Trở Về Đời Thanh
Chương 71: Tòng quân (2)
Dịch: Vivian Nhinhi
Sáng sớm ngày hôm sau, Dận Chân chỉ dẫn theo một thị vệ thân cận là Bảo Trụ vội vã chạy tới Duệ Kiện Doanh phía Tây kinh thành. Ban đầu, Dận Chân định dẫn cả Ba Nhĩ Đặc đi cùng, nhưng mà gã trai Mông Cổ đợt này rất được thánh quyến, đã thăng lên thị vệ nhị đẳng lại còn đi theo Võ Đan nhận việc bảo vệ nội thành rồi. Vì thế Dận Chân cũng đành buông tay. Bởi vì là phụng mệnh đi học tập quân sự nên Dận Chân không dám rêu rao, chỉ mặc một bộ lễ phục của quan võ tam phẩm, hông thắt một cái đai lưng vàng để biểu hiện thân phận mà thôi.
Khi còn cách đại doanh khoảng nửa dặm, Dận Chân dừng ngựa, Bảo Trụ thấy thế thì vội hỏi: “Gia, sao lại dừng rồi?”
Dận Chân chỉ vào đại doanh trước mặt và bảo: “Nhìn thấy không?”
Bảo Trụ gãi đầu hỏi lại: “Thấy cái gì ạ?”
Dận Chân nhịn không được mà cười rộ lên: “Ngươi đấy, đúng là đầu óc ngu si tứ chi phát triển!”
Bảo Trụ càng phiền muộn, tóm lại là sao ta, sao hôm nay Tứ gia nói câu gì hắn cũng nghe không hiểu thế này ta? Dận Chân cũng rõ ràng mình hơi lỡ lời, bèn bảo: “Ngươi cẩn thận nhìn xem. Doanh trại phía trước này nhìn mặt ngoài có vẻ không có tí sóng gió nào, thực ra phòng vệ rất sâm nghiêm. Ngươi lại nhìn vào trong rừng kia mà xem, có phải có ánh sáng lấp lánh do binh khí phản quang không? Ta đoán đây hẳn là trạm gác ngầm của đại doanh đó.”
Bảo Trụ lắc đầu, hơi lơ đễnh: “Thái bình thịnh thế, dưới chân thiên tử thế này cần phải làm đến mức này sao?”
Dận Chân đáp với vẻ mặt rất nghiêm túc: “Có chuẩn bị mới không phải ưu lo, quân đội đóng tại kinh đô yên ổn thì kinh đô mới an toàn. Phí quân môn không hổ là danh tướng trong quân, mà mấy thứ này có nói ngươi cũng chẳng hiểu.” Dứt lời, bèn thúc ngựa đi tiếp.
Lúc ngựa còn cách cửa viên môn của đại doanh hơn mười trượng, chợt nghe phía trước có tiếng hét to: “Dừng ngựa! Nơi này quan văn xuống kiệu, quan võ xuống ngựa!” Dận Chân dõi mắt nhìn về phía trước thấy gần có có một khối bia đá, trên đó quả nhiên có viết mấy chữ như thế. Hắn mỉm cười, đang định xuống ngựa thì Bảo Trụ đưa tay ngăn cản và nói: “Tứ gia, ngài có thân phận quý giá. Quy định này quản bách quan chứ quản làm sao quản được ngài?” Bảo Trụ xuất thân là con cháu quý tộc thượng tam kỳ(1) Mãn Châu, thân là nhị đẳng hà, tổ tiên còn có tước vị công tước, hắn có thể xem là kẻ đi ngang ở thành Bắc Kinh này nên cho tới bây giờ chưa từng để ai vào mắt. Nghe thấy kẻ vừa hét to kia chỉ là một binh lính bình thường thì càng bực bội, Bảo Trụ hung hăng: “Mày mở to mắt chó của mày ra mà nhìn, vị trên ngựa này là ai? Đương kim hoàng tứ tử, Cố Sơn bối tử đấy. Mày dám kêu ngài xuống ngựa? Còn không mau đi tìm Phí quân môn tới đây bảo lão tham kiến Tứ a ca à?”
Nào ngờ tên binh sĩ kia không thèm đếm xỉa đến hắn, đáp với giọng lạnh băng: “Ta không biết cái gì tứ a ca, ở chỗ chúng ta đây chỉ có Phí quân môn, xuống ngựa!”
Thế là chọc giận Bảo Trụ rồi, hắn giơ roi trong tay lên định quất tên binh sĩ kia lại bị Dận Chân quát một tiếng ngăn lại. Bảo Trụ dừng tay nhưng vẫn còn hậm hực. Dận Chân nói: “Dận Chân là phụng thánh mệnh đến Duệ Kiện Doanh học tập quân sự. Có thể nhờ chuyển lời giúp một tiếng được không?”
Tên binh sĩ kia có thể nói là định lực phi phàm, nhìn Dận Chân tuổi tác còn trẻ, lại nhìn thắt lưng vàng tượng trưng thân phận của hắn ở hông rồi nói: “Đại nhân, theo quy củ tại hạ phải kiểm tra công văn của bộ Binh đã!”
Thấy Bảo Trụ lại bắt đầu đỏ mặt tía tai định nói gì, Dận Chân lạnh lùng nhìn hắn một cái. Mặc dù Dận Chân mới chỉ là một thiếu niên mười hai tuổi, nhưng ánh mắt lạnh thấu xương kia cũng làm Bảo Trụ thấy hoảng hốt, không dám nói nhiều nữa. Dận Chân móc công văn trong ngực áo ra giao cho binh sĩ. Tên binh sĩ này cẩn thận kiểm tra, thấy không có vấn đề thì lập tức chào theo kiểu nhà binh: “Tại hạ tham kiếm tham tướng đại nhân! Mời tham tướng đại nhân vào doanh trướng chờ gặp!”
Dận Chân khẽ chắp tay gật đầu, cũng không để ý tới Bảo Trụ sắc mặt đen sì bên cạnh mà đi thẳng về chỗ doanh trướng. Vừa đi, Dận Chân vừa nói: “Bảo Trụ, ngươi đừng có mà không phục. Hôm nay chúng ta đến là phụng ý chỉ của hoàng thượng đến học tập việc quân, không phải đến làm khâm sai, cũng không phải đến khoe khoang thân phận, đòi mặt mũi. Ta cũng chỉ có một cái hàm tham tướng còn Phí Dương Cổ là đô thống, chính là quan lớn nhất trong đại doanh. Tính ra ta còn phải chào hắn kiểu đình tham lễ(2) ấy chứ!”
Bảo Trụ theo sau lưng Dận Chân, vừa đi vừa nhỏ giọng lẩm bẩm: “Kể cả Phí Dương Cổ lão có là đệ đệ của Hiếu Hiến Đoan Kính hoàng hậu thì cũng chỉ được thế tập một cái bá tước, ngài là đương kim tứ a ca mà phải chào kiểu đình tham lễ với lão á? Lão không sợ tổn thọ à?”
Dận Chân nghe vậy thì khẽ lắc đầu và bảo: “Ta kính ông ấy không phải vì xét theo bối phận thì ông ấy ông cậu của ta, ta kính ông ấy là vì ở thời điểm bình loạn Tam phiên chỉ dẫn có ba ngàn quân mà đánh cho mấy vạn quân giặc Ngô phải bỏ lại mấy thành trì tháo chạy, là kẻ dũng mãnh nhất ba quân. Ông ấy chính là Ba Đồ Lỗ của Mãn Châu ta!”
Đi đến gần doanh trướng, Dận Chân lớn tiếng báo danh: “Phụng hoàng mệnh đến học tập việc quân, hoàng tứ tử Dận Chân lĩnh hàm tham tướng xin gặp Phí quân môn.”
Không bao lâu sau đã thấy màn trướng được mở ra, một vị trung quân(3) bước đến trước mặt Dận Chân và nói: “Phí quân môn mời tứ a ca vào trong lều nói chuyện.”
Dận Chân sửa sang lại y phục mũ mão rồi bước vào trong lều. Vừa vào đã thấy có một người đứng thẳng tắp. Người này khoảng hơn bốn mươi tuổi, dáng người không cao, trắng trẻo, cằm có để râu ngắn, hai mắt sáng ngời phấn chấn. Bộ dạng này thoạt trông lại có mấy phần văn khí, như kiểu văn thư trong quân. Nhưng trong lều chẳng còn ai khác, vậy vị này hẳn là Phí Dương Cổ.
Dận Chân chào theo kiểu đình tham lễ, Phí Dương Cổ nghiêng mình không nhận. Dận Chân đang định nói gì thì Phí Dương Cổ lại nói: “Tứ gia, trên quan trường ta là trưởng quan, nếu là ở trước mặt ba quân mà nói, lễ này nô tài cũng xin vô lễ mà nhận lấy. Nhưng ở đây không có người ngoài, nô tài mà nhận đại lễ thế này của tứ gia thì chiết sát nô tài quá!”
Dận Chận nói: “Phí quân môn khách khí, Dận Chận phụng mệnh hoàng a mã đến học tập việc quân với ngài. Trước khi đi, Dụ thân vương cũng căn dặn Dận Chân rất kĩ phải học hỏi quân môn cho thật tử tế. Còn phải nhờ quân môn dạy bảo ta!”
Phí Dương Cổ cẩn thận quan sát Dận Chân, thấy vị a ca thánh quyến không kém so với thái tử trong truyền thuyết này ăn mặc không hề rêu rao chút nào, ngôn ngữ, cử chỉ cũng khiếm tốn lễ phép thì không khỏi sinh lòng yêu mến, ông nói: “Tứ a ca khách khí rồi. Như thế này, ta sắp xếp cho tứ a ca một vị quân vụ lão làng, trước tiên Tứ a ca cứ cùng hắn đi làm quen công việc trong doanh trại đã. Đợi Tứ a ca có hiểu biết nhất định rồi, ta lại an bài một ít việc cho Tứ a ca nhé, được không?”
Dận Chân đương nhiên mừng rỡ, hắn đáp: “Mọi việc xin nghe theo lệnh của quân môn!”
Phí Dương Cổ lập tức gọi trung quân tới, nhỏ giọng nói vài câu với hắn. Vị trung quân kia nhanh chóng dẫn một tướng lĩnh đến. Nhìn quân phục của người này thì hẳn là một phó tướng. Vóc người cao hơn Phí Dương Cổ hẳn một cái đầu, da đen nhánh, râu quai nón xồm xoàm, vừa mở miệng, giọng vang như loa còn lời nói lại làm Dận Chân hơi kinh hãi: “Tại hạ Hộ quân tham lĩnh Hỏa Khí doanh Phí Dương Cổ tham kiến quân môn!”
Ủa, hai người này đều tên là Phí Dương Cổ à? Nhìn vẻ nghi hoặc trên mặt Dận Chân, Phí quân môn (vì để phân biệt, người ta lấy họ kèm chức vụ để gọi) cười cười và nói: “Khó trách tứ a ca thấy kinh ngạc. Lúc hoàng thượng mới phái tay Phí Dương Cổ này vào doanh trại của ta, ta cũng sửng sốt một lúc đấy. Nhưng mà họ của ta là Đổng Ngạc, thuộc Chính Bạch Kỳ, còn họ của hắn là Ô Lạp Nạp Lạt, là người của Chính Hoàng Kỳ. Để phân biệt, các đồng liêu trong quân đều gọi ta là “quân môn” còn hắn thì phải chịu ấm ức chút, gọi là “lão Phí”. Người này là lão làng về quân vụ rồi, cũng thành thạo đạo dùng binh, Tứ a ca làm quen với hắn đi.”
Sau đó, ông quay sang ra lệnh cho Phí tham lĩnh: “Tứ gia phụng thánh mệnh đến học tập việc quân, ngươi phải dốc lòng quan tâm nhiều hơn đó!”
Chú thích:
(1) Thượng tam kỳ: là 3 Kỳ do hoàng đế nhà Thanh quản hạt trực tiếp. Trong Bát Kỳ của Mãn Châu chia ra thượng tam kỳ và hạ ngũ kỳ. Quân Thanh trước khi vào quan nội thì Tương Hoàng Kỳ, Chính Hoàng Kỳ, Chính Lam Kỳ do Hoàng Thái Cực tự mình thống lĩnh, đấy là thân binh của hoàng đế và được xưng là thượng tam kỳ. Còn lại Chính Hồng Kỳ, Tương Hồng Kỳ, Chính Bạch Kỳ, Tương Bạch Kỳ, Tương Lam Kỳ được xưng là hạ ngũ kỳ do thân vương, bối lặc, bối tử chưởng quản, đóng giữ ở các nơi. Sau khi vào làm chủ Trung Nguyên, Đa Nhĩ Cổn đưa Chính Bạch Kỳ mà mình thống lĩnh vào thượng tam kỳ, còn đẩy Chính Lam Kỳ do Hào Cách thống lĩnh xuống hạ ngũ kỳ. Từ đó về sau không thay đổi gì nữa. Sau khi Đa Nhĩ Cổn chết bệnh, hoàng đế Thuận Trị tiếp quản quyền thống lĩnh Chính Bạch Kỳ.
(2) Đình tham lễ: thời phong kiến, quan viên bậc thấp phải hành lễ để yết kiến trưởng quan. Quan văn quỳ lạy ở mặt phía Bắc, trưởng quan đứng nhận lễ này. Quan võ quỳ lạy ở mặt phía Bắc, tự hô chức quan và họ tên, trưởng quan ngồi nhận lễ này. Có ý kiến khác cho rằng lễ này còn phức tạp và rườm rà hơn nữa, quy định rõ từ động tác tay, chân… nhưng nói chung vẫn là quan cấp dưới hành lễ với quan cấp trên, vô cùng trịnh trọng.
(3) Trung quân: Là một chức trong quân đội đã có từ thời nhà Tấn. Vào thời nhà Thanh thì từ Tổng đốc tuần phủ trở xuống, phàm là người có binh quyền, thống lĩnh quân đội trong tay sẽ xưng là “Trung quân”.
Sáng sớm ngày hôm sau, Dận Chân chỉ dẫn theo một thị vệ thân cận là Bảo Trụ vội vã chạy tới Duệ Kiện Doanh phía Tây kinh thành. Ban đầu, Dận Chân định dẫn cả Ba Nhĩ Đặc đi cùng, nhưng mà gã trai Mông Cổ đợt này rất được thánh quyến, đã thăng lên thị vệ nhị đẳng lại còn đi theo Võ Đan nhận việc bảo vệ nội thành rồi. Vì thế Dận Chân cũng đành buông tay. Bởi vì là phụng mệnh đi học tập quân sự nên Dận Chân không dám rêu rao, chỉ mặc một bộ lễ phục của quan võ tam phẩm, hông thắt một cái đai lưng vàng để biểu hiện thân phận mà thôi.
Khi còn cách đại doanh khoảng nửa dặm, Dận Chân dừng ngựa, Bảo Trụ thấy thế thì vội hỏi: “Gia, sao lại dừng rồi?”
Dận Chân chỉ vào đại doanh trước mặt và bảo: “Nhìn thấy không?”
Bảo Trụ gãi đầu hỏi lại: “Thấy cái gì ạ?”
Dận Chân nhịn không được mà cười rộ lên: “Ngươi đấy, đúng là đầu óc ngu si tứ chi phát triển!”
Bảo Trụ càng phiền muộn, tóm lại là sao ta, sao hôm nay Tứ gia nói câu gì hắn cũng nghe không hiểu thế này ta? Dận Chân cũng rõ ràng mình hơi lỡ lời, bèn bảo: “Ngươi cẩn thận nhìn xem. Doanh trại phía trước này nhìn mặt ngoài có vẻ không có tí sóng gió nào, thực ra phòng vệ rất sâm nghiêm. Ngươi lại nhìn vào trong rừng kia mà xem, có phải có ánh sáng lấp lánh do binh khí phản quang không? Ta đoán đây hẳn là trạm gác ngầm của đại doanh đó.”
Bảo Trụ lắc đầu, hơi lơ đễnh: “Thái bình thịnh thế, dưới chân thiên tử thế này cần phải làm đến mức này sao?”
Dận Chân đáp với vẻ mặt rất nghiêm túc: “Có chuẩn bị mới không phải ưu lo, quân đội đóng tại kinh đô yên ổn thì kinh đô mới an toàn. Phí quân môn không hổ là danh tướng trong quân, mà mấy thứ này có nói ngươi cũng chẳng hiểu.” Dứt lời, bèn thúc ngựa đi tiếp.
Lúc ngựa còn cách cửa viên môn của đại doanh hơn mười trượng, chợt nghe phía trước có tiếng hét to: “Dừng ngựa! Nơi này quan văn xuống kiệu, quan võ xuống ngựa!” Dận Chân dõi mắt nhìn về phía trước thấy gần có có một khối bia đá, trên đó quả nhiên có viết mấy chữ như thế. Hắn mỉm cười, đang định xuống ngựa thì Bảo Trụ đưa tay ngăn cản và nói: “Tứ gia, ngài có thân phận quý giá. Quy định này quản bách quan chứ quản làm sao quản được ngài?” Bảo Trụ xuất thân là con cháu quý tộc thượng tam kỳ(1) Mãn Châu, thân là nhị đẳng hà, tổ tiên còn có tước vị công tước, hắn có thể xem là kẻ đi ngang ở thành Bắc Kinh này nên cho tới bây giờ chưa từng để ai vào mắt. Nghe thấy kẻ vừa hét to kia chỉ là một binh lính bình thường thì càng bực bội, Bảo Trụ hung hăng: “Mày mở to mắt chó của mày ra mà nhìn, vị trên ngựa này là ai? Đương kim hoàng tứ tử, Cố Sơn bối tử đấy. Mày dám kêu ngài xuống ngựa? Còn không mau đi tìm Phí quân môn tới đây bảo lão tham kiến Tứ a ca à?”
Nào ngờ tên binh sĩ kia không thèm đếm xỉa đến hắn, đáp với giọng lạnh băng: “Ta không biết cái gì tứ a ca, ở chỗ chúng ta đây chỉ có Phí quân môn, xuống ngựa!”
Thế là chọc giận Bảo Trụ rồi, hắn giơ roi trong tay lên định quất tên binh sĩ kia lại bị Dận Chân quát một tiếng ngăn lại. Bảo Trụ dừng tay nhưng vẫn còn hậm hực. Dận Chân nói: “Dận Chân là phụng thánh mệnh đến Duệ Kiện Doanh học tập quân sự. Có thể nhờ chuyển lời giúp một tiếng được không?”
Tên binh sĩ kia có thể nói là định lực phi phàm, nhìn Dận Chân tuổi tác còn trẻ, lại nhìn thắt lưng vàng tượng trưng thân phận của hắn ở hông rồi nói: “Đại nhân, theo quy củ tại hạ phải kiểm tra công văn của bộ Binh đã!”
Thấy Bảo Trụ lại bắt đầu đỏ mặt tía tai định nói gì, Dận Chân lạnh lùng nhìn hắn một cái. Mặc dù Dận Chân mới chỉ là một thiếu niên mười hai tuổi, nhưng ánh mắt lạnh thấu xương kia cũng làm Bảo Trụ thấy hoảng hốt, không dám nói nhiều nữa. Dận Chân móc công văn trong ngực áo ra giao cho binh sĩ. Tên binh sĩ này cẩn thận kiểm tra, thấy không có vấn đề thì lập tức chào theo kiểu nhà binh: “Tại hạ tham kiếm tham tướng đại nhân! Mời tham tướng đại nhân vào doanh trướng chờ gặp!”
Dận Chân khẽ chắp tay gật đầu, cũng không để ý tới Bảo Trụ sắc mặt đen sì bên cạnh mà đi thẳng về chỗ doanh trướng. Vừa đi, Dận Chân vừa nói: “Bảo Trụ, ngươi đừng có mà không phục. Hôm nay chúng ta đến là phụng ý chỉ của hoàng thượng đến học tập việc quân, không phải đến làm khâm sai, cũng không phải đến khoe khoang thân phận, đòi mặt mũi. Ta cũng chỉ có một cái hàm tham tướng còn Phí Dương Cổ là đô thống, chính là quan lớn nhất trong đại doanh. Tính ra ta còn phải chào hắn kiểu đình tham lễ(2) ấy chứ!”
Bảo Trụ theo sau lưng Dận Chân, vừa đi vừa nhỏ giọng lẩm bẩm: “Kể cả Phí Dương Cổ lão có là đệ đệ của Hiếu Hiến Đoan Kính hoàng hậu thì cũng chỉ được thế tập một cái bá tước, ngài là đương kim tứ a ca mà phải chào kiểu đình tham lễ với lão á? Lão không sợ tổn thọ à?”
Dận Chân nghe vậy thì khẽ lắc đầu và bảo: “Ta kính ông ấy không phải vì xét theo bối phận thì ông ấy ông cậu của ta, ta kính ông ấy là vì ở thời điểm bình loạn Tam phiên chỉ dẫn có ba ngàn quân mà đánh cho mấy vạn quân giặc Ngô phải bỏ lại mấy thành trì tháo chạy, là kẻ dũng mãnh nhất ba quân. Ông ấy chính là Ba Đồ Lỗ của Mãn Châu ta!”
Đi đến gần doanh trướng, Dận Chân lớn tiếng báo danh: “Phụng hoàng mệnh đến học tập việc quân, hoàng tứ tử Dận Chân lĩnh hàm tham tướng xin gặp Phí quân môn.”
Không bao lâu sau đã thấy màn trướng được mở ra, một vị trung quân(3) bước đến trước mặt Dận Chân và nói: “Phí quân môn mời tứ a ca vào trong lều nói chuyện.”
Dận Chân sửa sang lại y phục mũ mão rồi bước vào trong lều. Vừa vào đã thấy có một người đứng thẳng tắp. Người này khoảng hơn bốn mươi tuổi, dáng người không cao, trắng trẻo, cằm có để râu ngắn, hai mắt sáng ngời phấn chấn. Bộ dạng này thoạt trông lại có mấy phần văn khí, như kiểu văn thư trong quân. Nhưng trong lều chẳng còn ai khác, vậy vị này hẳn là Phí Dương Cổ.
Dận Chân chào theo kiểu đình tham lễ, Phí Dương Cổ nghiêng mình không nhận. Dận Chân đang định nói gì thì Phí Dương Cổ lại nói: “Tứ gia, trên quan trường ta là trưởng quan, nếu là ở trước mặt ba quân mà nói, lễ này nô tài cũng xin vô lễ mà nhận lấy. Nhưng ở đây không có người ngoài, nô tài mà nhận đại lễ thế này của tứ gia thì chiết sát nô tài quá!”
Dận Chận nói: “Phí quân môn khách khí, Dận Chận phụng mệnh hoàng a mã đến học tập việc quân với ngài. Trước khi đi, Dụ thân vương cũng căn dặn Dận Chân rất kĩ phải học hỏi quân môn cho thật tử tế. Còn phải nhờ quân môn dạy bảo ta!”
Phí Dương Cổ cẩn thận quan sát Dận Chân, thấy vị a ca thánh quyến không kém so với thái tử trong truyền thuyết này ăn mặc không hề rêu rao chút nào, ngôn ngữ, cử chỉ cũng khiếm tốn lễ phép thì không khỏi sinh lòng yêu mến, ông nói: “Tứ a ca khách khí rồi. Như thế này, ta sắp xếp cho tứ a ca một vị quân vụ lão làng, trước tiên Tứ a ca cứ cùng hắn đi làm quen công việc trong doanh trại đã. Đợi Tứ a ca có hiểu biết nhất định rồi, ta lại an bài một ít việc cho Tứ a ca nhé, được không?”
Dận Chân đương nhiên mừng rỡ, hắn đáp: “Mọi việc xin nghe theo lệnh của quân môn!”
Phí Dương Cổ lập tức gọi trung quân tới, nhỏ giọng nói vài câu với hắn. Vị trung quân kia nhanh chóng dẫn một tướng lĩnh đến. Nhìn quân phục của người này thì hẳn là một phó tướng. Vóc người cao hơn Phí Dương Cổ hẳn một cái đầu, da đen nhánh, râu quai nón xồm xoàm, vừa mở miệng, giọng vang như loa còn lời nói lại làm Dận Chân hơi kinh hãi: “Tại hạ Hộ quân tham lĩnh Hỏa Khí doanh Phí Dương Cổ tham kiến quân môn!”
Ủa, hai người này đều tên là Phí Dương Cổ à? Nhìn vẻ nghi hoặc trên mặt Dận Chân, Phí quân môn (vì để phân biệt, người ta lấy họ kèm chức vụ để gọi) cười cười và nói: “Khó trách tứ a ca thấy kinh ngạc. Lúc hoàng thượng mới phái tay Phí Dương Cổ này vào doanh trại của ta, ta cũng sửng sốt một lúc đấy. Nhưng mà họ của ta là Đổng Ngạc, thuộc Chính Bạch Kỳ, còn họ của hắn là Ô Lạp Nạp Lạt, là người của Chính Hoàng Kỳ. Để phân biệt, các đồng liêu trong quân đều gọi ta là “quân môn” còn hắn thì phải chịu ấm ức chút, gọi là “lão Phí”. Người này là lão làng về quân vụ rồi, cũng thành thạo đạo dùng binh, Tứ a ca làm quen với hắn đi.”
Sau đó, ông quay sang ra lệnh cho Phí tham lĩnh: “Tứ gia phụng thánh mệnh đến học tập việc quân, ngươi phải dốc lòng quan tâm nhiều hơn đó!”
Chú thích:
(1) Thượng tam kỳ: là 3 Kỳ do hoàng đế nhà Thanh quản hạt trực tiếp. Trong Bát Kỳ của Mãn Châu chia ra thượng tam kỳ và hạ ngũ kỳ. Quân Thanh trước khi vào quan nội thì Tương Hoàng Kỳ, Chính Hoàng Kỳ, Chính Lam Kỳ do Hoàng Thái Cực tự mình thống lĩnh, đấy là thân binh của hoàng đế và được xưng là thượng tam kỳ. Còn lại Chính Hồng Kỳ, Tương Hồng Kỳ, Chính Bạch Kỳ, Tương Bạch Kỳ, Tương Lam Kỳ được xưng là hạ ngũ kỳ do thân vương, bối lặc, bối tử chưởng quản, đóng giữ ở các nơi. Sau khi vào làm chủ Trung Nguyên, Đa Nhĩ Cổn đưa Chính Bạch Kỳ mà mình thống lĩnh vào thượng tam kỳ, còn đẩy Chính Lam Kỳ do Hào Cách thống lĩnh xuống hạ ngũ kỳ. Từ đó về sau không thay đổi gì nữa. Sau khi Đa Nhĩ Cổn chết bệnh, hoàng đế Thuận Trị tiếp quản quyền thống lĩnh Chính Bạch Kỳ.
(2) Đình tham lễ: thời phong kiến, quan viên bậc thấp phải hành lễ để yết kiến trưởng quan. Quan văn quỳ lạy ở mặt phía Bắc, trưởng quan đứng nhận lễ này. Quan võ quỳ lạy ở mặt phía Bắc, tự hô chức quan và họ tên, trưởng quan ngồi nhận lễ này. Có ý kiến khác cho rằng lễ này còn phức tạp và rườm rà hơn nữa, quy định rõ từ động tác tay, chân… nhưng nói chung vẫn là quan cấp dưới hành lễ với quan cấp trên, vô cùng trịnh trọng.
(3) Trung quân: Là một chức trong quân đội đã có từ thời nhà Tấn. Vào thời nhà Thanh thì từ Tổng đốc tuần phủ trở xuống, phàm là người có binh quyền, thống lĩnh quân đội trong tay sẽ xưng là “Trung quân”.
Bình luận truyện