Vương Quốc Bí Ẩn
Chương 13: Phù thủy
Mabon và Peredur đưa bà lão vào trong nhà, đặt bà nằm trên tấm nệm. Mi mắt bà lim dim, bà lão cố gắng thở sâu từng hơi nặng nhọc.
Timoken quỳ xuống bên cạnh bà lão: “Thưa bà, những tên phù thủy đó là ai ạ?”
Bà lão cười cay đắng: “Ai mà biết được?” Tiếp theo là một chuỗi những cơn ho dữ dội, khi bà hổi phục, bà nói: “Ta đã thấy tất cả, nhưng rồi, ta lại chìm vào giấc ngủ, khi ta tỉnh dậy thì đã là quá muộn để cảnh báo họ.”
Nói rồi, bà lại tiếp tục ho, Marie mang cho bà một cốc nước. Cô bé này nhỏ hơn những đứa trẻ khác, chỉ tầm sáu hay bảy tuổi. Bà lão hét lên: “Thuốc độc!” và gạt tay của Marie đi, làm cốc nước rơi xuống đất.
“Đây là nước mưa thuần khiết, thưa bà. Trong đó không có độc đâu,” Timoken nói.
“Ồ?” mắt bà lão nheo lại, nghi ngờ.
“Chúng cháu đều đã uống nó, này, bà xem...” Timoken đưa tay chỉ tất cả những đứa trẻ khác, “... tất cả chúng cháu đều còn sống.”
Bà lão vẫn còn thận trọng: “Hừm!” Bà nói: “Cậu biết không, tất cả những người khác đều đã chết. Khi tỉnh dậy, tôi nghe thấy tiếng rên rỉ, khóc lóc từ những ngôi nhà khác. Tôi trông thấy rất nhiều người đàn ông, đàn bà và cả những đứa trẻ nhỏ nữa, họ bước đi loạng choạng, nôn ọe khắp nơi trên đường tới nhà Monsieur* Clement. Ông là một thầy thuốc, thuốc của ông rất linh nghiệm, ông đã chữa lành cho rất nhiều người. Nhưng không phải là lần này. Monsieur Clement đã chết.” Bà lão lại bắt đầu ho, lần này, bà đã chịu uống nước từ tay Marie.
* Monsieur: tiếng Pháp, có nghĩa là ông.
Timoken nhìn bà lão uống cạn cốc nước, cậu muốn hỏi thêm về những tên phù thủy, nhưng cậu không muốn ép buộc bà lão. Cốc nước có vẻ đã làm bà lão khỏe hơn, bà lão ngồi dậy, lau nước ở cằm. Edern mang cho bà một tô súp nóng, bà ăn nó rất nhanh, sau mỗi lần húp, bà liếm luôn chỗ súp đọng trên môi.
Bọn ừẻ nhìn bà ăn trong im lặng, chờ đợi bà lão kể tiếp phần còn lại của câu chuyện. Cuối cùng, bà cũng đã ăn xong tô súp, bà đưa cái tô sạch nhẵn lại cho Edern, ngồi sát vào tường, khoanh hai tay trước ngực.
“Làm ơn, thưa bà...” Timoken bắt đầu.
“Gruner,” bà lão ngắt lời, “Adele Gruner.”
“Bà có thể kể tiếp cho chúng cháu nghe chuyện gì đã diễn ra không?” Timoken hỏi.
“Đừng nhìn ta như thế,” bà Gruner than vãn. “Nào, ngồi xuống. Tất cả các cháu.”
Timoken ra hiệu cho mọi người ngồi xuống. Cậu nói với chúng rằng như thế có thể làm cho bà Gruner kể tiếp về những gì đã xảy ra.
Một nhóm ngồi gần lại với nhau trên bàn, số còn lại thì ngồi xếp bằng dưới đất. Beri lại gần bên, quỳ gối cạnh Timoken.
Bà Gruner bắt đầu kể. Bà thì thầm rất nhỏ và thở khò khè khi kể về sự việc đã dẫn đến cái chết trong ngôi làng của bà, Timoken phiên dịch lại lời nói của bà cho Beri và những đứa trẻ người Anh. Chỉ trong một vài giây, Timoken đã làm rất thuần thục công việc này, đến nỗi những người khác không còn nhận ra là cậu đang phiên dịch một lúc hai thứ tiếng khác nhau. Cậu thuật lại cả câu chuyện liền mạch cho mọi người.
Bà lão sống ở một ngôi nhà phía cuối ngôi làng. Ba ngày trước, khi bà đang nhặt củi ở sau nhà, thì năm người đàn ông cưỡi ngựa đi tới. Chúng còn dẫn theo một con ngựa nữa, một con quái vật đen sì thở ra lửa, những bước chạy của nó làm cho mặt đất rung lên. “Bốn tên lạ mặt có nước da màu xanh,” bà nói. “Tứ chỉ của chúng dài loằng ngoằng và không có khớp. Không có đầu gối, không có cổ tay, cũng không có cùi chỏ. Chúng ăn mặc cầu kì, áo choàng màu xanh lá cây có những đường viền bằng lông thú, nhưng mặt của chúng, mặt của chúng...” Bà Gruner dừng lại và dụi mắt. Hành động như thể bà đang cố xua đi ký ức. Bỗng nhiên, bà buông hai tay xuống và nói: “Mặt của chúng thật là kỳ quái.”
Người thứ năm thì không cao hơn Timoken là bao. Cậu ta có mái tóc màu nâu vàng và đôi mắt màu ô-liu. Bà Gruner biết rõ điều này, vì cậu ta dừng lại nói chuyện với bà. Thằng bé hỏi bà có nhìn thấy một cậu bé người Châu Phi, cưỡi một con lạc đà không. Bà cười vào lời nói của cậu và nói rằng, bà chỉ vừa nghe thấy điều kỳ lạ như thế và cũng chưa bao giờ nhìn thấy và bà cũng không muốn thấy. Giọng cười của bà làm nó bực mình, không một lời cảnh báo, nó vung roi đánh mạnh vào tay bà. Bà thét lên vì đau đớn, đánh rơi cả bó củi. Thằng nhỏ kia cười. Nó cúi người xuống và lạnh lùng nói: “Bà già, đây không phải là một trò đùa.” Nói rồi, nó quay ngụa lại, dẫn đoàn người đi vào làng.
“Và bây giờ thì tôi đã nhìn thấy người mà tôi không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ gặp,” bà Gruner thì thào nói. “Một con lạc đà đang ở trong chuồng và một người Châu Phi đội vương miện.”
Timoken ngượng ngùng gãi đầu. Cậu quên không đội mũ. “Thế họ đã chết như thế nào, bà Gruner, tất cả dân làng ấy?”
Bà uống thêm một ngụm nước nữa và nói: “Khi tôi trở về làng, tôi trông thấy Monsieur Clement đang nói chuyện với những người lạ mặt. Cậu bé đó đang la lối, người hàng xóm của tôi nói rằng họ đang tranh cãi. Những tên phù thủy đi theo cậu ta nói rằng, thằng bé người Châu Phi cưỡi con lạc đà đang trên đường đến ngôi làng này.” Bà chỉ ngón tay xương xẩu vào Timoken: “Chính là cháu!”
Timoken cau mày. Không nghi ngờ gì nữa, bà ấy hoàn toàn đúng. Cậu xoay chiếc nhẫn, nhớ lại lời thần rừng nói. Một tên trong bọn viridee đã biến thành người. Timoken biết rõ kẻ đó muốn gì: áo choàng mặt trăng. Chúng có thể giết người để có được nó. “Mình mong rằng mình không phải là nguyên do khiến mọi người phải chết,” Timoken nói thật nhỏ, chỉ có cô gái ngồi bên cạnh cậu nghe thấy.
“Monsieur Clement là một người đàn ông dũng cảm.” Những giọt nước mắt lăn xuống gò má đầy nếp nhăn của bà lão. “Người hàng xóm của tôi nói rằng, cậu bé kia ra lệnh phải bắt nhốt thằng bé người Châu Phi, Monsieur Clement đã từ chối. Ông ấy là một người cương nghị. Tất cả những du khách đều được chào đón tại ngôi làng này, ông nói, chỉ trừ khi, đó là những người có tâm địa xấu xa. Trách nhiệm của ông là tiếp đãi họ, chứ không phải làm hại họ. Rồi ông nhìn về phía dân làng và hòi: “Tôi nói có đúng không, các bạn của tôi?” Và mọi người đều đồng ý, rầm rộ hưởng ứng, và thế là thằng bé đó nguyền rủa ông. Khi bọn chúng rời đi, ta nghe rõ, hắn đe dọa rằng chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn khi chống lại lệnh của chúng.”
“Và họ đã trở lại à?” Timoken nói.
Bà Gruner gật đầu. Hai tay bà nắm chặt váy áo, bà bắt đầu thì thầm những từ không rõ nghĩa. Timoken nắm lấy tay bà. Cậu chỉ muốn an ủi bà lão, nhung khi tay cậu chạm vào làn da thô ráp, nhìn vào đôi mắt xám nhạt nhòa của bà lão, cậu bắt đầu nhìn thấy những gì bà đã chứng kiến cách đây ba hôm. Trời tối đen, một ánh đèn phát ra trước nhà của Monsieur Clement. Thằng bé đó đứng bên cạnh cái bơm nước. Nó bỏ một hòn đá vào máng nước, hòn đá phát ra ánh sáng làm mặt nước tỏa sáng một cách kỳ quái. Thằng bé bắt đầu nói. Ngôn ngữ của nó thật cay nghiệt và độc ác, giọng nói của nó quá trầm so với giọng của một đứa trẻ. Một câu thần chú Timoken nghĩ. Trước khi bỏ đi, nó nhún tay vào máng nước, chỉ trong giây lát, máng nước sôi lên sùng sục. Thằng nhỏ cười, rồi bỏ đi.
Timoken nghe thấy giọng nói của Beri, rất gần: “Làm sao cậu có thể hiểu được những lời nói cách quãng như thế?” Timoken chợt nhận ra rằng, cậu không phải đang thuật lại lời nói của bà Gruner, cậu đang diễn tả lại những gì mình thấy đang hiện ra trong đầu bà.
“Tôi thấy những gì bà ấy thấy,” cậu nói và thấy Beri chợt thoáng rùng mình khi nghe điều đó.
Bà Gruner lại tiếp tục nói, một lần nữa, những điều đang diễn ra trong ký ức của bà lướt qua mắt Timoken.
Buổi sáng sau đêm thằng bé kia bỏ hòn đá vào cái giêng. Mặt trời vẫn chưa mọc, nên chưa ai đến gần đó. Nhưng bà Gruner thì đã thức dậy, bà nghe thấy tiếng ngựa phi lóc cóc trên con đường sỏi. Hai người thầy tu cưỡi ngựa đi vào làng. Họ xuống ngựa và nhìn xung quanh. Nhìn thấy cái chuồng, họ rón rén tiến lại gần. Hành động của họ thật lén lút, gương mặt họ rất khả nghi. Không nghi ngờ gì nữa rồi, bọn trộm ngựa đây mà. Trước khi bà Gruner kịp la lên, thằng bé phù thuỷ đó xuất hiện, bà sợ hãi đến nỗi không dám lên tiếng.
Thằng bé bắt chuyện với những tên thầy tu và họ trả lời. Bà Gruner ở quá xa để nghe thấy cuộc nói chuyện của chúng, nhưng Timoken có thể hiểu được câu chuyện khi nhìn miệng của những tên kia. Bọn thầy tu đang tìm kiếm một con ngựa để kéo xe. Thằng bé đề nghị cho hai tên thầy tu một con ngựa khóe hơn bất kỳ con ngựa nào trên thế giới. Nhưng với một điều kiện. Bọn thầy tu phải bắt một thằng bé người Châu Phi cưỡi con lạc đà cho nó.
“Và rồi sao nữa?” một trong hai tên thầy tu hỏi. “Trong ba ngày nữa, chúng tôi phải vận chuyển một số hàng hóa cho một thương nhân ở thành phố Thánh Fleur.”
Thằng bé nhún vai: “Thì ngươi cứ làm việc của mình. Và rồi, dẫn thằng bé người Châu Phi đó về cho ta. Con ngựa sẽ tự tìm thấy ta, dù ta có ở bất cứ đâu. Nó là một con quái vật do ta tạo ra.”
Tên thầy tu nhíu mày, tỏ vẻ như không tin lời của thằng bé đó. Nó biến đi một lúc, rồi dắt về một con ngựa lớn màu đen. Những tên thầy tu có vẻ hoài nghi. Trước khi trao dây cương cho tên thầy tu, cậu bé nói chuyện với con ngựa, vừa nói vừa đánh vào mũi nó. Nó đưa dây cương cho tên thầy tu và căn dặn chúng không được uống nước từ cái bơm. Thằng bé nhìn thẳng về hướng cửa sổ nhà bà Gruner khi nói câu ấy. Từ đôi mắt xanh của nó phát ra tia nhìn lạnh băng. Cái nhìn chạm vào mặt bà Gruner đau đến nỗi bà phải lấy tay che mặt lại. Bà ngã quỵ xuống đất và chìm vào giấc ngủ sâu. Khi bà tỉnh dậy, những người trong làng đều đang hấp hối hoặc đã chết.
Bà Gruner gục đầu xuống. Mắt bà nhắm lại, bà đang ngủ.
Timoken buông tay bà lão ra. Cậu lấy tay đấm đấm phía sau cổ rồi vươn vai. Cậu cảm thấy thật mệt mỏi, cậu muốn nằm xuống cạnh bà lão và ngủ. “Các cậu đã nghe hết chưa?” cậu hỏi những đứa trẻ.
“Bọn mình nghe cả rồi,” Edern nói. “Đúng như chúng ta nghĩ, con ngựa đen đó là của chúng. Nhưng tại sao bọn phù thuỷ đó lại muốn bắt cậu, Timoken?”
“Chúng không phải muốn tôi.” Timoken nâng tấm tơ nhện mặt trăng lên từ tấm nệm Isabelle làm rơi nó. “Đây mới là thứ chúng cần và có lẽ còn một thứ nữa mà tôi đã đánh mất rồi.”
Cả bọn chờ Timoken tiếp tục kể thêm nữa, cậu ngập ngừng một chút, rồi kể tiếp về lọ Alixir đã bị mất ở dòng sông. Câu kể cho chúng nghe về vương quốc bí ẩn và về cái chết của cha mẹ cậu. Cậu kể cho chúng nghe về bọn viridee, và cuối cùng là về chị gái cậu - Zobayda. Khi cậu kể hết câu chuyện, âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng ngáy của bà lão, bà vẫn đang chìm sâu trong giấc ngủ.
Cánh tay của Timoken lại đau. Và một lần nữa, tim cậu cũng đau nhói lên. “Có lẽ chúng ta nên đi ngủ thôi,” cậu nói. “Ngày mai, chúng ta sẽ quyết định xem mình nên làm gì.”
Cậu có thể cảm nhận ánh mắt của mọi người đang đổ dồn về phía mình, nhung vẫn không một ai lên tiếng. Mọi người thể nói gì khi nghe một câu chuyện như thế? Mình đã kể hết tất cả sự thật, hiện tại, Timoken nghĩ, hay gần như tất cả. Trong hơn hai trăm năm qua, cậu luôn giữ kín câu chuyện này trong lòng, nhưng giờ đây, khi kể hết tất cả cho những đứa trẻ mà cậu tin tưởng, cậu cảm thấy thật nhẹ nhõm và thật hạnh phúc khi được chia sẻ nỗi lòng của mình. Bí mật duy nhất mà cậu giữ lại là tuổi của cậu, của cậu và của Gabar.
Bọn trẻ bắt đầu chuẩn bị chỗ ngủ. Chúng đã quyết định là sẽ ngủ chung trong một phòng. Như thế sẽ an toàn hơn. Những con ngựa cột trong rừng được dắt về chuồng gần ngôi nhà. Có rất nhiều cỏ khô ở đó, đủ cho cả sáu con ngựa và có thừa cho bọn trẻ làm gối. Timoken giăng tấm tơ nhện ở trước cửa, để đề phòng bọn bắt cóc có thể quay trở lại. Chúng thổi tắt những cây đèn cầy, rồi lần lượt từng đứa một cuộn tròn trên nền đất và ngủ thiếp đi. Một lần nữa, căn phòng chỉ còn lại tiếng ngáy của bà Gruner.
Timoken chỉ ngủ được một vài phút, cậu tỉnh dậy. Cậu quên mất một điều gì đó.
Cẩn thận đi ngang qua những đứa trẻ đang ngủ, cậu mở cửa, rồi rón rén bước ra ngoài.
Gabar đang nằm trong chuồng, nhưng nó vẫn chưa ngủ. Timoken tháo chiếc yên, cùng với những túi hành lý nặng ra khỏi lưng nó. Cậu tim trái cây khô ở một trong những cái túi rồi để trước mặt con lạc đà.
Gabar lên tiếng tán thành hành động đó và ăn chỗ trái cây khô.
“Chúng ta đã đi một quãng đường dài, ngươi và ta” Timoken nói, nép mình vào con lạc đà. “Sắp tới, chúng ta sẽ cùng nhau lớn lên.”
Gabar không nói gì, nhưng khi Timoken đứng dậy, định trở về phòng, nó nói: “Gia đình à, ở lại với tôi nhé.”
Timoken nghĩ đến chiếc áo choàng mặt trăng còn đang để ở trong phòng. Nhưng có vấn đề gì chứ? Nó sẽ bảo vệ những đứa trẻ. Cậu nằm xuống đống rơm, tựa đầu vào bộ lông ấm áp của con lạc đà, chìm vào giấc ngủ.
Khi Timoken trở về phòng vào sáng hôm sau, lúc đó bọn trẻ đang tranh cãi về một vấn đề gì đó. Chuyện gì đang xảy ra với bà Gruner? Câu hỏi đó làm mọi người lo lắng. Bà lão vẫn còn đang ngủ, nên chúng không muốn làm bà hoảng sợ khi đánh thức bà dậy.
Cuối cùng thì sự ổn ào của chúng cũng làm bà tỉnh giấc. Lúc đầu, bà nhíu mày cau có với bọn chúng, nhưng rồi bà nhớ đến những gì đang xảy ra và bắt đầu đi tới đi lui, miệng lầm bầm điều gì.
“Thưa bà, chúng cháu có thể giúp gì cho bà?” Timoken hỏi.
Bà lão ngừng di chuyển. Nhăn mặt nhìn Timoken, bà bảo với cậu rằng, bà không muốn ở lại ngôi làng chết chóc này. Bà sẽ đi đến nhà một người em họ, chỉ cách đây một ngày đi đường. Nhưng bà không thể tự mình đi được. Mặc dù những con ngựa trong làng vẫn không bị trúng độc, nhưng bà không thể cưỡi ngựa được. Tay bà đã quá yếu để giữ dây cương và bà cũng không thể ngồi thẳng được.
“Chúng cháu sẽ đưa bà đi,” Timoken nói.
Martin, một cậu bé người Pháp nói, cậu có thể ngồi cùng ngựa với bà Gruner. Cậu hứa rằng cậu sẽ giữ bà thật chặt và cho ngựa chạy thật chậm, nhất định không để bà ngã xuống.
Việc đưa một bà lão lên yên ngựa cũng không phải là một việc dễ dàng. Chân bà vướng víu vì cái váy quá dài, bà lão quấn chặt dây cương vào tay mình, bà la hét ầm ĩ khi Martin cố ngồi lên cùng bà. Nhưng khi nhận ra đó là cách duy nhất để bà đến được nhà của người họ hàng, bà bình tĩnh trở lại, bắt đầu chỉ đường và cho phép Martin đưa ngựa rời khỏi ngôi làng.
Họ tìm được thêm sáu con ngựa nữa, nên mỗi người đều cưỡi một con. Những đứa bé gái có vẻ rất hài lòng về điều này. Chúng trông khác hẳn. Bọn con gái tìm thấy quần áo trong những căn nhà bỏ hoang và hóa trang thành con trai. Chúng cột tóc lại và giấu nó vào trong chiếc mũ ở sau lưng áo; thay những bộ váy áo dài bằng tất len, thế là chân chúng được tự do, những cô gái không phải ngồi một bên khi cưỡi ngựa nữa, điều mà chúng rất ghét và thấy không thoải mái.
Cả nhóm đến một ngôi làng nhỏ, một nửa ngôi làng bị che bởi rừng cây. Henri nhìn bao quát xung quanh và nhìn kỹ những cái cây cổ thụ. Cậu nắm lấy yên ngựa, nhìn những cây thông cây sừng sững, miệng cậu há hốc vì ngạc nhiên, cậu tin chắc rằng mình nhận ra nơi này, chỗ này không cách nhà cậu là bao.
Sự việc này làm cho bọn trẻ người Pháp reo vui, mừng rỡ. Đột nhiên, con đường trở về nhà của chúng trở nên ngắn hơn, cảm giác sắp được gặp lại cha mẹ mà chúng mong nhớ bấy lâu nay đã làm chúng lâng lâng sung sướng.
“Suỵt!” bà Gruner ra lệnh. “Các cháu sẽ làm dân làng sợ hãi mất, họ sẽ chốt hết tất cả các cửa lại.”
Thế là, họ đi vào làng trong im lặng, cho tới khi bà Gruner trông thấy em họ mình nhìn ra cửa sổ. Bà òa khóc vui mừng, nửa trượt, nửa nhào xuống ngựa và bà té ngửa xuống đất, trong khi đó người em họ trẻ hơn bà rất nhiều, chạy đến và ôm lấy bà trong vòng tay.
Tiếp theo đó là cuộc đối thoại lắp bắp và khó hiểu của hai người, ngay cả những đứa trẻ người Pháp cũng không hiểu được những gì hai người nói với nhau.
Những người khác cũng từ từ xuất hiện từ những ngôi nhà. Tất cả đều nhìn con lạc đà bằng đôi mắt hiếu kỳ. Chưa một ai trong số họ nhìn thấy con vật như thế này. Nhưng sau đó, họ từ từ tiến đến giúp bọn trẻ xuống ngựa, bọn trẻ xuống ngựa, cười thật tươi với những người dân làng, họ cũng đang mỉm cười thân thiện với bọn trẻ.
Em họ của bà Gruner - bà Magnier - mời tất cả những đứa trẻ vào nhà, những con ngựa thì được dắt đi cho ăn và uống nước. Gabar thì ngược lại, nó vẫn đứng cách xa mọi người.
“Coi nào, Gabar,” Timoken nhẹ nhàng nói. “Ngươi phải để ta xuống chứ, ta không có ý định bay xuống đâu.”
Cậu nghe một người phụ nữ nói: “Cậu bé người Châu Phi chỉ nói được tiếng lạc đà thôi.”
“Ngược lại, thưa bà,” Timoken nói. “Tôi có thể nói rất nhiều ngôn ngữ. Tôi chỉ đơn thuần là đang chỉ dẫn con lạc đà của mình thôi.”
Người phụ nữ tỏ vẻ ngạc nhiên. Khi Gabar quỳ xuống, bà liền nhìn thấy chiếc vương miện trên đầu cậu. “Xin tha thứ cho tôi,” bà đò mặt. “Tôi thật là ngốc nghếch.”
Timoken cười: “Chuyện này cũng thường gặp thôi, thưa bà.”
Cả làng nhanh chóng được nghe câu chuyện về thằng bé phù thủy ác độc và về chất độc chết người. Khi họ nghe rằng, tất cả những đứa trẻ, chỉ trừ Timoken, đã bị bắt cóc, họ ôm lấy con mình, tự nhủ rằng sẽ không bao giờ rời mắt khỏi chúng.
Tối hôm đó, dân làng chiêu đãi những người khách một bữa tối thật thịnh soạn ở noi hội họp của làng. Trong bữa ăn, ai cũng tò mò muốn nghe những câu chuyện về chuyên phiêu lưu của họ.
Những câu chuyện của bọn trẻ đều được chăm chú lắng nghe. Mọi người ai cũng tỏ ra thương cảm cho bọn trẻ và khinh bỉ bọn bắt cóc tàn ác. Một số bà mẹ thỉnh thoảng đứng dậy và cho thêm thức ăn vào đĩa của những đứa trẻ.
Chồng của bà Magnier là một người lính, nhưng sau khi bị thương trong một trận chiến, ông không thể ra trận được nữa. Chân ông đi khập khiễng, nhưng ông chắc rằng tay mình vẫn còn rất khỏe, ông nói với những đứa trẻ người Pháp rằng, ông sẽ bảo vệ chúng trên đường đi đến lâu đài nơi Henri ở.
“Cha của tớ sẽ đưa từng người trong các cậu về nhà. Tớ hứa đấy.” Henri mỉm cười với những đứa trẻ người Pháp đang vỗ tay và reo hò vui mừng.
Monsieur Magnier nghiêng người qua bàn của Edern và hỏi rằng cậu muốn đi đến đâu. Edern nhún vai, trông cậu có vẻ bối rối.
“Ông ấy đang hỏi cậu muốn đi về đâu,” Timoken nói.
“Tớ muốn đi với cậu,” Edern liền trả lời. Cậu hỏi những đứa trẻ người Anh khác.
“Chúng ta sẽ cùng ở bên nhau,” Peredur nói. “Tớ cũng muốn đi với cậu.”
“Thế còn cô bé kia, cô bé không phải người Pháp?” bà Magnier hỏi.
“Cậu muốn đi đâu?” Timoken hỏi Beri.
“Về nhà,” cô buồn bã nói.
“Tất nhiên rồi,” bà Magnier vẫn không biết nhà cô bé ở đâu, bà chỉ mỉm cười.
“Còn cậu thì sao, cậu bé Châu Phi?” một người phụ nữ khác hòi. “Cậu muốn đi đâu, cậu và con lạc đà của cậu?”
Timoken ngập ngừng trong một lúc, cậu không thể trả lời. Cậu không hề có ý định gì về đích đến tiếp theo. Cậu không có nhà, cậu thấy mình như một ngọn cỏ, cứ mặc cho gió thổi đi, không có phương hướng nhất định. Ngón tay đeo nhẫn của cậu lại đau, cơn đau bắt đầu lan ra khắp người. Gần như không hề suy nghĩ, Timoken bất chợt nói: “Tôi sẽ đi đến Castile.”
“Castile?” những tiếng thì thầm bắt đầu vang lên trong bàn tiệc. Nhiều không người biết nơi đó là đâu.
Ông Magnier đã từng nghe thấy cái tên đó. “Cậu sẽ không thể đến được nơi đó đâu,” ông nói và lắc đầu. “Nó rất xa, về phía Tây Ban Nha.”
“Không xa lắm đâu,” Timoken nói. Cậu liếc nhìn Beri, cô đang mỉm cười với cậu.
Tại sao cậu lại nói ra cái tên đó nhỉ? Castile. Nơi đó là ở đâu? Cậu chỉ biết là Beri đến từ nơi đó và nó có vẻ như có một mối liên kết nào đó với cậu. Cậu nhìn xuống chiếc nhẫn, xoay tròn nó quanh ngón tay và nghĩ ngợi.
“Cô ấy đang ở đó,” giọng nói thì thầm vang lên.
“Cô ấy?” Timoken giật mình.
Timoken quỳ xuống bên cạnh bà lão: “Thưa bà, những tên phù thủy đó là ai ạ?”
Bà lão cười cay đắng: “Ai mà biết được?” Tiếp theo là một chuỗi những cơn ho dữ dội, khi bà hổi phục, bà nói: “Ta đã thấy tất cả, nhưng rồi, ta lại chìm vào giấc ngủ, khi ta tỉnh dậy thì đã là quá muộn để cảnh báo họ.”
Nói rồi, bà lại tiếp tục ho, Marie mang cho bà một cốc nước. Cô bé này nhỏ hơn những đứa trẻ khác, chỉ tầm sáu hay bảy tuổi. Bà lão hét lên: “Thuốc độc!” và gạt tay của Marie đi, làm cốc nước rơi xuống đất.
“Đây là nước mưa thuần khiết, thưa bà. Trong đó không có độc đâu,” Timoken nói.
“Ồ?” mắt bà lão nheo lại, nghi ngờ.
“Chúng cháu đều đã uống nó, này, bà xem...” Timoken đưa tay chỉ tất cả những đứa trẻ khác, “... tất cả chúng cháu đều còn sống.”
Bà lão vẫn còn thận trọng: “Hừm!” Bà nói: “Cậu biết không, tất cả những người khác đều đã chết. Khi tỉnh dậy, tôi nghe thấy tiếng rên rỉ, khóc lóc từ những ngôi nhà khác. Tôi trông thấy rất nhiều người đàn ông, đàn bà và cả những đứa trẻ nhỏ nữa, họ bước đi loạng choạng, nôn ọe khắp nơi trên đường tới nhà Monsieur* Clement. Ông là một thầy thuốc, thuốc của ông rất linh nghiệm, ông đã chữa lành cho rất nhiều người. Nhưng không phải là lần này. Monsieur Clement đã chết.” Bà lão lại bắt đầu ho, lần này, bà đã chịu uống nước từ tay Marie.
* Monsieur: tiếng Pháp, có nghĩa là ông.
Timoken nhìn bà lão uống cạn cốc nước, cậu muốn hỏi thêm về những tên phù thủy, nhưng cậu không muốn ép buộc bà lão. Cốc nước có vẻ đã làm bà lão khỏe hơn, bà lão ngồi dậy, lau nước ở cằm. Edern mang cho bà một tô súp nóng, bà ăn nó rất nhanh, sau mỗi lần húp, bà liếm luôn chỗ súp đọng trên môi.
Bọn ừẻ nhìn bà ăn trong im lặng, chờ đợi bà lão kể tiếp phần còn lại của câu chuyện. Cuối cùng, bà cũng đã ăn xong tô súp, bà đưa cái tô sạch nhẵn lại cho Edern, ngồi sát vào tường, khoanh hai tay trước ngực.
“Làm ơn, thưa bà...” Timoken bắt đầu.
“Gruner,” bà lão ngắt lời, “Adele Gruner.”
“Bà có thể kể tiếp cho chúng cháu nghe chuyện gì đã diễn ra không?” Timoken hỏi.
“Đừng nhìn ta như thế,” bà Gruner than vãn. “Nào, ngồi xuống. Tất cả các cháu.”
Timoken ra hiệu cho mọi người ngồi xuống. Cậu nói với chúng rằng như thế có thể làm cho bà Gruner kể tiếp về những gì đã xảy ra.
Một nhóm ngồi gần lại với nhau trên bàn, số còn lại thì ngồi xếp bằng dưới đất. Beri lại gần bên, quỳ gối cạnh Timoken.
Bà Gruner bắt đầu kể. Bà thì thầm rất nhỏ và thở khò khè khi kể về sự việc đã dẫn đến cái chết trong ngôi làng của bà, Timoken phiên dịch lại lời nói của bà cho Beri và những đứa trẻ người Anh. Chỉ trong một vài giây, Timoken đã làm rất thuần thục công việc này, đến nỗi những người khác không còn nhận ra là cậu đang phiên dịch một lúc hai thứ tiếng khác nhau. Cậu thuật lại cả câu chuyện liền mạch cho mọi người.
Bà lão sống ở một ngôi nhà phía cuối ngôi làng. Ba ngày trước, khi bà đang nhặt củi ở sau nhà, thì năm người đàn ông cưỡi ngựa đi tới. Chúng còn dẫn theo một con ngựa nữa, một con quái vật đen sì thở ra lửa, những bước chạy của nó làm cho mặt đất rung lên. “Bốn tên lạ mặt có nước da màu xanh,” bà nói. “Tứ chỉ của chúng dài loằng ngoằng và không có khớp. Không có đầu gối, không có cổ tay, cũng không có cùi chỏ. Chúng ăn mặc cầu kì, áo choàng màu xanh lá cây có những đường viền bằng lông thú, nhưng mặt của chúng, mặt của chúng...” Bà Gruner dừng lại và dụi mắt. Hành động như thể bà đang cố xua đi ký ức. Bỗng nhiên, bà buông hai tay xuống và nói: “Mặt của chúng thật là kỳ quái.”
Người thứ năm thì không cao hơn Timoken là bao. Cậu ta có mái tóc màu nâu vàng và đôi mắt màu ô-liu. Bà Gruner biết rõ điều này, vì cậu ta dừng lại nói chuyện với bà. Thằng bé hỏi bà có nhìn thấy một cậu bé người Châu Phi, cưỡi một con lạc đà không. Bà cười vào lời nói của cậu và nói rằng, bà chỉ vừa nghe thấy điều kỳ lạ như thế và cũng chưa bao giờ nhìn thấy và bà cũng không muốn thấy. Giọng cười của bà làm nó bực mình, không một lời cảnh báo, nó vung roi đánh mạnh vào tay bà. Bà thét lên vì đau đớn, đánh rơi cả bó củi. Thằng nhỏ kia cười. Nó cúi người xuống và lạnh lùng nói: “Bà già, đây không phải là một trò đùa.” Nói rồi, nó quay ngụa lại, dẫn đoàn người đi vào làng.
“Và bây giờ thì tôi đã nhìn thấy người mà tôi không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ gặp,” bà Gruner thì thào nói. “Một con lạc đà đang ở trong chuồng và một người Châu Phi đội vương miện.”
Timoken ngượng ngùng gãi đầu. Cậu quên không đội mũ. “Thế họ đã chết như thế nào, bà Gruner, tất cả dân làng ấy?”
Bà uống thêm một ngụm nước nữa và nói: “Khi tôi trở về làng, tôi trông thấy Monsieur Clement đang nói chuyện với những người lạ mặt. Cậu bé đó đang la lối, người hàng xóm của tôi nói rằng họ đang tranh cãi. Những tên phù thủy đi theo cậu ta nói rằng, thằng bé người Châu Phi cưỡi con lạc đà đang trên đường đến ngôi làng này.” Bà chỉ ngón tay xương xẩu vào Timoken: “Chính là cháu!”
Timoken cau mày. Không nghi ngờ gì nữa, bà ấy hoàn toàn đúng. Cậu xoay chiếc nhẫn, nhớ lại lời thần rừng nói. Một tên trong bọn viridee đã biến thành người. Timoken biết rõ kẻ đó muốn gì: áo choàng mặt trăng. Chúng có thể giết người để có được nó. “Mình mong rằng mình không phải là nguyên do khiến mọi người phải chết,” Timoken nói thật nhỏ, chỉ có cô gái ngồi bên cạnh cậu nghe thấy.
“Monsieur Clement là một người đàn ông dũng cảm.” Những giọt nước mắt lăn xuống gò má đầy nếp nhăn của bà lão. “Người hàng xóm của tôi nói rằng, cậu bé kia ra lệnh phải bắt nhốt thằng bé người Châu Phi, Monsieur Clement đã từ chối. Ông ấy là một người cương nghị. Tất cả những du khách đều được chào đón tại ngôi làng này, ông nói, chỉ trừ khi, đó là những người có tâm địa xấu xa. Trách nhiệm của ông là tiếp đãi họ, chứ không phải làm hại họ. Rồi ông nhìn về phía dân làng và hòi: “Tôi nói có đúng không, các bạn của tôi?” Và mọi người đều đồng ý, rầm rộ hưởng ứng, và thế là thằng bé đó nguyền rủa ông. Khi bọn chúng rời đi, ta nghe rõ, hắn đe dọa rằng chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn khi chống lại lệnh của chúng.”
“Và họ đã trở lại à?” Timoken nói.
Bà Gruner gật đầu. Hai tay bà nắm chặt váy áo, bà bắt đầu thì thầm những từ không rõ nghĩa. Timoken nắm lấy tay bà. Cậu chỉ muốn an ủi bà lão, nhung khi tay cậu chạm vào làn da thô ráp, nhìn vào đôi mắt xám nhạt nhòa của bà lão, cậu bắt đầu nhìn thấy những gì bà đã chứng kiến cách đây ba hôm. Trời tối đen, một ánh đèn phát ra trước nhà của Monsieur Clement. Thằng bé đó đứng bên cạnh cái bơm nước. Nó bỏ một hòn đá vào máng nước, hòn đá phát ra ánh sáng làm mặt nước tỏa sáng một cách kỳ quái. Thằng bé bắt đầu nói. Ngôn ngữ của nó thật cay nghiệt và độc ác, giọng nói của nó quá trầm so với giọng của một đứa trẻ. Một câu thần chú Timoken nghĩ. Trước khi bỏ đi, nó nhún tay vào máng nước, chỉ trong giây lát, máng nước sôi lên sùng sục. Thằng nhỏ cười, rồi bỏ đi.
Timoken nghe thấy giọng nói của Beri, rất gần: “Làm sao cậu có thể hiểu được những lời nói cách quãng như thế?” Timoken chợt nhận ra rằng, cậu không phải đang thuật lại lời nói của bà Gruner, cậu đang diễn tả lại những gì mình thấy đang hiện ra trong đầu bà.
“Tôi thấy những gì bà ấy thấy,” cậu nói và thấy Beri chợt thoáng rùng mình khi nghe điều đó.
Bà Gruner lại tiếp tục nói, một lần nữa, những điều đang diễn ra trong ký ức của bà lướt qua mắt Timoken.
Buổi sáng sau đêm thằng bé kia bỏ hòn đá vào cái giêng. Mặt trời vẫn chưa mọc, nên chưa ai đến gần đó. Nhưng bà Gruner thì đã thức dậy, bà nghe thấy tiếng ngựa phi lóc cóc trên con đường sỏi. Hai người thầy tu cưỡi ngựa đi vào làng. Họ xuống ngựa và nhìn xung quanh. Nhìn thấy cái chuồng, họ rón rén tiến lại gần. Hành động của họ thật lén lút, gương mặt họ rất khả nghi. Không nghi ngờ gì nữa rồi, bọn trộm ngựa đây mà. Trước khi bà Gruner kịp la lên, thằng bé phù thuỷ đó xuất hiện, bà sợ hãi đến nỗi không dám lên tiếng.
Thằng bé bắt chuyện với những tên thầy tu và họ trả lời. Bà Gruner ở quá xa để nghe thấy cuộc nói chuyện của chúng, nhưng Timoken có thể hiểu được câu chuyện khi nhìn miệng của những tên kia. Bọn thầy tu đang tìm kiếm một con ngựa để kéo xe. Thằng bé đề nghị cho hai tên thầy tu một con ngựa khóe hơn bất kỳ con ngựa nào trên thế giới. Nhưng với một điều kiện. Bọn thầy tu phải bắt một thằng bé người Châu Phi cưỡi con lạc đà cho nó.
“Và rồi sao nữa?” một trong hai tên thầy tu hỏi. “Trong ba ngày nữa, chúng tôi phải vận chuyển một số hàng hóa cho một thương nhân ở thành phố Thánh Fleur.”
Thằng bé nhún vai: “Thì ngươi cứ làm việc của mình. Và rồi, dẫn thằng bé người Châu Phi đó về cho ta. Con ngựa sẽ tự tìm thấy ta, dù ta có ở bất cứ đâu. Nó là một con quái vật do ta tạo ra.”
Tên thầy tu nhíu mày, tỏ vẻ như không tin lời của thằng bé đó. Nó biến đi một lúc, rồi dắt về một con ngựa lớn màu đen. Những tên thầy tu có vẻ hoài nghi. Trước khi trao dây cương cho tên thầy tu, cậu bé nói chuyện với con ngựa, vừa nói vừa đánh vào mũi nó. Nó đưa dây cương cho tên thầy tu và căn dặn chúng không được uống nước từ cái bơm. Thằng bé nhìn thẳng về hướng cửa sổ nhà bà Gruner khi nói câu ấy. Từ đôi mắt xanh của nó phát ra tia nhìn lạnh băng. Cái nhìn chạm vào mặt bà Gruner đau đến nỗi bà phải lấy tay che mặt lại. Bà ngã quỵ xuống đất và chìm vào giấc ngủ sâu. Khi bà tỉnh dậy, những người trong làng đều đang hấp hối hoặc đã chết.
Bà Gruner gục đầu xuống. Mắt bà nhắm lại, bà đang ngủ.
Timoken buông tay bà lão ra. Cậu lấy tay đấm đấm phía sau cổ rồi vươn vai. Cậu cảm thấy thật mệt mỏi, cậu muốn nằm xuống cạnh bà lão và ngủ. “Các cậu đã nghe hết chưa?” cậu hỏi những đứa trẻ.
“Bọn mình nghe cả rồi,” Edern nói. “Đúng như chúng ta nghĩ, con ngựa đen đó là của chúng. Nhưng tại sao bọn phù thuỷ đó lại muốn bắt cậu, Timoken?”
“Chúng không phải muốn tôi.” Timoken nâng tấm tơ nhện mặt trăng lên từ tấm nệm Isabelle làm rơi nó. “Đây mới là thứ chúng cần và có lẽ còn một thứ nữa mà tôi đã đánh mất rồi.”
Cả bọn chờ Timoken tiếp tục kể thêm nữa, cậu ngập ngừng một chút, rồi kể tiếp về lọ Alixir đã bị mất ở dòng sông. Câu kể cho chúng nghe về vương quốc bí ẩn và về cái chết của cha mẹ cậu. Cậu kể cho chúng nghe về bọn viridee, và cuối cùng là về chị gái cậu - Zobayda. Khi cậu kể hết câu chuyện, âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng ngáy của bà lão, bà vẫn đang chìm sâu trong giấc ngủ.
Cánh tay của Timoken lại đau. Và một lần nữa, tim cậu cũng đau nhói lên. “Có lẽ chúng ta nên đi ngủ thôi,” cậu nói. “Ngày mai, chúng ta sẽ quyết định xem mình nên làm gì.”
Cậu có thể cảm nhận ánh mắt của mọi người đang đổ dồn về phía mình, nhung vẫn không một ai lên tiếng. Mọi người thể nói gì khi nghe một câu chuyện như thế? Mình đã kể hết tất cả sự thật, hiện tại, Timoken nghĩ, hay gần như tất cả. Trong hơn hai trăm năm qua, cậu luôn giữ kín câu chuyện này trong lòng, nhưng giờ đây, khi kể hết tất cả cho những đứa trẻ mà cậu tin tưởng, cậu cảm thấy thật nhẹ nhõm và thật hạnh phúc khi được chia sẻ nỗi lòng của mình. Bí mật duy nhất mà cậu giữ lại là tuổi của cậu, của cậu và của Gabar.
Bọn trẻ bắt đầu chuẩn bị chỗ ngủ. Chúng đã quyết định là sẽ ngủ chung trong một phòng. Như thế sẽ an toàn hơn. Những con ngựa cột trong rừng được dắt về chuồng gần ngôi nhà. Có rất nhiều cỏ khô ở đó, đủ cho cả sáu con ngựa và có thừa cho bọn trẻ làm gối. Timoken giăng tấm tơ nhện ở trước cửa, để đề phòng bọn bắt cóc có thể quay trở lại. Chúng thổi tắt những cây đèn cầy, rồi lần lượt từng đứa một cuộn tròn trên nền đất và ngủ thiếp đi. Một lần nữa, căn phòng chỉ còn lại tiếng ngáy của bà Gruner.
Timoken chỉ ngủ được một vài phút, cậu tỉnh dậy. Cậu quên mất một điều gì đó.
Cẩn thận đi ngang qua những đứa trẻ đang ngủ, cậu mở cửa, rồi rón rén bước ra ngoài.
Gabar đang nằm trong chuồng, nhưng nó vẫn chưa ngủ. Timoken tháo chiếc yên, cùng với những túi hành lý nặng ra khỏi lưng nó. Cậu tim trái cây khô ở một trong những cái túi rồi để trước mặt con lạc đà.
Gabar lên tiếng tán thành hành động đó và ăn chỗ trái cây khô.
“Chúng ta đã đi một quãng đường dài, ngươi và ta” Timoken nói, nép mình vào con lạc đà. “Sắp tới, chúng ta sẽ cùng nhau lớn lên.”
Gabar không nói gì, nhưng khi Timoken đứng dậy, định trở về phòng, nó nói: “Gia đình à, ở lại với tôi nhé.”
Timoken nghĩ đến chiếc áo choàng mặt trăng còn đang để ở trong phòng. Nhưng có vấn đề gì chứ? Nó sẽ bảo vệ những đứa trẻ. Cậu nằm xuống đống rơm, tựa đầu vào bộ lông ấm áp của con lạc đà, chìm vào giấc ngủ.
Khi Timoken trở về phòng vào sáng hôm sau, lúc đó bọn trẻ đang tranh cãi về một vấn đề gì đó. Chuyện gì đang xảy ra với bà Gruner? Câu hỏi đó làm mọi người lo lắng. Bà lão vẫn còn đang ngủ, nên chúng không muốn làm bà hoảng sợ khi đánh thức bà dậy.
Cuối cùng thì sự ổn ào của chúng cũng làm bà tỉnh giấc. Lúc đầu, bà nhíu mày cau có với bọn chúng, nhưng rồi bà nhớ đến những gì đang xảy ra và bắt đầu đi tới đi lui, miệng lầm bầm điều gì.
“Thưa bà, chúng cháu có thể giúp gì cho bà?” Timoken hỏi.
Bà lão ngừng di chuyển. Nhăn mặt nhìn Timoken, bà bảo với cậu rằng, bà không muốn ở lại ngôi làng chết chóc này. Bà sẽ đi đến nhà một người em họ, chỉ cách đây một ngày đi đường. Nhưng bà không thể tự mình đi được. Mặc dù những con ngựa trong làng vẫn không bị trúng độc, nhưng bà không thể cưỡi ngựa được. Tay bà đã quá yếu để giữ dây cương và bà cũng không thể ngồi thẳng được.
“Chúng cháu sẽ đưa bà đi,” Timoken nói.
Martin, một cậu bé người Pháp nói, cậu có thể ngồi cùng ngựa với bà Gruner. Cậu hứa rằng cậu sẽ giữ bà thật chặt và cho ngựa chạy thật chậm, nhất định không để bà ngã xuống.
Việc đưa một bà lão lên yên ngựa cũng không phải là một việc dễ dàng. Chân bà vướng víu vì cái váy quá dài, bà lão quấn chặt dây cương vào tay mình, bà la hét ầm ĩ khi Martin cố ngồi lên cùng bà. Nhưng khi nhận ra đó là cách duy nhất để bà đến được nhà của người họ hàng, bà bình tĩnh trở lại, bắt đầu chỉ đường và cho phép Martin đưa ngựa rời khỏi ngôi làng.
Họ tìm được thêm sáu con ngựa nữa, nên mỗi người đều cưỡi một con. Những đứa bé gái có vẻ rất hài lòng về điều này. Chúng trông khác hẳn. Bọn con gái tìm thấy quần áo trong những căn nhà bỏ hoang và hóa trang thành con trai. Chúng cột tóc lại và giấu nó vào trong chiếc mũ ở sau lưng áo; thay những bộ váy áo dài bằng tất len, thế là chân chúng được tự do, những cô gái không phải ngồi một bên khi cưỡi ngựa nữa, điều mà chúng rất ghét và thấy không thoải mái.
Cả nhóm đến một ngôi làng nhỏ, một nửa ngôi làng bị che bởi rừng cây. Henri nhìn bao quát xung quanh và nhìn kỹ những cái cây cổ thụ. Cậu nắm lấy yên ngựa, nhìn những cây thông cây sừng sững, miệng cậu há hốc vì ngạc nhiên, cậu tin chắc rằng mình nhận ra nơi này, chỗ này không cách nhà cậu là bao.
Sự việc này làm cho bọn trẻ người Pháp reo vui, mừng rỡ. Đột nhiên, con đường trở về nhà của chúng trở nên ngắn hơn, cảm giác sắp được gặp lại cha mẹ mà chúng mong nhớ bấy lâu nay đã làm chúng lâng lâng sung sướng.
“Suỵt!” bà Gruner ra lệnh. “Các cháu sẽ làm dân làng sợ hãi mất, họ sẽ chốt hết tất cả các cửa lại.”
Thế là, họ đi vào làng trong im lặng, cho tới khi bà Gruner trông thấy em họ mình nhìn ra cửa sổ. Bà òa khóc vui mừng, nửa trượt, nửa nhào xuống ngựa và bà té ngửa xuống đất, trong khi đó người em họ trẻ hơn bà rất nhiều, chạy đến và ôm lấy bà trong vòng tay.
Tiếp theo đó là cuộc đối thoại lắp bắp và khó hiểu của hai người, ngay cả những đứa trẻ người Pháp cũng không hiểu được những gì hai người nói với nhau.
Những người khác cũng từ từ xuất hiện từ những ngôi nhà. Tất cả đều nhìn con lạc đà bằng đôi mắt hiếu kỳ. Chưa một ai trong số họ nhìn thấy con vật như thế này. Nhưng sau đó, họ từ từ tiến đến giúp bọn trẻ xuống ngựa, bọn trẻ xuống ngựa, cười thật tươi với những người dân làng, họ cũng đang mỉm cười thân thiện với bọn trẻ.
Em họ của bà Gruner - bà Magnier - mời tất cả những đứa trẻ vào nhà, những con ngựa thì được dắt đi cho ăn và uống nước. Gabar thì ngược lại, nó vẫn đứng cách xa mọi người.
“Coi nào, Gabar,” Timoken nhẹ nhàng nói. “Ngươi phải để ta xuống chứ, ta không có ý định bay xuống đâu.”
Cậu nghe một người phụ nữ nói: “Cậu bé người Châu Phi chỉ nói được tiếng lạc đà thôi.”
“Ngược lại, thưa bà,” Timoken nói. “Tôi có thể nói rất nhiều ngôn ngữ. Tôi chỉ đơn thuần là đang chỉ dẫn con lạc đà của mình thôi.”
Người phụ nữ tỏ vẻ ngạc nhiên. Khi Gabar quỳ xuống, bà liền nhìn thấy chiếc vương miện trên đầu cậu. “Xin tha thứ cho tôi,” bà đò mặt. “Tôi thật là ngốc nghếch.”
Timoken cười: “Chuyện này cũng thường gặp thôi, thưa bà.”
Cả làng nhanh chóng được nghe câu chuyện về thằng bé phù thủy ác độc và về chất độc chết người. Khi họ nghe rằng, tất cả những đứa trẻ, chỉ trừ Timoken, đã bị bắt cóc, họ ôm lấy con mình, tự nhủ rằng sẽ không bao giờ rời mắt khỏi chúng.
Tối hôm đó, dân làng chiêu đãi những người khách một bữa tối thật thịnh soạn ở noi hội họp của làng. Trong bữa ăn, ai cũng tò mò muốn nghe những câu chuyện về chuyên phiêu lưu của họ.
Những câu chuyện của bọn trẻ đều được chăm chú lắng nghe. Mọi người ai cũng tỏ ra thương cảm cho bọn trẻ và khinh bỉ bọn bắt cóc tàn ác. Một số bà mẹ thỉnh thoảng đứng dậy và cho thêm thức ăn vào đĩa của những đứa trẻ.
Chồng của bà Magnier là một người lính, nhưng sau khi bị thương trong một trận chiến, ông không thể ra trận được nữa. Chân ông đi khập khiễng, nhưng ông chắc rằng tay mình vẫn còn rất khỏe, ông nói với những đứa trẻ người Pháp rằng, ông sẽ bảo vệ chúng trên đường đi đến lâu đài nơi Henri ở.
“Cha của tớ sẽ đưa từng người trong các cậu về nhà. Tớ hứa đấy.” Henri mỉm cười với những đứa trẻ người Pháp đang vỗ tay và reo hò vui mừng.
Monsieur Magnier nghiêng người qua bàn của Edern và hỏi rằng cậu muốn đi đến đâu. Edern nhún vai, trông cậu có vẻ bối rối.
“Ông ấy đang hỏi cậu muốn đi về đâu,” Timoken nói.
“Tớ muốn đi với cậu,” Edern liền trả lời. Cậu hỏi những đứa trẻ người Anh khác.
“Chúng ta sẽ cùng ở bên nhau,” Peredur nói. “Tớ cũng muốn đi với cậu.”
“Thế còn cô bé kia, cô bé không phải người Pháp?” bà Magnier hỏi.
“Cậu muốn đi đâu?” Timoken hỏi Beri.
“Về nhà,” cô buồn bã nói.
“Tất nhiên rồi,” bà Magnier vẫn không biết nhà cô bé ở đâu, bà chỉ mỉm cười.
“Còn cậu thì sao, cậu bé Châu Phi?” một người phụ nữ khác hòi. “Cậu muốn đi đâu, cậu và con lạc đà của cậu?”
Timoken ngập ngừng trong một lúc, cậu không thể trả lời. Cậu không hề có ý định gì về đích đến tiếp theo. Cậu không có nhà, cậu thấy mình như một ngọn cỏ, cứ mặc cho gió thổi đi, không có phương hướng nhất định. Ngón tay đeo nhẫn của cậu lại đau, cơn đau bắt đầu lan ra khắp người. Gần như không hề suy nghĩ, Timoken bất chợt nói: “Tôi sẽ đi đến Castile.”
“Castile?” những tiếng thì thầm bắt đầu vang lên trong bàn tiệc. Nhiều không người biết nơi đó là đâu.
Ông Magnier đã từng nghe thấy cái tên đó. “Cậu sẽ không thể đến được nơi đó đâu,” ông nói và lắc đầu. “Nó rất xa, về phía Tây Ban Nha.”
“Không xa lắm đâu,” Timoken nói. Cậu liếc nhìn Beri, cô đang mỉm cười với cậu.
Tại sao cậu lại nói ra cái tên đó nhỉ? Castile. Nơi đó là ở đâu? Cậu chỉ biết là Beri đến từ nơi đó và nó có vẻ như có một mối liên kết nào đó với cậu. Cậu nhìn xuống chiếc nhẫn, xoay tròn nó quanh ngón tay và nghĩ ngợi.
“Cô ấy đang ở đó,” giọng nói thì thầm vang lên.
“Cô ấy?” Timoken giật mình.
Bình luận truyện