Bạch Hổ Tinh Quân
Chương 13: Ngân Diện tầm mỹ nữ Huyết Mai đáo Tử Kỳ
Ngay từ trưa ngày mười ba tháng hai, thành Đăng Phong náo nhiệt bởi sự hiện diện của gần ngàn hào kiệt võ lâm. Và ngày mai chắc chắn nơi đây sẽ còn nhộn nhịp hơn gấp bội. Cái tin Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng thất tung sau trận Độc Nha sơn, không hề làm giảm lượng người đến xem cuộc phó ước sinh tử vào sáng ngày rằm. Trước tiên là vì giới gian hồ không tin rằng Hàn Thiếu Lăng đã gặp tai họa. Bằng cớ là dưới vực thẳm không hề có xác họ Hàn. Biết đâu, chàng chỉ ẩn náu nơi nào đó rèn luyện võ công.
Thứ đến có tin rằng lục phái Bạch đạo sẽ có mặt những cao thủ thượng thừa. Vạn nhất họ Hàn không xuất hiện thì sáu người ấy sẽ thượng đài, tranh tài với Nhạc Cuồng Loạn, không chờ đến tiết Trùng Cửu nữa. Bởi vậy, chẳng một khách võ lâm nào dám bỏ qua thịnh hội trăm năm có một này.
Trong số những người lo xa đến sớm ấy, có một toán kỵ sĩ đông độ mười ba người, phong thái hiên ngang, sang cả, chẳng hề giống bọn hào khách giang hồ.
Đi đầu là một gã mặc trường bào, tay hẹp bằng xám tro, may bằng lụa Hàng Châu, chân mang ủng da hươu. Tấm kim bài vàng óng đeo trước ngực và chiếc mặt nạ bạc tinh xảo, che kính từ chân tóc đến chốt mũi chính là chiêu bài của Ngân Diện Hầu gia đất Trịnh Châu. Dựa vào phần da cổ và nửa mặt dưới, người ta có thể đoán đây là tiểu Hầu gia Tiêu Mẫn Hiên chứ không phải cha của gã.
Vả lại, Tiêu Lạp Dân có bộ râu ba chòm dài thượt, còn gã này chỉ để ria mép dù hai má xanh đen những chân râu mới cạo. Thật ra trước đây Mẫn Hiên, tức Tử Khuê mang tướng vô tu, mặt nhẵn nhụi, không một cọng râu, kể cả lông ngực, lông chân cũng trụi lủi. Nhưng Hà thủ ô lại là thứ rất tốt cho râu tóc.
Nhất là khi thứ rễ cây quý báu ấy già đến ngàn tuổi thì có thể làm người hói mọc tóc xanh um. Thế nên, giờ đây chàng trở thành kẻ đa mao, râu quai nón bù xù, chẳng cần phải bôi thuốc cũng giống Cầu Nhiêm đại hiệp. Lúc này dẫu người thân chàng có nhận ra những nét quen thuộc ở nửa dưới khuôn mặt kia, thì cũng sẽ phân vân bởi số râu lạ lẫm kia.
Hôm nay, tháp tùng Ngân Diện Hầu gia là mười hai kiếm thủ áo gấm đen, gồm anh em họ Từ và mười gã sát thủ mang tội hèn nhát, không hoàn thành nhiệm vụ.
Khi tuyển lựa cận vệ đi theo mình đến Đăng Phong, Tử Khuê chọn ngay trong số những kẻ phạm quy. Liều mạng một cách vô ích vì một mục đích vật chất thì không phải là dũng sĩ. Qua sự giới thiệu của anh em họ Từ, chàng đã thu nạp mười người khá nhất, chín nam, một nữ.
Cũng như Từ Phong, Từ Vũ, mười tay kiếm ấy thuộc đội quân cốt cán, tinh nhuệ, mang tên Thần Phong hội, nhân số gần hai trăm người.
Thần Phong hội trực thuộc Tổng hội, trú quân tại Hầu phủ. Thường ngày họ đóng vai gia đinh, khi có lệnh thì xuống phối hợp với phân hội địa phương hành động.
Niên kỷ của đám Thần Phong thuở ấy ở vào khoảng chừng ba chục đến bốn mươi, độ tuổi cường tráng, sung mãng, và đầy kinh nghiệm. Bản lãnh của họ rất điêu luyện nhờ nhiều năm rèn luyện Tiêu gia kiếm pháp, tức “Lôi Đình kiếm pháp”. Ngoài ra họ còn có tài phóng “Liễu Diệp Phi Dao”, trăm phát không sai.
Tóm lại mười hai thủ hạ của Tử Khuê đều là những hung thần thứ dữ.
Chính vì thế mà Tổng quản Du Vinh mới yên tâm để vị Hội chủ trẻ tuổi đi ngao du thiên hạ.
Bệnh tình của Tiêu Lạp Dân và ái nữ Dị An không hề biến chuyển. Ngoại đường chủ Tuân Khách đành phải đưa họ về Lôi Đình thần cung. Nhị phu nhân Từ Lan đi theo để chăm sóc. Bà thật lòng yêu thương ông chồng già của mình. Nhờ vậy mà Tử Khuê mới có cơ hội thoát ly Hầu phủ.
Chàng không về ngay Hứa Xương mà đoán rằng gia quyến của mình sẽ đến Tung Sơn, đúng ngày chàng ước hẹn với Nhạc Cuồng Loạn.
Đoàn người dừng chân trước Hưng Thái đại lữ điếm, được Hoàng chưởng quỹ đích thân ra nghênh tiếp. Chẳng phải lão đang ế phòng mà chẳng qua Hoàng Hộ chính là thủ hạ Hoạch Đầu hội. Mấy ngày trước, họ Hoàng đã nhận được lệnh của Tổng hội, để dành nguyên tầng trên lữ điếm cho Hội chủ và tùy tùng.
Suốt hơn tháng qua, Tử Khuê đã vùi đầu vào đống sổ sách trong thư phòng của Tiêu Lạp Dân. Và chàng đã kinh ngạc trước sự đông đảo hùng mạnh của Hoạch Đầu hội. Tổ chức này sở hữu đến trăm khách sạn, tửu quán, trà lâu, hiện diện ở những địa phương sầm uất, phồn vinh nhất nước.
Không phải tất cả những cơ sở kinh doanh ấy đều có lãi, song chúng chính là nơi Hoạch Đầu hội tìm được hợp đồng giết mướn. Trong những câu chuyện trà dư tửu hậu, bọn tiểu nhị sẽ chắt lọc được những thông tin hữu ích về một mối hiềm khích hay cạnh tranh của một gã rủng rỉnh bạc tiền.
Sau nhiều ngày điều nghiên kỹ càng, phân hội địa phương ấy sẽ phái một sứ giả đến gợi ý giúp đỡ. Các sứ giả này thường đóng vai thầy bói dạo, một nghề thuận lợi để tiếp xúc với mọi giới. Chính họ cũng có nhiệm vụ moi móc thông tin bằng những câu quẻ đoán khôn khéo, tinh vi.
Ở mỗi phân hội địa phương cũng có vài ba sát thủ đủ sức thực hiện ngay những phi vụ nhỏ, dễ ăn. Chỉ riêng phân Hội chủ và đám sát thủ này biết Hội chủ là ai và sào huyệt Tổng hội ở chốn nào. Tất nhiên, họ đều đã bị Tiêu Lạp Dân đầu độc.
Tử Khuê còn đọc được một tài liệu cực mật, ghi rõ những hợp đồng giết thuê đã được thực hiện từ hồi Hoạch Đầu hội bắt đầu khai sinh. Trong đó có vụ thảm sát toàn gia Tri huyện Ngọc Điền, tỉnh Hà Bắc, tức gia đình Dịch Tái Vân. Té ra, lớp sát thủ đầu tiên của Hoạch Đầu hội đều là người của Lôi Đình thần cung. Khi đào tạo xong lớp sát thủ thứ hai là bọn Thần Phong hội hiện nay. Thủ hạ của Trác Ngạn Chi đã về lại Thần cung, chỉ còn lại hai gã Du Vinh và Tuân Khánh.
Một bí mật khác cũng đã làm Tử Khuê phải giật mình. Đó là việc Lôi Đình Đế Quân được hưởng ba phần mười lợi tức từ việc kinh doanh của Hoạch Đầu hội.
Tất cả những dữ kiện ấy đã chứng tỏ dã tâm của Lôi Đình thần cung. Tử Khuê bỗng lo sợ rằng một kẻ tham lam, tàn ác như Trác Ngạn Chi sẽ không chịu dừng ở mức độ ấy. Có lẽ chính lão cũng bị rợ Mông mua chuộc nên mới biết việc Bắc Thiên Tôn gả con cho Vương tử Mông Cổ.
Chúng ta hãy tạm quên nội tình phức tạp ấy, cùng Tử Khuê trở lại thành Đăng Phong.
Sau khi tắm gội ăn uống xong, Tử Khuê dẫn bọn cận vệ đi dạo. Chàng đang đóng vai một kẻ chưa từng ngao du chốn lạ nên giờ có quyền dạo khắp thành, mặc cho mười hai gã Thần Phong ngán ngẩm vì nhàm chán.
Từ Phong, Từ Vũ đi hai bên tả hữu Hội chủ, mười gã còn lại chỉnh tề theo sau. Phong thái quyền quý và chiếc mặt nạ sáng loáng trên mặt Tử Khuê đã khiến khách bộ hành trên phố xì xầm bàn tán. Họ tự hỏi cái gã tiểu Hầu gia nhà họ Tiêu, đất ở Trịnh Châu, đến đây diễu võ vương oai làm gì? Bao năm qua chắc chắn Ngân Diện kiếm khách đâu đủ tài chường mặt ra chốn giang hồ?
Tử Khuê sử dụng ngân diện là để dấu mặt chứ không phải thích cảnh xênh xang áo mão. Năm năm trước, khi vừa đúng tuổi nhược quan, Tiêu Mẫn Hiên đã được tập tước Hầu, được ban kim bài ghi rõ họ tên. Lúc ấy, gã đang bị giam nơi Từ Thạch ốc nên Tiêu Lạp Dân đã thay con tiếp nhận. Giờ đây, Tử Khuê có thể đường hoàng thủ vai Ngân Diện Hầu đời thứ năm.
Và lúc này, Tử Khuê cũng không hề có ý định dạo chơi mà là tìm người thân của mình đã đến chưa. Kiếm người tất mắt phải láo liên, soi mói những chốn đông đúc như trà lâu, phạn điếm, khách sạn. Biết không thể dấu diếm những kẻ lão luyện như mười hai gã Thần Phong kiếm thủ này, Tử Khuê liền vui vẻ nói trớ đi:
- Này các huynh đệ. Đêm qua ta trằn trọc không yên, sực nhớ ra mình chưa có vợ. Đến gần sáng ta thiếp đi và nằm mộng, thấy một lão già tóc bạc phơ, tự xưng là Nguyệt Lão. Ông bảo mạng ta có nhiều vợ đẹp và một trong số ấy đang hiện diện ở đất Đăng Phong này. Hay là các ngươi giúp ta quan sát, tìm kiếm thử xem sao?
Cả bọn bật cười, vòng tay nhận lệnh. Họ cũng là nam nhân nên từng trải qua những đêm thao thức thì thiếu đàn bà. Họ thật mong chàng trai điên tàng, dễ mến, nhân hậu này tìm được giai nhân. Thế nên mười hai cặp mắt sắc bén ấy đảo lộn không ngừng, bao quát tất cả những mục tiêu là phái yếu.
Trong lúc ấy, Tử Khuê lại vì câu chuyện Nguyệt Lão mà nhung nhớ Trác Thanh Chân. Chàng tự hỏi nàng ta đã gặp những khó khăn gì khi về đến Quách gia trang. Thái độ của Kỹ nương và hai ả họ Trình, họ Dịch sẽ ra sao? Tử Khuê hơi yên lòng khi nghĩ đến hậu thuẫn hùng mạnh là phụ thân mình.
Quách lão luôn mong muốn chàng có thêm vợ đẹp.
Sau gần canh giờ lang thang đến gãy giò, bọn Tử Khuê đến công viên Nam Hải ở gần cửa Tây thành. Hoa viên công cộng này mang tên như thế vì ở giữa có bức tượng Nam Hải Quan Âm bằng đá trắng, cao bằng người thật.
Cha chung không ai chăm sóc nên bồn hoa đều điêu tàn, xơ xác, chẳng có đến một bông chào đón mùa Xuân. Nhưng lũ tùng bách thì vẫn xanh um, vươn cành che mát cho đám người bạc bẽo, vô ơn.
Công viên Nam Hải rộng đến ba chục mẫu, là điểm xanh lớn nhất của thành Đăng Phong. Thoảng nghe tiếng sân trong hồ như có tiếng thép chạm nhau, tiếng quát tháo lanh lảnh của nữ nhân, Tử Khuê chột dạ rảo bước dẫn thuộc hạ vào xem thử. Chàng cảm nhận được sự quen thuộc từ những âm thanh ấy.
Đến nơi, Tử Khuê bàng hoàng nhận ra Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy và Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam đang bị hơn hai chục kiếm thủ vây hãm, phe địch y phục không giống nhau, không có dấu hiệu đặc biệt nên khó nhận ra lai lịch. Nhưng chắc chắn là võ công của chúng rất khá cả Tống Thụy lẫn Khổng Đam đều đã thọ thương.
Thiết Đảm Hồng Nhan vẫn giữ lối đánh liều mạng như ngày nào, mắt phụng tròn xoe, mày liễu dựng ngược. Nàng múa tít bảo kiếm, lăn xả vào bọn đối phương, mặc cho máu hồng loan đỏ tấm bạch y.
Hồ Đồ Thần Thương cũng tung hẳn cây thương sắt nặng nề, cố phá vỡ vòng vây. Mồ hôi y phục ướt đẫm và tiếng thở hồng hộc chứng tỏ con trâu nước kia sắp kiệt sức.
Tử Khuê chẳng có thời gian để thắc mắc tại sao hai kẻ không hề quen biết ấy lại đồng hành. Chàng cố nặn ra một nụ cười, nói với bọn thủ hạ:
- Ta cho rằng cô ả xinh đẹp, dữ dằn kia xứng đáng là người Nguyệt Lão đã se duyên. Các ngươi mau giết sạch bọn ác ôn, cứu lấy Hội chủ phu nhân.
Đám Thần Phong đều biết rõ lai lịch của Thiết Đảm Hồng Nhan, hiểu rằng Tống Thụy chẳng bao giờ chịu làm vợ tiểu Hầu gia. Nhưng Hội chủ đã ra lệnh thì chúng chẳng thể nói không.
Phía ngoài bộ võ phục đen, bọn sát thủ Hoạch Đầu hội còn khoác thêm một tấm đoạn bào hơi rộng, để che giấu vai cắm đầy “Liễu Diệp Phi Đao”. Mỗi gã mang theo đến ba mươi sáu mũi dao nhỏ, lưỡi mỏng như lá liễu, dài độ gang tay.
Giờ đây, chúng tháo nút áo khoác, để lộ ám khí và lao tới, nhất tề phóng ngay vào lưng kẻ địch. Quả xứng dang đại sát thủ, mười hai mũi dao loại đủ ngần ấy tên. Tiếng rên la bi thiết của đám nạn nhân đã làm những kẻ còn lành lặn phải chùn lòng.
Thuật phóng phi đao mới chính là sở học gia truyền của nhà họ Tiêu.
Tuyệt kỹ này lợi hại ở chỗ hoàn toàn dựa vào uyển lực, chỉ lắc cổ tay là tiểu đao bay ra, không dùng sức của vai và cánh tay như bọn Sơn Đông mãi võ thường biểu diễn. Đặc điểm thứ hai là người phóng phi đao sử dụng tay trái.
Năm xưa, Ngân Diện Hầu đời thứ nhất tức Tiên Phương đã đột tử trước khi dạy xong cho con cái pho kiếm pháp. Lão lại không để lại kiếm phổ nên gia học thất truyền, chỉ còn thuật phóng phi đao. Chính vì thế mà sau này Tiêu Lạp Dân mới đi tầm sư học nghệ, trở thành sư đệ của Lôi Đình Đế Quân. Lão vừa nhập môn được vài năm thì sư phụ Tứ Tượng chân nhân tạ thế, được Trác Ngạn Chi tiếp tục dạy dỗ. Tử Khuê đoán rằng có thể Trác Ngạn Chi giấu bớt nghề nên hai pho kiếm, chưởng mới thiếu sót như thế.
Sau khi thấy Mẫn Hiên, tức Tử Khuê luyện xong phần kiếm chưởng, Lạp Dân đã đích thân dạy chàng thuật phóng phi đao. Tử Khuê đã nhiều năm rèn luyện thủ pháp “Long tu xạ nguyệt” uyển lực cực kỳ mạnh mẽ nên giờ đây học nghề ném ám khí chẳng khó khăn gì. Với căn cơ võ học sáng láng như gương, Tử Khuê chỉ cần hai tháng đã vượt qua bọn Từ Phong. Tuy chàng đã giấu bớt thành tựu mà Lạp Dân còn khen nức nở. và lão chẳng chút nghi ngờ chỉ cho rằng con trai mình từ nhỏ đã có thiên bẩm cực cao, học gì cũng giỏi hơn người.
Việc chàng có đến bốn chục năm nội lực cũng là hợp lý vì mấy năm qua uống toàn thuốc quý, kể cả kỳ trân hiếm có như Hà thủ ô ngàn năm.
Tiêu trang chủ đã tặng cho ái tử một bộ ám khí gia truyền, gồm bày ngọn tiểu đao bằng thép ròng, mũi nhọn hoắc như đầu kim, tên gọi “Thất Hưu đao”.
Hưu ở đây có nghĩa thôi, nghỉ, bỏ... ám chỉ rằng khi phi đao bay ra thì nạn nhân hưu hỉ là cái chắc, thôi không sống nữa.
Pho “Thao Quang thần thức” của Vu Mộc chân nhân có một số nửa đòn nằm ở tay trái nên Tử Khuê hầu như thuận cả hai tay. Khi hữu thủ không bận bịu trường kiếm, chàng có thể ra hai mươi tám ám khí cùng một lúc.
Giờ đây, bộ ám khí “Thất Hưu đao” đang ở trên bụng trái Tử Khuê.
Những chiếc đuôi mạ bạc sáng loáng, chạm trổ văn hoa tinh xảo, đã biến những thứ ám khí ấy thành vật trang sức đẹp mắt, oai vệ.
Trong lúc đồng đội quần thảo, so gươm với phe địch, Từ Phong và Từ Vũ vẫn thản nhiên đứng hộ vệ chủ nhân. Họ chỉ quan tâm đến an toàn của Hội chủ, cũng là cháu ngoại của Từ công lão, người đã cứu mạng, dạy dỗ họ từ tấm bé.
Nhưng Tử Khuê đã nhận ra tình trạng hiểm nghèo của Thiết Đảm Hồng Nhan và Hồ Đồ Thần Thương, vội vã nhập cuộc. chàng lướt đi thì anh em họ Từ cũng bám theo, trường kiếm lăm lăm trong tay.
Ba người đi xuyên qua trận địa, giữa những cặp đối thủ, đến được nơi cần đến. Hai gã đối thủ của Tống Thụy và Khổng Đam cảnh giác, bỏ mục tiêu cũ lao đến tấn công ba cường địch mới xuất hiện.
Từ Phong và Từ Vũ không để Hội chủ phải nhọc sức, lập tức xông lên đón tiếp đối phương. Phần Tử Khuê lướt đến định đỡ lấy tấm thân đẫm máu đang lảo đảo của Tống Thụy. Nàng ta ngượng ngùng lùi bước, không muốn người đàn ông mang mặt nạ kia chạm vào thân thể mình. Nhưng gã ta lại chẳng để ý đến câu “Nam nữ hữu biệt”, cứ sấn tới mà vươn tay điểm huyệt nàng. Tống Thụy chưa kịp sợ hãi thỉ đã mê man.
Bên kia, Khổng Đam chống thương đứng thở hồng hộc rồi từ từ quỵ xuống. Song chẳng còn kẻ địch nào đe dọa gã nữa, phe địch đã kéo nhau đào tẩu vì tự lượng địch không lại bọn kiếm thủ Thần Phong. Tử Khuê cũng đã điểm chỉ huyết và cho sư muội uống linh đan xong. Chàng bốc xốc nàng lên tay, ra lệnh rút nhanh về lữ điếm.
Mờ sáng hôm sau, Thiết Đảm Hồng Nhan tỉnh giấc bởi tiếng oanh ríu rít trên cành. Nàng ta ngỡ ngàng vì thấy mình đang nằm trong một căn phòng sang trọng. Là kẻ quen phiêu bạc, Tống Thụy nhận ra ngay phong cách của một khách điếm đắt tiền.
Sực nhớ lại cảnh ngộ đã qua, Tống Thụy giật mình, ngồi bật dậy. Tấm chăn đơn trên người tuột xuống khiến nàng ngộ thức rằng cơ thể mình không một mảnh xiêm y.
Hình bóng người đàn ông mang mặt nạ hiện ra, mang theo nỗi lo âu, hổ thẹn khôn cùng. Phải chăng chính gã đã băng bó vết thương cho nàng?
Thiết Đảm Hồng Nhan cố bình tâm kiểm tra lại cơ thể, mừng vì tiết hạnh vẫn còn nguyên vẹn. Hơn thế nữa, bảy vết thương trên người nàng đều được băng chặt bằng vải sạch và không chút đớn đau. Xem ra thuốc kim sang của người ân lạ mặt kia quả là thần hiệu.
Song lòng nàng vẫn còn tê tái, ủ ê, dòng lệ tủi hổ tuôn dài trên má khi nghĩ đến Quách Tử Khuê. Dẫu chữ trinh chưa mất nhưng thân xác đã bị nam nhân khác đụng chạm thì nàng còn mặt mũi nào đến với chàng nữa? Nàng chưa kịp oán trách gã ân nhân chết toi kia thì có tiếng chân người ngoài cửa.
Tống Thụy vội nằm xuống, kéo chăn đắp kín đến tận cổ.
Cửa phòng mở ra và một nữ nhân mặc võ phục đen bước vào. Nàng ta độ tuổi tam thập, dáng người khỏe mạnh, song dung mạo nhu mỳ, đầy nữ tính.
Thiết Đảm Hồng Nhan thở phào nhẹ nhõm, lòng khấp khởi mừng rằng chính nữ nhân này đã chăm sóc mình chứ chẳng phải một gã đàn ông có bàn tay nhám nhúa nào cả.
Người phụ nữ ấy bước đến cười rất tươi và nói:
- Nô tỳ được lệnh của Hầu gia đến vấn an ngọc thể của Tống cô nương.
Người hy vọng được diện kiến tôn nhan trong bữa điểm tâm sáng nay.
Tống Thụy có kiến văn rất rộng, nghe nàng ta gọi người mang mặt nạ là Hầu gia thì ngờ ngợ đoán ra lai lịch, liền dò hỏi thêm:
- Dám hỏi đại thư phải chăng ân công chính là Ngân Diện Hầu gia Tiêu Lạp Dân ở đất Trịnh Châu?
Nữ nhân phì cười lắc đầu:
- Bẩm không, gia chủ nhân là nhị công tử Tiêu Mẫn Hiên, Hầu tước đời thứ năm, tuổi mới đôi mươi. Và xin Tống cô nương chớ xưng nô tỳ là đại thư.
Cứ gọi một tiếng Tiểu Tinh là được rồi. À! Nô tỳ cũng cùng họ Tống với cô nương đấy.
Nghe nói đối phương đồng họ với mình, Tống Thụy càng có hảo cảm.
Song nàng đang là khách Hầu gia không tiện tranh tiện tranh cãi thứ bậc nhà người, tạo sự rắc rối xưng hô. Tống Thụy vui vẻ bảo:
- Dẫu danh phận thế nào cũng không quan trọng, lòng Tống Thụy luôn biết ơn người đã chữa trị thương thế cho mình.
Tiểu Tinh che miệng cười khúch khích, ánh mắt đầy vẻ giễu cợt:
- Té ra lúc nãy cô nương đã sợ khiếp vía vì tưởng ngọc thể đã bị nam nhân nào đó sờ mó?
Tống Thụy thẹn đỏ mặt, gật đầu thú nhận:
- Đúng vậy. Khi thấy nàng, ta mới yên tâm.
Tiểu Tinh dường như hài lòng trước thái độ tiết hạnh khả phong của Tống Thụy. Nàng ân cần lấy y phục sạch ở đầu giường, giúp Thiết Đảm Hồng Nhan mặc vào.
Gần khắc sau, Tống Thụy có mặt ở phòng ăn trong tầng chót Hưng Thái đại tửu điếm. Nàng được Tiểu Tinh dẫn đến bàn riêng của Ngân Diện Hầu. Hai bàn kia dành cho đám thủ hạ Hầu phủ, Tiểu Tinh làm xong nhiệm vụ cũng ngồi xuống ngay trong hai bàn ấy.
Cùng lúc Hồ Đồ Thần Thương cũng được một hán tử mặc áo gấm đen đưa ra đến nơi. Tiêu Mẫn Hiên liền đứng dậy, mời hai vị khách an tọa.
Thiết Đảm Hồng Nhan chưa ngồi ngay, nàng ôm quyền vái tạ:
- Ơn cứu mạng của Hầu gia, tiểu nữ suốt đời chẳng dám quên.
Khổng Đam thấy vậy cũng bái lia lịa, hùng hổ nói tràng giang đại hải:
- Khổng mỗ là bậc đại trượng phu đỉnh thiên lập địa, ân oán phân minh.
Nay thọ ân cứu tử của Hầu gia, Khổng mỗ xin làm thân khuyển mã để đáp đền.
Ngân Diện Hầu gia mỉm cười khoa tay:
- Nhị vị chớ bận tâm. Việc tương trợ lẫn nhau là đạo nghĩa chốn giang hồ.
Vả lại, tại hạ nào dám nghĩ đến việc thu nhận một bậc đại hiệp thành danh đây như Khổng huynh đây làm thủ hạ.
Khổng Đam nghe câu tán dương ấy thì vô cùng đắc ý, cười hề hề:
- Cảm tạ Hầu gia đã quá khen. Thật ra, Khổng mỗ chỉ bắt chước bọn kép hát mà nói thế thôi. Ơn kia, ngày sau Đam tôi sẽ tùy cơ mà báo đáp. Khổng mỗ tính khí khác người, hành sự hồ đồ, chỉ ba ngày cũng đủ khiến Hầu gia phải điên đầu.
Nói xong, Khổng Đam ngồi vào bàn của bọn kiếm thủ mà ăn như hổ đói.
Tử Khuê cảm mến cái tính thật thà của gã song không hề có ý thu nạp. Lý do là vì họ Khổng là đệ tử của Nam Thiên Tôn, kẻ địch của chàng. Lẽ nào sau này Khổng Đam có thể vì chàng mà chống lại sư phụ Thứ đến, thân cận với một kẻ quá ngu ngốc là một việc rất nguy hiểm.
Tử Khuê vừa ăn vừa ngắm khuôn mặt xanh xao của Tống Thụy mà rộn ràng niềm thương cảm. Chàng biết nàng yêu thương mình và đã đau khổ rất nhiều trong những tháng qua. Nhớ lại những lần cùng vào sinh ra tử, chàng thức nhận rằng nữ nhân kỳ lạ này chính là người bạn đời tuyệt diệu nhất mà một kiếm khách luôn mong đợi.Ở nàng, chàng tìm được cả tình yêu lẫn tình bạn hữu.
Chờ Tống Thụy nuốt xong chiếc bánh hấp, Tử Khuê điềm đạm hỏi:
- Vì sao Tống cô nương và Khổng Đam lại bị bọn người kia tấn công?
Chúng thuộc bang hội nào vậy?
Tống Thụy buông đũa đáp:
- Chẳng rõ bọn họ là ai mà có ý định bắt sống tiện nữ. May mà Khổng sư huynh sớm ra tay tương trợ nên mới cầm cự được đến lúc Hầu gia xuất hiện.
Tử Khuê vẫn còn thắc mắc:
- Bổn nhân nghe đồn Tống cô nương đã từng đối đầu với Nam - Bắc Thiên Tôn, sao lại được Khổng huynh giúp đỡ?
Tống Thụy mỉm cười:
- Với tính nết ấy thì Khổng Đam nào có phân biệt bạn hay thù. Vả lại, y đã bị Nam Thiên Tôn đuổi cổ rồi.
Tử Khuê lấy làm lạ, quay sang hỏi Khổng Đam:
- Này Khổng huynh! Vì sao các hạ là đệ tử của Nam Thiên Tôn, một trong hai vị Bang chủ mà lại bị Nam Bắc bang khai trừ vậy?
Hồ Đồ Thần Thương buông đũa, nhăm nhó khuôn mặt tròn vo vành vạnh nung núc những thịt cùng mỡ, nói với giọng buồn rầu ấm ức:
- Bẩm Hầu gia! Khổng mỗ làm ơn mắc oán, chỉ trách trời già không có mắt. Hồi cuối năm ngoái, sau trận Độc Nha sơn, gia sư đã lệnh cho Khổng mỗ về Thiên Dương rước nhị sư nương về Lĩnh Sơn. Dọc đường, do thời tiết quá lạnh mà bị tái phát chứng bệnh cũ ngay khi vừa đến thành Vũ Xương. Đêm ấy, thấy nhị sư nương ôm bụng lăn lộn, rên xiết dữ dội, Khổng mỗ sợ quá, định đi mời đại phu nhưng sư nương không cho và bảo rằng chỉ có “Âm Dương Hòa Hợp tâm pháp” của gia sư thì trị được bệnh này. Nay gia sư vắng mặt, bà sẽ hướng dẫn cho Khổng mỗ thực hiện. Đam tôi vốn là người hiếu thảo, nhất nhất tuân lệnh.
Mấy chữ “Âm Dương Hòa Hợp tâm pháp” rất gợi cảm, thầm hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng không lẽ gã họ Khổng này lại ngu ngốc tới mức ấy?
Tiểu Tinh tủm tỉm hỏi cho rõ:
- Này Khổng huynh! Chẳng hay lệnh sư nương niên kỷ bao nhiêu và nội dung tâm pháp kia thế nào?
Khổng Đam ấp úng đáp:
- Như tại hạ đã trình bày, đấy là vợ lẽ của gia sư, tuổi tác mới độ ba mươi hai. Còn “Âm Dương Hòa Hợp tâm pháp” thì... thì... chính là chuyện ấy đó mà.
Vẻ bẽn lẽn, thẹn thùng của gã trai già họ Khổng đã khiến bọn Thần Phong kiếm thủ cười nôn ruột. Từ Vũ vừa tức cười vừa bực bội chửi đổng:
- Con bà nó! Ngươi thông dâm với sư nương mà còn kêu oan cái nỗi gì nữa?
Khổng Đam nhăn mặt biện bạch:
- Xin Từ huynh và anh em chớ hiểu lầm nhân cách của tại hạ. Lúc đầu, sư nương chê miệng Khổng mỗ hôi rượu, ban cho một viên kẹo hoa huế, rồi sai tại hạ xoa bóp thân thể. Lát sau, Khổng mỗ nghe đầu óc chếnh choáng và không biết gì nữa. Khi tỉnh lại mới biết mình bị con mụ người Mông kia cưỡng bức chẳng còn giữ được tiết hạnh. Kể từ đó, đêm nào mụ cũng giày vò tại hạ đến tận sáng.
Cả nhà ôm bụng cười ngặt nghẽo vì cách dùng chữ của Khổng Đam.
Nhưng chính gã thì bật khóc sụt sùi:
- Khổng mỗ đã cắn răng chịu đựng suốt một tháng trời, thế mà về đến Linh Sơn rồi vẫn không thoát. Thỉnh thoảng, nhị sư nương lại lẻn xuống phòng tại hạ. Cuối cùng gia sự cũng phát hiện ra hồi giữa tháng giêng. Nếu không có Phùng sư bá thì Khổng mỗ đã bị gia sư giết chết.
Dẫu cho Khổng Đam chủ động song việc xảy ra quá là khó dung thứ.
Nếu là bậc trượng phu chân chính, gã phải giết ngay người đàn bà dâm đãng kia và thưa thật với sư phụ. Đằng này, họ Khổng lại kéo dài chuỗi ngày tội lỗi thì quả xứng danh hồ đồ. Phải chăng chính gã cũng bị cám dỗ bởi khoái lạc nên không còn dũng khí để cắt đứt?
Tử Khuê không nỡ kết tội gã mà thầm thương kẻ có bẩm sinh đầu óc kém cỏi, ngu muội.
Dù thương tích không sâu, chỉ rách da rách thịt, và được bôi thuốc kim sang thần diệu của Hoạch Đầu hội, hai bệnh nhân vẫn phải tịnh dưỡng, tránh những cử động mạnh để miệng vết thương mau kéo da non. Cho nên, Tống Thụy và Khổng Đam vẫn phải ở lại Hưng Thái đại lữ điếm với người ơn.
Phần Tử Khuê thì ngay sau bữa ăn sáng đã ra ngoài, tiếp tục tìm kiếm người thân. Lần này, chàng chỉ mang theo anh em họ Từ và bốn tay kiếm Thần Phong. Sáu người kia ở lại lữ điếm bảo vệ nạn nhân.
Tin tức về trận chiến ở công viên Nam Hải đã loan khắp thành, nên nhiều ánh mắt trên đường phố đã nhìn Ngân Diện Hầu với vẻ hiếu kỳ và nể sợ.
Hôm qua, có khá nhiều hào khách chứng kiến thủ pháp phóng phi đao và kiếm thuật của bọn cận vệ Tiêu Hầu gia. Thuộc lạ lợi hại thế thì chủ nhân không thể tầm thường. Họ đã tự hỏi rằng phải chăng đã đến lúc hậu duệ của nhà họ Tiêu dương danh thiên hạ.
Nhưng vị Hầu tước trẻ tuổi kia chẳng hề tỏ vẻ hãnh diện, tự hào. Và dường như chàng ta đang tư lự về một vấn đề nghiêm trọng nào đó?
Quả đúng vậy, Tử Khuê đang cố phỏng đoán lai lịch, môn hộ của những kẻ đã tấn công Thiết Đảm Hồng Nhan. Kiếm pháp của họ khác hẳn với những môn phái mà sư phụ chàng đề cập đến. Bản lĩnh của họ không bằng bọn Thần Phong kiếm thủ vì tuổi tác chỉ độ tam thập trở xuống. Nghĩa là, lớp trung niên của bang hội ấy sẽ lợi hại hơn nhiều. Tử Khuê linh cảm rằng canh bạc võ lâm sẽ có thêm một tay chơi sừng sỏ.
Và nếu đúng vậy thì Tử Khuê khó mà bảo vệ được Tống Thụy vì lực lượng quá mỏng manh. Chàng quay lưng hỏi Từ Phong:
- Từ các hạ có phát hiện manh mối gì về lai lịch của bọn địch thủ hôm qua không?
Tử Khuê đã nhập vai Tiêu Mẫn Hiên, vì tôn kính Tiêu nhị phu nhân mà tôn trọng cả những người bạn thơ ấu của bà. Bở vậy, chàng rất lễ độ với anh em họ Từ, dù thân phận của họ chỉ là thủ hạ. Điều này đã làm cho Từ Phong, Từ Vũ rất cảm kích. Những kiếm thủ Thần Phong khác cũng rất hài lòng trước cách xưng hô của tân Hội chủ. Chàng ta đã khiến họ cảm thấy nhân cách mình có giá trị hơn trước. Và họ nhủ lòng rằng sẽ sẵn sàng chết vì người tri kỷ.
Nhắc lại, khi nghe Tử Khuê hỏi, Từ Phong liền đáp:
- Bẩm Hầu gia! Tối qua thuộc hạ cũng suy nghĩ mãi và cùng anh em bàn bạc phán đoán. May thay, Tống Tiểu Tinh hiền muội đã nhớ ra mình từng gặp loại kiếm pháp ấy. Hồi giữa năm ngoái, Tống hiền muội nhận lệnh xuống Tín Dương công cán. Khi sang đến bờ Nam sông Hoài Hà và còn cách cửa Bắc thành Tín Dương hai chục dặm, Tiểu Tinh bỗng nghe trong lối mòn của cánh rừng mé tả kia có tiếng mỹ nhân kêu cứu. Tinh muội động lòng hiệp nghĩa liền rẽ vào và theo dấu vó ngựa mà đuổi theo. Cuối cùng, những dấu vết ấy đã dẫn Tiểu Tinh đến một tòa sơn trang nằm dựa núi Thốc Sơn. Cơ ngơi này rất rộng lớn và kiên cố, tường xây cao đến hai trượng, cổng chính treo chiêu bài Long Vân bảo.
- Tinh muội kiên nhẫn chờ đợi đến tối, trèo tường vào dọ thám. Trước tiên, nàng ta nhìn thấy mấy trăm hán tử võ phục xám đang luyện kiếm. Và đấy chính là thứ kiếm pháp đã tạo ra những kiếm ảnh hình tam giác mà chúng ta đã gặp chiều qua.
- Tiểu Tinh bám vào đỉnh tường, di chuyển vào khu hậu viện thì phát hiện nhà cửa, phòng ốc nhiều vô số, không tài nào tìm ra được chỗ nhốt nạn nhân. Tinh muội tự lượng sức mình, đành bó tay, rời khỏi nơi ấy.
Nghe xong câu chuyện, Tử Khuê bâng khuâng thầm nghĩ:
- Té ra có những người trong bọn sát thủ này vẫn còn giữ được lòng hiệp nghĩa. Ta phải tìm hiểu cặn kẽ rồi tìm cách đưa họ về với chính đạo.
Và ngay sau đó, Tử Khuê chợt đến những lời lẽ mà nghĩa phụ Trung Thiên Tôn. Ông từng chỉ về hướng núi Thốc Sơn, cách La Sơn vài chục dặm, bảo rằng nơi ấy là nơi ẩn cư của một ma đầu cái thế, Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong. Họ Quảng năm nay tuổi gần thất thập, tính tình thâm trầm, kính đáo, cơ trí thông tuệ tuyệt luân, gian hùng đáng mặt anh em với Tào Tháo. Tuy lão đã thoái xuất giang hồ ở tuổi sáu mươi, nhưng Trình Ninh Tĩnh không hề yên tâm. Ông đoán rằng Long Vân Tú Sĩ đã tìm được bí kíp võ công của cổ nhân, đang cố tu luyện và chờ ngày khuynh đảo võ lâm. Một con người tài hoa đầy tham vọng như Quảng Chiêu Phong sẽ không chịu gác kiếm quy ẩn sớm như thế.
Tử Khuê bất giác rùng mình lo sợ bởi giả thiết rằng Long Vân bảo cố bắt sống Tống Thụy để uy hiếp Trung Thiên Tôn. La Sơn không xa Thốc Sơn và Trần lão chính là trở ngại lớn lao đối với mưu đồ bá chủ của Long Vân Tú Sĩ.
An nguy của Thiết Đảm Hồng Nhan cũng có thể là của những người khác trong gia đình chàng. Nếu họ có mặt ở đây đúng lúc tất sẽ bạt kiếm tương trợ Tống Thụy.
Từ ngày học xong “Lôi Đình kiếm pháp” và có thêm chục năm công lực, Tử Khuê không sợ bất cứ địch thủ nào. Nhưng chàng lại đang hóa thân làm người khác, chẳng thể đem hết sở học ra thi thố, nên khó mà bảo vệ được những người mà mình yêu quý nếu đối phương quá hùng mạnh, đông đảo. Tử Khuê suy nghĩ một lúc, gượng cười nói với bọn thủ hạ:
- Nguy hiểm thật. Xem ra ta đã vô tình chọc nhằm tổ ong dữ là Long Vân bảo. Không biết họ có nể nang cái tước Hầu gia của ta không nhỉ?
Từ Vũ nhếch mép cười nhạt, ánh mắt đầy vẻ oai nghiêm:
- Hầu gia cứ yên tâm. Sau khi biết bọn kẻ thù là ai, bọn thuộc hạ đã sớm gửi thư hỏa tốc về Hầu phủ, gọi hết đội Thần Phong kiếm thủ đến đây rồi. Chỉ nội chiều nay họ sẽ có mặt.
Tử Khuê vừa mừng vừa kinh ngạc, hỏi lại gã:
- Vì sao các hạ hành động một cách sáng suốt như vậy? Và thư di chuyển bằng cách nào mà Hầu phủ có thể nhận được nhanh như thế?
Từ Vũ vui vẻ đáp:
- Bẩm Hầu gia, chiều hôm qua thuộc hạ đã cho người ở lại công viên Nam Hải dọ thám tình hình. Nhờ vậy mà chúng ta biết được rằng bọn địch đã cùng viện binh quay lại thu nhặt những kẻ bị thương hoặc đã chết. Gã Tương Ký ẩn núp trong lùm cây nên nghe lóm được vài câu đối phương bàn bạc. Đầu lãnh của chúng, một tên trung niên, râu quai nón, đã tỏ vẻ ngần ngại khi đụng chạm đến Hầu gia tại đây. Gã ra lệnh cho thủ hạ tạm xếp xó vụ này lại, chờ đến sau ngày rằm, khi Tống cô nương trở về Nghiệp thành thì mới ra tay.
Từ Phong cướp lời em, ranh mãnh nói:
- Nhưng bọn thuộc hạ biết Hầu gia đã quyết chí lấy Thiết Đảm Hồng Nhan nên bàn nhau gọi quân tiếp viện.
Đúng là Tử Khuê đã tuyên bố như thế khi bọn thuộc hạ tỏ ý không tán thành việc chàng chọn Tống Thụy làm ý trung nhân. Họ đã khai hết lai lịch cũng như thành tích của ả cọp cái, mong làm chàng thối chí. Kể cả nghi vấn rằng Tống Thụy đã thất thân với Thiếu chủ Xoa Lạp cốc Nhạc Cuồng Loạn.
Tử Khuê đã phải giả vờ làm một trai tơ mới lớn, lỡ say mê rồi thì bất chấp tất cả.
Thấy chủ nhân lộ vẻ ngượng ngùng, Từ Vũ bác lời anh:
- Thật ra việc cầu cứu Hầu phủ là để bảo vệ Hầu gia trước tiên. Lúc nãy, thuộc hạ chưa kể hết những gì Tương Ký nghe được, Long Vân bảo cũng đã quyết định chặn đường tiêu diệt chúng ta. Chính vì thế mà bọn thuộc hạ đã mau chóng nhờ chim bồ câu của Cái bang đưa tin khẩn về Trịnh Châu. Nhờ vậy mà bọn viện binh mới có thể đến đây sớm được.
Tử Khuê ngơ ngác hỏi lại:
- Chẳng lẽ Cái bang cũng liên minh với bổn hội?
Từ Vũ lắc đầu, tủm tỉm đáp:
- Bẩm không. Các Phân đà Cái bang đều có quyền kiếm thêm tiền bằng cách chuyển giùm thư tín cho đồng đạo võ lâm hoặc bách tính. Họ chẳng cần biết nội dung của thư từ nếu người gởi và địa chỉ đến không đáng ngờ. Bao năm qua, bổn hội đã nhờ họ rất nhiều.
Tử Khuê chua chát nghĩ:
- Bang chủ Cái bang má biết được sự thật oái ăm này thì chắc sẽ ngã ngửa ra mà chết vì tức tối.
Từ Phong bỗng cười gượng gạo, ấp úng nói:
- Nay Hầu gia đã rõ ẩn tình thì xin hãy tha cho thuộc hạ tội lấy trộm Kim ấn. Không có cái dấu hiệu triện chết tiệt ấy thì Du Tổng quản sẽ không tin.
Tử Khuê chợt nhớ ra mình có mang theo một chiếc ấn triện nhỏ bằng vàng khối để đóng trên thư từ, văn bản. Chắc là Tống Tiểu Tinh đã lén thó của chàng vì ả là người phục vụ quần áo, chiếu mền.
Tử Khuê bật cười dễ dãi:
- Không sao! Không sao! Chư vị đã hành động vì hảo ý nên ta không nỡ bắt lỗi. Nhưng lần sau cứ nói thật với ta, đừng nên che giấu.
Hai gã họ Từ có ý sợ hãi cúi đầu vâng dạ. Qua mặt thượng cấp là một việt chẳng nhỏ, may mà họ phán đoán không sai về tính cách của cậu chủ nhỏ.
Chàng rất nhân từ tất sẽ bỏ qua.
Tử Khuê cùng sáu thủ hạ lang thang khắp thành, cố tìm thêm một vài nữ nhân nữa. Bọn Thần Phong vừa đi vừa cười thầm cái gã Tiêu Hầu gia dở người, kiếm vợ mà cứ như đi chợ vậy.
Đến đầu giờ Ngọ, cả bọn đều thấy đói bụng nên ghé vào Giác Duyên đại phạn điếm dùng bữa. Tuy là chiêu bài mang hơi hướng Phật pháp nhưng quán này lại bán chủ yếu là món mặn, cơm chay cũng có song chỉ là phụ, được biểu hiện trên tấm bản gỗ dán giấy vàng, dựng trước cửa “Bổn tiệm có bán cả thức ăn chay”.
Nghịch lý ấy xuất phát từ Thiếu Lâm tự là một ngôi chùa thiền tông, không được đám nữ tín đồ ưa chuộng. Ở đấy các nhà sư trẻ luôn giữ trang nghiêm như tượng, chẳng biết tươi cười chào đón. Họ cũng không biết coi bói, chấm số tử vi, chọn ngày hung cát, hoặc gỡ rối tơ lòng. Vị trí chùa lại khá cao, làm nhùn chân đám Phật tử già yếu. Còn những bài thuyết pháp của Thiếu Lâm tự thì lại quá cao siêu, hạng thanh văn duyên giác chẳng thể nào hiểu nổi.
Cho nên trừ những kẻ yêu mến thiền học, đa số tìm đến những ngôi chùa nhỏ khác, theo phái Tịnh Độ Tông. Ở đấy, họ tìm được tất cả những gì mình cần thiết về mặt tâm linh cho người sống lẫn người chết.
Do đó, Giác Duyên đại phạn điếm bán đồ mặn đắt hơn đồ ăn chay. Khổ nỗi, cái tên sặc mùi nhang khói ấy lại không quyến rũ được đám hào kiệt giang hồ từ bốn phương kéo về nên quán cơm rộng lớn này rất vắng khách.
Khi bọn Tử Khuê bước vào phạn điếm thì chỉ có lèo tèo vài bàn thực khách. Họ ăn chứ không nhậu, không giang lại càng yên tĩnh buồn chán.
Quán đang ế ẩm nên khách được chào đón ân cần, niềm nở, nhất là khi đây là một vị Hầu tước sang trọng, quyền quý. Và trong chốc lát, thức ăn được mau chóng dọn ra, tất nhiên là có cả vò rượu Thiên Hưng thượng hạng.
Dù tửu lượng rất cao, nhưng Tử Khuê ít khi uống nhiều. Chàng có thể vì người mình yêu mến mà uống thâu đêm suốt sáng để họ được vui, nhưng chưa bao giờ dùng rượu để nhấn chìm nỗi buồn phiền của bản thân. Sau cơn say rã rời, cuộc đời vẫn hiển hiện những đắng cay, phiền não vì còn người thì còn đó những nỗi buồn khôn khuây.
Tử Khuê ăn uống chậm rãi, từ tốn, ánh mắt hướng ra ngoài của quán, như sợ không kịp nhìn thấy người thân đi ngang qua.
Phải chăng trời cao không phụ người có lòng? Một đoàn nhân mã đông đảo đã dừng vó ngựa trước Giác Duyên đại phạn điếm, và lá đại kỳ Hoàng Phong bang bay phần phật trong gió đã khiến Tử Khuê vui khôn xiết.
Trái tim chàng rộn rã đập nhanh vì người đầu tiên bước vào quán quan sát là Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San. Gã có mặt tức Dịch Tái Vân cũng vậy.
Dịch Quan San quét đôi nhãn thần quan sát khắp lượt thực khách, thấy không có gì đáng trở ngại liền trở ra. Lát sau, họ Dịch kính cẩn hướng dẫn ba nữ nhân áo vàng, đầu đội nón che chân diện, vào trong quán.
Nhờ thái độ nhũn nhặn của Quan San mà Tử Khuê đoán ra ngay nữ nhân đi chính giữa chính là mẫu thân mình, Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam.
Chàng phải cố đè nén niềm cảm xúc đang dâng trào như nước lũ, không chạy đến ôm từ mẫu mà khóc cho thỏa thích.
Sáu gã kiếm thủ Thần Phong cũng dán nhãn quan hiếu kỳ vào những người mới đến, nên không phát hiện mắt chủ nhân mình ướt rượt.
Bàn của Tử Khuê và những bàn có thực khách khác đều nằm dọc hướng tây nên khoảng trống còn lại rất lớn. Dịch Quan San liền bố trí cho ba nữ nhân vào một bàn ở giữa. An tọa xong, họ lột nón rộng vành có rèm the mỏng, để lộ gương mặt mà Tử Khuê nhung nhớ đã bao ngày. Chàng nghe lòng nhói đau khi vùng tóc mai của mẹ hiền đã điểm bạc và dáng vóc của bà gầy gò hơn trước.
Nhan sắc của Thiên Kim, Tái Vân cũng kém tươi, không hề có một chút phấn son, sắc diện phảng phất nỗi ưu buồn, lo lắng.
Nhưng đối với bọn Thần Phong kiếm thủ thì hai người ấy vẫn xinh đẹp phi thường. Và khi phát hiện tiểu Hầu tước cứ nhìn mãi về phía ấy, Từ Phong rầu rĩ nói nhỏ:
- Bẩm Hầu gia! Nữ nhân trung niên ấy thì thuộc hạ không rõ là ai, nhưng hai ả trẻ tuổi kia lai lịch rất lớn, người chớ nên tơ tưởng cho hoài công. Cái ả đẹp trang nghiêm là Bang chủ Hoàng Phong Trình Thiên Kim, cũng là Hầu tước. Nàng ta tính tình nóng nảy, lỗ mãng kinh khủng nên có biệt danh Trình Giảo Kim. Còn cô nàng thon thả có đôi mắt nhiếp hồn kia là Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái vân, xảo trá nổi tiếng võ lâm. Ả cũng chính người Thần Đao bảo nhờ bổn hội bắt sống.
Nghe gã nói xấu vợ mình, Tử Khuê phì cười, ỡm ờ đáp:
- Sách có câu “phu tướng phụ tùng”, họ có dữ dằn mấy ta cũng không sợ.
Bổn nhân đã phát nguyện rằng sẽ ôm hết giai nhân trong thiên hạ. Nay chẳng thể bỏ qua mối hời này được. Còn hợp đồng với Thần Đao bảo thì ta cũng sẽ hủy bỏ luôn.
Bọn kiếm thủ ngao ngán nhìn nhau. Họ cho rằng chàng trai trẻ tuổi này chưa hết điên nên mới muốn vợ một cách dữ dội thế.
Lúc này Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các, biểu thúc của Thiên Kim đã bố trí xong người canh gác, đưa số còn lại vào quán. Ngoài toán đệ tử Hoàng Phong bang kè kè lồng dựng ong độc, còn có bốn mươi hai gã hàng binh Xoa Lạp cốc.
Những người ấy ngồi chung quanh để bảo vệ thượng cấp. Trình lão thì cùng ăn với ba nữ nhân và Dịch Quan San. Năm người lặng lẽ dùng bữa và Tái Vân là người buông đũa trước. Nàng bưng tách trà nhấm nháp, mắt liếc quanh nhận ra cái gã diêm dúa, mang mặt nạ kia đang nhìn mình đắm đuối.
Là người lịch duyệt, Tái Vân đoán ngay đối phương chính thị Ngân Diện Hầu đất Trịnh Châu. Tổng đàn Võ lâm cũng ở đấy nên nàng từng nghe Âu Dương Mẫn nhắc đến Hầu phủ. Lão rất bực bội vì những cơ sở kinh doanh của nhà họ Tiêu không chịu đóng phí bảo kê cho lão Đại thành Trịnh Châu, khiến lão cũng giảm phần thu nhập.
Dịch Tái Vân cau đôi mày liễu thanh mãnh, lộ vẻ khó chịu rồi quay sang hướng bắc. Trước kia, nàng luôn tự hào khi được bọn nam nhân chiêm ngưỡng, say mê. Nhưng giờ đây, những ánh mắt tôn thờ ấy chỉ khiến nàng thêm đau đớn vì thương nhớ trượng phu.
Khi buổi ăn kết thúc thì có một hán tử áo vàng, thấp đậm, nhễ nhại mồ hôi, chạy vào bẩm cáo Trình lão:
- Bẩm lão gia! Đoàn gia trang đã bán cho người khác và tất cả các khách sạng trong thành đều hết phòng.
Trình lão thất vọng than thở:
- Thế có chết không chứ. Lão phu không ngờ lão chết toi họ Đoàn lại đột nhiên bán nhà. Tổng nhân số của ta hiện nay hơn trăm, tối nay biết trọ ở đâu bây giờ?
Thiên Kim nghiêm giọng bảo bọn thủ hạ:
- Sao ngươi không thử hỏi mướn những trang viện khác trong thành?
Gã áo vàng rầu rĩ đáp:
- Bẩm Bang chủ. Thuộc hạ cùng hai mươi huynh đệ khác đã rảo khắp thành mà không tìm được nhà nào còn trống, dù lớn hay nhỏ.
Tử Khuê nghe đến đấy liền hỏi anh em họ Từ:
- Chiều nay khi đội Thần Phong kiếm thủ đến đây thì họ sẽ ở đâu?
Từ Vũ đắc ý đáp:
- Bẩm Hầu gia. Chính chúng ta đã mua Đoàn gia trang hồi sau tết. Lão họ Đoàn thua bạc nên bán rất rẻ. Bổn hội có tai mắt khắp nơi, luôn nắm được cơ hội kiếm lời. Cơ ngơi ấy rất rộng lớn, phòng ốc, tiểu viện gần trăm gian, thừa sức chứa nửa ngàn người. Nếu Hầu gia muốn nhân dịp này lấy lòng người đẹp thì xin cứ tùy tiện.
Tử Khuê mừng rỡ, giả vờ hỏi thêm:
- Này chư vị! Liệu đám người này có quen biết với Thiết Đảm Hồng Nhan hay không?
Gã sát thủ rậm râu tên Tần Thiếu Bá được dịp lập công với chủ, lên tiếng ngay:
- Bẩm Hầu gia! Thuộc hạ từng có công cán ở Dụ Châu, biết rõ rằng Tống cô nương và Đông Nhạc Tiên Hồ cùng là bạn của Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán. Vậy thì họ phải quen biết nhau.
Tử Khuê chỉ hỏi cho có lệ chứ chàng biết rõ quan hệ ấy hơn ai hết. Chàng mỉm cười hài lòng, đứng lên sửa sang y phục rồi bước đến bàn của người thân.
Họ nhìn chàng với ánh mắt nghi hoặc, cảnh giác và thiếu thiện cảm.
Tử Khuê ôm quyền, nhã nhặn nói, mắt hướng thẳng vào Kỹ nương:
- Bẩm phu nhân. Tại hạ Tiêu Mẫn Hiên quê đất Trịnh Châu, cũng là chủ mới của Đoàn gia trang. Hiện nay, nơi ấy vẫn còn bỏ trống, chưa sử dụng đến.
Ngưỡng mong phu nhân cùng chư vị đây hạ cố nhận lời kính thỉnh của tại hạ, đến đấy nghỉ ngơi.
Giọng nói của Tử Khuê hơi khàn và đầm ấm, khác hẳn khi xưa, có lẽ vì “Thiên niên Hà thủ ô”. Kỳ trân hãn thế ấy đã tạo ra những thay đổi nơi cơ thể chàng, không chỉ ở hiện tượng mọc râu, biến giọng mà các giác quan cũng minh mẫn hơn trước bội phần.
Tất nhiên là chẳng ai trong số những người thân của chàng nhận ra đôi môi và hàm răng quen thuộc, bởi chung quanh chúng có quá nhiều những cọng râu cứng cáp, cái mà Tử Khuê không hề có.
Những ánh mắt thiết tha của chàng đã đánh động mối dây linh cảm thiêng liêng trong lòng người mẹ. Tuy không nghĩ đối phương là con của mình, song bất giác Kỹ nương có cảm tình với Ngân Diện Hầu.
Băng Tâm Ma Nữ hiền hòa đáp:
- Lão thân xin đa tạ hảo ý của Hầu gia. Song phương chưa hề quen biết nên bọn lão rất ngại ngùng. Tuy nhiên, nếu lát nữa không còn chốn trú thân nào khác, bọn lão thân sẽ đến quấy nhiễu Đoàn gia trang một phen.
Tử Khuê hiểu rằng bà con do dự, muốn thương lượng với những người khác. Chàng vái chào rồi quay về bàn mình.
Từ Phong tủm tỉm cười, hạ giọng:
- Thuộc hạ e rằng Hầu gia sẽ hoài công. Phong này dám chắc vị phu nhân này theo họ Quách và là mẹ chồng của hai ả nõn nà kia.
Tử Khuê thản nhiên đáp:
- Ta cũng nghĩ như thế và sẽ sai các hạ đi Hứa Xương ám sát cái gã Quách công tử tốt phúc nọ. Khi hai nàng đã góa bụa thì ta ngỏ lời cầu hôn thì cũng chẳng muộn.
Bọn sát thủ bật cười, chẳng hiểu Hội chủ nói đùa hay nói thật. Và nếu chàng muốn thế thì bọn họ cũng sẵn sàng thực hiện ngay. Bắt sống người thì hơi khó chứ ám sát thì dễ hơn. Họ chỉ cần kiên nhẫn mai phục, chờ đợi con mồi ra khỏi hang, phóng vài mũi tiêu tẩm độc là rồi đời.
Bên kia, Dịch Tái Vân cũng hạ giọng nói khẽ với mẹ chồng:
- Bẩm mẫu thân! Hài nhi đã bắt gặp gã họ Tiêu nhìn chúng ta trân trối.
Hài nhi e rằng gã là kẻ hiếu sắc, không thể tin tưởng được.
Kỹ nương gật gù, nhìn Thiên Kim với ánh mắt dò hỏi. Nữ Hầu tước bèn thỏ thẻ:
- Bẩm mẫu thân! Nhân số chúng ta đông đến gần trăm, chỉ cần tiểu tâm đề phòng là được.
Dịch Quan San cũng góp ý:
- Bẩm can nương. Hài nhi tự tin có thể đối phó với mọi mưu ma chước quỷ, nếu gã họ Tiêu dám giở trò.
Trình Kiếm Các là khách nên giờ mới lên tiếng. Nhưng lão vừa tằng hắng xong chưa kịp nói thì phát sinh biến cố. Ngoài đường vọng ra những tiếng vó ngựa dồn dập, gấp gáp và đoàn kỵ sĩ đông đáo ấy dừng cương trước cửa Giác Duyên phạn điếm. Đáng ngại hơn nữa khi ai đó dõng dạc ra lệnh:
- Mau vây chặt phạn điếm, không để bất cứ ai ra vào!
Mặt trước quán cơm chay nửa mùa này nằm trên đường trục bắc nam, phía sau và hai bên giáp với đường nhánh, nên đối phương hoàn toàn có thể vây kín, không chừa một lối thoát nào.
Qua cửa chính, người bên trong có thể thấy thấp thoáng bóng quân binh cầm giáo đang phối hợp cùng những gã áo xanh thẩm cầm đao Nhật Bản. Thứ đao đặc dị ấy chính là chiêu bài của Thần Đao bảo. Nhưng trong số những kẻ đi theo vị võ quan vào quán, không chỉ có Thần Đao bảo chủ Tần Minh Viên mà còn có Võ lâm Minh chủ Âu Dương Mẫn.
Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân hiểu ngay rằng họ đến đây vì mình.
Dẫu đã dự trù trước cuộc chạm mặt bằng cách mang theo một lực lượng đông đến hàng trăm, song Tái Vân và những người khác không ngờ rằng đối phương lại mượn tay quan quân. Ai nấy ngồi im như tượng, đặt tay vào đốc gươm chờ đợi.
Gã võ quan tuổi tứ tuần kia hách dịch nói:
- Bổn quan là Tổng binh thành Đăng Phong, nhận lệnh Tri huyện đại nhân đến đây bắt ả Dịch Tái Vân vì tội đào hôn. Theo sớ kiện thì Tái Vân đã được nghĩa phụ là Âu Dương lão gia gả cho công tử Tần Trọng Vĩ, con trai Thần Đao Bá. Y thị đã chịu nhận sính lễ song lại bỏ trốn trước ngày hôn lễ, vi phạm luật Đại Minh.
Dịch Tái Vân uất ức thét lên:
- Nói láo! Bổn cô nương nhân sính lễ của họ Tần khi nào?
Âu Dương Mẫn mỉm cười, âm hiểm ôn tồn nói:
- Vân nhi! Ba vạn lượng vàng mà can gia trao cho con chính là lễ vật của Tần gia đấy.
Quả đúng là Tái Vân từng nhận của Âu Dương Mẫn số vàng ấy, song vì tưởng lão cho vì yêu mến. Biết mình đang gánh chịu những hậu quả của hành vi nông nổi năm xưa. Tái Vân vô cùng đau xót và hổ thẹn với gia đình chồng.
Kỹ nương không nói gì song nhìn nàng với ánh mắt buồn rầu.
Tái Vân hiểu rằng trong hoàn cảnh này mình loạn động sẽ hại đến Quách gia trang và Trình Thiên Kim. Nàng chống cự thì tất cả sẽ rút gươm, nhưng dẫu có thoát được thì hai nhà họ Quách, Trịnh cũng trở thành tội phạm của triều đình.
Nước mắt tuôn như suối, vai gầy run rẩy, Tái Vân hình dung đến gương mặt đôn hậu của Tử Khuê, lẩm bẩm gọi tên chàng lần cuối. Nàng quyết định quyên sinh để bảo toàn danh tiết.
Nhưng Kỹ Thanh Lam thông tuệ hơn người, nhãn quan sắc bén, hiểu lòng con dâu, nên nghiêm nghị bảo:
- Vân nhi không được nghĩ quẩn! Việc này đã có ta chủ trì.
Trình Thiên Kim cũng an ủi nàng:
- Vân muội chớ đầu hàng. Gia nương là người cơ trí tất hẳn sẽ có cách đối phó lão quỷ Âu Dương Mẫn.
Trong lúc ấy, Tử Khuê cũng rối như tơ vò, cố tìm cách giải cứu ái thê. Âu Dương Mẫn và Tần Minh Viên chẳng đáng sợ nếu không có hậu thuẫn là nha môn Đăng Phong. Vô kế khả thi, chàng gượng cười với bọn thủ hạ:
- Nguy thật! Gã Tổng binh mắc toi kia mượn vương pháp mà hành sự, làm sao ta có thể can thiệp mà cứu giai nhân đây? Chư vị có diệu kế gì không?
Từ Phong buồn rầu đáp:
- Thuộc hạ e rằng chẳng có cách nào cứu ả họ Dịch cả. Gã Tổng binh tên gọi Trịnh Trường Hoài, thuộc dòng dõi trung lương, trưởng nam cố Tri phủ Lạc Dương Trịnh Lương Nhân. Giống như cha, Trường Hoài rất thanh liêm, kiên quyết, theo vương pháp mà hành xử, không thể mua chuộc hoặc hăm dọa được.
Ký ức phu thường của Tử Khuê đã nhớ ra những dữ kiện liên quan đến cố Tri phủ Lạc Dương Trịnh Lương Nhân được ghi lại trong quyển “án lục tuyệt mật” của Hoạch Đầu hội. Chàng khấp khởi mừng thầm, lòng lóe lên niềm hy vọng.
Trở lại cuộc tranh luận giữa hai bên nguyên và bên bị, chúng ta sẽ nghe được Thiên Kim nói thế này:
- Trịnh túc hạ! Ta là Hoàng Phong Hầu Trình Thiên Kim ở huyện Trình, phủ Nam Dương, chắc thúc hạ có nghe nhắc đến?
Trịnh Trường Hoài gật đầu:
- Đúng là mạt tướng có biết việc này. Nhưng dẫu cho tiểu thư có mặc tước phục, đeo kim bài thì cũng không thể can dự vào công vụ của quan lại Đăng Phong.
Thiên Kim đáp:
- Ta cũng hiểu được điều ấy song có vài lời phế phủ mong Trịnh túc hạ cân nhắc.
Trịnh Trường Hoài ôm quyền cúi đầu:
- Xin Hầu gia chỉ giáo. Mạt tướng rửa tai lắng nghe.
Thiên Kim điềm đạm nói ra một hơi:
- Đúng là ba năm trước Dịch Tái Vân có bái Âu Dương Mẫn làm nghĩa phụ và nhận của ông ta ba ngàn lượng vàng. Nhưng khi nhận số vàng ấy, Âu Dương Minh chủ đã có nói rõ nguồn gốc nên chẳng thể bảo Tái Vân đã nhận sính lễ của Tần gia. Lúc nãy, chính Âu Dương Mẫn đã tự biểu lộ ra. Đấy là chuyện quá khứ, bây giờ Âu Dương Mẫn không còn là nghĩa phụ của Dịch Tái Vân nữa. Lý do là vì Âu Dương Mẫn đang bị triều đình nghi ngờ là hóa thân của tên trọng phạm Huyết Mai hộichủ, Tái Vân sợ liên lụy nên có quyền cắt đứt quan hệ cũ.
Thiên Kim nói rất hữu lý khiến Trịnh Trường Hoài do dự. Gã trầm ngâm một lúc rồi lắc đầu, ánh mắt rất kiên định. Nhưng gã chưa kịp phát biểu thì nghe có tiếng cười khanh khách:
- Này Trịnh Trường Hoài! Phải chăng ngươi dám xem thường Thái tổ hoàng đế nên không thèm đến bái kiến bổn Hầu gia.
Thật ra, Trịnh Trường Hoài không hề thấy Ngân Diện Hầu. Gã chỉ chăm chú nhìn vào cái bàn của Tái Vân theo sự chỉ điểm của Âu Dương Mẫn. Hơn nữa, Tử Khuê ngồi sát vách và được sáu gã kiếm thủ đứng vây quanh bảo vệ.
Khi quân là tội rất nặng nên Trịnh Trường Hoài lạnh cả gáy. Đúng là trong Thiên Lễ Luật của Đại Minh có quy luật rằng quan lại cấp thấp phải đến thăm hỏi cấp trên trước.
Họ Trịnh quay lại, nhìn thấy một người áo gấm, ngực đeo kim bài và che mặt bằng Ngân Diện. Đăng Phong không xa và cũng thuộc phủ Lạc Dương, nên Trường Hoài chẳng thể không nghe nói đến Ngân Diện Hầu. Vả lại, trong thành này cũng có tài sản của Hầu phủ là Hưng Thái đại lữ điếm.
Trịnh tổng binh ngượng ngùng bước đến, khom lưng thi lễ:
- Ty chức Trịnh Trường Hoài, Tổng binh thành Đăng Phong xin ra mắt Hầu gia. Lúc này do quá chú tâm vào công vụ nên ty chức không nhận ra sự hiện diện của Hầu gia. Mong bậc quý nhân lượng thứ cho.
Ngân Diện Hầu mỉm cười mỉm cười bao dung và hòa nhã bảo:
- Mời Trịnh túc hạ an tọa. Bổn Hầu có việc cần bàn.
Tuy lòng chẳng muốn nhưng họ Trịnh chẳng dám từ chối, vái tạ rồi ngồi xuống. Gã giật bắn mình khi nghe đối phương hỏi nhỏ:
- Túc hạ có muốn biết ai là hung thủ đã sát hại lệnh tôn hay không?
Mười hai năm nay, Trịnh Trường Hoài nung nấu trong lòng mối thù sát phụ. Gã biết cha mình bị đồng liêu mướn cao thủ ám hại song không rõ chủ hung là ai? Nay có người cung cấp tin tức, Trường Hoài vui mừng khôn xiết, cố trấn tĩnh hỏi lại:
- Hầu gia không lường gạt mạt tướng đấy chứ?
Ngân Diện Hầu lắc đầu nghiêm nghị bảo:
- Ta lấy danh dự của Ngân Diện Hầu bảo chứng cho lời nói. Nhưng túc hạ phải mượn cớ rút quân, viện cớ rằng có sự can thiệp hợp tình hợp lý của Hoàng Phong Hầu và Ngân Diện Hầu. Còn tri huyện Đăng Phong thì túc hạ cứ bảo lão đừng tham vàng của Âu Dương Mẫn mà mang họa. Bổn chủ là thân cận của Tam Ty Hà Nam, chỉ một câu nói cũng khiến lão mất chức.
Trịnh Trường Hoài xem trọng thù gia hơn cả chức tước. gã chẳng cần quan tâm đến phản ứng của lão tri huyện hoặc Âu Dương Mẫn, khẳng khái gật đầu ngay:
- Mạt tướng xin tuân lệnh. Mong Hầu gia cho biết danh tính hung thủ.
Ngân Diện Hầu kề tai gã nói:
- Kẻ ấy là Trác Thanh Khê, mười hai năm trước giữ chức Tri phủ Nam Dương. Còn bây giờ lão ấy ra sao thì ta không rõ.
Trịnh Trường Hoài trợn tròn đôi mắt hổ, nghiến kèn kẹt:
- Té ra lão ta đã vì chức vụ Tả Bố Chính sứ tỉnh Chiết Giang mà đang tâm ám hại tiên phụ. Do lão là bằng hữu chí thiết của tiên phụ mà mạt tướng không bao giờ nghi ngờ.
Ngân Diện Hầu sợ gã hiếu tử này nóng nẩy, thí mạng báo thù, liền nghiêm giọng:
- Nếu Trác Thanh Khê hiện là người đứng đầu tỉnh Chiết Giang thì việc báo thù của túc hạ sẽ bội phần khó khăn, có thể mất mạng mà không thành công. Bổn tước sẽ bày cho túc hạ một kỳ mưu.
Rồi chàng kề tai gã thì thầm một lúc. Sắc diện họ Trịnh rạng rỡ hẳn lên.
Gã vái dài để tạ ơn rồi quay bước trở lại vị trí cũ.
Âu Dương Mẫn và Thần Đao bảo chủ Tần Minh Vi
Thứ đến có tin rằng lục phái Bạch đạo sẽ có mặt những cao thủ thượng thừa. Vạn nhất họ Hàn không xuất hiện thì sáu người ấy sẽ thượng đài, tranh tài với Nhạc Cuồng Loạn, không chờ đến tiết Trùng Cửu nữa. Bởi vậy, chẳng một khách võ lâm nào dám bỏ qua thịnh hội trăm năm có một này.
Trong số những người lo xa đến sớm ấy, có một toán kỵ sĩ đông độ mười ba người, phong thái hiên ngang, sang cả, chẳng hề giống bọn hào khách giang hồ.
Đi đầu là một gã mặc trường bào, tay hẹp bằng xám tro, may bằng lụa Hàng Châu, chân mang ủng da hươu. Tấm kim bài vàng óng đeo trước ngực và chiếc mặt nạ bạc tinh xảo, che kính từ chân tóc đến chốt mũi chính là chiêu bài của Ngân Diện Hầu gia đất Trịnh Châu. Dựa vào phần da cổ và nửa mặt dưới, người ta có thể đoán đây là tiểu Hầu gia Tiêu Mẫn Hiên chứ không phải cha của gã.
Vả lại, Tiêu Lạp Dân có bộ râu ba chòm dài thượt, còn gã này chỉ để ria mép dù hai má xanh đen những chân râu mới cạo. Thật ra trước đây Mẫn Hiên, tức Tử Khuê mang tướng vô tu, mặt nhẵn nhụi, không một cọng râu, kể cả lông ngực, lông chân cũng trụi lủi. Nhưng Hà thủ ô lại là thứ rất tốt cho râu tóc.
Nhất là khi thứ rễ cây quý báu ấy già đến ngàn tuổi thì có thể làm người hói mọc tóc xanh um. Thế nên, giờ đây chàng trở thành kẻ đa mao, râu quai nón bù xù, chẳng cần phải bôi thuốc cũng giống Cầu Nhiêm đại hiệp. Lúc này dẫu người thân chàng có nhận ra những nét quen thuộc ở nửa dưới khuôn mặt kia, thì cũng sẽ phân vân bởi số râu lạ lẫm kia.
Hôm nay, tháp tùng Ngân Diện Hầu gia là mười hai kiếm thủ áo gấm đen, gồm anh em họ Từ và mười gã sát thủ mang tội hèn nhát, không hoàn thành nhiệm vụ.
Khi tuyển lựa cận vệ đi theo mình đến Đăng Phong, Tử Khuê chọn ngay trong số những kẻ phạm quy. Liều mạng một cách vô ích vì một mục đích vật chất thì không phải là dũng sĩ. Qua sự giới thiệu của anh em họ Từ, chàng đã thu nạp mười người khá nhất, chín nam, một nữ.
Cũng như Từ Phong, Từ Vũ, mười tay kiếm ấy thuộc đội quân cốt cán, tinh nhuệ, mang tên Thần Phong hội, nhân số gần hai trăm người.
Thần Phong hội trực thuộc Tổng hội, trú quân tại Hầu phủ. Thường ngày họ đóng vai gia đinh, khi có lệnh thì xuống phối hợp với phân hội địa phương hành động.
Niên kỷ của đám Thần Phong thuở ấy ở vào khoảng chừng ba chục đến bốn mươi, độ tuổi cường tráng, sung mãng, và đầy kinh nghiệm. Bản lãnh của họ rất điêu luyện nhờ nhiều năm rèn luyện Tiêu gia kiếm pháp, tức “Lôi Đình kiếm pháp”. Ngoài ra họ còn có tài phóng “Liễu Diệp Phi Dao”, trăm phát không sai.
Tóm lại mười hai thủ hạ của Tử Khuê đều là những hung thần thứ dữ.
Chính vì thế mà Tổng quản Du Vinh mới yên tâm để vị Hội chủ trẻ tuổi đi ngao du thiên hạ.
Bệnh tình của Tiêu Lạp Dân và ái nữ Dị An không hề biến chuyển. Ngoại đường chủ Tuân Khách đành phải đưa họ về Lôi Đình thần cung. Nhị phu nhân Từ Lan đi theo để chăm sóc. Bà thật lòng yêu thương ông chồng già của mình. Nhờ vậy mà Tử Khuê mới có cơ hội thoát ly Hầu phủ.
Chàng không về ngay Hứa Xương mà đoán rằng gia quyến của mình sẽ đến Tung Sơn, đúng ngày chàng ước hẹn với Nhạc Cuồng Loạn.
Đoàn người dừng chân trước Hưng Thái đại lữ điếm, được Hoàng chưởng quỹ đích thân ra nghênh tiếp. Chẳng phải lão đang ế phòng mà chẳng qua Hoàng Hộ chính là thủ hạ Hoạch Đầu hội. Mấy ngày trước, họ Hoàng đã nhận được lệnh của Tổng hội, để dành nguyên tầng trên lữ điếm cho Hội chủ và tùy tùng.
Suốt hơn tháng qua, Tử Khuê đã vùi đầu vào đống sổ sách trong thư phòng của Tiêu Lạp Dân. Và chàng đã kinh ngạc trước sự đông đảo hùng mạnh của Hoạch Đầu hội. Tổ chức này sở hữu đến trăm khách sạn, tửu quán, trà lâu, hiện diện ở những địa phương sầm uất, phồn vinh nhất nước.
Không phải tất cả những cơ sở kinh doanh ấy đều có lãi, song chúng chính là nơi Hoạch Đầu hội tìm được hợp đồng giết mướn. Trong những câu chuyện trà dư tửu hậu, bọn tiểu nhị sẽ chắt lọc được những thông tin hữu ích về một mối hiềm khích hay cạnh tranh của một gã rủng rỉnh bạc tiền.
Sau nhiều ngày điều nghiên kỹ càng, phân hội địa phương ấy sẽ phái một sứ giả đến gợi ý giúp đỡ. Các sứ giả này thường đóng vai thầy bói dạo, một nghề thuận lợi để tiếp xúc với mọi giới. Chính họ cũng có nhiệm vụ moi móc thông tin bằng những câu quẻ đoán khôn khéo, tinh vi.
Ở mỗi phân hội địa phương cũng có vài ba sát thủ đủ sức thực hiện ngay những phi vụ nhỏ, dễ ăn. Chỉ riêng phân Hội chủ và đám sát thủ này biết Hội chủ là ai và sào huyệt Tổng hội ở chốn nào. Tất nhiên, họ đều đã bị Tiêu Lạp Dân đầu độc.
Tử Khuê còn đọc được một tài liệu cực mật, ghi rõ những hợp đồng giết thuê đã được thực hiện từ hồi Hoạch Đầu hội bắt đầu khai sinh. Trong đó có vụ thảm sát toàn gia Tri huyện Ngọc Điền, tỉnh Hà Bắc, tức gia đình Dịch Tái Vân. Té ra, lớp sát thủ đầu tiên của Hoạch Đầu hội đều là người của Lôi Đình thần cung. Khi đào tạo xong lớp sát thủ thứ hai là bọn Thần Phong hội hiện nay. Thủ hạ của Trác Ngạn Chi đã về lại Thần cung, chỉ còn lại hai gã Du Vinh và Tuân Khánh.
Một bí mật khác cũng đã làm Tử Khuê phải giật mình. Đó là việc Lôi Đình Đế Quân được hưởng ba phần mười lợi tức từ việc kinh doanh của Hoạch Đầu hội.
Tất cả những dữ kiện ấy đã chứng tỏ dã tâm của Lôi Đình thần cung. Tử Khuê bỗng lo sợ rằng một kẻ tham lam, tàn ác như Trác Ngạn Chi sẽ không chịu dừng ở mức độ ấy. Có lẽ chính lão cũng bị rợ Mông mua chuộc nên mới biết việc Bắc Thiên Tôn gả con cho Vương tử Mông Cổ.
Chúng ta hãy tạm quên nội tình phức tạp ấy, cùng Tử Khuê trở lại thành Đăng Phong.
Sau khi tắm gội ăn uống xong, Tử Khuê dẫn bọn cận vệ đi dạo. Chàng đang đóng vai một kẻ chưa từng ngao du chốn lạ nên giờ có quyền dạo khắp thành, mặc cho mười hai gã Thần Phong ngán ngẩm vì nhàm chán.
Từ Phong, Từ Vũ đi hai bên tả hữu Hội chủ, mười gã còn lại chỉnh tề theo sau. Phong thái quyền quý và chiếc mặt nạ sáng loáng trên mặt Tử Khuê đã khiến khách bộ hành trên phố xì xầm bàn tán. Họ tự hỏi cái gã tiểu Hầu gia nhà họ Tiêu, đất ở Trịnh Châu, đến đây diễu võ vương oai làm gì? Bao năm qua chắc chắn Ngân Diện kiếm khách đâu đủ tài chường mặt ra chốn giang hồ?
Tử Khuê sử dụng ngân diện là để dấu mặt chứ không phải thích cảnh xênh xang áo mão. Năm năm trước, khi vừa đúng tuổi nhược quan, Tiêu Mẫn Hiên đã được tập tước Hầu, được ban kim bài ghi rõ họ tên. Lúc ấy, gã đang bị giam nơi Từ Thạch ốc nên Tiêu Lạp Dân đã thay con tiếp nhận. Giờ đây, Tử Khuê có thể đường hoàng thủ vai Ngân Diện Hầu đời thứ năm.
Và lúc này, Tử Khuê cũng không hề có ý định dạo chơi mà là tìm người thân của mình đã đến chưa. Kiếm người tất mắt phải láo liên, soi mói những chốn đông đúc như trà lâu, phạn điếm, khách sạn. Biết không thể dấu diếm những kẻ lão luyện như mười hai gã Thần Phong kiếm thủ này, Tử Khuê liền vui vẻ nói trớ đi:
- Này các huynh đệ. Đêm qua ta trằn trọc không yên, sực nhớ ra mình chưa có vợ. Đến gần sáng ta thiếp đi và nằm mộng, thấy một lão già tóc bạc phơ, tự xưng là Nguyệt Lão. Ông bảo mạng ta có nhiều vợ đẹp và một trong số ấy đang hiện diện ở đất Đăng Phong này. Hay là các ngươi giúp ta quan sát, tìm kiếm thử xem sao?
Cả bọn bật cười, vòng tay nhận lệnh. Họ cũng là nam nhân nên từng trải qua những đêm thao thức thì thiếu đàn bà. Họ thật mong chàng trai điên tàng, dễ mến, nhân hậu này tìm được giai nhân. Thế nên mười hai cặp mắt sắc bén ấy đảo lộn không ngừng, bao quát tất cả những mục tiêu là phái yếu.
Trong lúc ấy, Tử Khuê lại vì câu chuyện Nguyệt Lão mà nhung nhớ Trác Thanh Chân. Chàng tự hỏi nàng ta đã gặp những khó khăn gì khi về đến Quách gia trang. Thái độ của Kỹ nương và hai ả họ Trình, họ Dịch sẽ ra sao? Tử Khuê hơi yên lòng khi nghĩ đến hậu thuẫn hùng mạnh là phụ thân mình.
Quách lão luôn mong muốn chàng có thêm vợ đẹp.
Sau gần canh giờ lang thang đến gãy giò, bọn Tử Khuê đến công viên Nam Hải ở gần cửa Tây thành. Hoa viên công cộng này mang tên như thế vì ở giữa có bức tượng Nam Hải Quan Âm bằng đá trắng, cao bằng người thật.
Cha chung không ai chăm sóc nên bồn hoa đều điêu tàn, xơ xác, chẳng có đến một bông chào đón mùa Xuân. Nhưng lũ tùng bách thì vẫn xanh um, vươn cành che mát cho đám người bạc bẽo, vô ơn.
Công viên Nam Hải rộng đến ba chục mẫu, là điểm xanh lớn nhất của thành Đăng Phong. Thoảng nghe tiếng sân trong hồ như có tiếng thép chạm nhau, tiếng quát tháo lanh lảnh của nữ nhân, Tử Khuê chột dạ rảo bước dẫn thuộc hạ vào xem thử. Chàng cảm nhận được sự quen thuộc từ những âm thanh ấy.
Đến nơi, Tử Khuê bàng hoàng nhận ra Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy và Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam đang bị hơn hai chục kiếm thủ vây hãm, phe địch y phục không giống nhau, không có dấu hiệu đặc biệt nên khó nhận ra lai lịch. Nhưng chắc chắn là võ công của chúng rất khá cả Tống Thụy lẫn Khổng Đam đều đã thọ thương.
Thiết Đảm Hồng Nhan vẫn giữ lối đánh liều mạng như ngày nào, mắt phụng tròn xoe, mày liễu dựng ngược. Nàng múa tít bảo kiếm, lăn xả vào bọn đối phương, mặc cho máu hồng loan đỏ tấm bạch y.
Hồ Đồ Thần Thương cũng tung hẳn cây thương sắt nặng nề, cố phá vỡ vòng vây. Mồ hôi y phục ướt đẫm và tiếng thở hồng hộc chứng tỏ con trâu nước kia sắp kiệt sức.
Tử Khuê chẳng có thời gian để thắc mắc tại sao hai kẻ không hề quen biết ấy lại đồng hành. Chàng cố nặn ra một nụ cười, nói với bọn thủ hạ:
- Ta cho rằng cô ả xinh đẹp, dữ dằn kia xứng đáng là người Nguyệt Lão đã se duyên. Các ngươi mau giết sạch bọn ác ôn, cứu lấy Hội chủ phu nhân.
Đám Thần Phong đều biết rõ lai lịch của Thiết Đảm Hồng Nhan, hiểu rằng Tống Thụy chẳng bao giờ chịu làm vợ tiểu Hầu gia. Nhưng Hội chủ đã ra lệnh thì chúng chẳng thể nói không.
Phía ngoài bộ võ phục đen, bọn sát thủ Hoạch Đầu hội còn khoác thêm một tấm đoạn bào hơi rộng, để che giấu vai cắm đầy “Liễu Diệp Phi Đao”. Mỗi gã mang theo đến ba mươi sáu mũi dao nhỏ, lưỡi mỏng như lá liễu, dài độ gang tay.
Giờ đây, chúng tháo nút áo khoác, để lộ ám khí và lao tới, nhất tề phóng ngay vào lưng kẻ địch. Quả xứng dang đại sát thủ, mười hai mũi dao loại đủ ngần ấy tên. Tiếng rên la bi thiết của đám nạn nhân đã làm những kẻ còn lành lặn phải chùn lòng.
Thuật phóng phi đao mới chính là sở học gia truyền của nhà họ Tiêu.
Tuyệt kỹ này lợi hại ở chỗ hoàn toàn dựa vào uyển lực, chỉ lắc cổ tay là tiểu đao bay ra, không dùng sức của vai và cánh tay như bọn Sơn Đông mãi võ thường biểu diễn. Đặc điểm thứ hai là người phóng phi đao sử dụng tay trái.
Năm xưa, Ngân Diện Hầu đời thứ nhất tức Tiên Phương đã đột tử trước khi dạy xong cho con cái pho kiếm pháp. Lão lại không để lại kiếm phổ nên gia học thất truyền, chỉ còn thuật phóng phi đao. Chính vì thế mà sau này Tiêu Lạp Dân mới đi tầm sư học nghệ, trở thành sư đệ của Lôi Đình Đế Quân. Lão vừa nhập môn được vài năm thì sư phụ Tứ Tượng chân nhân tạ thế, được Trác Ngạn Chi tiếp tục dạy dỗ. Tử Khuê đoán rằng có thể Trác Ngạn Chi giấu bớt nghề nên hai pho kiếm, chưởng mới thiếu sót như thế.
Sau khi thấy Mẫn Hiên, tức Tử Khuê luyện xong phần kiếm chưởng, Lạp Dân đã đích thân dạy chàng thuật phóng phi đao. Tử Khuê đã nhiều năm rèn luyện thủ pháp “Long tu xạ nguyệt” uyển lực cực kỳ mạnh mẽ nên giờ đây học nghề ném ám khí chẳng khó khăn gì. Với căn cơ võ học sáng láng như gương, Tử Khuê chỉ cần hai tháng đã vượt qua bọn Từ Phong. Tuy chàng đã giấu bớt thành tựu mà Lạp Dân còn khen nức nở. và lão chẳng chút nghi ngờ chỉ cho rằng con trai mình từ nhỏ đã có thiên bẩm cực cao, học gì cũng giỏi hơn người.
Việc chàng có đến bốn chục năm nội lực cũng là hợp lý vì mấy năm qua uống toàn thuốc quý, kể cả kỳ trân hiếm có như Hà thủ ô ngàn năm.
Tiêu trang chủ đã tặng cho ái tử một bộ ám khí gia truyền, gồm bày ngọn tiểu đao bằng thép ròng, mũi nhọn hoắc như đầu kim, tên gọi “Thất Hưu đao”.
Hưu ở đây có nghĩa thôi, nghỉ, bỏ... ám chỉ rằng khi phi đao bay ra thì nạn nhân hưu hỉ là cái chắc, thôi không sống nữa.
Pho “Thao Quang thần thức” của Vu Mộc chân nhân có một số nửa đòn nằm ở tay trái nên Tử Khuê hầu như thuận cả hai tay. Khi hữu thủ không bận bịu trường kiếm, chàng có thể ra hai mươi tám ám khí cùng một lúc.
Giờ đây, bộ ám khí “Thất Hưu đao” đang ở trên bụng trái Tử Khuê.
Những chiếc đuôi mạ bạc sáng loáng, chạm trổ văn hoa tinh xảo, đã biến những thứ ám khí ấy thành vật trang sức đẹp mắt, oai vệ.
Trong lúc đồng đội quần thảo, so gươm với phe địch, Từ Phong và Từ Vũ vẫn thản nhiên đứng hộ vệ chủ nhân. Họ chỉ quan tâm đến an toàn của Hội chủ, cũng là cháu ngoại của Từ công lão, người đã cứu mạng, dạy dỗ họ từ tấm bé.
Nhưng Tử Khuê đã nhận ra tình trạng hiểm nghèo của Thiết Đảm Hồng Nhan và Hồ Đồ Thần Thương, vội vã nhập cuộc. chàng lướt đi thì anh em họ Từ cũng bám theo, trường kiếm lăm lăm trong tay.
Ba người đi xuyên qua trận địa, giữa những cặp đối thủ, đến được nơi cần đến. Hai gã đối thủ của Tống Thụy và Khổng Đam cảnh giác, bỏ mục tiêu cũ lao đến tấn công ba cường địch mới xuất hiện.
Từ Phong và Từ Vũ không để Hội chủ phải nhọc sức, lập tức xông lên đón tiếp đối phương. Phần Tử Khuê lướt đến định đỡ lấy tấm thân đẫm máu đang lảo đảo của Tống Thụy. Nàng ta ngượng ngùng lùi bước, không muốn người đàn ông mang mặt nạ kia chạm vào thân thể mình. Nhưng gã ta lại chẳng để ý đến câu “Nam nữ hữu biệt”, cứ sấn tới mà vươn tay điểm huyệt nàng. Tống Thụy chưa kịp sợ hãi thỉ đã mê man.
Bên kia, Khổng Đam chống thương đứng thở hồng hộc rồi từ từ quỵ xuống. Song chẳng còn kẻ địch nào đe dọa gã nữa, phe địch đã kéo nhau đào tẩu vì tự lượng địch không lại bọn kiếm thủ Thần Phong. Tử Khuê cũng đã điểm chỉ huyết và cho sư muội uống linh đan xong. Chàng bốc xốc nàng lên tay, ra lệnh rút nhanh về lữ điếm.
Mờ sáng hôm sau, Thiết Đảm Hồng Nhan tỉnh giấc bởi tiếng oanh ríu rít trên cành. Nàng ta ngỡ ngàng vì thấy mình đang nằm trong một căn phòng sang trọng. Là kẻ quen phiêu bạc, Tống Thụy nhận ra ngay phong cách của một khách điếm đắt tiền.
Sực nhớ lại cảnh ngộ đã qua, Tống Thụy giật mình, ngồi bật dậy. Tấm chăn đơn trên người tuột xuống khiến nàng ngộ thức rằng cơ thể mình không một mảnh xiêm y.
Hình bóng người đàn ông mang mặt nạ hiện ra, mang theo nỗi lo âu, hổ thẹn khôn cùng. Phải chăng chính gã đã băng bó vết thương cho nàng?
Thiết Đảm Hồng Nhan cố bình tâm kiểm tra lại cơ thể, mừng vì tiết hạnh vẫn còn nguyên vẹn. Hơn thế nữa, bảy vết thương trên người nàng đều được băng chặt bằng vải sạch và không chút đớn đau. Xem ra thuốc kim sang của người ân lạ mặt kia quả là thần hiệu.
Song lòng nàng vẫn còn tê tái, ủ ê, dòng lệ tủi hổ tuôn dài trên má khi nghĩ đến Quách Tử Khuê. Dẫu chữ trinh chưa mất nhưng thân xác đã bị nam nhân khác đụng chạm thì nàng còn mặt mũi nào đến với chàng nữa? Nàng chưa kịp oán trách gã ân nhân chết toi kia thì có tiếng chân người ngoài cửa.
Tống Thụy vội nằm xuống, kéo chăn đắp kín đến tận cổ.
Cửa phòng mở ra và một nữ nhân mặc võ phục đen bước vào. Nàng ta độ tuổi tam thập, dáng người khỏe mạnh, song dung mạo nhu mỳ, đầy nữ tính.
Thiết Đảm Hồng Nhan thở phào nhẹ nhõm, lòng khấp khởi mừng rằng chính nữ nhân này đã chăm sóc mình chứ chẳng phải một gã đàn ông có bàn tay nhám nhúa nào cả.
Người phụ nữ ấy bước đến cười rất tươi và nói:
- Nô tỳ được lệnh của Hầu gia đến vấn an ngọc thể của Tống cô nương.
Người hy vọng được diện kiến tôn nhan trong bữa điểm tâm sáng nay.
Tống Thụy có kiến văn rất rộng, nghe nàng ta gọi người mang mặt nạ là Hầu gia thì ngờ ngợ đoán ra lai lịch, liền dò hỏi thêm:
- Dám hỏi đại thư phải chăng ân công chính là Ngân Diện Hầu gia Tiêu Lạp Dân ở đất Trịnh Châu?
Nữ nhân phì cười lắc đầu:
- Bẩm không, gia chủ nhân là nhị công tử Tiêu Mẫn Hiên, Hầu tước đời thứ năm, tuổi mới đôi mươi. Và xin Tống cô nương chớ xưng nô tỳ là đại thư.
Cứ gọi một tiếng Tiểu Tinh là được rồi. À! Nô tỳ cũng cùng họ Tống với cô nương đấy.
Nghe nói đối phương đồng họ với mình, Tống Thụy càng có hảo cảm.
Song nàng đang là khách Hầu gia không tiện tranh tiện tranh cãi thứ bậc nhà người, tạo sự rắc rối xưng hô. Tống Thụy vui vẻ bảo:
- Dẫu danh phận thế nào cũng không quan trọng, lòng Tống Thụy luôn biết ơn người đã chữa trị thương thế cho mình.
Tiểu Tinh che miệng cười khúch khích, ánh mắt đầy vẻ giễu cợt:
- Té ra lúc nãy cô nương đã sợ khiếp vía vì tưởng ngọc thể đã bị nam nhân nào đó sờ mó?
Tống Thụy thẹn đỏ mặt, gật đầu thú nhận:
- Đúng vậy. Khi thấy nàng, ta mới yên tâm.
Tiểu Tinh dường như hài lòng trước thái độ tiết hạnh khả phong của Tống Thụy. Nàng ân cần lấy y phục sạch ở đầu giường, giúp Thiết Đảm Hồng Nhan mặc vào.
Gần khắc sau, Tống Thụy có mặt ở phòng ăn trong tầng chót Hưng Thái đại tửu điếm. Nàng được Tiểu Tinh dẫn đến bàn riêng của Ngân Diện Hầu. Hai bàn kia dành cho đám thủ hạ Hầu phủ, Tiểu Tinh làm xong nhiệm vụ cũng ngồi xuống ngay trong hai bàn ấy.
Cùng lúc Hồ Đồ Thần Thương cũng được một hán tử mặc áo gấm đen đưa ra đến nơi. Tiêu Mẫn Hiên liền đứng dậy, mời hai vị khách an tọa.
Thiết Đảm Hồng Nhan chưa ngồi ngay, nàng ôm quyền vái tạ:
- Ơn cứu mạng của Hầu gia, tiểu nữ suốt đời chẳng dám quên.
Khổng Đam thấy vậy cũng bái lia lịa, hùng hổ nói tràng giang đại hải:
- Khổng mỗ là bậc đại trượng phu đỉnh thiên lập địa, ân oán phân minh.
Nay thọ ân cứu tử của Hầu gia, Khổng mỗ xin làm thân khuyển mã để đáp đền.
Ngân Diện Hầu gia mỉm cười khoa tay:
- Nhị vị chớ bận tâm. Việc tương trợ lẫn nhau là đạo nghĩa chốn giang hồ.
Vả lại, tại hạ nào dám nghĩ đến việc thu nhận một bậc đại hiệp thành danh đây như Khổng huynh đây làm thủ hạ.
Khổng Đam nghe câu tán dương ấy thì vô cùng đắc ý, cười hề hề:
- Cảm tạ Hầu gia đã quá khen. Thật ra, Khổng mỗ chỉ bắt chước bọn kép hát mà nói thế thôi. Ơn kia, ngày sau Đam tôi sẽ tùy cơ mà báo đáp. Khổng mỗ tính khí khác người, hành sự hồ đồ, chỉ ba ngày cũng đủ khiến Hầu gia phải điên đầu.
Nói xong, Khổng Đam ngồi vào bàn của bọn kiếm thủ mà ăn như hổ đói.
Tử Khuê cảm mến cái tính thật thà của gã song không hề có ý thu nạp. Lý do là vì họ Khổng là đệ tử của Nam Thiên Tôn, kẻ địch của chàng. Lẽ nào sau này Khổng Đam có thể vì chàng mà chống lại sư phụ Thứ đến, thân cận với một kẻ quá ngu ngốc là một việc rất nguy hiểm.
Tử Khuê vừa ăn vừa ngắm khuôn mặt xanh xao của Tống Thụy mà rộn ràng niềm thương cảm. Chàng biết nàng yêu thương mình và đã đau khổ rất nhiều trong những tháng qua. Nhớ lại những lần cùng vào sinh ra tử, chàng thức nhận rằng nữ nhân kỳ lạ này chính là người bạn đời tuyệt diệu nhất mà một kiếm khách luôn mong đợi.Ở nàng, chàng tìm được cả tình yêu lẫn tình bạn hữu.
Chờ Tống Thụy nuốt xong chiếc bánh hấp, Tử Khuê điềm đạm hỏi:
- Vì sao Tống cô nương và Khổng Đam lại bị bọn người kia tấn công?
Chúng thuộc bang hội nào vậy?
Tống Thụy buông đũa đáp:
- Chẳng rõ bọn họ là ai mà có ý định bắt sống tiện nữ. May mà Khổng sư huynh sớm ra tay tương trợ nên mới cầm cự được đến lúc Hầu gia xuất hiện.
Tử Khuê vẫn còn thắc mắc:
- Bổn nhân nghe đồn Tống cô nương đã từng đối đầu với Nam - Bắc Thiên Tôn, sao lại được Khổng huynh giúp đỡ?
Tống Thụy mỉm cười:
- Với tính nết ấy thì Khổng Đam nào có phân biệt bạn hay thù. Vả lại, y đã bị Nam Thiên Tôn đuổi cổ rồi.
Tử Khuê lấy làm lạ, quay sang hỏi Khổng Đam:
- Này Khổng huynh! Vì sao các hạ là đệ tử của Nam Thiên Tôn, một trong hai vị Bang chủ mà lại bị Nam Bắc bang khai trừ vậy?
Hồ Đồ Thần Thương buông đũa, nhăm nhó khuôn mặt tròn vo vành vạnh nung núc những thịt cùng mỡ, nói với giọng buồn rầu ấm ức:
- Bẩm Hầu gia! Khổng mỗ làm ơn mắc oán, chỉ trách trời già không có mắt. Hồi cuối năm ngoái, sau trận Độc Nha sơn, gia sư đã lệnh cho Khổng mỗ về Thiên Dương rước nhị sư nương về Lĩnh Sơn. Dọc đường, do thời tiết quá lạnh mà bị tái phát chứng bệnh cũ ngay khi vừa đến thành Vũ Xương. Đêm ấy, thấy nhị sư nương ôm bụng lăn lộn, rên xiết dữ dội, Khổng mỗ sợ quá, định đi mời đại phu nhưng sư nương không cho và bảo rằng chỉ có “Âm Dương Hòa Hợp tâm pháp” của gia sư thì trị được bệnh này. Nay gia sư vắng mặt, bà sẽ hướng dẫn cho Khổng mỗ thực hiện. Đam tôi vốn là người hiếu thảo, nhất nhất tuân lệnh.
Mấy chữ “Âm Dương Hòa Hợp tâm pháp” rất gợi cảm, thầm hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng không lẽ gã họ Khổng này lại ngu ngốc tới mức ấy?
Tiểu Tinh tủm tỉm hỏi cho rõ:
- Này Khổng huynh! Chẳng hay lệnh sư nương niên kỷ bao nhiêu và nội dung tâm pháp kia thế nào?
Khổng Đam ấp úng đáp:
- Như tại hạ đã trình bày, đấy là vợ lẽ của gia sư, tuổi tác mới độ ba mươi hai. Còn “Âm Dương Hòa Hợp tâm pháp” thì... thì... chính là chuyện ấy đó mà.
Vẻ bẽn lẽn, thẹn thùng của gã trai già họ Khổng đã khiến bọn Thần Phong kiếm thủ cười nôn ruột. Từ Vũ vừa tức cười vừa bực bội chửi đổng:
- Con bà nó! Ngươi thông dâm với sư nương mà còn kêu oan cái nỗi gì nữa?
Khổng Đam nhăn mặt biện bạch:
- Xin Từ huynh và anh em chớ hiểu lầm nhân cách của tại hạ. Lúc đầu, sư nương chê miệng Khổng mỗ hôi rượu, ban cho một viên kẹo hoa huế, rồi sai tại hạ xoa bóp thân thể. Lát sau, Khổng mỗ nghe đầu óc chếnh choáng và không biết gì nữa. Khi tỉnh lại mới biết mình bị con mụ người Mông kia cưỡng bức chẳng còn giữ được tiết hạnh. Kể từ đó, đêm nào mụ cũng giày vò tại hạ đến tận sáng.
Cả nhà ôm bụng cười ngặt nghẽo vì cách dùng chữ của Khổng Đam.
Nhưng chính gã thì bật khóc sụt sùi:
- Khổng mỗ đã cắn răng chịu đựng suốt một tháng trời, thế mà về đến Linh Sơn rồi vẫn không thoát. Thỉnh thoảng, nhị sư nương lại lẻn xuống phòng tại hạ. Cuối cùng gia sự cũng phát hiện ra hồi giữa tháng giêng. Nếu không có Phùng sư bá thì Khổng mỗ đã bị gia sư giết chết.
Dẫu cho Khổng Đam chủ động song việc xảy ra quá là khó dung thứ.
Nếu là bậc trượng phu chân chính, gã phải giết ngay người đàn bà dâm đãng kia và thưa thật với sư phụ. Đằng này, họ Khổng lại kéo dài chuỗi ngày tội lỗi thì quả xứng danh hồ đồ. Phải chăng chính gã cũng bị cám dỗ bởi khoái lạc nên không còn dũng khí để cắt đứt?
Tử Khuê không nỡ kết tội gã mà thầm thương kẻ có bẩm sinh đầu óc kém cỏi, ngu muội.
Dù thương tích không sâu, chỉ rách da rách thịt, và được bôi thuốc kim sang thần diệu của Hoạch Đầu hội, hai bệnh nhân vẫn phải tịnh dưỡng, tránh những cử động mạnh để miệng vết thương mau kéo da non. Cho nên, Tống Thụy và Khổng Đam vẫn phải ở lại Hưng Thái đại lữ điếm với người ơn.
Phần Tử Khuê thì ngay sau bữa ăn sáng đã ra ngoài, tiếp tục tìm kiếm người thân. Lần này, chàng chỉ mang theo anh em họ Từ và bốn tay kiếm Thần Phong. Sáu người kia ở lại lữ điếm bảo vệ nạn nhân.
Tin tức về trận chiến ở công viên Nam Hải đã loan khắp thành, nên nhiều ánh mắt trên đường phố đã nhìn Ngân Diện Hầu với vẻ hiếu kỳ và nể sợ.
Hôm qua, có khá nhiều hào khách chứng kiến thủ pháp phóng phi đao và kiếm thuật của bọn cận vệ Tiêu Hầu gia. Thuộc lạ lợi hại thế thì chủ nhân không thể tầm thường. Họ đã tự hỏi rằng phải chăng đã đến lúc hậu duệ của nhà họ Tiêu dương danh thiên hạ.
Nhưng vị Hầu tước trẻ tuổi kia chẳng hề tỏ vẻ hãnh diện, tự hào. Và dường như chàng ta đang tư lự về một vấn đề nghiêm trọng nào đó?
Quả đúng vậy, Tử Khuê đang cố phỏng đoán lai lịch, môn hộ của những kẻ đã tấn công Thiết Đảm Hồng Nhan. Kiếm pháp của họ khác hẳn với những môn phái mà sư phụ chàng đề cập đến. Bản lĩnh của họ không bằng bọn Thần Phong kiếm thủ vì tuổi tác chỉ độ tam thập trở xuống. Nghĩa là, lớp trung niên của bang hội ấy sẽ lợi hại hơn nhiều. Tử Khuê linh cảm rằng canh bạc võ lâm sẽ có thêm một tay chơi sừng sỏ.
Và nếu đúng vậy thì Tử Khuê khó mà bảo vệ được Tống Thụy vì lực lượng quá mỏng manh. Chàng quay lưng hỏi Từ Phong:
- Từ các hạ có phát hiện manh mối gì về lai lịch của bọn địch thủ hôm qua không?
Tử Khuê đã nhập vai Tiêu Mẫn Hiên, vì tôn kính Tiêu nhị phu nhân mà tôn trọng cả những người bạn thơ ấu của bà. Bở vậy, chàng rất lễ độ với anh em họ Từ, dù thân phận của họ chỉ là thủ hạ. Điều này đã làm cho Từ Phong, Từ Vũ rất cảm kích. Những kiếm thủ Thần Phong khác cũng rất hài lòng trước cách xưng hô của tân Hội chủ. Chàng ta đã khiến họ cảm thấy nhân cách mình có giá trị hơn trước. Và họ nhủ lòng rằng sẽ sẵn sàng chết vì người tri kỷ.
Nhắc lại, khi nghe Tử Khuê hỏi, Từ Phong liền đáp:
- Bẩm Hầu gia! Tối qua thuộc hạ cũng suy nghĩ mãi và cùng anh em bàn bạc phán đoán. May thay, Tống Tiểu Tinh hiền muội đã nhớ ra mình từng gặp loại kiếm pháp ấy. Hồi giữa năm ngoái, Tống hiền muội nhận lệnh xuống Tín Dương công cán. Khi sang đến bờ Nam sông Hoài Hà và còn cách cửa Bắc thành Tín Dương hai chục dặm, Tiểu Tinh bỗng nghe trong lối mòn của cánh rừng mé tả kia có tiếng mỹ nhân kêu cứu. Tinh muội động lòng hiệp nghĩa liền rẽ vào và theo dấu vó ngựa mà đuổi theo. Cuối cùng, những dấu vết ấy đã dẫn Tiểu Tinh đến một tòa sơn trang nằm dựa núi Thốc Sơn. Cơ ngơi này rất rộng lớn và kiên cố, tường xây cao đến hai trượng, cổng chính treo chiêu bài Long Vân bảo.
- Tinh muội kiên nhẫn chờ đợi đến tối, trèo tường vào dọ thám. Trước tiên, nàng ta nhìn thấy mấy trăm hán tử võ phục xám đang luyện kiếm. Và đấy chính là thứ kiếm pháp đã tạo ra những kiếm ảnh hình tam giác mà chúng ta đã gặp chiều qua.
- Tiểu Tinh bám vào đỉnh tường, di chuyển vào khu hậu viện thì phát hiện nhà cửa, phòng ốc nhiều vô số, không tài nào tìm ra được chỗ nhốt nạn nhân. Tinh muội tự lượng sức mình, đành bó tay, rời khỏi nơi ấy.
Nghe xong câu chuyện, Tử Khuê bâng khuâng thầm nghĩ:
- Té ra có những người trong bọn sát thủ này vẫn còn giữ được lòng hiệp nghĩa. Ta phải tìm hiểu cặn kẽ rồi tìm cách đưa họ về với chính đạo.
Và ngay sau đó, Tử Khuê chợt đến những lời lẽ mà nghĩa phụ Trung Thiên Tôn. Ông từng chỉ về hướng núi Thốc Sơn, cách La Sơn vài chục dặm, bảo rằng nơi ấy là nơi ẩn cư của một ma đầu cái thế, Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong. Họ Quảng năm nay tuổi gần thất thập, tính tình thâm trầm, kính đáo, cơ trí thông tuệ tuyệt luân, gian hùng đáng mặt anh em với Tào Tháo. Tuy lão đã thoái xuất giang hồ ở tuổi sáu mươi, nhưng Trình Ninh Tĩnh không hề yên tâm. Ông đoán rằng Long Vân Tú Sĩ đã tìm được bí kíp võ công của cổ nhân, đang cố tu luyện và chờ ngày khuynh đảo võ lâm. Một con người tài hoa đầy tham vọng như Quảng Chiêu Phong sẽ không chịu gác kiếm quy ẩn sớm như thế.
Tử Khuê bất giác rùng mình lo sợ bởi giả thiết rằng Long Vân bảo cố bắt sống Tống Thụy để uy hiếp Trung Thiên Tôn. La Sơn không xa Thốc Sơn và Trần lão chính là trở ngại lớn lao đối với mưu đồ bá chủ của Long Vân Tú Sĩ.
An nguy của Thiết Đảm Hồng Nhan cũng có thể là của những người khác trong gia đình chàng. Nếu họ có mặt ở đây đúng lúc tất sẽ bạt kiếm tương trợ Tống Thụy.
Từ ngày học xong “Lôi Đình kiếm pháp” và có thêm chục năm công lực, Tử Khuê không sợ bất cứ địch thủ nào. Nhưng chàng lại đang hóa thân làm người khác, chẳng thể đem hết sở học ra thi thố, nên khó mà bảo vệ được những người mà mình yêu quý nếu đối phương quá hùng mạnh, đông đảo. Tử Khuê suy nghĩ một lúc, gượng cười nói với bọn thủ hạ:
- Nguy hiểm thật. Xem ra ta đã vô tình chọc nhằm tổ ong dữ là Long Vân bảo. Không biết họ có nể nang cái tước Hầu gia của ta không nhỉ?
Từ Vũ nhếch mép cười nhạt, ánh mắt đầy vẻ oai nghiêm:
- Hầu gia cứ yên tâm. Sau khi biết bọn kẻ thù là ai, bọn thuộc hạ đã sớm gửi thư hỏa tốc về Hầu phủ, gọi hết đội Thần Phong kiếm thủ đến đây rồi. Chỉ nội chiều nay họ sẽ có mặt.
Tử Khuê vừa mừng vừa kinh ngạc, hỏi lại gã:
- Vì sao các hạ hành động một cách sáng suốt như vậy? Và thư di chuyển bằng cách nào mà Hầu phủ có thể nhận được nhanh như thế?
Từ Vũ vui vẻ đáp:
- Bẩm Hầu gia, chiều hôm qua thuộc hạ đã cho người ở lại công viên Nam Hải dọ thám tình hình. Nhờ vậy mà chúng ta biết được rằng bọn địch đã cùng viện binh quay lại thu nhặt những kẻ bị thương hoặc đã chết. Gã Tương Ký ẩn núp trong lùm cây nên nghe lóm được vài câu đối phương bàn bạc. Đầu lãnh của chúng, một tên trung niên, râu quai nón, đã tỏ vẻ ngần ngại khi đụng chạm đến Hầu gia tại đây. Gã ra lệnh cho thủ hạ tạm xếp xó vụ này lại, chờ đến sau ngày rằm, khi Tống cô nương trở về Nghiệp thành thì mới ra tay.
Từ Phong cướp lời em, ranh mãnh nói:
- Nhưng bọn thuộc hạ biết Hầu gia đã quyết chí lấy Thiết Đảm Hồng Nhan nên bàn nhau gọi quân tiếp viện.
Đúng là Tử Khuê đã tuyên bố như thế khi bọn thuộc hạ tỏ ý không tán thành việc chàng chọn Tống Thụy làm ý trung nhân. Họ đã khai hết lai lịch cũng như thành tích của ả cọp cái, mong làm chàng thối chí. Kể cả nghi vấn rằng Tống Thụy đã thất thân với Thiếu chủ Xoa Lạp cốc Nhạc Cuồng Loạn.
Tử Khuê đã phải giả vờ làm một trai tơ mới lớn, lỡ say mê rồi thì bất chấp tất cả.
Thấy chủ nhân lộ vẻ ngượng ngùng, Từ Vũ bác lời anh:
- Thật ra việc cầu cứu Hầu phủ là để bảo vệ Hầu gia trước tiên. Lúc nãy, thuộc hạ chưa kể hết những gì Tương Ký nghe được, Long Vân bảo cũng đã quyết định chặn đường tiêu diệt chúng ta. Chính vì thế mà bọn thuộc hạ đã mau chóng nhờ chim bồ câu của Cái bang đưa tin khẩn về Trịnh Châu. Nhờ vậy mà bọn viện binh mới có thể đến đây sớm được.
Tử Khuê ngơ ngác hỏi lại:
- Chẳng lẽ Cái bang cũng liên minh với bổn hội?
Từ Vũ lắc đầu, tủm tỉm đáp:
- Bẩm không. Các Phân đà Cái bang đều có quyền kiếm thêm tiền bằng cách chuyển giùm thư tín cho đồng đạo võ lâm hoặc bách tính. Họ chẳng cần biết nội dung của thư từ nếu người gởi và địa chỉ đến không đáng ngờ. Bao năm qua, bổn hội đã nhờ họ rất nhiều.
Tử Khuê chua chát nghĩ:
- Bang chủ Cái bang má biết được sự thật oái ăm này thì chắc sẽ ngã ngửa ra mà chết vì tức tối.
Từ Phong bỗng cười gượng gạo, ấp úng nói:
- Nay Hầu gia đã rõ ẩn tình thì xin hãy tha cho thuộc hạ tội lấy trộm Kim ấn. Không có cái dấu hiệu triện chết tiệt ấy thì Du Tổng quản sẽ không tin.
Tử Khuê chợt nhớ ra mình có mang theo một chiếc ấn triện nhỏ bằng vàng khối để đóng trên thư từ, văn bản. Chắc là Tống Tiểu Tinh đã lén thó của chàng vì ả là người phục vụ quần áo, chiếu mền.
Tử Khuê bật cười dễ dãi:
- Không sao! Không sao! Chư vị đã hành động vì hảo ý nên ta không nỡ bắt lỗi. Nhưng lần sau cứ nói thật với ta, đừng nên che giấu.
Hai gã họ Từ có ý sợ hãi cúi đầu vâng dạ. Qua mặt thượng cấp là một việt chẳng nhỏ, may mà họ phán đoán không sai về tính cách của cậu chủ nhỏ.
Chàng rất nhân từ tất sẽ bỏ qua.
Tử Khuê cùng sáu thủ hạ lang thang khắp thành, cố tìm thêm một vài nữ nhân nữa. Bọn Thần Phong vừa đi vừa cười thầm cái gã Tiêu Hầu gia dở người, kiếm vợ mà cứ như đi chợ vậy.
Đến đầu giờ Ngọ, cả bọn đều thấy đói bụng nên ghé vào Giác Duyên đại phạn điếm dùng bữa. Tuy là chiêu bài mang hơi hướng Phật pháp nhưng quán này lại bán chủ yếu là món mặn, cơm chay cũng có song chỉ là phụ, được biểu hiện trên tấm bản gỗ dán giấy vàng, dựng trước cửa “Bổn tiệm có bán cả thức ăn chay”.
Nghịch lý ấy xuất phát từ Thiếu Lâm tự là một ngôi chùa thiền tông, không được đám nữ tín đồ ưa chuộng. Ở đấy các nhà sư trẻ luôn giữ trang nghiêm như tượng, chẳng biết tươi cười chào đón. Họ cũng không biết coi bói, chấm số tử vi, chọn ngày hung cát, hoặc gỡ rối tơ lòng. Vị trí chùa lại khá cao, làm nhùn chân đám Phật tử già yếu. Còn những bài thuyết pháp của Thiếu Lâm tự thì lại quá cao siêu, hạng thanh văn duyên giác chẳng thể nào hiểu nổi.
Cho nên trừ những kẻ yêu mến thiền học, đa số tìm đến những ngôi chùa nhỏ khác, theo phái Tịnh Độ Tông. Ở đấy, họ tìm được tất cả những gì mình cần thiết về mặt tâm linh cho người sống lẫn người chết.
Do đó, Giác Duyên đại phạn điếm bán đồ mặn đắt hơn đồ ăn chay. Khổ nỗi, cái tên sặc mùi nhang khói ấy lại không quyến rũ được đám hào kiệt giang hồ từ bốn phương kéo về nên quán cơm rộng lớn này rất vắng khách.
Khi bọn Tử Khuê bước vào phạn điếm thì chỉ có lèo tèo vài bàn thực khách. Họ ăn chứ không nhậu, không giang lại càng yên tĩnh buồn chán.
Quán đang ế ẩm nên khách được chào đón ân cần, niềm nở, nhất là khi đây là một vị Hầu tước sang trọng, quyền quý. Và trong chốc lát, thức ăn được mau chóng dọn ra, tất nhiên là có cả vò rượu Thiên Hưng thượng hạng.
Dù tửu lượng rất cao, nhưng Tử Khuê ít khi uống nhiều. Chàng có thể vì người mình yêu mến mà uống thâu đêm suốt sáng để họ được vui, nhưng chưa bao giờ dùng rượu để nhấn chìm nỗi buồn phiền của bản thân. Sau cơn say rã rời, cuộc đời vẫn hiển hiện những đắng cay, phiền não vì còn người thì còn đó những nỗi buồn khôn khuây.
Tử Khuê ăn uống chậm rãi, từ tốn, ánh mắt hướng ra ngoài của quán, như sợ không kịp nhìn thấy người thân đi ngang qua.
Phải chăng trời cao không phụ người có lòng? Một đoàn nhân mã đông đảo đã dừng vó ngựa trước Giác Duyên đại phạn điếm, và lá đại kỳ Hoàng Phong bang bay phần phật trong gió đã khiến Tử Khuê vui khôn xiết.
Trái tim chàng rộn rã đập nhanh vì người đầu tiên bước vào quán quan sát là Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San. Gã có mặt tức Dịch Tái Vân cũng vậy.
Dịch Quan San quét đôi nhãn thần quan sát khắp lượt thực khách, thấy không có gì đáng trở ngại liền trở ra. Lát sau, họ Dịch kính cẩn hướng dẫn ba nữ nhân áo vàng, đầu đội nón che chân diện, vào trong quán.
Nhờ thái độ nhũn nhặn của Quan San mà Tử Khuê đoán ra ngay nữ nhân đi chính giữa chính là mẫu thân mình, Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam.
Chàng phải cố đè nén niềm cảm xúc đang dâng trào như nước lũ, không chạy đến ôm từ mẫu mà khóc cho thỏa thích.
Sáu gã kiếm thủ Thần Phong cũng dán nhãn quan hiếu kỳ vào những người mới đến, nên không phát hiện mắt chủ nhân mình ướt rượt.
Bàn của Tử Khuê và những bàn có thực khách khác đều nằm dọc hướng tây nên khoảng trống còn lại rất lớn. Dịch Quan San liền bố trí cho ba nữ nhân vào một bàn ở giữa. An tọa xong, họ lột nón rộng vành có rèm the mỏng, để lộ gương mặt mà Tử Khuê nhung nhớ đã bao ngày. Chàng nghe lòng nhói đau khi vùng tóc mai của mẹ hiền đã điểm bạc và dáng vóc của bà gầy gò hơn trước.
Nhan sắc của Thiên Kim, Tái Vân cũng kém tươi, không hề có một chút phấn son, sắc diện phảng phất nỗi ưu buồn, lo lắng.
Nhưng đối với bọn Thần Phong kiếm thủ thì hai người ấy vẫn xinh đẹp phi thường. Và khi phát hiện tiểu Hầu tước cứ nhìn mãi về phía ấy, Từ Phong rầu rĩ nói nhỏ:
- Bẩm Hầu gia! Nữ nhân trung niên ấy thì thuộc hạ không rõ là ai, nhưng hai ả trẻ tuổi kia lai lịch rất lớn, người chớ nên tơ tưởng cho hoài công. Cái ả đẹp trang nghiêm là Bang chủ Hoàng Phong Trình Thiên Kim, cũng là Hầu tước. Nàng ta tính tình nóng nảy, lỗ mãng kinh khủng nên có biệt danh Trình Giảo Kim. Còn cô nàng thon thả có đôi mắt nhiếp hồn kia là Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái vân, xảo trá nổi tiếng võ lâm. Ả cũng chính người Thần Đao bảo nhờ bổn hội bắt sống.
Nghe gã nói xấu vợ mình, Tử Khuê phì cười, ỡm ờ đáp:
- Sách có câu “phu tướng phụ tùng”, họ có dữ dằn mấy ta cũng không sợ.
Bổn nhân đã phát nguyện rằng sẽ ôm hết giai nhân trong thiên hạ. Nay chẳng thể bỏ qua mối hời này được. Còn hợp đồng với Thần Đao bảo thì ta cũng sẽ hủy bỏ luôn.
Bọn kiếm thủ ngao ngán nhìn nhau. Họ cho rằng chàng trai trẻ tuổi này chưa hết điên nên mới muốn vợ một cách dữ dội thế.
Lúc này Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các, biểu thúc của Thiên Kim đã bố trí xong người canh gác, đưa số còn lại vào quán. Ngoài toán đệ tử Hoàng Phong bang kè kè lồng dựng ong độc, còn có bốn mươi hai gã hàng binh Xoa Lạp cốc.
Những người ấy ngồi chung quanh để bảo vệ thượng cấp. Trình lão thì cùng ăn với ba nữ nhân và Dịch Quan San. Năm người lặng lẽ dùng bữa và Tái Vân là người buông đũa trước. Nàng bưng tách trà nhấm nháp, mắt liếc quanh nhận ra cái gã diêm dúa, mang mặt nạ kia đang nhìn mình đắm đuối.
Là người lịch duyệt, Tái Vân đoán ngay đối phương chính thị Ngân Diện Hầu đất Trịnh Châu. Tổng đàn Võ lâm cũng ở đấy nên nàng từng nghe Âu Dương Mẫn nhắc đến Hầu phủ. Lão rất bực bội vì những cơ sở kinh doanh của nhà họ Tiêu không chịu đóng phí bảo kê cho lão Đại thành Trịnh Châu, khiến lão cũng giảm phần thu nhập.
Dịch Tái Vân cau đôi mày liễu thanh mãnh, lộ vẻ khó chịu rồi quay sang hướng bắc. Trước kia, nàng luôn tự hào khi được bọn nam nhân chiêm ngưỡng, say mê. Nhưng giờ đây, những ánh mắt tôn thờ ấy chỉ khiến nàng thêm đau đớn vì thương nhớ trượng phu.
Khi buổi ăn kết thúc thì có một hán tử áo vàng, thấp đậm, nhễ nhại mồ hôi, chạy vào bẩm cáo Trình lão:
- Bẩm lão gia! Đoàn gia trang đã bán cho người khác và tất cả các khách sạng trong thành đều hết phòng.
Trình lão thất vọng than thở:
- Thế có chết không chứ. Lão phu không ngờ lão chết toi họ Đoàn lại đột nhiên bán nhà. Tổng nhân số của ta hiện nay hơn trăm, tối nay biết trọ ở đâu bây giờ?
Thiên Kim nghiêm giọng bảo bọn thủ hạ:
- Sao ngươi không thử hỏi mướn những trang viện khác trong thành?
Gã áo vàng rầu rĩ đáp:
- Bẩm Bang chủ. Thuộc hạ cùng hai mươi huynh đệ khác đã rảo khắp thành mà không tìm được nhà nào còn trống, dù lớn hay nhỏ.
Tử Khuê nghe đến đấy liền hỏi anh em họ Từ:
- Chiều nay khi đội Thần Phong kiếm thủ đến đây thì họ sẽ ở đâu?
Từ Vũ đắc ý đáp:
- Bẩm Hầu gia. Chính chúng ta đã mua Đoàn gia trang hồi sau tết. Lão họ Đoàn thua bạc nên bán rất rẻ. Bổn hội có tai mắt khắp nơi, luôn nắm được cơ hội kiếm lời. Cơ ngơi ấy rất rộng lớn, phòng ốc, tiểu viện gần trăm gian, thừa sức chứa nửa ngàn người. Nếu Hầu gia muốn nhân dịp này lấy lòng người đẹp thì xin cứ tùy tiện.
Tử Khuê mừng rỡ, giả vờ hỏi thêm:
- Này chư vị! Liệu đám người này có quen biết với Thiết Đảm Hồng Nhan hay không?
Gã sát thủ rậm râu tên Tần Thiếu Bá được dịp lập công với chủ, lên tiếng ngay:
- Bẩm Hầu gia! Thuộc hạ từng có công cán ở Dụ Châu, biết rõ rằng Tống cô nương và Đông Nhạc Tiên Hồ cùng là bạn của Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán. Vậy thì họ phải quen biết nhau.
Tử Khuê chỉ hỏi cho có lệ chứ chàng biết rõ quan hệ ấy hơn ai hết. Chàng mỉm cười hài lòng, đứng lên sửa sang y phục rồi bước đến bàn của người thân.
Họ nhìn chàng với ánh mắt nghi hoặc, cảnh giác và thiếu thiện cảm.
Tử Khuê ôm quyền, nhã nhặn nói, mắt hướng thẳng vào Kỹ nương:
- Bẩm phu nhân. Tại hạ Tiêu Mẫn Hiên quê đất Trịnh Châu, cũng là chủ mới của Đoàn gia trang. Hiện nay, nơi ấy vẫn còn bỏ trống, chưa sử dụng đến.
Ngưỡng mong phu nhân cùng chư vị đây hạ cố nhận lời kính thỉnh của tại hạ, đến đấy nghỉ ngơi.
Giọng nói của Tử Khuê hơi khàn và đầm ấm, khác hẳn khi xưa, có lẽ vì “Thiên niên Hà thủ ô”. Kỳ trân hãn thế ấy đã tạo ra những thay đổi nơi cơ thể chàng, không chỉ ở hiện tượng mọc râu, biến giọng mà các giác quan cũng minh mẫn hơn trước bội phần.
Tất nhiên là chẳng ai trong số những người thân của chàng nhận ra đôi môi và hàm răng quen thuộc, bởi chung quanh chúng có quá nhiều những cọng râu cứng cáp, cái mà Tử Khuê không hề có.
Những ánh mắt thiết tha của chàng đã đánh động mối dây linh cảm thiêng liêng trong lòng người mẹ. Tuy không nghĩ đối phương là con của mình, song bất giác Kỹ nương có cảm tình với Ngân Diện Hầu.
Băng Tâm Ma Nữ hiền hòa đáp:
- Lão thân xin đa tạ hảo ý của Hầu gia. Song phương chưa hề quen biết nên bọn lão rất ngại ngùng. Tuy nhiên, nếu lát nữa không còn chốn trú thân nào khác, bọn lão thân sẽ đến quấy nhiễu Đoàn gia trang một phen.
Tử Khuê hiểu rằng bà con do dự, muốn thương lượng với những người khác. Chàng vái chào rồi quay về bàn mình.
Từ Phong tủm tỉm cười, hạ giọng:
- Thuộc hạ e rằng Hầu gia sẽ hoài công. Phong này dám chắc vị phu nhân này theo họ Quách và là mẹ chồng của hai ả nõn nà kia.
Tử Khuê thản nhiên đáp:
- Ta cũng nghĩ như thế và sẽ sai các hạ đi Hứa Xương ám sát cái gã Quách công tử tốt phúc nọ. Khi hai nàng đã góa bụa thì ta ngỏ lời cầu hôn thì cũng chẳng muộn.
Bọn sát thủ bật cười, chẳng hiểu Hội chủ nói đùa hay nói thật. Và nếu chàng muốn thế thì bọn họ cũng sẵn sàng thực hiện ngay. Bắt sống người thì hơi khó chứ ám sát thì dễ hơn. Họ chỉ cần kiên nhẫn mai phục, chờ đợi con mồi ra khỏi hang, phóng vài mũi tiêu tẩm độc là rồi đời.
Bên kia, Dịch Tái Vân cũng hạ giọng nói khẽ với mẹ chồng:
- Bẩm mẫu thân! Hài nhi đã bắt gặp gã họ Tiêu nhìn chúng ta trân trối.
Hài nhi e rằng gã là kẻ hiếu sắc, không thể tin tưởng được.
Kỹ nương gật gù, nhìn Thiên Kim với ánh mắt dò hỏi. Nữ Hầu tước bèn thỏ thẻ:
- Bẩm mẫu thân! Nhân số chúng ta đông đến gần trăm, chỉ cần tiểu tâm đề phòng là được.
Dịch Quan San cũng góp ý:
- Bẩm can nương. Hài nhi tự tin có thể đối phó với mọi mưu ma chước quỷ, nếu gã họ Tiêu dám giở trò.
Trình Kiếm Các là khách nên giờ mới lên tiếng. Nhưng lão vừa tằng hắng xong chưa kịp nói thì phát sinh biến cố. Ngoài đường vọng ra những tiếng vó ngựa dồn dập, gấp gáp và đoàn kỵ sĩ đông đáo ấy dừng cương trước cửa Giác Duyên phạn điếm. Đáng ngại hơn nữa khi ai đó dõng dạc ra lệnh:
- Mau vây chặt phạn điếm, không để bất cứ ai ra vào!
Mặt trước quán cơm chay nửa mùa này nằm trên đường trục bắc nam, phía sau và hai bên giáp với đường nhánh, nên đối phương hoàn toàn có thể vây kín, không chừa một lối thoát nào.
Qua cửa chính, người bên trong có thể thấy thấp thoáng bóng quân binh cầm giáo đang phối hợp cùng những gã áo xanh thẩm cầm đao Nhật Bản. Thứ đao đặc dị ấy chính là chiêu bài của Thần Đao bảo. Nhưng trong số những kẻ đi theo vị võ quan vào quán, không chỉ có Thần Đao bảo chủ Tần Minh Viên mà còn có Võ lâm Minh chủ Âu Dương Mẫn.
Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân hiểu ngay rằng họ đến đây vì mình.
Dẫu đã dự trù trước cuộc chạm mặt bằng cách mang theo một lực lượng đông đến hàng trăm, song Tái Vân và những người khác không ngờ rằng đối phương lại mượn tay quan quân. Ai nấy ngồi im như tượng, đặt tay vào đốc gươm chờ đợi.
Gã võ quan tuổi tứ tuần kia hách dịch nói:
- Bổn quan là Tổng binh thành Đăng Phong, nhận lệnh Tri huyện đại nhân đến đây bắt ả Dịch Tái Vân vì tội đào hôn. Theo sớ kiện thì Tái Vân đã được nghĩa phụ là Âu Dương lão gia gả cho công tử Tần Trọng Vĩ, con trai Thần Đao Bá. Y thị đã chịu nhận sính lễ song lại bỏ trốn trước ngày hôn lễ, vi phạm luật Đại Minh.
Dịch Tái Vân uất ức thét lên:
- Nói láo! Bổn cô nương nhân sính lễ của họ Tần khi nào?
Âu Dương Mẫn mỉm cười, âm hiểm ôn tồn nói:
- Vân nhi! Ba vạn lượng vàng mà can gia trao cho con chính là lễ vật của Tần gia đấy.
Quả đúng là Tái Vân từng nhận của Âu Dương Mẫn số vàng ấy, song vì tưởng lão cho vì yêu mến. Biết mình đang gánh chịu những hậu quả của hành vi nông nổi năm xưa. Tái Vân vô cùng đau xót và hổ thẹn với gia đình chồng.
Kỹ nương không nói gì song nhìn nàng với ánh mắt buồn rầu.
Tái Vân hiểu rằng trong hoàn cảnh này mình loạn động sẽ hại đến Quách gia trang và Trình Thiên Kim. Nàng chống cự thì tất cả sẽ rút gươm, nhưng dẫu có thoát được thì hai nhà họ Quách, Trịnh cũng trở thành tội phạm của triều đình.
Nước mắt tuôn như suối, vai gầy run rẩy, Tái Vân hình dung đến gương mặt đôn hậu của Tử Khuê, lẩm bẩm gọi tên chàng lần cuối. Nàng quyết định quyên sinh để bảo toàn danh tiết.
Nhưng Kỹ Thanh Lam thông tuệ hơn người, nhãn quan sắc bén, hiểu lòng con dâu, nên nghiêm nghị bảo:
- Vân nhi không được nghĩ quẩn! Việc này đã có ta chủ trì.
Trình Thiên Kim cũng an ủi nàng:
- Vân muội chớ đầu hàng. Gia nương là người cơ trí tất hẳn sẽ có cách đối phó lão quỷ Âu Dương Mẫn.
Trong lúc ấy, Tử Khuê cũng rối như tơ vò, cố tìm cách giải cứu ái thê. Âu Dương Mẫn và Tần Minh Viên chẳng đáng sợ nếu không có hậu thuẫn là nha môn Đăng Phong. Vô kế khả thi, chàng gượng cười với bọn thủ hạ:
- Nguy thật! Gã Tổng binh mắc toi kia mượn vương pháp mà hành sự, làm sao ta có thể can thiệp mà cứu giai nhân đây? Chư vị có diệu kế gì không?
Từ Phong buồn rầu đáp:
- Thuộc hạ e rằng chẳng có cách nào cứu ả họ Dịch cả. Gã Tổng binh tên gọi Trịnh Trường Hoài, thuộc dòng dõi trung lương, trưởng nam cố Tri phủ Lạc Dương Trịnh Lương Nhân. Giống như cha, Trường Hoài rất thanh liêm, kiên quyết, theo vương pháp mà hành xử, không thể mua chuộc hoặc hăm dọa được.
Ký ức phu thường của Tử Khuê đã nhớ ra những dữ kiện liên quan đến cố Tri phủ Lạc Dương Trịnh Lương Nhân được ghi lại trong quyển “án lục tuyệt mật” của Hoạch Đầu hội. Chàng khấp khởi mừng thầm, lòng lóe lên niềm hy vọng.
Trở lại cuộc tranh luận giữa hai bên nguyên và bên bị, chúng ta sẽ nghe được Thiên Kim nói thế này:
- Trịnh túc hạ! Ta là Hoàng Phong Hầu Trình Thiên Kim ở huyện Trình, phủ Nam Dương, chắc thúc hạ có nghe nhắc đến?
Trịnh Trường Hoài gật đầu:
- Đúng là mạt tướng có biết việc này. Nhưng dẫu cho tiểu thư có mặc tước phục, đeo kim bài thì cũng không thể can dự vào công vụ của quan lại Đăng Phong.
Thiên Kim đáp:
- Ta cũng hiểu được điều ấy song có vài lời phế phủ mong Trịnh túc hạ cân nhắc.
Trịnh Trường Hoài ôm quyền cúi đầu:
- Xin Hầu gia chỉ giáo. Mạt tướng rửa tai lắng nghe.
Thiên Kim điềm đạm nói ra một hơi:
- Đúng là ba năm trước Dịch Tái Vân có bái Âu Dương Mẫn làm nghĩa phụ và nhận của ông ta ba ngàn lượng vàng. Nhưng khi nhận số vàng ấy, Âu Dương Minh chủ đã có nói rõ nguồn gốc nên chẳng thể bảo Tái Vân đã nhận sính lễ của Tần gia. Lúc nãy, chính Âu Dương Mẫn đã tự biểu lộ ra. Đấy là chuyện quá khứ, bây giờ Âu Dương Mẫn không còn là nghĩa phụ của Dịch Tái Vân nữa. Lý do là vì Âu Dương Mẫn đang bị triều đình nghi ngờ là hóa thân của tên trọng phạm Huyết Mai hộichủ, Tái Vân sợ liên lụy nên có quyền cắt đứt quan hệ cũ.
Thiên Kim nói rất hữu lý khiến Trịnh Trường Hoài do dự. Gã trầm ngâm một lúc rồi lắc đầu, ánh mắt rất kiên định. Nhưng gã chưa kịp phát biểu thì nghe có tiếng cười khanh khách:
- Này Trịnh Trường Hoài! Phải chăng ngươi dám xem thường Thái tổ hoàng đế nên không thèm đến bái kiến bổn Hầu gia.
Thật ra, Trịnh Trường Hoài không hề thấy Ngân Diện Hầu. Gã chỉ chăm chú nhìn vào cái bàn của Tái Vân theo sự chỉ điểm của Âu Dương Mẫn. Hơn nữa, Tử Khuê ngồi sát vách và được sáu gã kiếm thủ đứng vây quanh bảo vệ.
Khi quân là tội rất nặng nên Trịnh Trường Hoài lạnh cả gáy. Đúng là trong Thiên Lễ Luật của Đại Minh có quy luật rằng quan lại cấp thấp phải đến thăm hỏi cấp trên trước.
Họ Trịnh quay lại, nhìn thấy một người áo gấm, ngực đeo kim bài và che mặt bằng Ngân Diện. Đăng Phong không xa và cũng thuộc phủ Lạc Dương, nên Trường Hoài chẳng thể không nghe nói đến Ngân Diện Hầu. Vả lại, trong thành này cũng có tài sản của Hầu phủ là Hưng Thái đại lữ điếm.
Trịnh tổng binh ngượng ngùng bước đến, khom lưng thi lễ:
- Ty chức Trịnh Trường Hoài, Tổng binh thành Đăng Phong xin ra mắt Hầu gia. Lúc này do quá chú tâm vào công vụ nên ty chức không nhận ra sự hiện diện của Hầu gia. Mong bậc quý nhân lượng thứ cho.
Ngân Diện Hầu mỉm cười mỉm cười bao dung và hòa nhã bảo:
- Mời Trịnh túc hạ an tọa. Bổn Hầu có việc cần bàn.
Tuy lòng chẳng muốn nhưng họ Trịnh chẳng dám từ chối, vái tạ rồi ngồi xuống. Gã giật bắn mình khi nghe đối phương hỏi nhỏ:
- Túc hạ có muốn biết ai là hung thủ đã sát hại lệnh tôn hay không?
Mười hai năm nay, Trịnh Trường Hoài nung nấu trong lòng mối thù sát phụ. Gã biết cha mình bị đồng liêu mướn cao thủ ám hại song không rõ chủ hung là ai? Nay có người cung cấp tin tức, Trường Hoài vui mừng khôn xiết, cố trấn tĩnh hỏi lại:
- Hầu gia không lường gạt mạt tướng đấy chứ?
Ngân Diện Hầu lắc đầu nghiêm nghị bảo:
- Ta lấy danh dự của Ngân Diện Hầu bảo chứng cho lời nói. Nhưng túc hạ phải mượn cớ rút quân, viện cớ rằng có sự can thiệp hợp tình hợp lý của Hoàng Phong Hầu và Ngân Diện Hầu. Còn tri huyện Đăng Phong thì túc hạ cứ bảo lão đừng tham vàng của Âu Dương Mẫn mà mang họa. Bổn chủ là thân cận của Tam Ty Hà Nam, chỉ một câu nói cũng khiến lão mất chức.
Trịnh Trường Hoài xem trọng thù gia hơn cả chức tước. gã chẳng cần quan tâm đến phản ứng của lão tri huyện hoặc Âu Dương Mẫn, khẳng khái gật đầu ngay:
- Mạt tướng xin tuân lệnh. Mong Hầu gia cho biết danh tính hung thủ.
Ngân Diện Hầu kề tai gã nói:
- Kẻ ấy là Trác Thanh Khê, mười hai năm trước giữ chức Tri phủ Nam Dương. Còn bây giờ lão ấy ra sao thì ta không rõ.
Trịnh Trường Hoài trợn tròn đôi mắt hổ, nghiến kèn kẹt:
- Té ra lão ta đã vì chức vụ Tả Bố Chính sứ tỉnh Chiết Giang mà đang tâm ám hại tiên phụ. Do lão là bằng hữu chí thiết của tiên phụ mà mạt tướng không bao giờ nghi ngờ.
Ngân Diện Hầu sợ gã hiếu tử này nóng nẩy, thí mạng báo thù, liền nghiêm giọng:
- Nếu Trác Thanh Khê hiện là người đứng đầu tỉnh Chiết Giang thì việc báo thù của túc hạ sẽ bội phần khó khăn, có thể mất mạng mà không thành công. Bổn tước sẽ bày cho túc hạ một kỳ mưu.
Rồi chàng kề tai gã thì thầm một lúc. Sắc diện họ Trịnh rạng rỡ hẳn lên.
Gã vái dài để tạ ơn rồi quay bước trở lại vị trí cũ.
Âu Dương Mẫn và Thần Đao bảo chủ Tần Minh Vi
Bình luận truyện