Trăng Sáng Cố Hương
Chương 9-2: Bụi tuyết (tt)
Tối hôm ấy, Tùy Vân Hy vì bảo vệ cho Lạc Tử Tuyền, đã dứt khoát trốn tránh khỏi Khương Hằng, biến mất trong rừng rậm. Trước cảnh chiều tối mịt mù, Khương Hằng chỉ thấy trời đất bao la, mà không có một chỗ cho mình dung thân.
Trong hai mươi năm cuộc đời mình, Khương Hằng chỉ có hai mục đích sống, đó là báo thù và bảo vệ Vân Hy. Nhưng vào lúc này đây, khi người mà y tâm tâm niệm niệm bảo vệ hơn mười năm nay bỗng nhiên bỏ y mà đi, đột nhiên trời long đất lở, khiến y không biết nên đi đâu về đâu. Khương Hằng vốn cũng định quay về Thương Thiên, nhưng lại tự cười nhạo mình rằng: Thương Thiên với mình thì có liên can gì, nào là vất vả bảo vệ Dược Vương, nào là vất vả cứu giúp đồng đạo, với y họ đều chẳng có chút quan hệ gì, y sao phải lao tâm khổ tứ vì bọn họ?
Y một mình một bóng, cuối cùng chỉ còn lại cây trường kích trong tay, đi lang thang vô định trong khu rừng lầy lội, tận cho đến khi phía sau lưng bỗng vang lên tiếng một người lớn tuổi:
“Khương công tử, nếu như ta hứa đem lại cái đầu trên cổ của Triệu Hãn cho cậu, thì chúng ta có thể có một sự trao đổi chứ?”
Người đó chính là Thẩm Mộ Bạch - các chủ Xung Tiêu kiếm các.
Theo như lời của Thẩm Mộ Bạch, ý đồ của ông ta rất giản đơn: Công chiếm Bất Phá các, rồi nhân đó bức Vân Tiêu cổ lâu ba phái hợp nhất, làm tròn di nguyện làm chủ Xung Tiêu kiếm phái của Thẩm Hoa Đình. Còn cái ông ta có thể đem lại cho Khương Hằng, đó là cơ hội để tiếp cận Triệu Hãn.
Khương Hằng không biết rốt cuộc Thẩm Mộ Bạch đã nghe từ ai mà biết được về thân thế của mình, nhưng kẻ đứng sau màn đó, đến tám, chín phần là một trong những võ nhân của Thương Thiên ở cứ điểm Dung An. Chỉ có bọn họ mới biết rõ về thân thế của y như vậy, và cũng chỉ có bọn họ mới biết tin tức y đã từng vào Bất Phá các. Đồng đội gì, bạn bè gì cũng chẳng bằng một chữ lợi làm đầu. Khương Hằng lập tức bằng lòng giao kèo với Thẩm Mộ Bạch. Nhưng máy móc ám khí của Bất Phá các quả thực rất lợi hại, lần trước là nhờ có dấu vết bọn đưa xác, y mới khó khăn lắm vượt qua được. Thẩm Mộ Bạch nhất định sẽ không chịu để cho đệ tử của mình phải đích thân mạo hiểm, làm suy yếu sức mạnh của Xung Tiêu kiếm các ông ta. Vì vậy, Khương Hằng bèn lợi dụng ám hiệu thông báo của Thương Thiên, dẫn dắt võ nhân Thương Thiên ở cứ điểm lân cận đó đi vào Kỳ Sơn, để bọn họ đem thân mình ra mà phá bỏ những máy móc ám khí trong hang. Đợi đến khi mọi việc đều được xử lý thỏa đáng rồi, Khương Hằng và Thẩm Mộ Bạch mới tiến vào lòng động núi Kỳ Sơn, mở cửa đá vào lò luyện kiếm, và trông thấy Vân Hy cùng Hạ Thiên Thu đúng lúc họ nhìn nhau mỉm cười rồi nhảy vào đường máng nước.
Hình ảnh ấy khiến Khương Hằng không thể yên lòng. Còn Thẩm Mộ Bạch thấy đệ tử của Bất Phá các đều đã rời đi hết cả thì càng vô cùng tức giận. Nhưng lão hồ ly ấy lập tức nghĩ ra cách ứng phó, đó là lợi dụng những thi thể trong hang động giả tạo ra cảnh tượng một trận đánh vô cùng ác liệt. Sau sự việc ấy, Thẩm Mộ Bạch cũng giữ đúng lời hứa, ngày tổ chức cuộc đấu võ, Khương Hằng cũng có mặt ở đó, chỉ có điều đã cải trang thành một môn nhân của Xung Tiêu kiếm các. Y vốn định nhân cơ hội giết Triệu Hãn, thì lại nhìn thấy Hạ Thiên Thu cầm chiếc ô giấy dầu, đứng bên cạnh Vân Hy che mưa cho cô.
Giây phút ấy, so với Triệu Hãn, khuôn mặt tuấn tú của Hạ Thiên Thu lại càng đáng ghét hơn.
Những chuyện ấy, Khương Hằng tất nhiên không bao giờ để lộ ra, nhưng với sự thông minh cơ trí của mình, Vân Hy cũng có thể đoán ra được bảy, tám phần. Cứ nghĩ đến chuyện Khương Hằng cố tình dẫn dụ các võ nhân của Thương Thiên đi vào hang động, cứ nghĩ đến chuyện y thản nhiên nhìn bằng hữu của mình phải chết dưới những ám khí trong hang, trong lòng Vân Hy lại nhói đau, không nhịn nổi kêu to thành tiếng:
“Hằng ca, sao huynh lại vô tình đến thế! Trước đây huynh luôn nói rằng, thù tất báo, tình tất đền. Nhưng thù báo rồi, mà tình dưỡng dục của chú câm, huynh đã đền chưa? Tình bằng hữu của Trương Văn Thư, huynh đã đền chưa? Lại còn tình của võ nhân Thương Thiên thu nhận chúng ta, huynh đã đền chưa? Muội không hiểu, không hiểu vì sao huynh lại có thể hạ thủ được, bọn họ đều coi huynh như chiến hữu đồng đội, huynh sao có thể làm chuyện coi bọn họ như quân cờ trong tay, trở thành con tốt thí mạng để huynh báo thù như thế? Huynh đã từng nghĩ tới, cây trường kích sau lưng huynh là do Đại Nhãn bá bá rèn đúc ra, vậy mà huynh lại có thể trừng mắt nhìn ông ấy phải chết, cái mà huynh đền cho họ là thứ ân tình gì vậy?”
Trước câu cật vấn của Vân Hy, Khương Hằng đã không thể nhẫn nại thêm. “Vân Hy, muội chớ có ngây thơ thế. Thương Thiên gì chứ, chẳng qua chỉ là một lũ ô hợp lợi dụng lẫn nhau mà thôi.”
“Lũ ô hợp thì đáng chết ư?” Vân Hy oán hận nói, hai mắt đã ngân ngấn lệ, chực trào ra. “Để giết chết Triệu Hãn, lẽ nào huynh có thể đánh đổi bằng bất cứ giá nào ư? Ngay đến cả mạng sống của người khác cũng có thể bỏ đi không cần nhìn đến ư? Bất luận là Thương Thiên hay Bất Phá các, bọn họ đều là những người không nơi nương tựa trong thời loạn này, họ không phải là con tốt trong tay huynh!”
“Nếu như thế đạo này đã loạn rồi, thì hãy để ta kết thúc nó.”
Thái độ lạnh lùng của Khương Hằng khiến Vân Hy lại lần nữa không thể nói được gì. Cô đứng ngây nhìn người trước mặt mình, nhìn khuôn mặt quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn của y, nhìn thần thái lạ lẫm đến không thể lạ lẫm hơn của y. Rất lâu, rất lâu sau, cô mới thốt được một câu nghẹn ứ trong cổ họng:
“Hằng ca... Huynh không nên như thế...”
Không thể nhẫn nại được nữa, Khương Hằng túm chặt lấy tay Vân Hy, đôi mắt sâu hun hút, trợn tròn tức tối nhìn cô. “Ta nên như thế nào? Như Hạ Thiên Thu vậy hả? Muội thôi đi, tên vô dụng ấy sẽ không sống hết được ngày hôm nay đâu!”
Vân Hy toàn thân run rẩy, lập tức xông lại túm chặt lấy vạt áo của Khương Hằng. “Huynh nói vậy là ý gì? Hạ đại ca huynh ấy làm sao?”
Thấy Vân Hy bộ dạng lo lắng như ngồi trên đống lửa, Khương Hằng lạnh lùng “hừ” một tiếng, rồi đẩy mạnh cô ra. “Đại ca gì chứ, Thẩm Mộ Bạch hẹn giao đấu với hắn ở núi Hợp Hư, bây giờ e là đã chết rồi!”
Vân Hy nghe thấy vậy, lập tức đề khí tung mình nhảy lên, muốn chạy đến đó cứu giúp. Nhưng động tác của cô tuy nhanh, khinh công của Khương Hằng còn nhanh hơn, chỉ một bước đã chắn trước mặt Vân Hy.
Vân Hy vừa lo vừa giận, đưa tay rút cây thương bạc, gạt phăng thiết trảo mà đối phương giơ ra chặn. “Tránh ra!”
Khương Hằng sắc diện u ám, nói từng từ với chất giọng lạnh lùng chưa bao giờ thốt ra với Vân Hy: “Vì Hạ Thiên Thu, muội sẵn sàng động thủ với ta?”
Vân Hy giơ ngang trường thương, đứng tấn, tay phải đưa mạnh ra phía trước, dồn đủ tám phần nội lực. Chiêu Thanh Tùng Phúc Tuyết chính là chiêu có sức mạnh nhất của Tùy gia thương. Cây thương bạc như con rồng lao mình khỏi mặt nước, làm bụi tuyết tung lên mù mịt. Dưới bụi tuyết tung đầy trời, cây thương của Vân Hy vút ngang xuống đất, cô trầm giọng nói:
“Bức muội phải động thủ với huynh, chưa bao giờ là Hạ Thiên Thu cả!”
Khương Hằng nghe câu ấy thì sững người, đúng lúc ấy, Vân Hy tung một chiêu hờ, hất đầy bụi đất về phía Khương Hằng. Nhân lúc Khương Hằng bị cản tầm mắt, Vân Hy thu thương tung mình nhảy lên, đạp gió phi đi, chỉ giây lát đã mất dạng ở cuối con đường vắng.
Tuyết rơi lặng lẽ, bên dòng sông tĩnh mịch chỉ còn lại một mình Khương Hằng. Y cầm cây trường kích, chống mạnh cán xuống đất. Bông tuyết nhẹ rơi, những con sư tử đá trên thành cầu dần dần bị tuyết phủ kín. Tuyết rơi tuyết tan, trên nét mặt dữ tợn của con sư tử để lại một vệt nước khi mờ khi tỏ. Một dòng nước trong từ khóe mắt được tạc bằng đá cứng rắn lạnh băng ngoằn ngoèo chảy xuống.
Lại nói, Hạ Thiên Thu và môn nhân Vân Tiêu cổ lâu rời khỏi thành Bình Dao, đi hơn nửa ngày thì tới một tiểu trấn. A Chước lo rằng Hạ Thiên Thu bị trọng thương chưa khỏi, lại lo không có chỗ nghỉ ngơi, bèn quyết định nghỉ lại qua đêm ở trấn. Hạ Thiên Thu vừa vào trong phòng quán trọ, bỗng nghe tiếng gió lướt qua bên tai, một cây chủy thủ xuyên qua song cửa bưng giấy, cắm thẳng vào trụ giường. Trên cây dao có cắm một bức thư và một đầu mũi thương có buộc dây tua đỏ. Hạ Thiên Thu lập tức nhận ra, mũi thương ấy chính là cây thương mà Tùy Vân Hy sử dụng. Trên đoạn thân dưới mũi thương còn khắc một chữ “Tùy” nho nhỏ. Chàng đi nhanh lại, giật mảnh thư trên mũi dao, chỉ thấy ba chữ lớn “núi Hợp Hư”, nét khỏe khắn có lực, cho thấy nó do tay một võ nhân viết ra.
Hạ Thiên Thu vốn thông minh, đã đoán ra được chín phần sự việc. Chàng cất bức thư vào tay áo, lại lấy giấy bút ra viết một bức thư ngắn, rồi cất tiếng gọi to A Chước. A Chước tưởng vết thương của Hạ Thiên Thu lại đau, vội vàng chạy vào, nhưng ông ta vừa đẩy cửa bước vào, liền bị Hạ Thiên Thu điểm đúng huyệt ngủ, người mềm oặt nằm vật xuống. Hạ Thiên Thu dìu A Chước đến bên tường, đặt ngồi tựa vào, rồi chàng lấy cây Xung Tiêu kiếm bên lưng, cùng với bức thư vừa viết, đặt cả vào lòng A Chước. Hạ Thiên Thu cúi đầu, quay về phía người bạn tri kỷ đã ở cạnh mình bao nhiêu năm qua, nói nhỏ một câu xin lỗi:
“Xin lỗi, A Chước, lần này ta đã tự ý hành sự.”
Nói xong, Hạ Thiên Thu lấy cây bội kiếm bên lưng A Chước, đi thẳng ra khỏi quán trọ, nhảy lên lưng con tuấn mã, thúc nhẹ một tiếng, rồi phóng như bay vào màn trời mưa tuyết.
Nửa canh giờ sau, Hạ Thiên Thu đã đến núi Hợp Hư, vừa mới thúc ngựa đi lên đường núi, chàng liền nghe thấy một tiếng nổ rầm, một tia sét nổ tung ngay bên đường. Bị thuốc pháo nổ trúng, con tuấn mã lập tức gãy chân ngã gục nhào xuống phía trước. Hạ Thiên Thu tung mình bay lên, lộn một vòng trên không. Nhưng chỉ giây sau, hàng ngàn vạn mũi tên lập tức vun vút lao lại phía chàng! Chàng lập tức vung kiếm đỡ gạt, cây kiếm lưỡi xanh tuốt ra khỏi vỏ, tung liền một chiêu Vân Xuất Tụ (*), ánh kiếm múa lượn dày khít đến gió không lọt, gạt phăng đi hết tất cả những mũi tên bay đến. Nhưng chàng vừa mới phi thân đáp xuống đất, thì ngay bên chân lại có thuốc pháo nổ rền!
(*) Có nghĩa là “Mây ra cửa động”.
Khói bụi mịt mù, đá sỏi bay tán loạn, xung lực lớn khiến chúng văng đi rất mạnh! Hạ Thiên Thu bị mấy vết trọng thương trên người, máu đầm đìa chảy ra từ bên trán, khiến những lọn tóc bạc trắng bị nhuộm thành đỏ hồng. Chàng thổ ra một ngụm máu, nhưng chẳng quan tâm đến vết thương của mình như thế nào, lập tức cầm kiếm đứng dậy, chạy thật nhanh lên con đường núi.
Có bao nhiêu mai phục, Hạ Thiên Thu căn bản không còn lòng dạ nào tính toán. Nội lực đã hết, khinh công không dùng được nữa, chàng chỉ ra sức chạy không ngừng nghỉ. Thuốc pháo nổ ngay bên chân đã khiến chàng khắp người máu me bê bết, nhưng chàng lấy hơi chạy miết, không hề dừng chân.
Một kiếm sĩ của Xung Tiêu kiếm các từ trên cây tung mình nhảy xuống, đầu mũi kiếm hướng về phía Hạ Thiên Thu lao tới. Hạ Thiên Thu vung tay phải, chỉ nghe trường kiếm kêu vù một tiếng rồi tự xoay tròn. Ánh kiếm lóe như chớp giật xé toạc bầu không, ngay sau đó là một tiếng trầm đục vang lên, mũi kiếm sắc lạnh đã cắm ngập vào yết hầu kiếm sĩ kia. Hạ Thiên Thu trở ngược tay rút kiếm ra, máu từ cổ đối phương phun đầy mặt chàng, nhưng chàng cũng chẳng buồn lau, mà chỉ tiếp tục chạy như bay lên núi.
Hết lượt này đến lượt khác bị chặn đánh, mấy chục tên kiếm khách nối nhau xông ra. Hạ Thiên Thu không còn chút nội lực nào, chỉ dựa vào những kiếm chiêu tinh diệu của mình mà chống lại đối phương. Chàng tuy một thân một kiếm, nhưng cây Thanh Phong trường kiếm ấy cũng hệt như một con rồng bay lượn biến hóa trong tay, khi thì bóng kiếm khắp bốn phương, khi lại như cầu vồng ngang vầng nhật. Trong lúc sinh tử nguy cấp này, chàng không thể nương tay được, kiếm quang vung khỏi tay tất có kẻ phải chết. Không ít môn nhân của Xung Tiêu kiếm các đã phải bỏ mạng dưới lưỡi kiếm của chàng, xác ngổn ngang dưới đất.
Hạ Thiên Thu đứng trên vũng máu, toàn thân nhuộm đỏ một màu. Trong trận ác chiến ấy, trên vai, trên lưng chàng đã có bao nhiêu vết thương, rách da toác thịt, sâu lộ cốt. Nhưng dường như chàng không hề cảm thấy đau đớn, đôi mắt sáng rực quét nhìn một lượt những võ nhân đứng quanh, đánh mắt bốn phương, tai nghe tám hướng. Chàng thu một đường kiếm, ánh kiếm quét thành hình bán nguyệt, lập tức đẩy lui một tên kiếm khách đang xông tới. Chỉ giây sau, chàng lập tức biến chiêu, xoay tay đâm mạnh, xuyên bụng một tên kiếm khách khác đang định tập kích từ sau lưng!
Khí phách không sợ sống chết, kiếm thuật xuất thần nhập quỷ, khiến cho đám võ nhân đứng quanh sợ hãi không dám xông tới, chỉ đứng vây tròn quanh chàng. Hạ Thiên Thu đứng giữa vòng vây, nhưng không hề sợ hãi, chàng đưa chân đứng tấn lưỡng nghi, tay phải hơi thu lại, rồi trong khoảnh khắc nhún chân nhảy lên, người kiếm tựa hòa thành một, giống như tên sắc rời khỏi dây cung, đánh thẳng vào một tên kiếm khách trước mặt!
Kiếm khách đó chỉ thấy một luồng hàn quang trước mắt, kinh hãi quên cả hoàn chiêu chống đỡ, mắt trân trân nhìn Hạ Thiên Thu bay vút đến trước mặt mình, chỉ có thể lùi nhanh lại phía sau. Đường kiếm ấy đã sắp đánh trúng giữa hai mày của kiếm khách đó, thì bỗng nhiên lại một tiếng nổ lớn núi chuyển đất rung, kiếm khách nọ trong lúc hốt hoảng đã tự mình giẫm đúng vào chỗ có thuốc pháo gài sẵn. Tiếng nổ chớp mắt khiến Hạ Thiên Thu văng xa hơn trượng, cây kiếm của đối thủ cũng bị gãy làm mấy đoạn, đầu kiếm cắm sâu vào tay phải Hạ Thiên Thu, vết thương rất rộng và sâu, có thể nhìn thấy cả xương trắng.
Cánh tay bị trọng thương khiến chàng không còn cầm chắc được kiếm, nhưng Hạ Thiên Thu không một chút chau mày. Tay trái chàng xé một mảnh vạt áo, quấn luôn cả cây trường kiếm vào tay. Dòng máu thuận theo mũi kiếm chảy xuống, chàng không hề kêu một tiếng, chỉ giây sau, cây trường kiếm trong tay lại xuất chiêu!
Ánh kiếm chớp lòe, như sao sa lửa bay! Tiếng kiếm ngân không dứt, như rồng xanh kêu mãi! Chàng phi thân xoay người nhảy lên, xuất chiêu nhanh đến nỗi khiến người ta chỉ thấy ánh kiếm trước mặt hòa vào nhau thành một khối, tựa hồ Hạ Thiên Thu từ một hóa thành mười người, có ba đầu sáu tay vậy. Trong bụi tuyết mịt mù, máu văng tứ phía, những chỗ ánh kiếm lướt qua, máu thịt lâm ly, ngay cả những bông tuyết còn đang bay lơ lửng chưa rơi xuống đất cũng bị nhuộm thành một màu đỏ máu, rồi mới rớt xuống.
Hạ Thiên Thu đầy thân máu me đã sắp xông được lên đỉnh núi, bỗng nghe trên bậc đá tiếng vỗ tay thủng thẳng, không chậm không nhanh, tiếp ngay sau đó là một giọng nói có vẻ hơi già:
“Thật không hổ là cháu của Hạ Lăng Tiêu, quả cũng có vài phần tài nghệ.”
Hạ Thiên Thu đầy thân máu đỏ, cầm kiếm đứng yên, đôi mắt sáng quắc nhìn chăm chú đối phương, trầm giọng nói: “Thẩm Mộ Bạch, đây là oán cũ trong môn phái giữa ta với ông, không liên quan đến ai hết! Ông hãy thả Tùy cô nương ra, rồi hai chúng ta đánh một trận quyết tử!”
Thẩm Mộ Bạch đứng trên đỉnh núi, từ trên cao nhìn xuống Hạ Thiên Thu. “Tên tàn phế sắp chết kia, lão phu chỉ một chiêu cũng có thể đẩy ngươi vào chỗ chết. Tên nhãi ranh miệng còn hơi sữa, ngươi dựa vào cái gì để đối trận với lão phu?”
Hạ Thiên Thu nhếch miệng, cười nhạo nói: “Hóa ra hậu nhân của Thẩm Hoa Đình từng tự xưng là kiếm thuật vô song, lại chỉ có thể dựa vào nội lực để giành phần thắng thôi ư?”
Một lão giang hồ như Thẩm Mộ Bạch sao không nhận ra chiêu khích tướng của Hạ Thiên Thu? Nhưng câu nói ấy đã đánh trúng tim đen của ông ta, Thẩm Mộ Bạch lập tức lớn tiếng quát to: “Nhãi ranh vô tri, hôm nay lão phu sẽ cho ngươi được biết, thế nào là kiếm thuật chân chính của Xung Tiêu kiếm các!”
Chưa nói dứt câu, Thẩm Mộ Bạch đã rút từ bên lưng ra cây nhuyễn kiếm. Chỉ thấy tay phải vẩy nhẹ, cây nhuyễn kiếm được tiếp nội lực lập tức vươn thẳng, cứng như cây thương sắt. Thẩm Mộ Bạch hét to một tiếng, thân hình như chim ưng tung cánh lướt lên, phi thẳng xuống đầu Hạ Thiên Thu.
Hạ Thiên Thu lui nhanh một bước, tay phải vung ngang, chặn lại đường kiếm tấn công trên đầu mình, đồng thời tay trái chàng đưa lên, khóa chặt lấy bàn chân phải Thẩm Mộ Bạch phi tới. Thẩm Mộ Bạch thấy vậy định chém, nhưng Hạ Thiên Thu đã né người thấp xuống, vai phải xô mạnh, đúng vào giữa ngực đối phương, lấy sức hất đối phương bật ra một bước.
Thẩm Mộ Bạch tức tối vung kiếm, Hạ Thiên Thu né người tránh, cố ý tạo ra một điểm sơ hở. Thẩm Mộ Bạch đâu có thể ngờ, đến lúc này, Hạ Thiên Thu còn có gan cố tình sơ hở, lập tức xoay cổ tay, vung kiếm chém tới. Miếng đòn ấy cơ hồ có thể khiến Hạ Thiên Thu cả tay lẫn kiếm đều bị chém rụng! Nhưng khi lưỡi kiếm của Thẩm Mộ Bạch tưởng chừng sắp chạm tới được da thịt của Hạ Thiên Thu, thì hai ngón tay trên bàn tay trái của chàng đã đánh mạnh vào vai đối thủ, điểm trúng huyệt đạo của Thẩm Mộ Bạch. Thẩm Mộ Bạch chỉ thấy cánh tay tê dại, cây trường kiếm tuột khỏi tay rơi xuống đất!
“Khốn kiếp!”
Hổ thẹn hóa giận, Thẩm Mộ Bạch kêu to một câu, hai bàn tay dồn đủ mười thành công lực, hướng vào ngực Hạ Thiên Thu, đánh mạnh!
Nhanh như cắt, một bóng người bỗng vụt tới như cánh nhạn vút qua bầu không, bay thẳng đến bên người Hạ Thiên Thu, thay chàng đỡ trọn một chưởng ấy!
Khoảnh khắc, Vân Hy như một con diều đứt dây, bay thẳng ra xa hơn một trượng, rơi mạnh xuống lối bậc đá. Cổ họng cô chợt tanh sặc, khóe miệng trào một ngụm máu tươi. Hạ Thiên Thu thấy vậy kinh ngạc, vội vàng chạy đến bên Vân Hy, đỡ lấy vai cô.
Vân Hy tay phải cầm thương, lấy hết sức đứng dậy. Ngẩng đầu nhìn thấy Hạ Thiên Thu đầy mình máu me, tưởng chừng không nhận ra nổi, hai hàng nước mắt cô đột nhiên lăn dài, nhưng chỉ giây sau, cô bỗng nhoẻn miệng, vẻ mừng vui vô hạn lộ rõ ra nét mặt. “May... may mắn là đã đến kịp... Thiếu chút nữa thì phải xuống địa phủ cứu huynh rồi...”
Thấy cô vừa khóc vừa cười, Hạ Thiên Thu chợt thấy trong lòng chua chát, nghẹn ngào nói: “Muội sao phải khổ sở như vậy...”
Câu nói ấy chính là câu mà cô muốn hỏi chàng. Vân Hy khẽ nói: “Huynh cũng vậy mà”, rồi tươi cười. “Chẳng phải huynh đã nói đó thôi, nợ ân tình giữa huynh và muội chẳng bao giờ tính toán cho hết được.”
Trong hai mươi năm cuộc đời mình, Khương Hằng chỉ có hai mục đích sống, đó là báo thù và bảo vệ Vân Hy. Nhưng vào lúc này đây, khi người mà y tâm tâm niệm niệm bảo vệ hơn mười năm nay bỗng nhiên bỏ y mà đi, đột nhiên trời long đất lở, khiến y không biết nên đi đâu về đâu. Khương Hằng vốn cũng định quay về Thương Thiên, nhưng lại tự cười nhạo mình rằng: Thương Thiên với mình thì có liên can gì, nào là vất vả bảo vệ Dược Vương, nào là vất vả cứu giúp đồng đạo, với y họ đều chẳng có chút quan hệ gì, y sao phải lao tâm khổ tứ vì bọn họ?
Y một mình một bóng, cuối cùng chỉ còn lại cây trường kích trong tay, đi lang thang vô định trong khu rừng lầy lội, tận cho đến khi phía sau lưng bỗng vang lên tiếng một người lớn tuổi:
“Khương công tử, nếu như ta hứa đem lại cái đầu trên cổ của Triệu Hãn cho cậu, thì chúng ta có thể có một sự trao đổi chứ?”
Người đó chính là Thẩm Mộ Bạch - các chủ Xung Tiêu kiếm các.
Theo như lời của Thẩm Mộ Bạch, ý đồ của ông ta rất giản đơn: Công chiếm Bất Phá các, rồi nhân đó bức Vân Tiêu cổ lâu ba phái hợp nhất, làm tròn di nguyện làm chủ Xung Tiêu kiếm phái của Thẩm Hoa Đình. Còn cái ông ta có thể đem lại cho Khương Hằng, đó là cơ hội để tiếp cận Triệu Hãn.
Khương Hằng không biết rốt cuộc Thẩm Mộ Bạch đã nghe từ ai mà biết được về thân thế của mình, nhưng kẻ đứng sau màn đó, đến tám, chín phần là một trong những võ nhân của Thương Thiên ở cứ điểm Dung An. Chỉ có bọn họ mới biết rõ về thân thế của y như vậy, và cũng chỉ có bọn họ mới biết tin tức y đã từng vào Bất Phá các. Đồng đội gì, bạn bè gì cũng chẳng bằng một chữ lợi làm đầu. Khương Hằng lập tức bằng lòng giao kèo với Thẩm Mộ Bạch. Nhưng máy móc ám khí của Bất Phá các quả thực rất lợi hại, lần trước là nhờ có dấu vết bọn đưa xác, y mới khó khăn lắm vượt qua được. Thẩm Mộ Bạch nhất định sẽ không chịu để cho đệ tử của mình phải đích thân mạo hiểm, làm suy yếu sức mạnh của Xung Tiêu kiếm các ông ta. Vì vậy, Khương Hằng bèn lợi dụng ám hiệu thông báo của Thương Thiên, dẫn dắt võ nhân Thương Thiên ở cứ điểm lân cận đó đi vào Kỳ Sơn, để bọn họ đem thân mình ra mà phá bỏ những máy móc ám khí trong hang. Đợi đến khi mọi việc đều được xử lý thỏa đáng rồi, Khương Hằng và Thẩm Mộ Bạch mới tiến vào lòng động núi Kỳ Sơn, mở cửa đá vào lò luyện kiếm, và trông thấy Vân Hy cùng Hạ Thiên Thu đúng lúc họ nhìn nhau mỉm cười rồi nhảy vào đường máng nước.
Hình ảnh ấy khiến Khương Hằng không thể yên lòng. Còn Thẩm Mộ Bạch thấy đệ tử của Bất Phá các đều đã rời đi hết cả thì càng vô cùng tức giận. Nhưng lão hồ ly ấy lập tức nghĩ ra cách ứng phó, đó là lợi dụng những thi thể trong hang động giả tạo ra cảnh tượng một trận đánh vô cùng ác liệt. Sau sự việc ấy, Thẩm Mộ Bạch cũng giữ đúng lời hứa, ngày tổ chức cuộc đấu võ, Khương Hằng cũng có mặt ở đó, chỉ có điều đã cải trang thành một môn nhân của Xung Tiêu kiếm các. Y vốn định nhân cơ hội giết Triệu Hãn, thì lại nhìn thấy Hạ Thiên Thu cầm chiếc ô giấy dầu, đứng bên cạnh Vân Hy che mưa cho cô.
Giây phút ấy, so với Triệu Hãn, khuôn mặt tuấn tú của Hạ Thiên Thu lại càng đáng ghét hơn.
Những chuyện ấy, Khương Hằng tất nhiên không bao giờ để lộ ra, nhưng với sự thông minh cơ trí của mình, Vân Hy cũng có thể đoán ra được bảy, tám phần. Cứ nghĩ đến chuyện Khương Hằng cố tình dẫn dụ các võ nhân của Thương Thiên đi vào hang động, cứ nghĩ đến chuyện y thản nhiên nhìn bằng hữu của mình phải chết dưới những ám khí trong hang, trong lòng Vân Hy lại nhói đau, không nhịn nổi kêu to thành tiếng:
“Hằng ca, sao huynh lại vô tình đến thế! Trước đây huynh luôn nói rằng, thù tất báo, tình tất đền. Nhưng thù báo rồi, mà tình dưỡng dục của chú câm, huynh đã đền chưa? Tình bằng hữu của Trương Văn Thư, huynh đã đền chưa? Lại còn tình của võ nhân Thương Thiên thu nhận chúng ta, huynh đã đền chưa? Muội không hiểu, không hiểu vì sao huynh lại có thể hạ thủ được, bọn họ đều coi huynh như chiến hữu đồng đội, huynh sao có thể làm chuyện coi bọn họ như quân cờ trong tay, trở thành con tốt thí mạng để huynh báo thù như thế? Huynh đã từng nghĩ tới, cây trường kích sau lưng huynh là do Đại Nhãn bá bá rèn đúc ra, vậy mà huynh lại có thể trừng mắt nhìn ông ấy phải chết, cái mà huynh đền cho họ là thứ ân tình gì vậy?”
Trước câu cật vấn của Vân Hy, Khương Hằng đã không thể nhẫn nại thêm. “Vân Hy, muội chớ có ngây thơ thế. Thương Thiên gì chứ, chẳng qua chỉ là một lũ ô hợp lợi dụng lẫn nhau mà thôi.”
“Lũ ô hợp thì đáng chết ư?” Vân Hy oán hận nói, hai mắt đã ngân ngấn lệ, chực trào ra. “Để giết chết Triệu Hãn, lẽ nào huynh có thể đánh đổi bằng bất cứ giá nào ư? Ngay đến cả mạng sống của người khác cũng có thể bỏ đi không cần nhìn đến ư? Bất luận là Thương Thiên hay Bất Phá các, bọn họ đều là những người không nơi nương tựa trong thời loạn này, họ không phải là con tốt trong tay huynh!”
“Nếu như thế đạo này đã loạn rồi, thì hãy để ta kết thúc nó.”
Thái độ lạnh lùng của Khương Hằng khiến Vân Hy lại lần nữa không thể nói được gì. Cô đứng ngây nhìn người trước mặt mình, nhìn khuôn mặt quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn của y, nhìn thần thái lạ lẫm đến không thể lạ lẫm hơn của y. Rất lâu, rất lâu sau, cô mới thốt được một câu nghẹn ứ trong cổ họng:
“Hằng ca... Huynh không nên như thế...”
Không thể nhẫn nại được nữa, Khương Hằng túm chặt lấy tay Vân Hy, đôi mắt sâu hun hút, trợn tròn tức tối nhìn cô. “Ta nên như thế nào? Như Hạ Thiên Thu vậy hả? Muội thôi đi, tên vô dụng ấy sẽ không sống hết được ngày hôm nay đâu!”
Vân Hy toàn thân run rẩy, lập tức xông lại túm chặt lấy vạt áo của Khương Hằng. “Huynh nói vậy là ý gì? Hạ đại ca huynh ấy làm sao?”
Thấy Vân Hy bộ dạng lo lắng như ngồi trên đống lửa, Khương Hằng lạnh lùng “hừ” một tiếng, rồi đẩy mạnh cô ra. “Đại ca gì chứ, Thẩm Mộ Bạch hẹn giao đấu với hắn ở núi Hợp Hư, bây giờ e là đã chết rồi!”
Vân Hy nghe thấy vậy, lập tức đề khí tung mình nhảy lên, muốn chạy đến đó cứu giúp. Nhưng động tác của cô tuy nhanh, khinh công của Khương Hằng còn nhanh hơn, chỉ một bước đã chắn trước mặt Vân Hy.
Vân Hy vừa lo vừa giận, đưa tay rút cây thương bạc, gạt phăng thiết trảo mà đối phương giơ ra chặn. “Tránh ra!”
Khương Hằng sắc diện u ám, nói từng từ với chất giọng lạnh lùng chưa bao giờ thốt ra với Vân Hy: “Vì Hạ Thiên Thu, muội sẵn sàng động thủ với ta?”
Vân Hy giơ ngang trường thương, đứng tấn, tay phải đưa mạnh ra phía trước, dồn đủ tám phần nội lực. Chiêu Thanh Tùng Phúc Tuyết chính là chiêu có sức mạnh nhất của Tùy gia thương. Cây thương bạc như con rồng lao mình khỏi mặt nước, làm bụi tuyết tung lên mù mịt. Dưới bụi tuyết tung đầy trời, cây thương của Vân Hy vút ngang xuống đất, cô trầm giọng nói:
“Bức muội phải động thủ với huynh, chưa bao giờ là Hạ Thiên Thu cả!”
Khương Hằng nghe câu ấy thì sững người, đúng lúc ấy, Vân Hy tung một chiêu hờ, hất đầy bụi đất về phía Khương Hằng. Nhân lúc Khương Hằng bị cản tầm mắt, Vân Hy thu thương tung mình nhảy lên, đạp gió phi đi, chỉ giây lát đã mất dạng ở cuối con đường vắng.
Tuyết rơi lặng lẽ, bên dòng sông tĩnh mịch chỉ còn lại một mình Khương Hằng. Y cầm cây trường kích, chống mạnh cán xuống đất. Bông tuyết nhẹ rơi, những con sư tử đá trên thành cầu dần dần bị tuyết phủ kín. Tuyết rơi tuyết tan, trên nét mặt dữ tợn của con sư tử để lại một vệt nước khi mờ khi tỏ. Một dòng nước trong từ khóe mắt được tạc bằng đá cứng rắn lạnh băng ngoằn ngoèo chảy xuống.
Lại nói, Hạ Thiên Thu và môn nhân Vân Tiêu cổ lâu rời khỏi thành Bình Dao, đi hơn nửa ngày thì tới một tiểu trấn. A Chước lo rằng Hạ Thiên Thu bị trọng thương chưa khỏi, lại lo không có chỗ nghỉ ngơi, bèn quyết định nghỉ lại qua đêm ở trấn. Hạ Thiên Thu vừa vào trong phòng quán trọ, bỗng nghe tiếng gió lướt qua bên tai, một cây chủy thủ xuyên qua song cửa bưng giấy, cắm thẳng vào trụ giường. Trên cây dao có cắm một bức thư và một đầu mũi thương có buộc dây tua đỏ. Hạ Thiên Thu lập tức nhận ra, mũi thương ấy chính là cây thương mà Tùy Vân Hy sử dụng. Trên đoạn thân dưới mũi thương còn khắc một chữ “Tùy” nho nhỏ. Chàng đi nhanh lại, giật mảnh thư trên mũi dao, chỉ thấy ba chữ lớn “núi Hợp Hư”, nét khỏe khắn có lực, cho thấy nó do tay một võ nhân viết ra.
Hạ Thiên Thu vốn thông minh, đã đoán ra được chín phần sự việc. Chàng cất bức thư vào tay áo, lại lấy giấy bút ra viết một bức thư ngắn, rồi cất tiếng gọi to A Chước. A Chước tưởng vết thương của Hạ Thiên Thu lại đau, vội vàng chạy vào, nhưng ông ta vừa đẩy cửa bước vào, liền bị Hạ Thiên Thu điểm đúng huyệt ngủ, người mềm oặt nằm vật xuống. Hạ Thiên Thu dìu A Chước đến bên tường, đặt ngồi tựa vào, rồi chàng lấy cây Xung Tiêu kiếm bên lưng, cùng với bức thư vừa viết, đặt cả vào lòng A Chước. Hạ Thiên Thu cúi đầu, quay về phía người bạn tri kỷ đã ở cạnh mình bao nhiêu năm qua, nói nhỏ một câu xin lỗi:
“Xin lỗi, A Chước, lần này ta đã tự ý hành sự.”
Nói xong, Hạ Thiên Thu lấy cây bội kiếm bên lưng A Chước, đi thẳng ra khỏi quán trọ, nhảy lên lưng con tuấn mã, thúc nhẹ một tiếng, rồi phóng như bay vào màn trời mưa tuyết.
Nửa canh giờ sau, Hạ Thiên Thu đã đến núi Hợp Hư, vừa mới thúc ngựa đi lên đường núi, chàng liền nghe thấy một tiếng nổ rầm, một tia sét nổ tung ngay bên đường. Bị thuốc pháo nổ trúng, con tuấn mã lập tức gãy chân ngã gục nhào xuống phía trước. Hạ Thiên Thu tung mình bay lên, lộn một vòng trên không. Nhưng chỉ giây sau, hàng ngàn vạn mũi tên lập tức vun vút lao lại phía chàng! Chàng lập tức vung kiếm đỡ gạt, cây kiếm lưỡi xanh tuốt ra khỏi vỏ, tung liền một chiêu Vân Xuất Tụ (*), ánh kiếm múa lượn dày khít đến gió không lọt, gạt phăng đi hết tất cả những mũi tên bay đến. Nhưng chàng vừa mới phi thân đáp xuống đất, thì ngay bên chân lại có thuốc pháo nổ rền!
(*) Có nghĩa là “Mây ra cửa động”.
Khói bụi mịt mù, đá sỏi bay tán loạn, xung lực lớn khiến chúng văng đi rất mạnh! Hạ Thiên Thu bị mấy vết trọng thương trên người, máu đầm đìa chảy ra từ bên trán, khiến những lọn tóc bạc trắng bị nhuộm thành đỏ hồng. Chàng thổ ra một ngụm máu, nhưng chẳng quan tâm đến vết thương của mình như thế nào, lập tức cầm kiếm đứng dậy, chạy thật nhanh lên con đường núi.
Có bao nhiêu mai phục, Hạ Thiên Thu căn bản không còn lòng dạ nào tính toán. Nội lực đã hết, khinh công không dùng được nữa, chàng chỉ ra sức chạy không ngừng nghỉ. Thuốc pháo nổ ngay bên chân đã khiến chàng khắp người máu me bê bết, nhưng chàng lấy hơi chạy miết, không hề dừng chân.
Một kiếm sĩ của Xung Tiêu kiếm các từ trên cây tung mình nhảy xuống, đầu mũi kiếm hướng về phía Hạ Thiên Thu lao tới. Hạ Thiên Thu vung tay phải, chỉ nghe trường kiếm kêu vù một tiếng rồi tự xoay tròn. Ánh kiếm lóe như chớp giật xé toạc bầu không, ngay sau đó là một tiếng trầm đục vang lên, mũi kiếm sắc lạnh đã cắm ngập vào yết hầu kiếm sĩ kia. Hạ Thiên Thu trở ngược tay rút kiếm ra, máu từ cổ đối phương phun đầy mặt chàng, nhưng chàng cũng chẳng buồn lau, mà chỉ tiếp tục chạy như bay lên núi.
Hết lượt này đến lượt khác bị chặn đánh, mấy chục tên kiếm khách nối nhau xông ra. Hạ Thiên Thu không còn chút nội lực nào, chỉ dựa vào những kiếm chiêu tinh diệu của mình mà chống lại đối phương. Chàng tuy một thân một kiếm, nhưng cây Thanh Phong trường kiếm ấy cũng hệt như một con rồng bay lượn biến hóa trong tay, khi thì bóng kiếm khắp bốn phương, khi lại như cầu vồng ngang vầng nhật. Trong lúc sinh tử nguy cấp này, chàng không thể nương tay được, kiếm quang vung khỏi tay tất có kẻ phải chết. Không ít môn nhân của Xung Tiêu kiếm các đã phải bỏ mạng dưới lưỡi kiếm của chàng, xác ngổn ngang dưới đất.
Hạ Thiên Thu đứng trên vũng máu, toàn thân nhuộm đỏ một màu. Trong trận ác chiến ấy, trên vai, trên lưng chàng đã có bao nhiêu vết thương, rách da toác thịt, sâu lộ cốt. Nhưng dường như chàng không hề cảm thấy đau đớn, đôi mắt sáng rực quét nhìn một lượt những võ nhân đứng quanh, đánh mắt bốn phương, tai nghe tám hướng. Chàng thu một đường kiếm, ánh kiếm quét thành hình bán nguyệt, lập tức đẩy lui một tên kiếm khách đang xông tới. Chỉ giây sau, chàng lập tức biến chiêu, xoay tay đâm mạnh, xuyên bụng một tên kiếm khách khác đang định tập kích từ sau lưng!
Khí phách không sợ sống chết, kiếm thuật xuất thần nhập quỷ, khiến cho đám võ nhân đứng quanh sợ hãi không dám xông tới, chỉ đứng vây tròn quanh chàng. Hạ Thiên Thu đứng giữa vòng vây, nhưng không hề sợ hãi, chàng đưa chân đứng tấn lưỡng nghi, tay phải hơi thu lại, rồi trong khoảnh khắc nhún chân nhảy lên, người kiếm tựa hòa thành một, giống như tên sắc rời khỏi dây cung, đánh thẳng vào một tên kiếm khách trước mặt!
Kiếm khách đó chỉ thấy một luồng hàn quang trước mắt, kinh hãi quên cả hoàn chiêu chống đỡ, mắt trân trân nhìn Hạ Thiên Thu bay vút đến trước mặt mình, chỉ có thể lùi nhanh lại phía sau. Đường kiếm ấy đã sắp đánh trúng giữa hai mày của kiếm khách đó, thì bỗng nhiên lại một tiếng nổ lớn núi chuyển đất rung, kiếm khách nọ trong lúc hốt hoảng đã tự mình giẫm đúng vào chỗ có thuốc pháo gài sẵn. Tiếng nổ chớp mắt khiến Hạ Thiên Thu văng xa hơn trượng, cây kiếm của đối thủ cũng bị gãy làm mấy đoạn, đầu kiếm cắm sâu vào tay phải Hạ Thiên Thu, vết thương rất rộng và sâu, có thể nhìn thấy cả xương trắng.
Cánh tay bị trọng thương khiến chàng không còn cầm chắc được kiếm, nhưng Hạ Thiên Thu không một chút chau mày. Tay trái chàng xé một mảnh vạt áo, quấn luôn cả cây trường kiếm vào tay. Dòng máu thuận theo mũi kiếm chảy xuống, chàng không hề kêu một tiếng, chỉ giây sau, cây trường kiếm trong tay lại xuất chiêu!
Ánh kiếm chớp lòe, như sao sa lửa bay! Tiếng kiếm ngân không dứt, như rồng xanh kêu mãi! Chàng phi thân xoay người nhảy lên, xuất chiêu nhanh đến nỗi khiến người ta chỉ thấy ánh kiếm trước mặt hòa vào nhau thành một khối, tựa hồ Hạ Thiên Thu từ một hóa thành mười người, có ba đầu sáu tay vậy. Trong bụi tuyết mịt mù, máu văng tứ phía, những chỗ ánh kiếm lướt qua, máu thịt lâm ly, ngay cả những bông tuyết còn đang bay lơ lửng chưa rơi xuống đất cũng bị nhuộm thành một màu đỏ máu, rồi mới rớt xuống.
Hạ Thiên Thu đầy thân máu me đã sắp xông được lên đỉnh núi, bỗng nghe trên bậc đá tiếng vỗ tay thủng thẳng, không chậm không nhanh, tiếp ngay sau đó là một giọng nói có vẻ hơi già:
“Thật không hổ là cháu của Hạ Lăng Tiêu, quả cũng có vài phần tài nghệ.”
Hạ Thiên Thu đầy thân máu đỏ, cầm kiếm đứng yên, đôi mắt sáng quắc nhìn chăm chú đối phương, trầm giọng nói: “Thẩm Mộ Bạch, đây là oán cũ trong môn phái giữa ta với ông, không liên quan đến ai hết! Ông hãy thả Tùy cô nương ra, rồi hai chúng ta đánh một trận quyết tử!”
Thẩm Mộ Bạch đứng trên đỉnh núi, từ trên cao nhìn xuống Hạ Thiên Thu. “Tên tàn phế sắp chết kia, lão phu chỉ một chiêu cũng có thể đẩy ngươi vào chỗ chết. Tên nhãi ranh miệng còn hơi sữa, ngươi dựa vào cái gì để đối trận với lão phu?”
Hạ Thiên Thu nhếch miệng, cười nhạo nói: “Hóa ra hậu nhân của Thẩm Hoa Đình từng tự xưng là kiếm thuật vô song, lại chỉ có thể dựa vào nội lực để giành phần thắng thôi ư?”
Một lão giang hồ như Thẩm Mộ Bạch sao không nhận ra chiêu khích tướng của Hạ Thiên Thu? Nhưng câu nói ấy đã đánh trúng tim đen của ông ta, Thẩm Mộ Bạch lập tức lớn tiếng quát to: “Nhãi ranh vô tri, hôm nay lão phu sẽ cho ngươi được biết, thế nào là kiếm thuật chân chính của Xung Tiêu kiếm các!”
Chưa nói dứt câu, Thẩm Mộ Bạch đã rút từ bên lưng ra cây nhuyễn kiếm. Chỉ thấy tay phải vẩy nhẹ, cây nhuyễn kiếm được tiếp nội lực lập tức vươn thẳng, cứng như cây thương sắt. Thẩm Mộ Bạch hét to một tiếng, thân hình như chim ưng tung cánh lướt lên, phi thẳng xuống đầu Hạ Thiên Thu.
Hạ Thiên Thu lui nhanh một bước, tay phải vung ngang, chặn lại đường kiếm tấn công trên đầu mình, đồng thời tay trái chàng đưa lên, khóa chặt lấy bàn chân phải Thẩm Mộ Bạch phi tới. Thẩm Mộ Bạch thấy vậy định chém, nhưng Hạ Thiên Thu đã né người thấp xuống, vai phải xô mạnh, đúng vào giữa ngực đối phương, lấy sức hất đối phương bật ra một bước.
Thẩm Mộ Bạch tức tối vung kiếm, Hạ Thiên Thu né người tránh, cố ý tạo ra một điểm sơ hở. Thẩm Mộ Bạch đâu có thể ngờ, đến lúc này, Hạ Thiên Thu còn có gan cố tình sơ hở, lập tức xoay cổ tay, vung kiếm chém tới. Miếng đòn ấy cơ hồ có thể khiến Hạ Thiên Thu cả tay lẫn kiếm đều bị chém rụng! Nhưng khi lưỡi kiếm của Thẩm Mộ Bạch tưởng chừng sắp chạm tới được da thịt của Hạ Thiên Thu, thì hai ngón tay trên bàn tay trái của chàng đã đánh mạnh vào vai đối thủ, điểm trúng huyệt đạo của Thẩm Mộ Bạch. Thẩm Mộ Bạch chỉ thấy cánh tay tê dại, cây trường kiếm tuột khỏi tay rơi xuống đất!
“Khốn kiếp!”
Hổ thẹn hóa giận, Thẩm Mộ Bạch kêu to một câu, hai bàn tay dồn đủ mười thành công lực, hướng vào ngực Hạ Thiên Thu, đánh mạnh!
Nhanh như cắt, một bóng người bỗng vụt tới như cánh nhạn vút qua bầu không, bay thẳng đến bên người Hạ Thiên Thu, thay chàng đỡ trọn một chưởng ấy!
Khoảnh khắc, Vân Hy như một con diều đứt dây, bay thẳng ra xa hơn một trượng, rơi mạnh xuống lối bậc đá. Cổ họng cô chợt tanh sặc, khóe miệng trào một ngụm máu tươi. Hạ Thiên Thu thấy vậy kinh ngạc, vội vàng chạy đến bên Vân Hy, đỡ lấy vai cô.
Vân Hy tay phải cầm thương, lấy hết sức đứng dậy. Ngẩng đầu nhìn thấy Hạ Thiên Thu đầy mình máu me, tưởng chừng không nhận ra nổi, hai hàng nước mắt cô đột nhiên lăn dài, nhưng chỉ giây sau, cô bỗng nhoẻn miệng, vẻ mừng vui vô hạn lộ rõ ra nét mặt. “May... may mắn là đã đến kịp... Thiếu chút nữa thì phải xuống địa phủ cứu huynh rồi...”
Thấy cô vừa khóc vừa cười, Hạ Thiên Thu chợt thấy trong lòng chua chát, nghẹn ngào nói: “Muội sao phải khổ sở như vậy...”
Câu nói ấy chính là câu mà cô muốn hỏi chàng. Vân Hy khẽ nói: “Huynh cũng vậy mà”, rồi tươi cười. “Chẳng phải huynh đã nói đó thôi, nợ ân tình giữa huynh và muội chẳng bao giờ tính toán cho hết được.”
Bình luận truyện