt, nói: “Hiện nay những võ nhân quy thuộc Thương Thiên, tổng số đã lên tới hơn tám ngàn và vẫn không ngừng liên tục được tăng thêm. Nhưng điều khiến người ta không thể hiểu được là, từ khi Thương Thiên thành lập đến nay, đã hơn mười năm, nhưng chưa từng qua một bang chủ, minh chủ nào phát hiệu ban lệnh. Hà huynh, huynh từng nói với ta, Thương Thiên là hình thức tự phát của võ lâm, nhằm tương trợ lẫn nhau, cùng đối phó với Thái Bình minh đang không ngưng uy hiếp mình. Nhưng huynnh đã bao giờ nghĩ rằng, trong cảnh rối loạn của hàng ngàn võ nhân Thương Thiên, ai là người là người đầu tiên nghĩ ra? Và ai là người có thể thu thập tin tình báo một cách chính xác kịp thời, thông báo tin tức đến các cứ điểm?”

Câu hỏi của Khương Hằng khiến Hà Nhân hơi lặng người, nhất thời không nói được gì: Đúng vậy, sự thật đúng như Khương Hằng nói, ngay cả những võ nhân gia nhập Thương Thiên từ rất sớm như ông ta cũng đều không biết người khởi phát ra nó rốt cuộc là ai. Mọi người thường ngày liên hệ với nhau, đều là dùng những ám hiệu ẩn giấu trong thành trấn, ví như đèn lồng, chim câu đưa thư, hoặc khắc những ám hiệu trên miếu thổ địa… Lâu dần, võ nhân của Thương Thiên bèn chia thành hơn một trăm cứ điểm theo khu vực, phân tán khắp các nơi ở Trung Nguyên. Mọi người cũng đã quen với cách liên lạc như vậy, chỗ nào có nạn, thì căn cứ Thương Thiên ở đó sẽ đưa ra ám hiệu một cách nhanh nhất và những võ nhân các nơi lân cận sẽ đến cứu viện.

Thấy Hà Nhân im lặng, Khương Hằng tiếp tục nói: “Chúng ta, những người có mặt ở đây hôm nay, chẳng qua chỉ là một mảy lông so với chín trâu của Thương Thiên. Ai có thể đảm bảo, trong hàng ngàn võ lâm ấy, chẳng có kẻ có mưu ma chước quỷ trong lòng? Lại có ai dám đảm bảo, kẻ đứng đằng sau việc phát động Thương Thiên, chẳng phải là muốn tụ tập được một bang phái hàng vạn người? Nếu thực sự có người trở thành kẻ đứng đầu của hàng vạn người Thương Thiên, thì kẻ đó tất yếu sẽ muốn gió có gió, muốn mưa có mưa, làm những gì mình muốn, ngay cả Thái Bình minh cũng phải kính sợ vài phần. Nếu có thể hoàn thành được mục đích ấy, thì chuyện giết người đổ tội có gì đáng kể đây?”

“Mẹ kiếp, nếu thực sự có kẻ nào có tâm tư hồ đồ như vậy, gây ra bao nhiêu sự việc như thế này, thì ông đây sẽ cho nó một đao bứa sọ!” Cố Lương tức giận nói.

Thấy ông ta tức giận, Tùy Vân Hy nhẹ nhàng khuyên giải: “Đó cũng chỉ là sự suy đoán của Hằng ca, sự thật thế nào còn chưa biết được. Ta tin rằng võ nhân của Thương Thiên đều là những người đáng thương bị thời cuộc bức bách, nếu thực sự có những kẻ giấu mặt sau rèm, thì cũng không có chuyện suốt hơn mười năm mà hắn chưa từng xuất hiện, chưa từng để lộ một manh mối dấu vết gì. Hơn nữa, dù có kẻ như vậy, dù hắn có ý đồ thống lĩnh Thương Thiên, nếu có một ngày hắn thực sự xuất hiện với tư cách bang chủ, mọi người cũng đâu phải trẻ con lên ba, sao có thể để mặc cho hắn sắp đặt được?”

Nghe thấy Vân Hy chất vấn lại lập luận của mình, Khương Hằng lạnh lùng liếc nhìn. Y mở miệng định nói gì đó, nhưng giây sau lại mím chặt môi, lộ rõ vẻ ẩn nhẫn.

“Đúng, Vân Hy muội nói thực giống ý ta.” Trương Văn Thư vừa đưa tay ngang ngực, vừa “roạt” một tiếng, xòe cây quạt giấy ra, cười nói. “Trước mắt chúng ta hãy mưu tính cho tốt, xem làm thế nào để cứu được cả nhà Dược Vương đã.”

Hà Nhân quay sang Âu Dương Tiên ra lệnh, ông ta liền giở một tờ bản đồ trên chiếc bàn nhỏ. Hà Nhân chỉ vào một điểm trên bản đồ nói: “Chỗ Dược Vương ẩn cư chính là trong thôn nhỏ trên dãy núi Đình Sơn này. Những người nhận được ân huệ của ông ta rất đông, cho nên lần này vừa xảy ra chuyện ở Bình Dao, tin tức lập tức đã lan đi, Thái Bình minh và quan binh còn chưa kịp tổ chức thì Thương Thiên chúng ta đã hay tin rồi, việc chúng ta cần làm là phải nhanh hơn Thái Bình minh một bước, nhanh chóng tiếp ứng được cho gia đình Lạc Dương, đưa họ đến nơi an toàn.”

Hà Nhân quay sang nhìn Sái Tiêu Xà, nói: “Tiểu Xà, lần này trên đường đi rất nhiều núi non, cần phải có kỳ thuật gọi rắn của ông, ông với ta hãy đến Đỉnh sơn trước.”

Sái Tiêu Xà chỉ khẽ gật đầu, nhưng con rắn cạp nong trên tay ông ta dường như có linh tính, đôi mắt nhìn chằm chằm vào Hà Nhân, thè cái lưỡi ra thật dài.

“Cố Lương, ông nhanh chân, trước hết hãy đi lên Dung Tây cổ đạo ở thượng du Lăng Giang, thông báo cho huynh đệ ở đó, căn cứ lân cận có lẽ cũng có hơn hai trăm người, tuy không thể chống lại nổi Thái Bình minh, nhưng nếu chỉ có một, hai bang phái bạch đạo đến thì chúng ta cũng không sợ gì chúng.”

Cố Lương với cây trường đao sau lưng, cầm chắc cán. “Được! Ông mau ghé vào bờ đi, ta lập tức đi ngay.”

“Khương Hằng, Vân Hy, hai người thông thuộc Bình Dao, hãy đi đến Bình Dao tra thám trước, xem xem có manh mối dấu vết gì không, xem có thể điều tra ra rốt cuộc là kẻ nào bày trò ma quỷ không.”

Khương Hằng, Vân Hy vừa gật đầu bằng lòng, liền thấy Trương Văn Thư giơ cao cây quạt trong tay, nói lớn: “Ta cũng đi, ta cũng đi!”

Mọi người đều ghé mắt nhìn anh ta, Cố Lương càng không nể mặt, lập tức cho một bạt vào sau gáy. “Mọt sách, khi nãy chả phải chính ngươi nói muốn đi cứu người ư, sao bây giờ lại đổi ý thế?”

“Một kẻ có bộ óc thông minh tuyệt đỉnh như ta…” Trương Văn Thư nhè nhẹ đưa quạt, ra vẻ một công tử đào hoa nói. “…Thì nhiệm vụ tra án cao thâm ấy mới thích hợp.”

Cố Lương lừ mắt liếc xéo Trương Văn Thư, bọn Âu Dương Tiên cũng đều cười nhạo, ngay cả Vân Hy cũng hơi nhếch môi cười, chỉ có Khương Hằng là mặt không biểu cảm, mắt không ghé nhìn.

Đúng lúc ấy, Hà Nhân lại đội chiếc nón lá lên đầu, bước ra khỏi khoang thuyền. Ông ta cầm cây gậy trúc, chống nhẹ, con thuyền cùng ánh đèn nhỏ như một đốm sao, liền xuyên qua lớp lớp mù sương, ghé vào bờ sông.

Canh hai. Dưới bóng trăng tròn, một bóng đen chớp mắt vút qua. Bóng dáng như ma quỷ ấy tung mình bay nhanh trên mái nhà, nhẹ nhàng lướt tới, đáp xuống trước cửa nghĩa địa. Đáng thương cho người canh cửa, còn chưa nhìn thấy cái bóng ma ấy thì đã bị kẻ nào đó đánh mạnh vào sau gáy, lập tức người mềm nhũn đổ gục xuống.

Vân Hy và Trương Văn Thư đuổi theo sau. Trông thấy động tác của Khương Hằng nhanh như gió, sạch sẽ gọn gàng, Trương Văn Thư liền lớn tiếng khen ngợi: “Khương huynh quả nhiên giỏi khinh công!”

Khương Hằng lại làm như không nghe thấy gì, ánh mắt không động, bay vút lên, tung mình qua cánh cổng đóng kín vào trong sân. Tùy Vân Hy và Trương Văn Thư cũng lập tức làm theo, ba người vừa vào tới sân liền ngửi thấy một mùi hương thơm ngát, đó là thứ hương mà dân chúng trong huyện thường đốt để khử mùi hôi của thi thể và xua đuổi ruồi bọ. Mùi hương xộc vào mũi, Khương Hằng lập tức bình khí ngưng thần, đồng thời xé một mảnh áo đưa cho Vân Hy, ra hiệu cho cô bịt mũi lại. Vân Hy y lời làm theo, nhưng Trương Văn Thư thấy động tác của hai người họ thì chỉ phẩy quạt, lười nhác cười nói:

“Khương huynh hành sự quả nhiên cẩn thận, nhưng hương này đã đốt dù chưa tới một ngày thì cũng nửa ngày rồi, mà vị huynh đệ canh cửa khi nãy vẫn thần khí như thường, nếu không phải là vì đòn hiểm của Khương huynh thì còn có thể đứng được đến sáng mai đấy! Ta nghĩ hương đốt ở đây cũng không có vấn đề gì lớn đâu.”

Lời thư sinh nói thực sự có lý, tay phải Vân Hy đang bưng lấy mũi đã chực bỏ xuống, chợt nghe Khương Hằng lạnh lùng nói: “Giang hồ hiểm ác, cẩn thận vẫn hơn.”

Biết Khương Hằng trong lòng không vui, Vân Hy chỉ còn cách lại bịt lấy mũi. Còn Trương Văn Thư chỉ tùy tiện phe phẩy quạt, thủng thẳng đi vào giữa nhà. Bốn góc nhà đều treo những hương vòng lớn, trên cây cột trụ lớn, sơn son còn dán những lá bùa vẽ bằng chu sa. Chính giữa nhà là hơn hai mươi thi thể được để ngay ngắn, tất cả đều được đặt trên chiếu cói, thành hàng lối, nằm thẳng dưới đất. Khói hương vòng nghi ngút, vấn vít bên cạnh các thi thể, dưới ánh trăng chậm rãi bay lên, càng làm tăng vẻ âm u, lạnh lẽo ghê rợn nơi đây.

Trương Văn Thư đánh lửa lên rồi ngồi xuống cạnh một thi thể nạn nhân, soi vào khuôn mặt người đó. Không giống người chết bình thường sắc mặt thường trắng bệch đáng sợ, thi thể này sắc mặt vẫn tươi nhuận, khóe miệng hơi cười, hai mắt nhắm chặt, nếu không phải là đang nằm trong nghĩa địa thì sẽ khiến người ta nghĩ rằng họ chỉ đang say ngủ. Trương Văn Thư lấy cán quạt chạm nhẹ vào xác chết, vẫn thấy da dẻ đàn hồi. Anh ta lại cầm lấy tay thi thể, hơi run nhẹ, các khớp xương vẫn chưa cứng.

“Thứ độc dược Thần Túy Mộng Mê này quả nhiên lợi hại, nếu không phải là không còn chút hơi thở nào và da thịt lạnh ngắt thế này, thì ta còn hoài nghi đây là một người còn sống cơ đấy.”

Nghe thư sinh nói vậy, Khương Hằng nhướn đôi mày kiếm, lấy trong người ra bộ thiết trảo, bật tung vuốt sắc, chớp mắt đã rạch bụng tử thi đó ra.

Thấy động tác của Khương Hằng, đầu tiên Trương Văn Thư giật bắn người, rồi sau mới cười lớn nói: “Ha ha, Khương huynh, chẳng lẽ huynh vẫn cho rằng những người này đều còn sống ư?”

“Có gì là không thể? Thần Túy Mộng Mê là bí dược riêng có của Dược Vương, dù cho là có kẻ ngụy tạo án mạng, lôi ông ta vào cuộc, cũng không có gì lạ. Khương Hằng trầm giọng nói, ngữ điệu lạnh như băng ở giữa nghĩ địa này, lại càng lộ rõ vẻ thâm u.

“ Ý huyng là… “ Trương Văn Thư đập cán quạt vào lòng bàn tay, chau mày nói. “ …Có kẻ muốn nhòm ngó bí thuật của Dược Vương, nên cố ý ngụy tạo ra vụ án đầu độc bằng Thần Túy Mộng Mê để lôi ông ta xuống núi. Thần Túy Mộng Mê xưa nay chưa từng lưu truyền ra ngoài, để làm rõ chân tướng, Dược Vương nhất định sẽ đến đây điều tra, khi ấy những người giả chết ở đây sẽ lập tức vùng dậy, bắt sống Dược Vương? “

Nói đến đó, Trương Văn Thư lật hai bàn tay, lập tức xuất hiện đôi phán quan bút. Chỉ thấy anh ta thân hình nhanh như chớp, cây phán quan bút đã điểm ngay giữa ấn đường của thi thể bên cạnh, chỉ cần thi thể ấy hơi dùng lực thì cây bút sắt ấy nhất định sẽ đâm xuyên não. Nhưng thi thể ấy vẫn hai mắt nhắm chặt, khóe miệng hơi cười.

Trương Văn Thư thu lại đôi phán quan bút, cười nhìn Khương Hằng nói: “ Đáng tiếc thay, đáng tiếc thay, cách suy luận như vậy tuy tinh tường, nhưng lại không phải là sự thật. Ôi chao, Khương huynh cũng thật đa nghi, đền những chuyện oái ăm như vậy mà cũng nghĩ ra được, có khi phải đổi nghề đi làm con hát mới phải!”

Nghe anh ta cười đùa, Khương Hằng chỉ lạnh lùng liếc nhìn, không đáp. Còn Hy Vân thì cười nhẹ bảo: “ Nếu Hằng ca làm con hát, chỉ e là mới ngẩng mặt lên, chưa nói câu nào, khách nghe đã sợ chạy hết cả ấy chứ. “

Nghĩ đến cảnh tượng ấy, Trương Văn Thư cũng bật cười khanh khách tán thưởng. Khương Hằng không để tâm đến đến chuyện cười đùa của hai người họ, chỉ thấy trong bụng xác chết không hề có gì tươi mới như vẻ bên ngoài, lục phủ ngũ tạng đã chuyển màu đen sạm, và quả tim thì càng đen như bồ hóng, cứng như đá.

Khương Hằng hơi nhíu mày, dùng thiết trảo móc quả tim đá ấy ra, xem xét hồi lâu. Thấy động tác của Khương Hằng, Vân Hy và Trương Văn Thư cùng xúm lại bên, nhìn xem ngũ tạng của thi thể, lại nhìn ngó quả tim đá trên tay Khương Hằng, Vân Hy không khỏi sinh nghi. “Vì sao mà can tạng lại trúng độc nặng nhất?”

“Đúng vậy, chuyện này đúng là kì lạ thật.” Trương Văn Thư tiếp lời. “Cả nhà huyện lệnh Bình Dao hai mươi mốt mạng đều bị hại hết, nếu như muốn diệt môn, chỉ cần cho độc dược vào đồ ăn thức uống, như vậy thì tạng phủ bị trúng độc nặng nhất phải là đường ăn uống hay dạ dày, làm sao lại là tim chứ?”

Khương Hằng không nói không rằng, vận nội công, đánh mạnh một nhát, quả tim cứng như đá ấy chớp mắt vỡ vụn thành bột. Y dùng thiết trảo cào cào, đám bột vụn lọt qua khẽ vuốt rơi xuống, để lộ ra một cây ngân châm mảnh như sợi tóc.

Thấy vậy, Trương Văn Thư càng thêm nghi hoặc khó hiểu. “Nếu muốn hạ độc diệt môn, thì đầu độc là cách làm nhanh gọn nhất, hung thủ sao còn phải bày thêm việc, dùng ngân châm đâm vào tim chứ? Như thế chẳng phải là tự gây thêm phiền hà cho mình ư?”

“Chắc lượng độc dược không đủ.” Khương Hằng điềm tĩnh đáp, dùng thiết trảo kẹp cây ngân châm lên, đưa tới trước mặt Vân Hy, lại nói: “Muội xem, cây ngân châm này đầu mũi đen kịt, nhưng phía sau vẫn là màu trắng bạc, có thể thấy lúc hung thủ hạ độc, chỉ tẩm độc vào đầu mũi kim. Độc ngấm vào tim, thì chỉ cần một lượng nhỏ, cũng đủ để giết chết hai mươi mốt người này. Nhưng nếu đổi thành đầu độc, bất kể là đồ ăn thức uống, thì lượng độc này còn thiếu rất nhiều, tối đa chỉ giết được ba người mà thôi.”

Nghe Khương Hằng nói vây, Trương Văn Thư vỗ tay nói: “Chỉ một điểm này cũng rửa sạch nỗi oan cho Dược Vương rồi! Nếu như là ông ta hạ độc, thì cần chi phải dùng thủ thuật này? Còn hung thủ thực sự, bây giờ cũng có manh mối để lần ra rồi. Hung thủ lấy trộm Thần Túy Mộng Mê nhất định đã đến thăm nhà Dược Vương, chúng ta chỉ cần hỏi Lạc Dương, là sẽ có thể có được danh sách nghi can.”

“Việc không nên chậm trễ, chúng ta hãy mau tới Đỉnh Sơn, tập hợp cùng Hà Nhân và Sái Tiêu Xà, để tiếp ứng Dược Vương.”

Khương Hằng vừa dứt lời, bỗng nghe từ xa có tiếng bước chân vẳng lại. Y rất thính tai, lập tức giơ tay trái lên, ra hiệu cho Trương Văn Thư và Vân Hy. Trương Văn Thư liền thổi tắt lửa, Khương Hằng cũng lấy vải trắng phủ cẩn thận thi thể vừa bị mình mổ bụng. Rồi ba ngươi đề khí tung mình bay lên như chim, chớp mắt đã tới xà nhà cao, nấp vào chỗ tối.

Trong nghĩa địa, lại là một màn đêm tĩnh lặng chết chóc. Một lúc sau thì cửa lớn nhẹ nhàng mở ra, một cây đèn lồng trắng lạnh soi sáng sân trước, hai người áo đen theo sau tiến vào.

Người cầm đèn đi trước lấn lượt bước đến bên các thi thể, soi nhìn kỹ mặt mũi từng người. Tới góc nhà, bên chỗ một thi thể nam nhân ăn mặc như người làm công, hắn dừng bước, quay đầu lại phía tên đi cùng, nói: “Tìm thấy rồi.”

Liền sau đó, hắn kẹp cần đèn lồng vào nách, giúp nâng thi thể ấy đặt lên lưng tên cùng đi với mình.

Ba người đang giấu mặt trên xà nhà nhìn thấy hết hành động của chúng. Thấy hai kẻ áo đen đó cõng thi thể trên lưng đang chuẩn bị rời đi, Khương Hằng và Vân Hy quay sang nhìn nhau, hai người lập tức phi thân phóng nhanh xuống, một thương, một kích, đánh thẳng về phía hai tên áo đen kia!

Ánh trăng sáng lạnh, Vân Hy vừa tuột mảnh vải bọc, cây thương bạc sáng loáng lập tức thức tỉnh trong tay cô. Tên áo đen cầm đèn lồng bất chợt giật mình, vứt cây đèn sang một bên, nghiêng người tránh mũi thương, đồng thời rút cây trường đao sau lưng đón đánh! Chỉ nghe “choang” một tiếng, đao thương cùng kêu vang, tên áo đen ấy giật lùi ra sau mấy bước.

Vân Hy kêu nhẹ một tiếng, cây thương bạc trong tay dưới trăng sáng tỏa hàn quang sắc lạnh, như một con rồng uốn lượn, dồn bức đối thủ. Kẻ áo đen ấy ý chừng không muốn đánh nhau, vừa đỡ vừa lui, muốn tránh ra ngoài cửa lớn, nhưng chỉ nghe thấy tiếng gió vù qua bên tai, lại một bóng đen lướt qua bên cạnh. Hắn quay lưng định chạy, nhưng không còn kịp nữa, “phập” một tiếng, cây trương kích huyền thiết đã bổ xuống cánh tay trái hắn, chớp mắt xả lìa cánh tay rơi xuống đất.

Tên áo đen ấy không kịp kêu tiếng nào, đã thấy chàng trai cầm trương kích huyền thiết tung mình nhảy tới, lưỡi kích hình răng non nháy mắt đã kề cổ họng hắn.

Lập tức một tia máu phọt ra, kẻ đó chỉ có thể phát ra hơi thở đứt quãng, rồi đổ ập xuống.

Tên cùng đi đang cõng xác chết trên lưng, thấy tình cảnh ấy, liền vứt cái xác đi, quay người bỏ chạy. Nhưng vừa chạy được một bước, một cây quạt vẽ tranh thủy mặc đã xòe ra chặn đường hắn. Một giọng nói đầy vẻ bỡn cợt vang lên: “Khương huyng ra tay dữ quá, nhưng cũng để lại cho ta một tên đây.”

Một chọi ba, tên áo đen ấy chợt giơ ống tay áo, chớp mắt có một vẹt đen phóng ra, nhắm thẳng vào mặt thư sinh. Trương Văn Thư hơi nhíu mắt lại, cây quạt trong tay vung “soạt” một tiếng, mượn lực cản lực, vệt đen kia phút chốc đổi bắn sang hướng khác, cắm sâu vào cây cột nhà ba phân.

Đó là một mũi đoản tiễn. Trông thấy mũi tên ấy, Vân Hy bỗng nhớ lại thứ vũ khí tương tự mà ba năm trước ở ngoài thành Phàn Dương, Bách Lý Tính đã dùng nó để giết chết môn nhân của Vân Tiêu cổ lâu. Cô lập lức nhíu mày nghi hoặc. “Bất Phá các?”

Nghe thấy ba chữ ấy, tên áo đen chợt tái mặt, tay áo trái hắn vung lên, mũi tên đen và ngân châm đồng thời bắn xối xả về phía ba người.

Trước cuộc tấn công ồ ạt của đối phương, Trương Văn Thư lùi lại một bước, cây quạt trong tay phải vung lên, cây phán quan bút trong tay trái như viết thư pháp, một bút, hoặc đánh, hoặc chặn, ngăn được đại đa số ám chỉ. Còn lại cái nào, anh ta nhờ vào thân thể mẫn tiệp, khinh công hơn người, cuối cùng cũng đều né được cả.

Vân Hy thì không cản phá, thấy mấy chục ám khí bắn lại, cô chống cây thương bạc xuống đất, mượn lực tung mình bay lên, thân hình mềm mại lộn nhào trên không trung, dễ dàng tránh hết những mũi tên và ngân châm bay tới.

Khương Hằng động tác càng nhanh hơn, trong khoảng khắc ngân châm bay tới, y hất mũi trương kích, thi thể dưới đất liền bị nhấc lên.Khương Hằng lấy thi thể ấy làm lá chắn cho mình, không hề tránh né, xông lại phía tên áo đen đó. Tay trái Khương Hằng cầm kích nâng cái xác, đợi đến khi ám khí của đối phương đã dùng hết, vuốt sắc trên tay phải lập tức móc ngập vào cánh tay hắn, xé mạnh, phá hỏng ám khí cất giấu trong đó, đồng thời cũng móc đứt gân tay của hắn.

Tên áo đen ấy kêu lên thảm thiết, liền ném ra một viên màu đen. Nó vừa rơi chạm đất thì nổ, làm khói bụi mù mịt, tỏa ra một thứ mùi khó chịu. Khương Hằng dừng bước nín thở, tên áo đen lợi dụng lúc lơ là đó, vọt ra cửa chạy, lúc sau mất dạng trong màn đêm đen.

Khói bụi tan hết, Trương Văn Thư ngồi xuống xem xét, viên đen ấy rõ ràng là thuốc nổ, thành phần có diêm tiêu và lưu huỳnh. Anh ta không dừng được cười nói: “Khương huyng, ta thấy lần này huynh đúng là cẩn thận quá rồi, cái thứ này chỉ là một quả pháo thôi!”

Khương Hằng không đáp, đưa mắt nhìn theo vệt máu dưới đất, cầm cây trường kích huyền thiết, trầm giọng nói đúng một từ: “Đuổi!”

Dưới trăng sáng, ba bóng người như đại bàng tung cánh, phi thân lên xuống. Giờ đây, Khương Hằng và Tùy Vân Hy đã không còn ở trình độ xoàng xĩnh như ba năm về trước. Từ sau khi gia nhập Thương Thiên, Khương Hằng khổ công tập luyện, thu nạp sở trường của bách gia, đầu tiên học côn pháp từ Thủy Quý Hà Nhân, sau khi Hà Nhân không còn gì để dạy thêm nữa, Khương Hằng lại bái “Võ Si” Âu Dương Tiên. Âu Dương Tiên võ công chỉ ở bậc xoàng, đâu có muốn nhận đồ đệ gì, nhưng thấy Khương Hằng si mê các chiêu thức võ học như vậy, ông ta cảm thấy như gặp được tri kỷ, liền đem tất cả chiêu số sưu tập được khắp nơi trong suốt hơn mười năm qua, nhất nhất thảo luận nghiên cứu cùng Khương Hằng. Sau khi có được lý luận của Âu Dương Tiên, nghiên cứu đủ các môn võ học trong thiên hạ, ghi nhớ kỹ trong lòng, Khương Hằng bèn rèn luyện với mọi người ở khắp nơi. Hà Nhân, Sái Tiêu Xà, Cố Lương, Trương Văn Thư ai cũng từng bị Khương Hằng mời so đấu. Phàm là người trong Thuong Thiên, chẳng ai không biết ở cứ điểm thành Dung An này, xuất hiện một kẻ cuồng so đấu. Trong hàng trăm ngàn trận thực chiến, Khương Hằng ngày càng nhận trường thương có mặt hạn chế, tuy dài hơn một tấc là mạnh hơn một tấc, nhưng lại không có chức năng chém xả. Cuối cùng, Khương Hằng đã chọn loại binh khí từ xưa vẫn thường dùng trong chiến trận, đó là kích. Nó vừa có thể phát huy thương pháp mà y đã khổ luyện hơn hai mươi năm, lại có thể dùng lưỡi dao chém xả làm kẻ địch thương vong, dung hợp kỹ pháp chiêu thức của các môn phái, sức sát thương càng mạnh hơn.

Chỉ trong ba năm ngắn ngủi, võ nghệ của Khương Hằng biến chuyển nhanh chóng, từ lâu đã không còn kém cỏi như xưa. Giờ đây, ngay cả Hà Nhân cũng không dễ gì địch lại được y. Cũng nên biết con người Khương Hằng vốn cá tính mạnh mẽ, hay cố chấp, dù cho có là so đấu thì cũng đều dùng hết sức để mong chiến thắng. Đừng nói đến bị thương, ngay cả tính mạng mình Khương Hằng cũng không ngại vứt bỏ. Lại thêm Khương Hằng nhẫn nại tuyệt vời, nghị lực phi phàm, nếu như thua rồi, thì dăm bữa nửa tháng sau sẽ liên tục khổ luyện đối sách ứng phó với đối thủ, rồi lại lần nữa mời giao đấu, cho đến kỳ thắng đối thủ mới thôi. Cuối cùng, ngay cả người bản tính ôn hòa như Hà Nhân cũng không chịu nổi, nhăn nhó cười nói: “Tên tiểu tử này, tính khí chết tiệt gì mà ương ngạnh thế, đúng là đầu óc chai lì!”

Trong Thương Thiên, tất cả đều là võ nhân, thi thố về võ học cũng là chuyện bình thường. Đại đa số mọi người đều hoan nghênh tinh thần khổ luyện của Khương Hằng, Cuồng Đao Khách Cố Lương thì cứ dăm ba hôm lại phải đấu với y một trận, đến chán mới thôi. Nhưng, cũng có người không thấy hứng thú với việc hẹn hò giao đấu của Khương Hằng. Ví như Sái Tiêu Xà, lần đầu tiên hai người đối chiến, con rắn cạp nong bảo bối của ông ta thiếu chút nữa bị Khương Hằng xả làm đôi, từ đó về sau, ông ta không bao giờ đồng ý so đấu nữa. Lại ví như Trương Văn Thư, anh ta lúc nào cũng ra rả: “Một kẻ phong nhã như ta, làm sao có thể động đao thương chứ”, luôn né tránh việc mời giao đấu của Khương Hằng.

“Trăng thanh gió mát, cảnh đẹp dương này mà không thể uông rượu thưởng nguyệt, thực là một việc vô cùng đáng tiếc trong đời.” Vừa đuổi theo kẻ áo đen, Trương Văn Thư vừa than vãn. Anh ta vẫn được mọi người gọi với biệt danh “Điểm Mặc Giang Sơn”, đã gia nhập Thương Thiên hơn năm năm, chỉ thích nhàn nhã chuyện phiếm, thể hiện tài ăn nói.

Lúc này ba người đã đuổi đến một khu nhà dân. Vào lúc đêm khuya sương nặng ấy, tất cả đều im ắng đến một tiếng chó sủa cũng không nghe thấy, chỉ có vầng trăng vằng vặc giữa trời, im lìm soi sáng bốn bể.

“Không ổn rồi!” Vân Hy bỗng dừng bước, cô nhìn hai bên tả hữu giây lát, rồi ngạc nhiên nói: “Làm sao lại yên ắng thế?”

“Chẳng yên ắng thì dễ lại náo nhiệt ư? Nửa đêm gà gáy thế này, ngoài chúng ta ra, lẽ nào còn có kẻ ăn no rửng mỡ đi chơi trăng sao?” Trương Văn Thư cười nói.

Nghe cô nói vậy, Trương Văn Thư cũng lờ mờ nhận ra điều không ổn. Khiến ba người càng sinh nghi hơn là vết máu lốm đốm kia lại chạy thẳng vào trong khu nhà dân. Khương Hằng nhíu chặt hàng mày, tung mình nhảy lên mái nhà. Y hơi cúi người, dỡ một viên ngói đen hé ra độ một tấc, liền nghe thấy có tiếng người trong nhà nói nhỏ: “Vết thương thế nào?”

“Cánh tay này coi như phế rồi… Ngươi chớ thắp đèn, ba tên kia đều là cao thủ, ta sợ chúng còn cách không xa đâu, để ánh đèn thu hút chúng đến đây thì hỏng.”

“Ngươi có nhận ra chúng từ đâu đến không?”

“Không nhận ra, tên có công phu cao nhất, những chiêu thức của hắn vô cùng đa tạp, không biết là học theo môn phái nào, mà môn phái nào dường như cũng biết một ít.”

“Theo như lời ngươi nói thì chúng không phải Thái Bình minh rồi. Những danh môn chính phái ấy không có học tạp như vậy đâu.”

Nghe hai kẻ ấy nói chuyện, Khương Hằng đang nằm phục trên mái nhà liền ra hiệu cho hai người đứng ở dưới. Vân Hy lập tức hiểu ý, cầm thương phá cửa xông vào, còn Khương Hằng thì dùng thế Thiên Cân Trụy, phá nóc nhà đáp xuyên xuống giữa phòng.

Lập tức, ánh trăng sáng loáng xiên qua chỗ thủng trên mái nhà chiếu tỏ cả căn phòng. Chỉ thấy tên áo đen kia máu chảy như xối, tuy dùng một tay chống đỡ, nhưng cánh tay đã hỏng vì đứt gân của hắn vẫn vô cùng lợi hại. Khương Hằng cầm ngang cây trường kích huyền thiết, tấn công mạnh vào cánh tay đang bị thương của hắn. Vô cùng đau đớn, hắn lùi lại liền mấy bước, Khương Hằng lại lựa thế tung một cước, chỉ nghe thấy một tiếng trầm đục vang lên, kẻ đó quỳ sụp xuống đất, xương đùi đã bị đạp gẫy.

Đồng bọn của tên ấy thấy vậy, lập tức rút trường kiếm, sấn tới nghênh chiến. Đáng buồn cười là, hắn tuy thân nam nhi mình cao bảy thước, nhưng lại vận bộ y phục của nữ nhân, chải đầu theo kiểu phụ nữ, trông như một nông phụ. Hắn kêu to một tiếng, trường kiếm trong tay như cánh nhạn lướt ngang mặt nước, nhẹ tựa gió đùa, nhưng nhanh như chớp giật. Chỉ thấy hắn chạm hờ một bước xuống đất, dưới ánh trăng cây trường kiếm liền kêu mãi không thôi, nhanh chóng đâm về phía Khương Hằng.

“Vân Tiêu cổ lâu!”

Tùy Vân Hy kinh hoàng, cô vừa nhìn thấy đã nhận ra ngay chiêu thức này, chính là chiêu Thập Phương Ảo Ảnh của Vân Tiêu cổ lâu. Thật không thể ngờ đối thủ lại là người của Vân Tiêu cổ lâu, trong lòng cô chợt bàng hoàng, không biết có nên ra tay tương trợ hay không.

Vân Hy hơi chần chừ, làm cây thương trong tay cũng chậm lại. Nhận ra cô phân tâm, Khương Hằng đưa mắt liếc, lạnh lùng “hừ” một tiếng. Lập tức, trường kích của y đã vung lên, mũi kích hình trăng non quét khắp bốn phía, bất kể đối thủ có mười ảnh hay tám ảnh cũng đều chém đứt hết.

Dưới sự chống trả lôi đình của Khương Hằng, kiếm chiêu của kẻ giả gái đó bị phá, bị cây trường kích huyền thiết chém ngang eo, lập tức thân hình hắn đứt làm đôi.

Thấy tình cảnh ấy, không cần nói đến tên áo đen đang bị gãy đùi, ngay cả Vân Hy cũng không đành lòng, kinh hãi kêu lên: “Hằng ca!”

“Vân Hy, muội chớ có làm việc quá cảm tính. Từ bi với kẻ địch chính là tàn nhẫn với bản thân.” Khương Hằng lạnh lùng nói, tay y cầm chắc trường kích, bước từng bước tới trước mặt kẻ áo đen. Máu từ mũi kích nhỏ xuống đất, tay Khương Hằng vung lên, lưỡi kích đã dí sát vào cổ họng tên áo đen ấy.

“Nói, rốt cuộc ngươi là người của ai? Có quan hệ thế nào với Bất Các phá và Vân Tiêu cổ lâu?”

Kẻ áo đen ấy uất hận trừng mắt nhìn Khương Hằng, giây sau liền không hề né tránh, vươn cổ đón lưỡi kích! Nhận ra ý đồ của hắn, Khương Hằng lập tức rút tay lại, nhưng động tác của y có nhanh đến đâu cũng không bằng kẻ áo đen đang ở gần trong gang tấc ấy. Cổ họng hắn vừa lướt qua lưỡi kích, chớp mắt đã không còn thở nữa.

“Ôi chao, tên này cũng thật có chí khí, không sợ chết ư?” Trương Văn Thư bước vào sau, tấm tắc lên miệng.

Thấy hai đối thủ đã bỏ mạng, manh mối bị cắt đứt, Tùy Vân Hy châm ngọn nến trên bàn, tra xét bốn xung quanh. Chỉ thấy đó là một căn nhà nhỏ chưa đầy vài thước, bàn ghế giường chiếu rất bình thường, bất kể là y sam trong tủ hay bài thiết trên bàn đều giống nhau như nhà một thường dân. Chỉ riêng cạnh gối trên giường có một chiếc mặt nạ da người, mắt mày đều vẽ đủ, xem ra là để cho tên giả gái khi nãy đeo. Trong lòng Vân Hy càng thêm nghi hoặc, đi đến trước mặt tên áo đen, sờ ra sau tai hắn, tay chợt cảm thấy hơi cồm cộm, cô tiện tay xé ra, quả nhiên đó là một chiếc mặt nạ.

Dưới lớp mặt nạ, khuôn mặt đã chết vô cùng xa lạ. Vân Hy không khỏi thở phào một tiếng: Khi nãy thấy kẻ giả gái kia thi triển chiêu thức của Vân Tiêu cổ lâu, mà kẻ áo đen này lại là đồng bọn của hắn, cô thực sự lo lắng rằng hắn là người của Vân Tiêu cổ lâu. Tuy cô chỉ ở lại Chú Kiếm sơn trang có một đêm ngắn ngủi, nhưng cũng rất sợ kẻ bị giết này là người mình từng gặp qua…

Khương Hằng lạnh lùng liếc nhìn, đã thấy hết vẻ như trút được gánh nặng khỏi vai của Vân Hy. Y không nói không rằng, lấy mũi kích huyền thiết dính máu lau vào vạt áo trên thi thể, rồi đeo lại lên lưng, điềm nhiên nói: “Đi!”

Ba người rời khỏi khu nhà dân, đi nhanh một lèo ra ngoài thành. Đến ngoại ô, trên con đường nhỏ đầy đất bụi, Vân Hy không khỏi bước chậm lại. Lâu sau, cuối cùng cô không dừng được, quay đầu lại, nhìn dãy núi xa xa dưới ánh sáng mờ.

Dưới vầng trăng tròn vành vạnh, trong ánh sáng mông lung, ngọn núi xanh mờ vòi vọi ấy mang một vẻ quen thân không thể nói thành lời. Vân Hy chỉ vừa đưa mắt nhìn đã không thể dời sang nơi khác được nữa.

Mười một năm, từ khi tám tuổi rời khỏi Kỳ Sơn, đây là lần đầu tiên cô về đến huyện Bình Dao, lần đầu tiên được gần gũi với nơi đã sinh ra và đã nuôi lớn mình như thế. Năm ấy, cô và Khương Hằng vội vã trốn chạy, ngay cả thi thể của phụ thân cũng chẳng hề được an táng, thậm chí cô không còn biết cha, Khương thúc thúc, Khương thúc mẫu, và cả những sư huynh đệ mà cô từng vui đùa với họ, có được an táng cẩn thận hay không…

“Hằng ca…” Cô chợt kéo tay áo Khương Hằng, y như lúc còn nhỏ cầu xin Hằng ca đừng kể với cha chuyện cô học lén võ công vậy.

Cô còn chưa dứt lời, Khương Hằng đã nhè nhẹ gật đầu. Y có bao giờ không hiểu điều cô mong muốn trong lòng đâu? Khương Hằng cúi đầu, nhìn đôi mắt ngân ngấn nước, đầy khẩn khoản của Vân Hy, nhẹ nhàng đồng ý”

“Được, chúng ta về Kỳ Sơn.”

Trên dãy núi xanh ngút, gió nhẹ vi vu, tiếng côn trùng rả rích. Mặt trăng tròn vành vạnh như chiếc mâm ngọc, rải lớp sương bạc xuống khắp mặt đất. Cỏ xanh mướt, sương đêm đọng như hạt châu, phản chiếu ánh trăng, nhìn qua, tựa như tuyết rơi trắng xóa.

Hai bóng người đạp ánh trăng đi tới, bước chân nhẹ nhàng, giẫm tan sương tuyết. Đi mãi, đi mãi, cuối cùng người thấp hơn dừng lại, đưa mắt nhìn nếp nhà ẩn giữa rừng cây xanh phía xa xa, từ khóe mắt dòng lệ chợt tuôn trào, nghẹn ngào không nói lên lời.

Tay trái Khương Hằng vỗ vỗ lên vai Vân Hy, cô đưa mu bàn tay gạt nước mắt, rồi lại tiến bước về phía trước. Hai người theo bậc đá đi lên, xuyên qua con đường nhỏ cỏ cây chen chúc, liền nhìn thấy nơi sơn môn bị tàn phá năm nào. Tấm bia đá xanh đã bị đập nát tự bao giờ, những mảnh đá vỡ chất thành đống dưới đất, đến độ một chữ “Thương” được khắc bằng chu sa trên đó cũng tan thành bốn, năm mảnh. Cánh cổng cách đó một quãng, một nửa đã không biết đi đằng nào, nửa còn lại nghiêng vẹo dựa vào cạnh tường, nhện đã chăng dày một lớp.

Gạt hết lớp mạng nhện dày, Vân Hy bước vào cửa. Khoảng sân rộng rãi, khắp nơi ngổn ngang bừa bộn. Cỏ dại mọc cao quá gối đã che lấp hết dấu vết của tất cả hài cốt, gió đêm lạnh lẽo khiến lớp cỏ xanh bềnh bồng thành sóng trông tựa như một hồ nước lăn tăn. Trong hơn mười năm gió mưa sương tuyết, mái hiên từ lâu đã bị tàn phá không còn nguyên vẹn, những cột kèo bằng gỗ đã ngả màu. Trên bức tường trắng ngày xưa, bây giờ cũng loang lổ rêu phong, cả những vết máu đỏ tươi trên đó năm xưa cũng đã mờ nhạt hết vì thời gian.

Đi qua tiền đường, bước vào hậu viện, không xa là cánh cửa vào Diễn Võ đường, tấm biển treo đã bị đứt rơi xuống đất. Chỉ có cây tùng già bên đường ấy là vẫn ngạo nghễ vươn cao, bao nhiêu năm chưa từng biến đổi. Vân Hy chậm rãi bước đến dưới gốc tùng, lặng lẽ nhìn vào Diễn Võ đường, nơi mình từng ngay cả trong mơ cũng muốn được vào. Vậy mà tới hôm nay, cô lại không có dũng khí để bước vào trong đó.

Thấy Vân Hy chần chừ, Khương Hằng tung mình nhảy một bước, phi thân lên cây. Y ngồi lên cành tùng mà khi xưa cô thích ẩn mình trên đó nhất, rồi quay về phía cô vẫy vẫy tay. Vân Hy ngập ngừng hồi lâu, rồi cũng phi thân nhảy lên. Hai người vai kề vai, lặng im ngồi trên chạc tùng già, đưa mắt nhìn ra xa, chỉ thấy từng nhánh cây ngọn cỏ đều được ánh trăng phủ một màu trắng bạc mờ mờ, hệt như ngày mùa đông tuyết rơi mù mịt cách đây bao năm về trước.

Giờ phút này, trên đỉnh Kỳ Sơn im lìm, chỉ có hai người lặng lẽ ngồi bên nhau.

Trương Văn Thư tuy trước nay vẫn luôn nhiều lời, nhưng anh ta cũng không phải kẻ lúc nào cũng lảm nhảm, không biết điểm dừng. Anh ta biết Tùy gia thương vì Thái Bình Ước mà bị diệt môn thê thảm, Khương Hằng và Tùy Vân Hy nhờ phúc lớn mệnh lớn mới lọt lưới, giữ được mạng sống khỏi thảm án đó. Cho nên, khi anh ta nghe hai người họ muốn về Kỳ Sơn thăm thú một chút, Trương Văn Thư chẳng những không ngăn cản, lại còn rất tán thành. Sau khi ba người lên núi, anh ta rất ý tứ nói muốn đi quanh dạo một vòng, để cho hai người Khương Hằng và Vân Hy về thăm nhà cũ, hoài niệm cố nhân.

Núi non nhà cửa trước mắt tựa hồ không khác gì lúc họ còn thơ ấu. Ngồi trên cành tùng, Vân Hy như được quay trở lại những năm tháng vô tư, khi còn chơi đùa trên núi, học lén võ công ngày xưa. Hệt như chỉ khắc sau, tiêng chuông báo giờ học sáng sẽ vang lên, các sư huynh lại tập trung đông đủ, trước sân, học võ luyện thương với cha và Khương sư thúc. Và thiếu niên tinh nghịch kia sẽ quay về phía cô nhay mắt ranh mãnh, rồi lại cãi vã bắt nạt cô một hồi…

Nhưng, định thần nhìn kỹ, lại thấy nhà cửa đã bị phá tan hoang thê thảm, bốn bề hoang vu, mới chớp mắt mà đã hơn mười năm, chuyện cũ năm xưa phảng phất như một giấc mộng.

“Cảnh đó người đâu, việc việc thôi. Muốn nói lệ đà rơi.”

Vân Hy từng đọc được câu từ khúc này trong một cuốn sách của chú câm. Cho tới tận bây giờ cô mới hiểu hết ý nghĩa của nó. Vân Hy cúi đầu thở khẽ, hồi lâu mới nói nhỏ: “Không biết chú câm giờ thế nào…”

Cành cây chợt rung mạnh, chỉ nghe Khương Hằng lạc giọng nói: “Sao muội lại đột nhiên hỏi đến ông ta?”

Vân Hy thở dài, từ tốn bảo: “Chỉ là nhớ tới một câu thơ, nên nghĩ đến…”

“Đủ rồi!” Khương Hằng lớn tiếng trách mắng. “Vân Hy, không cho phép muội nhắc đến người đó nữa! Tôn Bối Nguyên hại chúng ta còn chưa đủ thê thảm ư? Ông ta hại chúng ta đến nỗi phải nhà cửa tan nát, Tùy gia thương trên dưới đã chết ba mươi bảy mạng người! Giờ khắc này, ở nơi đây, mà muội còn gọi ông ta là “chú câm”, hỏi muội có lỗi với chưởng môn sư bá đã mất không?”

Từ nhỏ đến lớn, từ khi hai người nương tựa vào nhau mà sống, Khương Hằng chưa từng khi nào nổi giận với Vân Hy như vậy. Nghe y lớn tiếng chất vấn, Vân Hy kinh ngạc, quay sang nhìn chàng trai đang ngồi cạnh mình, chỉ thấy y nghiến răng nghiến lợi, vẻ mặt giận dữ. Nhận thấy hỏa nộ trong người Khương Hằng, Vân Hy cúi đầu, từ tốn nói: “Muội xin lỗi!”

Khương Hằng nắm chặt bàn tay trái, ngừng lại giây lát mới lấy lại được khẩu khí bình hòa, trầm giọng nói: “Vân Hy,, muội quá đơn thuần, chớ nên nghĩ người khác ai cũng tốt như vậy.”

Nghe câu ấy của Khương Hằng, Vân Hy ngước mắt lên, đôi mắt sáng chăm chú nhìn y, nó khẽ: “Hằng ca, có câu này muội cũng muốn nói với huynh, xin huynh cũng chớ nên nghĩ người khác ai cũng xấu như vậy…”

Cô cúi xuống, nhìn thiết trảo lạnh ngắt trên cánh tay phải của Khương Hằng, chậm rãi nói thêm: “Muội biết, ba năm nay gia nhập Thương Thiên, huynh ngày đêm khổ luyện võ công, so đấu với tất cả mọi người, huynh ngoài miệng lúc nào cũng họi họ huynh huynh đệ đệ, nhưng bất kể là Hà đại ca hay Âu Dương bá bá, huynh đều chưa từng tin tưởng họ. Cho nên huynh mới lắp thêm bộ thiết trảo kia, ngay lúc đêm ngủ cũng vẫn đeo, để đề phòng có người đánh lén…”

Khương Hằng mím chặt môi, không nói năng gì, Vân Hy lại nói tiếp: “Muội cũng biết, thân phận của chú câm đã làm cho huynh chấn động mạnh. Muội cũng giận ông ấy, muội hận Tôn Bối Nguyên đến tận xương tủy, nhưng muội cũng yêu mến ông ấy, yếu mến chú câm – người đã nuôi dưỡng chúng ta suốt tám năm, chăm nom cho chúng ta khôn lớn…”

“Ông ta đâu có vì chúng ta? Ông ta chỉ vì bản thân ông ta!” Khương Hằng giận dữ quát. “Ông ta đã làm một việc trái lương tâm quá lớn, tất nhiên trong lòng bất an, mới dùng hai chúng ta để chuộc tội, nói đến cùng chẳng phải là vì bản thân mình ư?”

“Vâng, ông ấy vì mình, nhưng ông ấy hổ thẹn trong lòng, đêm không ngủ nổi, sự dằn vặt đó đối với ông ấy chẳng phải đã đủ lắm rồi ư? Rốt cuôc, hung thủ thực sự hại Tùy gia thương chúng ta là Triệu Hãn, còn ông ấy… ông ấy đâu có ngờ lại xảy ra nông nỗi ấy, chỉ một tờ Thái Bình Ước mà dẫn đến kết cục như vậy.”

Nói đến đó, Vân Hy ngẩng đầu lên, nhìn bầu trời mênh mông, vầng trăng vành vạnh, thở khẽ bảo: “Xưa ta đã tạo bao nghiệp ác. Đều vì vô thủy, tham sân si. Từ thân, miệng, y phát sinh ra. Hết thảy ta nay đều sám hối… Mấy năm nay, muội luôn nhớ đến hình ảnh ông ấy ngồi lặng lẽ chép kinh Phật. Khi còn nhỏ, muội luôn không thể hiểu được, vì sao mỗi lần chú câm chép kinh Phật, nét chữ vốn đẹp đẽ tiêu sái của ông ấy lạ

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện