Trường Ninh Tướng Quân
Chương 76
Người đưa thư gửi tin của Khương Tổ Vọng viết cho con.
Tin lập tức từ đại doanh được chuyển đến chỗ vợ chồng Nhiếp Chính Vương dừng chân, lúc ấy, cả hai đều đang lặng thinh riêng mình, còn chưa khôi phục cảm xúc từ cuộc nói chuyện ban nãy. Cô dựa tường đứng, chưa đi ngay. Y đứng trước mặt cô, như mang theo mấy phần cố chấp không chịu lùi lại nửa bước, nhưng cũng không có ý bắt lấy tay cô như ban đầu.
Thư đưa vào. Cô đọc xong, biến sắc.
“Có chuyện gì thế?” Y dằn tâm tư hỗn loạn, hỏi.
Khương Hàm Nguyên nghẹn ngào, “Cậu bị thương nặng!”
Bàn tay cô nắm lại trong vô thức, buông, nắm, lặp đi lặp lại mấy lần nghe răng rắc, khép mắt, bỗng trợn mắt: “Bên này vừa hết việc, ta đi Vân Lạc. Điện hạ đi tự nhiên. Phiền ngày mai gửi lời tiễn biệt bệ hạ giúp. Hai người hồi kinh, ta không tiễn!”
Thúc Thận Huy đuổi tới ngoài cổng, cô đã trở mình lên ngựa, chạy ra quân doanh ngoài thành.
“Hủy Hủy —— ” Thúc Thận Huy gọi theo bóng lưng cô, cô cũng không quay đầu, chớp mắt đã phóng ngựa phi ra ngoài mấy trượng.
Thúc Thận Huy đuổi theo mấy bước, bóng cô cưỡi ngựa đã biến mất trong bóng đêm. Y dần chậm bước, cuối cùng chán nản dừng lại, đăm đăm nhìn hướng cô rời đi trong đêm tối, đứng sững thật lâu.
Khương Hàm Nguyên trở lại quân doanh trong đêm, bàn giao việc xong, Phàn Kính theo cùng, chạy về Vân Lạc.
Nhiếp Chính Vương không đi cùng. Y có chuyện quan trọng khác, hôm sau chỉnh đốn đội hình, dẫn theo vị thiếu niên kia, dưới tuỳ hành của đại quân Chu Khánh Trương Mật lên đường về Nhạn Môn.
Cha con họ Tiêu dẫn theo bộ hạ và dân chúng tiễn biệt, đưa một đoạn đường. Ra khỏi thành ba mươi dặm, Thúc Thận Huy lệnh cho Đại Hách Vương dừng bước.
Tiêu Lâm Hoa cưỡi ngựa đi theo sau cha anh, ngẩng lên, dõi theo một chiếc xe ngựa trong đội của Nhiếp Chính Vương. Màn cửa phủ kín bỗng vén ra một góc, lộ một đôi mắt thiếu niên. Tiêu Lâm Hoa phát hiện hình như đối phương vẫy vẫy tay với mình, lại lép nhép miệng, ra dáng chọc cười, thoạt đầu khẽ giật mình, cơn tức giận lập tức tuôn ra, xoay mặt giả như không nhìn thấy.
Thúc Tiển mặt nóng dán mông lạnh, hơi chán, ngượng ngùng thả tay xuống. Nghĩ đến Tam Hoàng thẩm đi ngay trong đêm qua, tâm tình càng thêm không tốt. Nhìn quanh ngoài xe, lố nhố đầy là người. Lúc này, Đại Hách Vương cùng Vương tử Tiêu Lễ Tiên và Tiêu Lâm Hoa xuống ngựa, hành lễ bái biệt lần cuối với Nhiếp Chính Vương cùng Chu Khánh Trương Mật trên lưng ngựa, tự tay châm hiến rượu chúc phúc đi đường bình an. Đám dân chúng từng bị cha con Diệp Kim bắt cóc cảm động đến rơi nước mắt, rối rít nhào lên, quỳ xuống dập đầu.
Nhiếp Chính Vương tiếp lấy chén vàng mượn rượu ngon, uống một hơi cạn sạch, lập tức xuống ngựa, đi tới, tự tay đỡ một ông cụ tóc bạc phơ dậy, gọi dân chúng bình thân, từ biệt xong, lên ngựa dẫn đội rời đi trong tiếng chúc phúc không dứt sau lưng.
Đi thật xa, Thúc Tiển quay lại, còn thấy ở con đường sau lưng, dân chúng tụ lại thật lâu, không muốn rời.
Thúc Thận Huy đưa Thúc Tiển lên đường về, hơn nửa tháng đến Nhạn Môn. Khương Tổ Vọng dẫn binh ngựa đích thân ra đón. Toán người của Nhiếp Chính Vương, dừng lại Nhạn Môn ba ngày, tuần kiểm biên cảnh, thăm hỏi tướng sĩ.
Đã sau nhiều năm, Nhiếp Chính Vương lại đến Nhạn Môn. Tin này truyền ra, trên dưới trong quân đều được cổ vũ, chỗ nào Nhiếp Chính Vương đến, sôi trào khắp chốn. Dĩ nhiên, Khương Tổ Vọng lấy danh nghĩa đón tiếp Nhiếp Chính Vương mà sắp xếp toàn bộ hành trình. Còn Thiếu đế chỉ là một tùy tùng đi theo bên cạnh Nhiếp Chính Vương.
Ba ngày nay, Thúc Thận Huy đưa Thúc Tiển theo bên người, dẫn cậu vào quân doanh vùng biên cương, để cậu nghe đối thoại giữa mình và tướng sĩ, đưa cậu cưỡi ngựa tuần biên, leo lên phong đài bị lang yên* hun đến cháy đen chỉ cho cậu giang sơn dưới chân. Phía nam, là Trường An xa xôi, phía Bắc, là một mảng lớn U Yến còn nằm dưới gót sắt Bắc Địch.
(*) phân sói đốt để báo hiệu trong trận chiến
Sau cuộc tuần biên có vẻ hơi vội vàng kết thúc, trước ngày đi một ngày, Thúc Thận Huy dẫn Thiếu đế, làm chuyện quan trọng cuối cùng.
Hôm ấy, sông núi yên ắng trang nghiêm, trời đất như chết chóc. Trên một mảnh đất hoang mênh mang, Nhiếp Chính Vương Đại Ngụy tự mình chủ trì nghi thức, phụng danh Hoàng đế Đại Ngụy, tế điện anh linh tất cả tướng sĩ hy sinh vì nước năm mươi năm từ lúc Đại Ngụy khai quốc đến nay.
Nhiếp Chính Vương áo trắng mũ trắng, thắt lưng xanh nhạt, đón gió leo lên tế đàn, bái lạy với trời, hành đại lễ xong tự mình tuyên tụng tế văn. Vẻ mặt y trang nghiêm chăm chú, ngữ điệu đau mà không thương, bầu không khí tế điện khẳng khái dâng trào.
Mười vạn tướng sĩ Nhạn Môn bày trận, quay chung quanh tế đàn.
“… Phủ phục anh linh, cứu Vương quốc ta, giương cao thần uy, lan truyền vạn thế, vĩnh viễn vô cùng!”
Nhiếp Chính Vương đọc xong, cho Tế thư vào ngọn lửa đỏ cháy hừng hực. Xung quanh tế đàn, mười vạn tướng sĩ cùng nhau quỳ xuống. Thiết giáp và đao kiếm va chạm nhau như sấm rền vừa vang trên đất bằng.
“Lan truyền vạn thế, vĩnh viễn vô cùng!”
Mười vạn tướng sĩ cùng hô. Bốn phương tám hướng, thanh thế cuồn cuộn.
“Đại Ngụy Vạn tuế! Hoàng đế Vạn tuế, Vạn vạn tuế —— “
Trên đất hoang, dưới trời xanh, tiếng hô tràn ngập tràn ngập mùi máu, vang tận mây xanh.
Thúc Tiển đứng ngay dưới tế đàn.
Cậu nhìn bóng người thay mình đang cao cao đứng trên tế đài kia, nghe tiếng gầm kinh người của mười vạn tướng sĩ vọng bên tai như sóng biển từ từ đánh tới, màng tai cậu như muốn bị phá rách. Một cơn sóng xưa nay chưa từng có dậy lên trong lòng. Cậu kích động vô cùng, vô thức siết chặt quyền.
Ngay một khắc này, tự như cậu đột nhiên chân chính rõ ràng, như thế nào là thiên tử, như thế nào là nhất hô vạn ứng, như thế nào là chí tôn, như thế nào là vinh quang trên vạn người.
Cậu rốt cuộc đã hiểu, vì cái gì, ngôi vị mình đang ngồi, trên đời lại có nhiều người muốn đến tranh đoạt như vậy.
Tế điện kết thúc, chạng vạng tối, một thủ hạ của Lưu Hướng vội tìm đến Thúc Thận Huy, nói Thiếu đế trèo lên một gò đất cao, hành vi rất kỳ lạ khó hiểu, mời Nhiếp Chính Vương qua xem một chút.
Thúc Thận Huy lập tức bỏ mọi việc, cưỡi ngựa chạy tới. Y lên đỉnh núi, quả nhiên từ xa nhìn thấy Thiếu đế một mình đón gió cao cao đứng trên một tảng đá lớn, như đang tập trung ngắm nhìn thứ gì. Phía trước cậu, là một vùng quê rộng lớn chập trùng núi non, tiếp đó là từng tòa thành trì. Lưu Hướng chờ tại bên cạnh, thần sắc thấp thỏm, cuối cùng nhìn thấy Nhiếp Chính Vương đến như gặp đại xá, vội tiến lên nhỏ giọng giải thích, rằng ông đang đưa Thiếu đế về hành dinh ngang qua nơi đây, bỗng Thiếu đế đòi leo núi, ông đành đi theo hầu Thiếu đế leo đến đỉnh, cứ thế ngài đứng đó hồi lâu, không biết đến cùng muốn làm gì.
Trước tảng đá lớn không xa là vách núi, ông không yên lòng, sợ nhỡ xảy ra chuyện gì mới mời Nhiếp Chính Vương đến.
Thúc Thận Huy liếc mắt nhìn bóng lưng đứa cháu, chậm rãi đi đến, đang muốn lên tiếng gọi, chợt thấy cậu vung tay cao cao, đón gió hô to: “Sông núi của Trẫm! Con dân của Trẫm!”
Giọng cậu phát từ trong bụng, theo gió núi, lồng lên bốn phía.
Thúc Thận Huy khẽ giật mình. Thấy cậu hô xong, quay người nhảy xuống khỏi tảng đá, nhanh chân đi đến trước mặt mình, hơi ngửa mặt, nói: “Tam hoàng thúc! Ta thật sự đã hiểu những lời dạy của ngài xưa giờ!”
“Tam hoàng thúc, ngài yên tâm, sau này ta sẽ không tùy ý làm bậy, làm ngài bận tâm phiền lòng!” Cậu dừng đoạn, “Trẫm thề với trời đất, từ hôm nay, chắc chắn sẽ tận tâm tận lực, làm một Hoàng đế như là Hoàng tổ phụ!”
Mắt cậu cháu lập loè tỏa sáng, khuôn mặt kích động.
Kinh ngạc ngắn ngủi qua đi, Thúc Thận Huy rất nhanh tỉnh táo lại. Y tươi cười, vô thức đưa tay, đang định siết chặt cánh tay đứa cháu đập mấy cái như một cách diễn tả sự tán thành và cổ vũ của mình —— lúc chạm tới gần cánh tay cháu, dừng tay lại trên không trung rồi thu lại.
Đổi lại lùi mấy bước, hạ bái Thiếu đế trước mặt, cung kính nói: “Thần rửa mắt mà đợi!”
Đám Lưu Hướng nhìn ngây người, thấy thế, cũng vội vàng bước tới quỳ bái theo sau lưng Nhiếp Chính Vương, cùng nói: “Vi thần cung chúc bệ hạ, giang sơn vĩnh cố, thiên thu vạn đại!”
Thúc Tiển quay lại nhìn xa xa chung quanh, thu non sông bao la hùng vĩ vào đáy mắt, xuống núi.
Trên đường về hành dinh Nhạn Môn, Thúc Tiển và Thúc Thận Huy cưỡi ngựa đồng hành. Cậu quay đầu nhìn về hướng Tây nơi nắng trời còn sót lại, mặt lộ vẻ lo lắng, “Tam Hoàng thẩm đã đi lâu vậy rồi, chắc cũng đã đến bên kia nhỉ? Không biết thím ấy sao rồi. Mong rằng cậu của thím không sao. Nhỡ xảy ra chuyện không hay, Tam Hoàng thẩm…”
Thúc Tiển thấy Thúc Thận Huy chợt xoay lại nhìn mình, sợ lỡ lời, lập tức đổi giọng: “Tam hoàng thúc, đêm nay ngài gặp Đại tướng quân, nhớ căn dặn ông ấy một tiếng, chừng Tam Hoàng thẩm quay về, lập tức báo tin, ta chờ.”
Chuyến này Thúc Tiển ra ngoài quá lâu, nếu không mau chóng trở về, phía triều đình e là Hiền Vương cũng không áp xuống được, cộng thêm thân phận y cho phép, theo kế hoạch, sáng ngày mai Thúc Thận Huy khởi hành, tự mình hộ giá đưa đương kim Hoàng đế Đại Ngụy lên đường về Trường An.
Đêm đó, đại trướng trong quân sáng rực, Nhiếp Chính Vương đến bái biệt rất nhiều tướng lĩnh, cuối cùng, trong trướng chỉ còn lại y và Khương Tổ Vọng.
Đối với Khương Tổ Vọng, y không còn là Nhiếp Chính Vương cao cao tại thượng, bình dị gần gũi mà uy nghiêm cơ trí kia nữa. Y lặng lẽ, không thèm che giấu tâm sự nặng nề của mình. Y lại dùng nhạc phụ để xưng đối phương, hỏi mấy nay phải chăng có tin mới từ thành Vân Lạc.
Thần sắc Khương Tổ Vọng nặng nề đi: “Hôm qua vừa có tin mới. Thương thế cậu của Hủy Hủy cữu phụ vẫn không thấy khởi sắc.”
Thúc Thận Huy nói: “Ta từng phát tin khẩn về Trường An điều động lương y nhanh chóng lên phía Bắc. Chờ ít ngày nữa tới đây, phiền nhạc phụ phái người dẫn qua.”
Khương Tổ Vọng đầy cảm kích, đứng dậy định bái tạ. Thúc Thận Huy ép ông ngồi lại, “Chỉ là chút sức mọn thôi. Chỉ mong cữu phụ cát nhân thiên tướng, sớm ngày bình an.”
“Vâng. Tình cảm giữa Hủy Hủy và cậu nó rất sâu…” Khương Tổ Vọng sợ sệt chỉ chốc lát, thở dài, “Ta cũng chỉ có thể hy vọng vậy.” Nghĩ tới con gái lúc này dày vò nhường nào, ông ước gì có thể lấy bản thân thay cho Yến Trọng, đang buồn rầu một lát, chợt nhớ tới một chuyện, vội nói: “Sáng mai điện hạ phải lên đường rồi, hộ tống bệ hạ hồi kinh là chuyện lớn nhất, phía thần không dám chậm trễ điện hạ. Nếu không có dặn dò gì khác, thần đưa điện hạ về nghỉ ngơi.”
Nói xong, thấy dường như con rể chẳng nghe thấy mà đang đắm chìm trong suy nghĩ, bèn im lặng tránh quấy rầy, bỗng nghe một câu hỏi vang lên: “Nhạc phụ, trước năm Hủy Hủy bảy tuổi, cuộc sống nàng ấy thế nào?”
Khương Tổ Vọng khẽ giật mình.
Thúc Thận Huy giải thích: “Ta và Hủy Hủy đã là vợ chồng, song ta lại biết rất ít về nàng ấy. Trước đây chỉ nghe Lưu Hướng kể vài chuyện lúc nhỏ nàng ấy tòng quân sống trong quân doanh thôi.”
Khương Tổ Vọng tự dưng chẳng biết bắt đầu nói từ đâu. Ông trầm ngâm một lát, chậm rãi nói, “Chắc hẳn điện hạ đã từng nghe chuyện về mẹ con bé. Tội lỗi năm ấy toàn bộ là do ta, mà con bé lại cứ vơ về mình. Rõ ràng lúc xảy ra chuyện nó còn chưa thôi nôi. Điện hạ có biết vì sao không?” Khương Tổ Vọng nhìn Thúc Thận Huy.
“Chỉ vì lúc ấy, mẹ con bé đưa nó nấp một chỗ bí mật, truy binh cũng đã qua rồi, song vì con bé còn trong tã lót khóc lên một tiếng kéo truy binh quay lại. Mẹ nó mới bị ép ôm con nhảy núi.”
Chuyện dù đã qua nhiều năm song khi Khương Tổ Vọng đề cập lại tổn thương từ sâu trong đáy lòng, hốc mắt ông vẫn hơi phiếm hồng.
Ông bình phục lại tâm tư, tiếp tục nói, “Trời thương xót để nó sống tiếp. Mấy tháng sau lúc ta tìm tới, nó được một con sói cái cho bú. Đây vốn là chuyện vô cùng may mắn, song cũng chính vì thế mà đã khoác danh chẳng lành vào mình. Năm đó ta lại bận rộn việc quân, để chăm sóc nó cho tốt mới gửi nó lại vào thành Vân Lạc. Ta nghe kể nó biết nói cực kỳ muộn, cả ngày im lặng, rất không thích sống chung. Sau mấy năm, lúc mới sáu bảy tuổi, đột nhiên con bé tìm ta, nói muốn tòng quân, ta không lay chuyển được chỉ đành nhận lời. Cứ nghĩ nó chỉ nói thôi, nào ngờ nó lại kiên trì cho tới hôm nay.”
“Điện hạ, nếu ta nhớ không lầm, từ bé đến giờ Hủy Hủy luôn vướng chuyện mẹ nó qua đời trong lòng. Nó cảm thấy mình là người chẳng lành.”
Thúc Thận Huy im lặng mãi lâu, hỏi lần nữa: “Trừ chuyện đó ra, nhạc phụ còn biết chuyện gì khác liên quan đến Hủy Hủy không? Gì cũng được. Ta muốn biết.”
Khương Tổ Vọng khẽ lắc đầu, mặt lộ vẻ áy náy: “Tuy ta là cha của con bé, cũng không rõ mấy chuyện này. Bao năm qua ngoài chuyện công và việc quân, con bé chưa từng chủ động kể với ta điều gì, huống hồ là tâm sự của mình.”
Ông dừng đoạn, “Có điều nếu Điện hạ muốn biết, để ta gọi Dương Hổ đến, hỏi cậu ấy, có lẽ cậu ấy biết chút ít. Cậu ấy nhỏ hơn Hủy Hủy một tuổi, mười bốn tòng quân, vừa vào đã ở bên cạnh Hủy Hủy, mỗi ngày không rời, rất gần gũi như chị em vậy.”
Thúc Thận Huy đứng dậy, bảo Khương Tổ Vọng không cần đưa mình. Y ra khỏi trướng, đạp ánh trăng đi đến chỗ nghỉ trong đại trướng. Gần đến, y chần chừ, ngừng bước tại chỗ một chốc lát, cuối cùng gọi một tùy tùng đến gọi Dương Hổ ra.
Dương Hổ ra khỏi đại doanh Nhạn Môn, được đưa tới một chỗ đất trống không người. Cậu nhìn thấy một bóng người thanh tú ắn nhìn thấy phía trước dưới ánh trăng, lẳng lặng đứng thẳng một đạo Thanh Dật thân ảnh.
Dương Hổ chầm chậm bước tới hành lễ: “Nhiếp Chính Vương điện hạ gọi tôi có gì sai bảo?”
Thúc Thận Huy nhìn cậu, mỉm cười gật đầu: “Nghe nói Trường Ninh xem cậu là em ruột, ta có lời muốn hỏi, cậu hãy trả lời thật chi tiết. Cậu theo nàng nhiều năm, có biết sở thích thường ngày của nàng? Thường đi đâu? Có bạn nào tốt? Bất kể chuyện gì, bất kể lớn nhỏ, cậu biết gì, cứ nói.”
Mặt Dương Hổ lộ vẻ kinh ngạc. Không ngờ mình bị gọi riêng ra là vì chuyện này. Nghĩ nghĩ, thực không kiềm chế không phục trong lòng, đáp: “Đêm nay điện hạ truyền tôi ra hỏi, xin hỏi, là lấy thân phận Nhiếp Chính Vương hay là thân phận chồng của tướng quân?”
Thúc Thận Huy dò xét: “Nhiếp Chính Vương thì thế nào? Chồng của Trường Ninh, thì thế nào?”
Dương Hổ nói: “Nếu như là Nhiếp Chính Vương, mạt tướng không biết gì hết, không thể trả lời, nếu điện hạ bất mãn cứ việc trị tội. Nhưng nếu là chồng của tướng quân…”
Cậu dừng lại, ngạo nghễ nói, “Đánh thắng được tôi, tôi sẽ nói!”
Chung quanh hoang vắng tĩnh lặng. Cách đó mười mấy trượng, tiếng hai người nói chuyện đằng trước văng vẳng nghe không rõ lắm, nhưng câu này, giọng Dương Hổ rất lớn, dọa sợ đám mười mấy tên đồng đội Thanh Mộc Doanh đang nấp trong góc tối kia.
Ngày mai đợi sau khi Nhiếp Chính Vương rời đi, bọn họ cũng phải quay về Thanh Mộc Doanh. Đêm nay muốn ngủ, thì đột nhiên Dương Hổ lại bị Nhiếp Chính Vương kêu ra ngoài một mình.
Tin là Trương Tuấn truyền ra, sợ Nhiếp Chính Vương muốn gây bất lợi cho Dương Hổ, thừa cơ nữ tướng quân không có mặt, sợ Dương Hổ ăn thiệt thòi, lúc ấy lập tức kéo một đám trong doanh trướng đi theo. Thoạt đầu đám người không dám lại quá gần, núp trong bóng tối, khẩn trương nhìn trộm, không biết đến cùng là vì chuyện gì. Chỉ mong không phải là vì cậu ta từng vô lễ mà giờ bị khiển trách.
Chẳng ai ngờ rằng, Dương Hổ lớn gan đến mức ấy, dám can đảm khiêu khích.
Tin lập tức từ đại doanh được chuyển đến chỗ vợ chồng Nhiếp Chính Vương dừng chân, lúc ấy, cả hai đều đang lặng thinh riêng mình, còn chưa khôi phục cảm xúc từ cuộc nói chuyện ban nãy. Cô dựa tường đứng, chưa đi ngay. Y đứng trước mặt cô, như mang theo mấy phần cố chấp không chịu lùi lại nửa bước, nhưng cũng không có ý bắt lấy tay cô như ban đầu.
Thư đưa vào. Cô đọc xong, biến sắc.
“Có chuyện gì thế?” Y dằn tâm tư hỗn loạn, hỏi.
Khương Hàm Nguyên nghẹn ngào, “Cậu bị thương nặng!”
Bàn tay cô nắm lại trong vô thức, buông, nắm, lặp đi lặp lại mấy lần nghe răng rắc, khép mắt, bỗng trợn mắt: “Bên này vừa hết việc, ta đi Vân Lạc. Điện hạ đi tự nhiên. Phiền ngày mai gửi lời tiễn biệt bệ hạ giúp. Hai người hồi kinh, ta không tiễn!”
Thúc Thận Huy đuổi tới ngoài cổng, cô đã trở mình lên ngựa, chạy ra quân doanh ngoài thành.
“Hủy Hủy —— ” Thúc Thận Huy gọi theo bóng lưng cô, cô cũng không quay đầu, chớp mắt đã phóng ngựa phi ra ngoài mấy trượng.
Thúc Thận Huy đuổi theo mấy bước, bóng cô cưỡi ngựa đã biến mất trong bóng đêm. Y dần chậm bước, cuối cùng chán nản dừng lại, đăm đăm nhìn hướng cô rời đi trong đêm tối, đứng sững thật lâu.
Khương Hàm Nguyên trở lại quân doanh trong đêm, bàn giao việc xong, Phàn Kính theo cùng, chạy về Vân Lạc.
Nhiếp Chính Vương không đi cùng. Y có chuyện quan trọng khác, hôm sau chỉnh đốn đội hình, dẫn theo vị thiếu niên kia, dưới tuỳ hành của đại quân Chu Khánh Trương Mật lên đường về Nhạn Môn.
Cha con họ Tiêu dẫn theo bộ hạ và dân chúng tiễn biệt, đưa một đoạn đường. Ra khỏi thành ba mươi dặm, Thúc Thận Huy lệnh cho Đại Hách Vương dừng bước.
Tiêu Lâm Hoa cưỡi ngựa đi theo sau cha anh, ngẩng lên, dõi theo một chiếc xe ngựa trong đội của Nhiếp Chính Vương. Màn cửa phủ kín bỗng vén ra một góc, lộ một đôi mắt thiếu niên. Tiêu Lâm Hoa phát hiện hình như đối phương vẫy vẫy tay với mình, lại lép nhép miệng, ra dáng chọc cười, thoạt đầu khẽ giật mình, cơn tức giận lập tức tuôn ra, xoay mặt giả như không nhìn thấy.
Thúc Tiển mặt nóng dán mông lạnh, hơi chán, ngượng ngùng thả tay xuống. Nghĩ đến Tam Hoàng thẩm đi ngay trong đêm qua, tâm tình càng thêm không tốt. Nhìn quanh ngoài xe, lố nhố đầy là người. Lúc này, Đại Hách Vương cùng Vương tử Tiêu Lễ Tiên và Tiêu Lâm Hoa xuống ngựa, hành lễ bái biệt lần cuối với Nhiếp Chính Vương cùng Chu Khánh Trương Mật trên lưng ngựa, tự tay châm hiến rượu chúc phúc đi đường bình an. Đám dân chúng từng bị cha con Diệp Kim bắt cóc cảm động đến rơi nước mắt, rối rít nhào lên, quỳ xuống dập đầu.
Nhiếp Chính Vương tiếp lấy chén vàng mượn rượu ngon, uống một hơi cạn sạch, lập tức xuống ngựa, đi tới, tự tay đỡ một ông cụ tóc bạc phơ dậy, gọi dân chúng bình thân, từ biệt xong, lên ngựa dẫn đội rời đi trong tiếng chúc phúc không dứt sau lưng.
Đi thật xa, Thúc Tiển quay lại, còn thấy ở con đường sau lưng, dân chúng tụ lại thật lâu, không muốn rời.
Thúc Thận Huy đưa Thúc Tiển lên đường về, hơn nửa tháng đến Nhạn Môn. Khương Tổ Vọng dẫn binh ngựa đích thân ra đón. Toán người của Nhiếp Chính Vương, dừng lại Nhạn Môn ba ngày, tuần kiểm biên cảnh, thăm hỏi tướng sĩ.
Đã sau nhiều năm, Nhiếp Chính Vương lại đến Nhạn Môn. Tin này truyền ra, trên dưới trong quân đều được cổ vũ, chỗ nào Nhiếp Chính Vương đến, sôi trào khắp chốn. Dĩ nhiên, Khương Tổ Vọng lấy danh nghĩa đón tiếp Nhiếp Chính Vương mà sắp xếp toàn bộ hành trình. Còn Thiếu đế chỉ là một tùy tùng đi theo bên cạnh Nhiếp Chính Vương.
Ba ngày nay, Thúc Thận Huy đưa Thúc Tiển theo bên người, dẫn cậu vào quân doanh vùng biên cương, để cậu nghe đối thoại giữa mình và tướng sĩ, đưa cậu cưỡi ngựa tuần biên, leo lên phong đài bị lang yên* hun đến cháy đen chỉ cho cậu giang sơn dưới chân. Phía nam, là Trường An xa xôi, phía Bắc, là một mảng lớn U Yến còn nằm dưới gót sắt Bắc Địch.
(*) phân sói đốt để báo hiệu trong trận chiến
Sau cuộc tuần biên có vẻ hơi vội vàng kết thúc, trước ngày đi một ngày, Thúc Thận Huy dẫn Thiếu đế, làm chuyện quan trọng cuối cùng.
Hôm ấy, sông núi yên ắng trang nghiêm, trời đất như chết chóc. Trên một mảnh đất hoang mênh mang, Nhiếp Chính Vương Đại Ngụy tự mình chủ trì nghi thức, phụng danh Hoàng đế Đại Ngụy, tế điện anh linh tất cả tướng sĩ hy sinh vì nước năm mươi năm từ lúc Đại Ngụy khai quốc đến nay.
Nhiếp Chính Vương áo trắng mũ trắng, thắt lưng xanh nhạt, đón gió leo lên tế đàn, bái lạy với trời, hành đại lễ xong tự mình tuyên tụng tế văn. Vẻ mặt y trang nghiêm chăm chú, ngữ điệu đau mà không thương, bầu không khí tế điện khẳng khái dâng trào.
Mười vạn tướng sĩ Nhạn Môn bày trận, quay chung quanh tế đàn.
“… Phủ phục anh linh, cứu Vương quốc ta, giương cao thần uy, lan truyền vạn thế, vĩnh viễn vô cùng!”
Nhiếp Chính Vương đọc xong, cho Tế thư vào ngọn lửa đỏ cháy hừng hực. Xung quanh tế đàn, mười vạn tướng sĩ cùng nhau quỳ xuống. Thiết giáp và đao kiếm va chạm nhau như sấm rền vừa vang trên đất bằng.
“Lan truyền vạn thế, vĩnh viễn vô cùng!”
Mười vạn tướng sĩ cùng hô. Bốn phương tám hướng, thanh thế cuồn cuộn.
“Đại Ngụy Vạn tuế! Hoàng đế Vạn tuế, Vạn vạn tuế —— “
Trên đất hoang, dưới trời xanh, tiếng hô tràn ngập tràn ngập mùi máu, vang tận mây xanh.
Thúc Tiển đứng ngay dưới tế đàn.
Cậu nhìn bóng người thay mình đang cao cao đứng trên tế đài kia, nghe tiếng gầm kinh người của mười vạn tướng sĩ vọng bên tai như sóng biển từ từ đánh tới, màng tai cậu như muốn bị phá rách. Một cơn sóng xưa nay chưa từng có dậy lên trong lòng. Cậu kích động vô cùng, vô thức siết chặt quyền.
Ngay một khắc này, tự như cậu đột nhiên chân chính rõ ràng, như thế nào là thiên tử, như thế nào là nhất hô vạn ứng, như thế nào là chí tôn, như thế nào là vinh quang trên vạn người.
Cậu rốt cuộc đã hiểu, vì cái gì, ngôi vị mình đang ngồi, trên đời lại có nhiều người muốn đến tranh đoạt như vậy.
Tế điện kết thúc, chạng vạng tối, một thủ hạ của Lưu Hướng vội tìm đến Thúc Thận Huy, nói Thiếu đế trèo lên một gò đất cao, hành vi rất kỳ lạ khó hiểu, mời Nhiếp Chính Vương qua xem một chút.
Thúc Thận Huy lập tức bỏ mọi việc, cưỡi ngựa chạy tới. Y lên đỉnh núi, quả nhiên từ xa nhìn thấy Thiếu đế một mình đón gió cao cao đứng trên một tảng đá lớn, như đang tập trung ngắm nhìn thứ gì. Phía trước cậu, là một vùng quê rộng lớn chập trùng núi non, tiếp đó là từng tòa thành trì. Lưu Hướng chờ tại bên cạnh, thần sắc thấp thỏm, cuối cùng nhìn thấy Nhiếp Chính Vương đến như gặp đại xá, vội tiến lên nhỏ giọng giải thích, rằng ông đang đưa Thiếu đế về hành dinh ngang qua nơi đây, bỗng Thiếu đế đòi leo núi, ông đành đi theo hầu Thiếu đế leo đến đỉnh, cứ thế ngài đứng đó hồi lâu, không biết đến cùng muốn làm gì.
Trước tảng đá lớn không xa là vách núi, ông không yên lòng, sợ nhỡ xảy ra chuyện gì mới mời Nhiếp Chính Vương đến.
Thúc Thận Huy liếc mắt nhìn bóng lưng đứa cháu, chậm rãi đi đến, đang muốn lên tiếng gọi, chợt thấy cậu vung tay cao cao, đón gió hô to: “Sông núi của Trẫm! Con dân của Trẫm!”
Giọng cậu phát từ trong bụng, theo gió núi, lồng lên bốn phía.
Thúc Thận Huy khẽ giật mình. Thấy cậu hô xong, quay người nhảy xuống khỏi tảng đá, nhanh chân đi đến trước mặt mình, hơi ngửa mặt, nói: “Tam hoàng thúc! Ta thật sự đã hiểu những lời dạy của ngài xưa giờ!”
“Tam hoàng thúc, ngài yên tâm, sau này ta sẽ không tùy ý làm bậy, làm ngài bận tâm phiền lòng!” Cậu dừng đoạn, “Trẫm thề với trời đất, từ hôm nay, chắc chắn sẽ tận tâm tận lực, làm một Hoàng đế như là Hoàng tổ phụ!”
Mắt cậu cháu lập loè tỏa sáng, khuôn mặt kích động.
Kinh ngạc ngắn ngủi qua đi, Thúc Thận Huy rất nhanh tỉnh táo lại. Y tươi cười, vô thức đưa tay, đang định siết chặt cánh tay đứa cháu đập mấy cái như một cách diễn tả sự tán thành và cổ vũ của mình —— lúc chạm tới gần cánh tay cháu, dừng tay lại trên không trung rồi thu lại.
Đổi lại lùi mấy bước, hạ bái Thiếu đế trước mặt, cung kính nói: “Thần rửa mắt mà đợi!”
Đám Lưu Hướng nhìn ngây người, thấy thế, cũng vội vàng bước tới quỳ bái theo sau lưng Nhiếp Chính Vương, cùng nói: “Vi thần cung chúc bệ hạ, giang sơn vĩnh cố, thiên thu vạn đại!”
Thúc Tiển quay lại nhìn xa xa chung quanh, thu non sông bao la hùng vĩ vào đáy mắt, xuống núi.
Trên đường về hành dinh Nhạn Môn, Thúc Tiển và Thúc Thận Huy cưỡi ngựa đồng hành. Cậu quay đầu nhìn về hướng Tây nơi nắng trời còn sót lại, mặt lộ vẻ lo lắng, “Tam Hoàng thẩm đã đi lâu vậy rồi, chắc cũng đã đến bên kia nhỉ? Không biết thím ấy sao rồi. Mong rằng cậu của thím không sao. Nhỡ xảy ra chuyện không hay, Tam Hoàng thẩm…”
Thúc Tiển thấy Thúc Thận Huy chợt xoay lại nhìn mình, sợ lỡ lời, lập tức đổi giọng: “Tam hoàng thúc, đêm nay ngài gặp Đại tướng quân, nhớ căn dặn ông ấy một tiếng, chừng Tam Hoàng thẩm quay về, lập tức báo tin, ta chờ.”
Chuyến này Thúc Tiển ra ngoài quá lâu, nếu không mau chóng trở về, phía triều đình e là Hiền Vương cũng không áp xuống được, cộng thêm thân phận y cho phép, theo kế hoạch, sáng ngày mai Thúc Thận Huy khởi hành, tự mình hộ giá đưa đương kim Hoàng đế Đại Ngụy lên đường về Trường An.
Đêm đó, đại trướng trong quân sáng rực, Nhiếp Chính Vương đến bái biệt rất nhiều tướng lĩnh, cuối cùng, trong trướng chỉ còn lại y và Khương Tổ Vọng.
Đối với Khương Tổ Vọng, y không còn là Nhiếp Chính Vương cao cao tại thượng, bình dị gần gũi mà uy nghiêm cơ trí kia nữa. Y lặng lẽ, không thèm che giấu tâm sự nặng nề của mình. Y lại dùng nhạc phụ để xưng đối phương, hỏi mấy nay phải chăng có tin mới từ thành Vân Lạc.
Thần sắc Khương Tổ Vọng nặng nề đi: “Hôm qua vừa có tin mới. Thương thế cậu của Hủy Hủy cữu phụ vẫn không thấy khởi sắc.”
Thúc Thận Huy nói: “Ta từng phát tin khẩn về Trường An điều động lương y nhanh chóng lên phía Bắc. Chờ ít ngày nữa tới đây, phiền nhạc phụ phái người dẫn qua.”
Khương Tổ Vọng đầy cảm kích, đứng dậy định bái tạ. Thúc Thận Huy ép ông ngồi lại, “Chỉ là chút sức mọn thôi. Chỉ mong cữu phụ cát nhân thiên tướng, sớm ngày bình an.”
“Vâng. Tình cảm giữa Hủy Hủy và cậu nó rất sâu…” Khương Tổ Vọng sợ sệt chỉ chốc lát, thở dài, “Ta cũng chỉ có thể hy vọng vậy.” Nghĩ tới con gái lúc này dày vò nhường nào, ông ước gì có thể lấy bản thân thay cho Yến Trọng, đang buồn rầu một lát, chợt nhớ tới một chuyện, vội nói: “Sáng mai điện hạ phải lên đường rồi, hộ tống bệ hạ hồi kinh là chuyện lớn nhất, phía thần không dám chậm trễ điện hạ. Nếu không có dặn dò gì khác, thần đưa điện hạ về nghỉ ngơi.”
Nói xong, thấy dường như con rể chẳng nghe thấy mà đang đắm chìm trong suy nghĩ, bèn im lặng tránh quấy rầy, bỗng nghe một câu hỏi vang lên: “Nhạc phụ, trước năm Hủy Hủy bảy tuổi, cuộc sống nàng ấy thế nào?”
Khương Tổ Vọng khẽ giật mình.
Thúc Thận Huy giải thích: “Ta và Hủy Hủy đã là vợ chồng, song ta lại biết rất ít về nàng ấy. Trước đây chỉ nghe Lưu Hướng kể vài chuyện lúc nhỏ nàng ấy tòng quân sống trong quân doanh thôi.”
Khương Tổ Vọng tự dưng chẳng biết bắt đầu nói từ đâu. Ông trầm ngâm một lát, chậm rãi nói, “Chắc hẳn điện hạ đã từng nghe chuyện về mẹ con bé. Tội lỗi năm ấy toàn bộ là do ta, mà con bé lại cứ vơ về mình. Rõ ràng lúc xảy ra chuyện nó còn chưa thôi nôi. Điện hạ có biết vì sao không?” Khương Tổ Vọng nhìn Thúc Thận Huy.
“Chỉ vì lúc ấy, mẹ con bé đưa nó nấp một chỗ bí mật, truy binh cũng đã qua rồi, song vì con bé còn trong tã lót khóc lên một tiếng kéo truy binh quay lại. Mẹ nó mới bị ép ôm con nhảy núi.”
Chuyện dù đã qua nhiều năm song khi Khương Tổ Vọng đề cập lại tổn thương từ sâu trong đáy lòng, hốc mắt ông vẫn hơi phiếm hồng.
Ông bình phục lại tâm tư, tiếp tục nói, “Trời thương xót để nó sống tiếp. Mấy tháng sau lúc ta tìm tới, nó được một con sói cái cho bú. Đây vốn là chuyện vô cùng may mắn, song cũng chính vì thế mà đã khoác danh chẳng lành vào mình. Năm đó ta lại bận rộn việc quân, để chăm sóc nó cho tốt mới gửi nó lại vào thành Vân Lạc. Ta nghe kể nó biết nói cực kỳ muộn, cả ngày im lặng, rất không thích sống chung. Sau mấy năm, lúc mới sáu bảy tuổi, đột nhiên con bé tìm ta, nói muốn tòng quân, ta không lay chuyển được chỉ đành nhận lời. Cứ nghĩ nó chỉ nói thôi, nào ngờ nó lại kiên trì cho tới hôm nay.”
“Điện hạ, nếu ta nhớ không lầm, từ bé đến giờ Hủy Hủy luôn vướng chuyện mẹ nó qua đời trong lòng. Nó cảm thấy mình là người chẳng lành.”
Thúc Thận Huy im lặng mãi lâu, hỏi lần nữa: “Trừ chuyện đó ra, nhạc phụ còn biết chuyện gì khác liên quan đến Hủy Hủy không? Gì cũng được. Ta muốn biết.”
Khương Tổ Vọng khẽ lắc đầu, mặt lộ vẻ áy náy: “Tuy ta là cha của con bé, cũng không rõ mấy chuyện này. Bao năm qua ngoài chuyện công và việc quân, con bé chưa từng chủ động kể với ta điều gì, huống hồ là tâm sự của mình.”
Ông dừng đoạn, “Có điều nếu Điện hạ muốn biết, để ta gọi Dương Hổ đến, hỏi cậu ấy, có lẽ cậu ấy biết chút ít. Cậu ấy nhỏ hơn Hủy Hủy một tuổi, mười bốn tòng quân, vừa vào đã ở bên cạnh Hủy Hủy, mỗi ngày không rời, rất gần gũi như chị em vậy.”
Thúc Thận Huy đứng dậy, bảo Khương Tổ Vọng không cần đưa mình. Y ra khỏi trướng, đạp ánh trăng đi đến chỗ nghỉ trong đại trướng. Gần đến, y chần chừ, ngừng bước tại chỗ một chốc lát, cuối cùng gọi một tùy tùng đến gọi Dương Hổ ra.
Dương Hổ ra khỏi đại doanh Nhạn Môn, được đưa tới một chỗ đất trống không người. Cậu nhìn thấy một bóng người thanh tú ắn nhìn thấy phía trước dưới ánh trăng, lẳng lặng đứng thẳng một đạo Thanh Dật thân ảnh.
Dương Hổ chầm chậm bước tới hành lễ: “Nhiếp Chính Vương điện hạ gọi tôi có gì sai bảo?”
Thúc Thận Huy nhìn cậu, mỉm cười gật đầu: “Nghe nói Trường Ninh xem cậu là em ruột, ta có lời muốn hỏi, cậu hãy trả lời thật chi tiết. Cậu theo nàng nhiều năm, có biết sở thích thường ngày của nàng? Thường đi đâu? Có bạn nào tốt? Bất kể chuyện gì, bất kể lớn nhỏ, cậu biết gì, cứ nói.”
Mặt Dương Hổ lộ vẻ kinh ngạc. Không ngờ mình bị gọi riêng ra là vì chuyện này. Nghĩ nghĩ, thực không kiềm chế không phục trong lòng, đáp: “Đêm nay điện hạ truyền tôi ra hỏi, xin hỏi, là lấy thân phận Nhiếp Chính Vương hay là thân phận chồng của tướng quân?”
Thúc Thận Huy dò xét: “Nhiếp Chính Vương thì thế nào? Chồng của Trường Ninh, thì thế nào?”
Dương Hổ nói: “Nếu như là Nhiếp Chính Vương, mạt tướng không biết gì hết, không thể trả lời, nếu điện hạ bất mãn cứ việc trị tội. Nhưng nếu là chồng của tướng quân…”
Cậu dừng lại, ngạo nghễ nói, “Đánh thắng được tôi, tôi sẽ nói!”
Chung quanh hoang vắng tĩnh lặng. Cách đó mười mấy trượng, tiếng hai người nói chuyện đằng trước văng vẳng nghe không rõ lắm, nhưng câu này, giọng Dương Hổ rất lớn, dọa sợ đám mười mấy tên đồng đội Thanh Mộc Doanh đang nấp trong góc tối kia.
Ngày mai đợi sau khi Nhiếp Chính Vương rời đi, bọn họ cũng phải quay về Thanh Mộc Doanh. Đêm nay muốn ngủ, thì đột nhiên Dương Hổ lại bị Nhiếp Chính Vương kêu ra ngoài một mình.
Tin là Trương Tuấn truyền ra, sợ Nhiếp Chính Vương muốn gây bất lợi cho Dương Hổ, thừa cơ nữ tướng quân không có mặt, sợ Dương Hổ ăn thiệt thòi, lúc ấy lập tức kéo một đám trong doanh trướng đi theo. Thoạt đầu đám người không dám lại quá gần, núp trong bóng tối, khẩn trương nhìn trộm, không biết đến cùng là vì chuyện gì. Chỉ mong không phải là vì cậu ta từng vô lễ mà giờ bị khiển trách.
Chẳng ai ngờ rằng, Dương Hổ lớn gan đến mức ấy, dám can đảm khiêu khích.
Bình luận truyện