Bạch Hổ Tinh Quân
Chương 7: Thạch nữ đáo Vu Sơn Quỷ Hồ Ly đắc đạo
Tuy nhiên, vợ chồng Quách trang chủ chỉ có thể bí mật nhận dâu và Thiên Kim vẫn giữ vai tỳ nữ. Thứ nhất là vì thanh danh của Hầu phủ, thứ hai vì mối hiểm họa Xoa Lạp cốc.
Một chiều gần cuối tháng năm, Quách gia trang nhận được hai lá thư gần như cùng một lúc. Lá thứ nhất là của Kỹ Tòng Thư thông báo hôn lễ giữa ái nữ Kỹ Lưu Tiên và nam tử của Lưu Tài Thần. Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán đã ngỏ lời cầu hôn và đám cưới sẽ cử hành vào đầu hạ tuần tháng sáu. Đấy là lý do vì sao Tòng Thư không đi Hứa Xương như đã hẹn. Kỹ lão đã mời vợ chồng Quách Thiên Tường và Tử Khuê đến chơi sẵn có dịp tham dự hôn lễ luôn một thể.
Được tin này, Kỹ nương rất hân hoan vì có dịp tạ lỗi với huynh trưởng. Bà sẽ đứng ra tổ chức lễ vu qui cho cháu gái một cách linh đình và chu đáo nhất.
Tòng Thư là nam nhân lại góa vợ nên chẳng thể nào làm tốt việc ấy được. Kỹ nương thì đã từng gả hai chị cùng cha khác mẹ của Tử Khuê nên rất có kinh nghiệm.
Lá thư thứ hai là của Bang chủ Cái bang gởi cho Tử Khuê. Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường là một trong hai người của Hội đồng Võ lâm biết lai lịch thực của Vu Diệp chân nhân. Người kia là Trương Thiên Sư.
Nội dung thư chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: “Kỳ Hoàng đã ngộ nạn. Vu Diệp mau đến Lạc Dương”. Kỳ Hoàng chính là đạo hiệu của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ hoành, sư thúc của hai mẹ con Tử Khuê. Thư gởi đi Hứa Xương bằng chim câu, do đệ tử Cái bang sở tại mang đến Quách gia trang, xem ra tình trạng của Cổ chân nhân rất nguy ngập.
Người võ sĩ rất xem trọng nghĩa sư môn nên Kỷ nương vô cùng lo lắng, đốc thúc Tử Khuê lên đường ngay sáng mai. Bà tư lự nói:
- Thạch bang chủ đã viết như thế là có ý bảo ngươi dùng thân phận Vu Diệp chân nhân mà đến Lạc Dương. Nghĩa là ngoài Bang chủ Cái bang và Trương Thiên Sư ra, không ai biết ngươi là Quách Tử Khuê!
Trong lúc ái tử sửa soạn hành lý, Kỹ nương sai tỳ nữ Thu Linh đi vào thành mua ba bốn bộ đạo bào. Tử Khuê đã mập lên rất nhiều chẳng thể mặc vừa y phục đạo sĩ cũ.
Trình Thiên Kim rất muốn đi theo Tử Khuê nhưng không dám ngỏ lời.
Nàng sắp phải tháp tùng vợ chồng Quách trang chủ đi Bảo Bình sau đó về Hầu phủ. Họ sẽ mang lễ vật đến gặp Trình lão thái, chính thức hỏi cưới nàng cho Tử Khuê.
Thiên Kim mới được gần gũi người thương chẳng mấy ngày, nay phải xa lìa nên lòng buồn vô hạn. Tối đến, nàng lặng lẽ bỏ những vật dụng cần thiết vào tay nải của Tử Khuê và thỉnh thoảng lén gạt nước mắt.
Tử Khuê liền ôm nàng, hôn lên mắt:
- Chúng ta chỉ xa nhau vài ngày thôi, nàng chớ nên bi lụy. Ta sẽ xuôi Nam ngay khi có thể và muộn lắm thì cũng tương phùng trong ngày xuất giá của Lưu Tiên biểu tỷ.
Thiên Kim gật đầu, tỏ vẻ đồng ý nhưng vẫn ôm chặt tình lang như chẳng muốn xa. Da thịt mềm mại ấm nóng và mùi hương ôn nhu từ tóc nàng đã khiến Tử Khuê động tình. Chàng đã biết giấc mộng Vu Sơn ngày ấy là thực, càng yêu thương Thiên Kim tha thiết và không quá giữ gìn lễ giáo khi kề cận. Nhưng hai người chỉ dám vuốt ve nhau chứ không giao hợp vì sợ Thiên Kim cấn thai trước ngày cưới. Nàng là một Nữ Hầu tước, chẳng thể để người đời dị nghị được.
Hôm nay, hai thân xác thanh xuân dán chặt vào nhau nên Thiên Kim cảm nhận được ngay sự ham muốn của Tử Khuê. Nàng thẹn thùng thì thầm:
- Thiếp cũng khao khát được hầu hạ gối chăn cho tướng công. Chỉ tiếc rằng chàng là đạo sĩ mà không thạo thuật Phòng Tung của đạo gia nên hậu quả sẽ khó lường.
Tử Khuê tỉnh ngộ, nhớ lại những đoạn văn trong Đạo Tạng. Chàng hôn nàng và ngượng ngùng nói:
- Ta đúng là ngốc tử. Cảm tạ nàng đã nhắc nhở. Thực ra, muốn tránh thai thì nào có khó gì?
Đạo Tạng là tổng hợp kinh thư của Đạo giáo, bắt đầu xuất hiện từ giữa thời Đông Hán, trước hết là Thái Bình kinh và các đạo thư liên quan đến dưỡng sinh. Từ thời Đường đến thời nhà Minh, Đạo Tạng được hoàn thành và thông hành toàn quốc gồm có: Tam Động Quỳnh Cương, Đại Tống Thiên Cung Bảo Tạng, Vạn Thị Đạo Tạng, Đại Kim Huyền Đô Bảo Tạng, Chính Thống Đạo Tạng, Vạn Lịch Tục Đạo Tạng.
Nội dung sách vở được đưa vào Đạo Tạng rất phồn tạp, có một lượng lớn Đạo kinh và các điển tích liên quan tới sử tích thần tiên, nghi thức tri tiên, cũng có cả giáo nghĩa của các giáo phái khác nhau trong các đời. Ngoài ra còn có sách vở của Bách Gia Chư Tử, từ Tiền Tần đến đời Minh, và những sách liên quan tới các nội dung y dược, dưỡng sinh, luyện đan.
Trong phép dưỡng sinh của Đạo Tạng có cả thuật Phòng Tung, dựa vào thuyết Âm Dương Hòa Hợp. Thuật Phòng Tung là nghệ thuật đạt đến hoan lạc tột cùng trong ân ái, hoặc thu được lợi ích từ việc giao phối để thân thể tráng kiện, sống lâu.
Một trong những thủ thuật ấy của nam nhân là giữ cho mình không thoát dương. Tuy người đàn ông sẽ thiệt thòi về mặt khoái lạc nhưng nguyên khí được bảo toàn. Đạo Tạng còn dạy cả một phương thức tránh thai rất đơn giản là thoát dương bên ngoài.
Đã có cẩm nang, đội uyên ương dìu nhau vào cõi mộng, thỏa lòng nhung nhớ bấy lâu.
Mờ sáng ngày hai mươi bảy tháng năm, Tử Khuê bí mật rời Hứa Xương, mang theo hương da thịt nồng nàn của Thiên Kim.
Xế chiều ngày hôm sau, chàng chỉ còn cách Dĩ thành vài dặm. Chợt trời đổ mưa như trút nước, giông gió thét gào, biến những giọt mưa thành những mũi kim đâm rát mặt người và che mờ nhãn tuyến. Dù đã có áo tơi nhưng Tử Khuê cũng đành bó tay, thúc ngựa ghé vào căn Thập Lý đình bên vệ đường mà ẩn náu.
Dù là trường đình hay đoản đình thì chung quanh cũng chẳng bao giờ có vách nên bụi mưa tạt vào đến tận nơi. Nhưng dẫu sao thì còn khá hơn là phơi mình dưới gió mưa. Vả lại, sấm sét nổ liên hồi, giận dữ xé toang bầu trời xám xịt.
Sau khi đến Vũ Lương sơn, Tử Khuê đã ba lần bị sét đánh và thấy được công dụng nhiệm màu của “Tỵ Lôi thần châu”. Mặc dù thế, chàng cũng chẳng thích làm mục tiêu cho Lôi Thần một chút nào cả. Viên ngọc quý đã được giấu trong đùi chàng bởi một cết mổ nhỏ để nó không bị thất lạc.
Tử Khuê ngơ ngẩn ngắm cảnh mưa gió tơi bời, tiếc rằng không có Thiên Kim bên cạnh để hàn huyên và sưởi ấm cho nhau. Những trận ái ân cuồng nhiệt, đắm say đêm hôm trước đã khắc sâu hình bóng nàng vào tâm thức Tử Khuê. Giờ đây, tất cả những nữ nhân khác mà chàng từng biết đều mờ nhạt bên cạnh Thiên Kim. Nữ Hầu tước chẳng những xinh đẹp mà còn là một tình nhân vĩ đại nhất thế gian.
Đang miên man tưởng nhớ đến người yêu, Tử Khuê chợt phát hiện trên đường quan đạo có một bóng kỵ sĩ rạp mình phi nước đại về hướng Thập Lý đình, nơi chàng đang đứng. Và kỳ lạ thay, những tia sét liên tiếp giáng xuống xa xa vó ngựa cứ như Lôi Thần đang truy sát người ấy vậy.
Tử Khuê vô cùng kinh ngạc và thoáng nghĩ:
- Chẳng lẽ kỵ sĩ kia là kẻ hung tàn, ác độc tới mức chấn động lòng trời? Hay hắn cũng mang một số phận giống ta?
Lúc này, nạn nhân của lão Thiên Lôi mỏ nhọn chỉ còn cách căn Thập Lý đình sáu bảy trượng. Và một tia sét đã giáng xuống khá gần con tuấn mã, làm cho nó đau đớn hí vang rồi gục ngã, quăng cả người cưỡi ngựa xuống đất.
Ánh sáng rực rỡ của nhát búa lôi đình đã giúp Tử Khuê nhìn rõ gương mặt đầy cả kinh hoàng của “Đông Nhạc Tiên Hồ” Dịch Tái Vân. Tóc tai dựng ngược, toàn thân đau đớn khủng khiếp, nhất là hai chân, nhưng Tái Vân vẫn gượng đứng lên, loạng choạng chạy về phía căn dịch đình.
Tử Khuê chẳng kịp suy nghĩ thiệt hơn, lao vút ra như mũi tên rời dây cung, dang tay đón lấy nàng và nhấc bổng lên khỏi mặt đất sũng nước rồi nhảy lùi.
Sau đó, tia sét cuồng nộ kế tiếp đã đánh thẳng xuống, cách hai người mấy bước. Đông Nhạc Tiên Hồ tưởng phen này chết chắc, sợ quá nên ngất xỉu bởi tiếng sét đinh tai nhức óc.
Khi tỉnh lại, Tái Vân mơ màng nhận ra mình đang lõa thể, nằm ngửa trên một lớp vải lụa khô ráo. Và có đôi bàn tay ấm của ai đó xoa bóp khắp thân người nàng. Kỳ diệu thay, đội bàn tay nọ chạm đến đâu thì vị trí ấy không còn đau đớn nữa. Nàng đã nhớ ra kẻ cứu mình là một nam nhân nhưng không quan tâm đến. Nàng chỉ muốn mau mau thoát khỏi cảm giác đau nhức mà thôi.
Thấy ân nhân không dám động chạm đến hai vùng cấm, Tái Vân liền kéo tay người ấy đặt lên đôi nhũ phong mơn mởn của mình, rồi đến phần bụng dưới. Khi đã hoàn toàn thư thái, Tái Vân ngồi lên, thản nhiên nói:
- Ơn cứu mạng tiện nữ chẳng dám quên. Nếu các hạ thích thú, tiện nữ xin hầu hạ ba ngày để đền đáp.
Lúc này ngoài trời mưa đã bớt dữ dội nhưng không gian vẫn tối mờ. Nhờ ánh sáng của một tia sét ở xa xa, Tái Vân nhìn hơi rõ dung mạo của ân nhân. Té ra đấy là một chàng đạo sĩ trẻ, mặt mũi khá tuấn tú.
Chàng ta chẳng hề tỏ ra ham hố hay phân vân mà lại nghiêm trang bảo:
- Nữ thí chủ vốn kém phần âm đức, lại dám đem Lôi Thần ra đùa giỡn nên mới bị báo ứng ngay trong kiếp này. Nếu nữ thí chủ không tỉnh ngộ sửa mình, tu nhân tích đức thì khó toàn thây. Bấy nhiêu lời nhắn nhủ, mong nữ thí chủ chớ quên. Đấy chính là cách đền ơn bần đạo.
Nói xong, vị đạo sĩ trẻ mở tay nải, trao cho Tái Vân một bộ đạo bào để mặc tạm. Y phục nàng đã ướt và dính đầy bùn đất.
Tái Vân thẫn thờ mặc vào, lòng rất sợ hãi, nhớ đến việc mình bắt Hàn Thiếu Lăng từ hôn dù đã nhờ Lôi Thần chứng giám.
Trong nỗi tuyệt vọng ngút ngàn, Đông Nhạc Tiên Hồ chợt thức ngộ ra rằng chỉ có cách đi theo vị đạo sĩ thần thông quảng đại này thì mới mong sống thọ. Tuy trẻ tuổi nhưng đạo hạnh của chàng cao thâm đến mức cứu được người bị sét đánh.
Tái Vân liền quỳ xuống, hành lễ khóc nói:
- Đệ tử Dịch Tái Vân, trước giờ chỉ làm ác, hại người, tội lỗi chất chồng, nay đã tỉnh cơn mê, xin theo bậc Chân nhân tu hành sám hối, mong đạo trưởng cứu vớt kẻ bạc mệnh này.
Tử Khuê mỉm cười đáp:
- Nàng là tuyệt sắc giai nhân, làm đạo sĩ chẳng phải uổng kiếp hồng nhan hay sao?
Tái Vân buồn rầu thú thực:
- Bẩm đạo trưởng! Đệ tử luyện “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp” nên chẳng còn ham muốn nhục dục, đi tu cũng là phải đạo.
Tử Khuê hài lòng nói bỡn:
- Vậy tại sao lúc nãy nàng lại đòi hiến thân cho bần đạo?
Tái Vân thẹn thùng đáp:
- Đệ tử biết người là bậc chân tu, không màng sắc dục nên mới nói thế. Vả lại, đệ tử hơi ấm ức khi thấy người chẳng hề động lòng trước vẻ quyến rũ của đệ tử.
Tử Khuê thấy nàng cực kỳ chân thực với mình nên cũng thương xót.
Chàng trầm ngâm bảo:
- Đạo danh của ta là Vu Diệp chân nhân. Bần đạo cũng muốn giúp nàng trở về nẻo chánh nhưng đồng hành thì e rằng không tiện. Người ngoài làm sao biết nàng là thạch nữ.
Dịch Tái Vân dập đầu van nài:
- Đệ tử xin từ bỏ danh hiệu Đông Nhạc Tiên Hồ, suốt đời mặt áo đạo sĩ, tôn người làm sư phụ. Danh phận rõ ràng như thế thì người đời sẽ không đàm tiếu được.
Tử Khuê bối rối tự nhủ:
- Ta đâu có đóng mãi vai Vu Diệp và cũng chẳng thể tiết lộ thân thế thì làm sao dám cưu mang ả hồ ly đã hướng thiện này?
Chàng phân vân một lúc rồi nói:
- Bần đạo trẻ tuổi hơn mà, nếu nàng làm học trò thì quả là miễn cưỡng, khó coi. Hay là bần đạo thay mặt tiên sư, nhận nàng làm đệ tử Huyền Hư phái.
Nàng gọi ta là sư huynh thì hợp lý hơn. Ta sẽ dạy nàng kinh nghĩa.
Dịch Tái Vân nghe xuôi tai, mừng rỡ hỏi lại:
- Dám hỏi tiên sư đạo hiệu là chi?
Tử Khuê liền nói ra danh hiệu Vu Mộc chân nhân và giải thích sơ qua nguồn gốc của Huyền Hư phái núi Nga Mi. Chàng cũng đặt cho Tái Vân đạo hiệu Vu Thiện.
Tạnh mưa, hai người cưỡi chung một con ngựa, chậm rãi đi đến Dĩ thành.
Trước tiên, Tử Khuê ghé tiệm bán y phục mua sắm vài bộ đạo bào mới cho Tái Vân, cùng những vật dụng cần thiết của mỹ nhân. Tay nải của nàng đã rơi mất trên đường chạy trốn sấm sét.
Đêm ấy, họ trọ trong lữ điếm, sáng ra mua thêm ngựa khởi hành đi Lạc Dương. Hai ngày sau, hai kẻ đồng môn đến Đăng Phong, mướn phòng ở Tung Sơn đệ nhất khách sạn. Rặng Trung Nhạc lừng danh ở phía Bắc thành Đăng Phong, chỉ cách chừng vài dặm.
Nửa đêm, tiết trời u ám và nhiều sấm sét. Tái Vân sợ khiếp bỏ lại phòng riêng, sang phòng Tử Khuê nép vào người chàng mà run rẩy. Chợt có tia sét đánh tới gần, nàng hoảng hốt ôm chặt lấy chàng.
Tử Khuê dở khóc dở mếu, nằm cứng đơ chịu trận. Tuy mang bản chất thạch nữ song Tái Vân lại là vưu vật hiếm có trên đời. Mặt nàng đẹp tựa tố nữ trong tranh, da dẻ trắng trẻo, thơm tho như bông bưởi. Thân thể nàng là kiệt tác của một nghệ sĩ điêu khắc bậc thầy, cân đối phi thường. Hôm trước, lúc hút điện sét trong người nàng ra, Tử Khuê đã có dịp chiêm ngưỡng, lòng thầm khen đấy là tác phẩm không hề có khuyết điểm. Ngực Tái vân đầy đặn nhưng không quá lớn, vòng eo thanh mảnh tương xứng với đôi mông tròn trịa, gọn gàng và cặp chân dài săn chắc.
Pho tượng quyến rũ ấy không biết rung động nhưng cũng khiến bọn nam nhân cháy bỏng bởi khát khao. Đêm ấy, Tài Vân tả tơi khốn khổ vì tai họa nên Tử Khuê chỉ lo cứu chữa mà không nổi tà tâm. Đêm nay, uy lực của nàng đã phục hồi nguyên vẹn, ngát hương dưới lớp áp ngủ bằng the mỏng. Trước những cơn mưa Hạ, tiết trời khá oi bức nên Tử Khuê đã ở trần, cảm nhận được tận cùng sự tiếp xúc thịt da người ngọc.
Chàng biết mình đã động tình, liền cố hình dung đến khuôn mặt u buồn của Thiên Kim để sự hổ thẹn dập tắt lửa dục. Tử Khuê đã cầm cự được cho đến lúc tạnh mưa, nhẹ nhõm trút bỏ gánh nặng.
- Sư muội có thể về phòng mình được rồi đấy.
Tái Vân phụng phịu dụi đầu vào chàng mà thỏ thẻ:
- Lỡ trời lại mưa nữa thì sao? Tiểu muội chỉ yên tâm khi ở bên cạnh sư huynh.
Tử Khuê thở dài bảo:
- Ta là người chứ nào phải thần tiên mà có thể dằn lòng mãi khi nằm cạnh sư muội.
Tái Vân cười khúc khích:
- Té ra sư huynh cũng bị tiểu muội cám dỗ, nãy giờ cắn răng kiềm chế lửa lòng. Nhưng để xem định lực của sư huynh thâm hậu đến dường nào, nếu sư huynh không động tình, tiểu muội sẽ về phòng mình.
Dứt lời, nàng vuốt ve khắp người chàng chẳng sót chỗ nào cả. Song Tử Khuê lại có linh cảm rằng Tái Vân đã sinh nghi, đang cố tìm viên “Tỵ Lôi thần châu” trên cơ thể mình. Nàng là nghĩa nữ của Âu Dương Mẫn tất phải biết thần châu là vật duy nhất đối phó được với sấm sét. Sự cảnh giác đã khiến lòng chàng nguội lạnh, lửa dục tắt lịm. Tử Khuê còn thầm lo lắng mình sẽ vì Tái Vân mà bại lộ thân thể, di hại đến gia đình.
Bỗng Tái Vân dừng tay, cúi xuống hôn lên má chàng và thì thầm:
- Tiểu muội biết sư huynh là công tử nhà họ Quách và cũng là Hàn Thiếu Lăng. Nhưng sư huynh cứ yên tâm, tiểu muội thà bị sét đánh chứ không tiết lộ việc này cho ai biết.
Tử Khuê hoảng sợ tới mức toát mồ hôi hột, lát sau mới trấn tĩnh được và ấp úng hỏi:
- Vì sao nàng biết được bí mật của ta?
Tái Vân cười đắc ý:
- Tiểu muội có một khả năng là luôn ghi nhớ những đặc điểm của người mình đã gặp, từ ánh mắt, nụ cười, giọng nói, dáng đi. Vì vậy, chỉ cần kề cận một hai hôm là tiểu muội đã nhận ra chàng là gã râu rậm Hàn Thiếu Lăng. Còn cái thân phận thực thì chẳng khó đoán, vì ngoài “Tỵ Lôi thần châu” ra không gì có thể cứu được một nạn nhân của Lôi Thần. Từ lâu, tiểu muội đã nghi ngờ Quách gia trang bán ngọc giả cho Âu Dương minh chủ.
Và nàng đổi giọng u uất:
- Quách công tử! Hai lần được chàng cứu mạng, lòng thiếp vô cùng cảm kích. Thiếp hận mình là một thạch mỹ, không xứng nâng khăn sửa túi cho chàng. Nhưng thân xác hèn mọn này, thiếp xin dâng cho chàng mua vui. Dẫu sao thì lấn trước thiếp đã thề chỉ thuộc về chàng rồi.
Dứt lời, Tái Vân gục xuống ngực chàng mà thổn thức. Tử Khuê động lòng trắc ẩn vuốt ve lưng nàng và định nói lời an ủi nhưng chẳng biết nói sao.
Trưa mùng bốn tháng sáu, Tử Khuê cùng Tái Vân đến Lạc Dương. Đưa nàng vào Tổng đàn Cái bang thì bất tiện, Tử Khuê để Tái Vân ở lại trong Cửu Triều đại khách sạn. Lạc Dương được tôn xưng là “Cửu triều danh đô” (Kinh dô danh tiếng của chín triều đại), nên lữ điếm này mới chọn tên như thế, hàm ý tự hào về lịch sử lâu đời.
Chính Tái Vân chọn khách sạn này, vì nó có đến bốn tầng, sấm sét chẳng thể nào xuyên thủng hết được. Và nàng còn thận trọng đòi tầng dưới cùng.
Thẹn vì thân không chút bạc vàng, sống bám vào Tử Khuê nên nàng phải tiết kiệm. Biết giá phòng đắt cắt cổ, Tái Vân thản nhiên bảo lão chưởng quỹ:
- Bọn ta là phu thê, chỉ cần một phòng mà thôi. Đạo giáo Trung hoa có rất nhiều môn phái, quy củ mỗi phái khác nhau, và đa số không cấm đồng môn kết hôn. Ví dụ như Thiên Sư giáo hoặc Hoa Sơn chẳng hạn. Vì thế, lão chưởng quỹ không lấy làm lạ, cứ thế thi hành.
Vào đến trong phòng Tái Vân mỉm cười bảo Tử Khuê:
- Thiếp phải xưng mình là vợ chàng may ra Lôi Thần nguôi giận, bỏ qua lỗi cũ.
Tuy đang cười song ánh mắt nàng buồn vời vợi, khiến Tử Khuê bất nhẫn.
Quả thực là trên đường đi, Tái Vân đã chăm sóc cho chàng chu đáo chẳng khác gì hiền phụ. Giờ đây nàng lặng lẽ theo vào phòng tắm, kỳ lưng và gội đầu cho chàng.
Chẳng kịp dùng cơm, Tử Khuê đi ngay đến tổng đà Cái bang ở gần cửa Đông thành. Nghe khách xưng là Vu Diệp chân nhân, bọn hán tử ba túi cho người dẫn vào ngay.
Cơ ngơi của ăn mày tất chẳng nguy nga, tráng lệ, sơn son thếp vàng. Ở đây chỉ có màu xanh của cây cối là tươi mát, còn toàn bộ quần thể tam hợp viện này khá u ám bởi những mảng màu xám xịt, lờ lợ. Mái ngói rêu xanh, tường vôi loang lổ, cột kèo tróc sơn, trơ mộc, nền gạch mòn vẹt, lở lói. Ba năm liền nhiều địa phương lại bị thiên tai, đệ tử Cái bang chết đói như rạ, nên Thất Bổng Cái làm gì có tiền tu sửa tổng đà.
Đấy là thảm trạng của hai dãy Tây sương và Đông sương, nằm cạnh sân gạch rộng, lồi lõm. Còn dãy mặt Bắc, nơi thờ phụng linh vị Đại Tổ sư và hội họp, tiếp khách thì có khá hơn đôi chút.
Trong gian khách sảnh ở mé Đông Bắc, sáu vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ lâm đang ngồi uống trà, sắc mặt buồn rầu, trầm trọng. Tử Khuê vội chắp tay thi lễ:
- Đệ tử Vu Diệp bái kiến lục vị Chưởng môn.
Thất Bổng Cái nóng nảy xua tay:
- Được rồi, ngươi cứ việc ngồi!
Tử Khuê an tọa, chưa kịp hỏi han tình hình của sư thúc là Cửu Hoa Thánh Y thì Bang chủ Cái bang đã hỏi ngay:
- Này Vu Diệp! Chẳng hay ngươi có quen biết lãi già nào họ Lỗ tên Trực hay không?
Tử Khuê nhớ đến Lỗ phán quan, phân vân đáp:
- Bẩm có! Nhung lão ấy là Phán quan dưới Âm ty chứ đâu phải người sống.
Trương Thiên Sư vỗ đùi cái bép và than:
- Thôi đúng rồi! Hèn chi lúc gặp lão, bần đạo nghe âm khí nặng nề song không thể xác quyết vì cho rằng ma quỷ chẳng dám lên Long hổ sơn. Té ra Lỗ Trực là chức sắc của Diêm cung nên chẳng sợ Tam Thanh.
Thấy vẻ ngơ ngác của Tử Khuê, Trương giáo chủ giải thích ngọn ngành:
- Số là thế này. Hồi cuối tháng tư, lúc hiền điệt và ngũ vị Chưởng môn đây, đang ở Kỹ gia trang vì việc “Diêm Vương quỷ kỳ”, thì bần đạo vẫn còn ở Long Hổ sơn. Tối ngày hai mươi chín, bỗng đệ tử vào báo rằng có khách xin cầu khiến, đem đến tin tức của Cửu hoa Thánh Y. Bần đạo mừng rỡ ra ngay khách sảnh, thấy một lão nhân tuổi độ sáu mươi, râu quai nón rất oai phong. Lão ta tự giới thiệu mình là “Vô Địch Quyền” Vương Lỗ Trực, bằng hữu vong niên của Vu Diệp hiền điệt.
Sau đó, Lỗ thí chủ nghiêm trang bảo rằng Cổ chân nhân hiện đang bị giam cầm trong “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận”, trên đất Hồ Nam. Lão không tiết lộ địa điểm mà nói rằng chỉ một mình Vu Diệp hiền điệt là có thể phá được trận pháp ấy. Và hiền điệt phải có mặt ở bờ hồ Động Đình, ngay trước lầu Nhạc Dương, đúng đêm rằm tháng bảy, để lão ta dẫn đi phá trận.
Nói xong lão bỏ đi ngay. Bần đạo lìên bói một quẻ, để xem Thánh Y hung cát thế nào, thì phát hiện tượng quả cực kỳ hắc ám, nguy hiểm phi thường. Vì vậy bần đạo tin lời Lỗ thí chủ, lên đường đi Lạc Dương hy vọng Cái bang sẽ tìm ra Vu Diệp hiền điệt.
Biết Tử Khuê không hiểu vì sao Hội đồng Võ lâm lại đủ mặt, Thất Bổng Cái tiếp lời Trương giáo chủ:
- Lúc đến Nam Xương, Trương Thiên Sư đã nhờ đệ tử bổn bang dùng chim câu báo tin trước, nên lão phu kịp thông tin cho bốn phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Hoa Sơn, Toàn Chân. Cổ chân nhân là đại ân nhân của sáu phái nên các Chưởng môn đã mau chóng có mặt.
Tùng Xuân Tử, Chưởng môn nhân phái Toàn Chân, hiền hòa an ủi Tử Khuê:
- Hiền điệt cứ an tâm lên đường. Trước ngày rằm tháng bảy, lực lượng của sáu phái sẽ có mặt ở Nhạc Dương để hỗ trợ hiền điệt.
Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi hỏi Thất Bổng Cái:
- Bẩm Thạch tiền bối. Chẳng hay người có đoán ra nhân vật nào ở Hồ Nam liên quan đến “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận” hay chưa?
Thạch Kính Tường nhăn mặt lắc đầu:
- Chẳng có chút manh mối nào cả. Lão phu chỉ thị cho ba ngàn đệ tử bổn bang ở Hồ Nam truy tìm những địa điểm khả nghi song đến nay vẫn chưa có kết quả.
Tử Khuê thất vọng cáo từ, hứa với sáu Chưởng môn rằng sẽ có mặt đúng hẹn.
Chàng về đến phòng trong khách sạn thì Tái vân vẫn chờ cơm chứ không ăn trước. Nàng đợi quá lâu nên mệt mỏi ngủ gục ngay tại bàn ăn. Tử Khuê mỉm cười vỗ nhẹ vai nàng lay gọi.
Tái vân tỉnh giấc, đứng bật dậy, tuy còn ngái ngủ mà ánh mắt vẫn tràn ngập niềm hân hoan cực độ:
- Ôi, tướng công! Chàng đã về đấy ư.
Tử Khuê rùng mình, xúc động đến tận đáy lòng, bất giác ôm lấy Tái Vân và hôn lên má, lên môi.
Tái Vân có vẻ sung sướng, đứng im nhận lãnh sự ban thưởng, song sau đó bật cười khúc khích, tuột khỏi vòng tay chàng:
- Để thiếp bảo tiểu nhị bưng thức ăn xuống bếp hâm lại đã. Cơm canh nguội cả rồi.
Hai người trò chuyện, dùng bữa xong thì trời đổ mưa rào. Tử Khuê quyết định trọ lại Lạc Dương một đêm, sáng mai mới lên đường. Những cơn mưa Hạ khu vực sông Hoàng Hà rất dai dẳng, kéo dài suốt mấy canh giờ, và Tái Vân thì tối kỵ đi lại dưới mưa.
Tử Khuê bỗng nghe mệt mỏi che miệng ngáp dài và tìm một giấc ngủ trưa. Tái Vân thấy vậy sốt sắng lấy áo mỏng mang đến, dịu dàng giúp chàng thay y phục. Nàng vui vẻ bảo:
- Tướng công cứ nghỉ ngơi đi. Thiếp đã ngủ được một chút rồi.
Khi Tử Khuê lên giường thì nàng cũng lên theo song nằm cách xa vài gang. Mùi hương tóc và da thịt mỹ nhân khiến Tử Khuê nhớ đến ái thê Trình Thiên Kim, lòng chợt xốn xang, bối rối. Chàng sẽ giải thích với nàng thế nào đây về việc gắn bó với Tái Vân. Do định mệnh mà chàng và Đông Nhạc Tiên Hồ đã trở thành một đôi uyên ương sống chết không rời. Nếu có thể thì chàng đã tặng viên “Tỵ Lôi thần châu” cho Tái Vân rồi. Tử Khuê còn thầm lo ngại khi phát hiện mình ngày càng có cảm tình với ả hồ ly núi Thái Sơn. Chàng rất hổ thẹn và buột miệng thở dài.
Dịch Tái Vân thấy chàng thao thức mãi liền xích lại gần, thỏ thẻ bảo:
- Thiếp sẽ hát ru tướng công ngủ.
Sau đó, nàng hát nho nhỏ một khúc dân ca đất Sơn Đông. Âm điệu đều đều, buồn bã đã đưa Tử Khuê vào giấc ngủ dễ dàng hơn.
Sẩm tối, Tử Khuê mới thức giấc, liếc sang bên cạnh thì thấy Tái Vân đang miên man nhìn lên trần nhà và lệ tuôn dài. Có lẽ nảng thương tâm vì số phận hẩm hiu của mình, một kiếp hồng nhan nửa mùa và suốt đời phải trốn chạy những cơn mưa.
Tử Khuê chợt cảm thương nàng vô hạn, xoay qua kéo nàng vào lòng tỏ ý bảo bọc. Tái Vân bật khóc thành tiếng, ôm lấy chàng thật chật. Bỗng nàng thủ thỉ:
- Thiếp sợ nhưng không hề oán giận lão Lôi Thần. Nhờ lão ta mà thiếp được kề cận tướng công và hạnh phúc biết bao. Có lẽ trong thiếp đã nảy sinh một thứ tình cảm mà thế gian gọi là tình yêu? Và thiếp đã khóc vì sợ mình sẽ bị Trình tiểu thư xua đuổi, bắt phải xa tướng công.
Tử Khuê bàng hoàng nhớ đến mối tình tuyệt vọng của Thái Sơn Tiên Nương và Cửu Hoa Thánh y. Đúng là những nữ nhân lãnh cảm vẫn có thể yêu.
Thân xác họ nguội lạnh nhưng trái tim chẳng bao giờ thôi xúc cảm.
Tử Khuê đã kể hết gia thế và tao ngộ trong cuộc đời mình cho Tái Vân nghe, nên nàng biết tính nết của Kỹ nương cũng như Thiên Kim. Nghĩa là không còn chỗ cho Tái Vân trong Quách gia trang và Tử Khuê thì chẳng thể phụ bạc tấm lòng trinh liệt của Thiên Kim.
Tái Vân hiểu được điều ấy qua thái độ câm lặng của Tử Khuê. Nàng ngồi dậy, nhìn vào mắt chàng và nói với giọng thiết tha:
- Thiếp quyết chẳng để tướng công phải khó sử nên sẽ rời xa chàng trước khi đến Kỹ gia trang. Trong những ngày còn lại, mong tướng công đối xử với thiếp như người vợ thực thụ để hóa giải tai họa lôi giáng. Sau này xa cách, thiếp sẽ vẫn chung thủy đúng như lời thề xưa, chắc là Lôi Thần sẽ nguôi giận.
Nói xong, Tái vân run rẩy cởi áo ngủ và yếm đào, để lộ phần thân trên kỳ diệu của mình. Và nàng cầm tay Tử Khuê đặt vào đôi nhũ phong mơn mởn tựa đào tơ.
Tử Khuê hiểu rằng đây là cách duy nhất để cứu Tái Vân và giải quyết mối quan hệ éo le của hai người. Hơn nữa, chàng thực sự bị quyến rũ bởi nét đẹp thiên kiều bá mị của Tái Vân.
Tử Khuê say đắm vuốt ve thân thể ngà ngọc của Tái Vân. Nàng hân hoan đón nhận nhưng da thịt chẳng hề có dấu hiệu của sự động tình và ánh mắt thấp thoáng vẻ sợ sệt.
Tử Khuê xót thương vô củng và hiểu rằng mình không thể ái ân với Tái Vân được. Chàng nghe lửa dục nguội dần và định bỏ cuộc. Nào ngờ, bên tai Tử Khuê bổng văng vẳng tiếng ai, nhỏ tựa tiếng muỗi vo ve:
- Hãy điểm vào bốn huyệt Thủy Đạo, Phủ Xá, Quan Nguyên, Âm Giao trên bụng và ba huyệt Yên Du, Huyền Khu, Cân Súc trên xương sống.
Giọng nói đầy ma lực khiến Tử Khuê răm rắp làm theo, chẳng chút nghĩ ngợi. Chàng là đại cao thủ trong nghề phất huyệt môn nên chẳng cần nhìn cũng có thể điểm rất chính xác. Sau bốn huyệt trên bụng dưới, Tử Khuê lòn tay bấm tiếp ba huyệt dưới lưng người ngọc.
Kỳ diệu thay, gương mặt trắng trẻo của Tái Vân bổng đỏ hồng và ánh mắt rực rỡ nỗi khát khao. Nàng háo hức mời gọi ái ân và rồi đắm mình trong hoan lạc.
Đến tận cuối canh hai đôi uyên ương mới rời nhau. Tái Vân gối đầu lên vai Tử Khuê, thẹn thùng nói:
- Sao tướng công biết phương thức hóa giải khuyết điểm của “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp”. Giờ thiếp đã là một người đàn bà trọn vẹn rồi.
Tử Khuê nhớ lại, hiểu rằng hồn ma Lỗ phán quan đã chỉ điểm cho mình lúc nãy chứ chẳng còn ai khác. Chàng vô củng hổ thẹn khi nghĩ đến việc lão chết tiệt ấy đã rình xem cảnh phong lưu giữa mình và Tái Vân. Nhưng Tử Khuê cho rằng lão là ma nên không giận.
Tất nhiên, chàng chẳng thể nói thực với Tái Vân, đành gượng cười:
- Phương pháp ấy ta học trong sách thuốc từ lâu, nay dùng thử không ngờ lại công hiệu.
Tái Vân định nói gì đấy nhưng lại thôi.
Sáng ra, hai người xuôi Nam, từ Lạc Dương xuống Nam Dương còn có đường khác, không phải qua Hứa Xương.
Niềm hạnh phúc được trở thành người đàn bà thực thụ đã biến đổi tâm trạng Tái Vân. Sau lớp sa đen buông quanh vành nón rộng, nụ cười kiều mị thoáng điểm và ánh mắt nàng dành cho Tử Khuê luôn chất ngất yêu thương và mê đắm.
Nàng càng vui hơn khi thức ngộ Tử Khuê cũng yêu mến mình. Tái Vân sung sướng vì điều ấy và thề sẽ lấy cho được chàng, dẫu phải chịu muôn ngàn cay đắng cũng chẳng từ nan.
Nhưng giờ đây, nàng chưa vội thổ lộ ý định nọ.
Xế chiều mùng bảy tháng sáu, cặp đạo sĩ giả hiệu đến cánh rừng hòe ngoại thành Nhữ Châu. Thành nằm cạnh sông Nhữ Hà nên mới có tên như thế.
Mùa hạ là mùa của loài hòe nên cành lá sum suê, um tùm, che mát cả một đoạn quan đạo dài đến tận mấy dặm. Và lúc này đang là tháng sáu, hoa hòe nở rộ vàng rực bên đường, hương thơm ngào ngạt. Không những thế, hoa rụng đầy đường tựa như tấm thảm gấm vàng đón chào người lữ khách.
Hoa hòe được dùng làm thuốc nhuộm và còn là nguồn tạo ra mật ong tốt nên loài vật nhỏ bé siêng năng ấy bay lượn khắp nơi, ve ve góp tiếng cùng lũ ve sầu đang rỉ rả khóc than.
Đàn ong gợi cho Tử Khuê nhớ đến Thiên Kim, người con gái nuôi ong ở đất Trình. Lòng chàng thắt lại vì hổ thẹn. Tử Khuê do hoàn cảnh mà ngày càng say đắm Tái Vân nhưng vẫn yêu Thiên Kim hơn cả. Dẫu cho tập quán đa thê được thế gian công nhận song đấy vẫn là hành vi bất nghĩa mà người quân tử không làm.
Dòng suy tư phiền muộn của Tử Khuê bị cắt ngang bởi chuyện lạ trước mắt. Bên vệ đường mé hữu có một toán kỵ sĩ đang nghỉ chân. Họ gồm bốn người, áp giải một cỗ tù xa. Trong xe tù là một nam nhân áo đen, vóc dáng trung bình. Gọi là lạ vì bốn kỹ sĩ kia chẳng phải là công sai mà là cao thủ của Xoa Lạp cốc, còn cỗ xa tù thì lại cắm cờ Tổng đàn Võ lâm. Tử Khuê biết lai lịch họ là nhờ nhận ra hai gã trung niên đã từng chặn đánh chủ tớ Trình Thiên Kim ở cổng Tịch Hà Đệ nhất tửu quán.
Tử Khuê và Tái Vân chẳng có gì phải sợ vì đang mặc y phục đạo sĩ và đội nón tre có viềm the đen phủ kín mít. Bộ đạo bào hơi rộng nên đã che giấu thân hình thon thả của Tái Vân, khiến người ngoài thoạt nhìn khó biết là nam hay nữ.
Nhưng khi đi ngang qua cỗ xe tù, thấy gương mặt tiền tụy, lem luốc của tù nhân, chẳng hiều sao Đông Nhạc Tiên Hồ lại thoáng rùng mình.
Hai người chậm rãi phi nước kiệu trước ánh mắt soi mói, đề phòng của bốn kẻ giải tù đang ngồi trên bãi cỏ. Lúc đã khuất tầm mắt của họ bởi một khúc đường quanh co, Tái Vân bỗng đưa tay ra hiệu cho Tử Khuê rẽ vào lối mòn. Rồi nàng hạ mã, quỳ xuống mặt cỏ, dập đầu lạy chàng và khóc nói:
- Tướng công! Người tù nhân kia chính là đại ca của thiềp. Hai mươi năm trước, nhà thiếp ở vùng quan tái phía bắc tỉnh Hà Bắc, cha làm Tri huyện huyện Ngọc Điền. Tiên phụ tính tình thanh liêm, chính trực, từng gởi tấu chương về kinh sư để đàn hặc tội tham nhũng, xén bớt quân lương của Tri phủ Bắc Bình là Lý Cần Khoa. Lão cẩu quan ấy được Thái sư đỡ đầu nên đã bình an vô sự và còn biết ai đã tố cáo mình. Thế là lão ta liền mướn cao thủ đến tàn sát gia đình thiếp.
Nam phụ lão ấu, tổng cộng hai mươi tám người đã bị giết, chỉ mình thiếp và đại ca Dịch Quan San thoát ra được. Biết rằng ở lại quê nhà sẽ khó sống sót dưới tay Lý Tri phủ nên gia huynh đã cõng thiếp lúc ấy mới năm tuổi trốn vào Trung Nguyên.
Sau khi gởi gắm thiếp cho tiên sư là Thái Sơn Nương Nương, gia huynh đi tìm bậc dị nhân mà học thêm võ nghệ. Tiên sư chính thực là đại di của anh em thiếp. Song vì võ công của bà không thích hợp với nam nhân nên đã giới thiệu gia huynh với một bằng hữu của mình.
Ba năm sau, gia huynh quay về cố quận, hành thích Lý Tri phủ rửa thù nhà. San ca đã tra khảo Lý Tri phủ để biết lai lịch toán sát thủ mà lão ta đã mướn. Kể từ lúc ấy, gia huynh dành cả cuộc đời cho việc truy tầm sào huyệt của Hoạch Đầu hội. Nay chẳng hiểu sao Âu Dương Mẫn lại cho người truy bắt gia huynh? Thiếp xin dập đầu khẩn cầu tướng công bạt kiếm cứu y. Thiếp nguyện làm thân trâu ngựa mà hầu hạ tướng công suốt kiếp này và muôn kiếp khác.
Tái Vân kể lể một hơi rồi gục vào ngực Tử Khuê mà khóc vùi. Chàng đã sớm xuống ngựa đỡ nàng lên chứ không để mỹ nhân quỳ lâu như thế.
Tử Khuê không ngờ cuộc đời Đông Nhạc Tiên Hồ lại đầy bất hạnh đến vậy. Chàng xúc động đưa tay lau nước mắt trên má nàng và nghiêm nghị nói:
- Vân muội cứ yên lòng. Tất nhiên là ta phải cứu Đại cửu tử của mình rồi.
Tái Vân choáng váng bởi niềm hạnh phúc bất ngờ, hiểu rằng Tử Khuê đã quyết lấy mình làm vợ. Nàng e ấp thỏ thẻ:
- Đa tạ tướng công đã xót thương thân phận bọt bèo này. Song thiếp chỉ e tình khang lệ của chàng sẽ vì thế mà sứt mẻ.
Tử Khuê cười buồn:
- Thiên Kim tính tình cương liệt, hào sảng chẳng kém bậc tu mi, hy vọng sẽ rộng lượng chấp nhận mối nhân duyên kỳ lạ của chúng ta. Nhưng theo gia quy nhà họ Quách, nàng phải cam phận nhị phòng, chịu nhiều thiệt thòi.
Tái Vân sung sướng đưa tay bịt miệng tình quân, vui vẻ nói:
- Tướng công bất tất xót xa cho thiếp. Được hầu hạ chàng và Trình tiểu thư là thiếp mãn nguyện lắm rồi. Hơn nữa, thiếp không sinh nở được, sao dám so bì với Thiên Kim?
Tái Vân rất thản nhiên khi nói lên điều đau lòng ấy. Nhưng thực ra, cũng chẳng có gì đáng buồn vì phong tục xã hội đương thời quy định rằng con của thiếp phải xem người vợ cả là đích mẫu và nàng chỉ như kẻ mang thai hộ mà thôi. Vả lại, việc sanh nở sẽ khiến nhan sắc nữ nhân tàn phai nhanh chóng, một điều mà Tái Vân tối kỵ. Không còn bận bịu con cái, nàng sẽ luôn được thảnh thơi cùng Tử Khuê hưởng lạc thú hoặc sánh vai hành hiệp. Là người cơ trí, Tái Vân biết mình phải làm gì, liền dặn dò Tử Khuê:
- Thiếp cho rằng tướng công nên giữ kín việc thiếp không còn là thạch nữ, như thế sẽ khiến Trình thư yên tâm hơn.
Tử Khuê mỉm cười giả lả rằng:
- Trò xảo quyết ấy ta không làm được. Nếu Thiên Kim hỏi thì ta chẳng thể giấu vì phu thê phải luôn thành thực.
Tái Vân đỏ mặt vì xấu hổ song trong lòng thầm kính phục Tử Khuê. Nàng liền đánh trống lảnh bằng cách bàn định kế hoạch giải cứu Dịch Quan San.
- Tướng công! Chúng ta sẽ giải cứu Dịch đại ca bằng cách nào?
Nàng nổi danh là hồ ly núi Thái Sơn, mưu kế có thừa, song vì kính yêu phu tướng mà chẳng dám khoe tài, tế nhị hỏi ý kiến Tử Khuê. Tuy dung nhan trẻ tựa gái đôi mươi, Tái Vân vẫn tự hiểu mình đã hai mươi sáu, không nên tỏ ra quá lão luyện khiến chàng trai non nớt kia mặc cảm. Nam nhân thích là cây sồi vững chắc cho nữ nhân nương tựa chứ không muốn kém cạnh đàn bà.
Tái Vân tưởng Tử Khuê sẽ vấn kế mình, nào ngờ chàng lại từ tốn đáp:
- Bốn kỵ sĩ chính là cao thủ Xoa Lạp cốc, bản lĩnh rất cao cường. Chúng ta chỉ có hai người, chẳng thể nào ngăn cản họ hạ sát Dịch đại ca khi thấy nguy. Vì vậy, ta nghĩ rằng phải chờ họ vào thành Nhữ Châu nghỉ trọ rồi hẵng ra tay. Tù xa phải để ở ngoài quán và phe đối phương luân phiên canh giữ. Khi họ chỉ còn một hoặc hai người thì việc cướp tù rất dễ dàng.
Tái Vân nghe đúng ý mình chẳng sai một nét, lòng vô cùng cao hứng, thán phục. Nàng kiễng chân lên hôn vào má chàng và tán dương:
- Tướng công quả là bậc tài trí, liệu việc như thần.
Tử Khuê cười mát:
- Ta làm sao dám sánh với nàng.
Gần cuối canh hai đêm ấy, trăng thượng huyền bàng bạc giữa không trung tỏa ánh sáng dịu dàng vuốt ve vạn vật, song không làm lộ tung tích hai khách dạ hành đang ẩn mình trên tàn cây du rậm rạp, cạnh bức tường cao của Hoàng Lương đại lữ điếm trong thành Nhữ Châu.
Tử Khuê và Tái Vân ngồi bên nhau trên một chảng ba, nhìn xuống cỗ tù xa không ngựa đặt trên một sân gạch rộng ở giữa dãy phòng ốc của lữ điếm. Xe tù thực chất là một xe độc mã không mui, trên có cũi gỗ chắc chắn. Cũi gỗ ấy chỉ cho vừa đến vai người ngồi bệt nên đầu của tù nhân sẽ ló ra ngoài.
Nhưng cạnh bên của cũi tù kết cấu bằng những thanh song gỗ lớn nhưng mặt trên là hai mảnh ván dày. Chỗ tiếp giáp là hai mảnh ván ấy có khoét lỗ để gông ngang cần cổ tù nhân. Lỗ này rộng hơn vòng cổ một chút nhưng đủ hẹp để đầu không qua được. Nghĩa là kẻ phạm tội phải giữ mãi tư thế khổ sở ấy suốt những dặm đường áp giải. Tất nhiên hai tay họ bị xích chặt, chẳng thể thò ra tháo chốt gông được.
Kích thước cũi tù tính theo tầm vóc trung bình của người Hán nên tù nhân nào quá cao hoặc quá thấp thì sẽ phải khốn khổ, khốn nạn.
Tử Khuê ngắm nghía cỗ tù xa và thảm trạng của tù nhân mà lòng bất nhẫn. Chàng chua chát nghĩ thầm:
- Tại sao một dân tộc có nền văn hóa rực rỡ như Trung Hoa lại có thể sáng chế ra cái loại hình cụ đáng ghê tởm đến thế nhỉ? Sao không để cho kẻ xấu số kia lọt hẳn vào trong cũi, ngã lưng đôi chút trên nệm rơm?
Tử Khuê bỗng rùng mình nhớ lại tướng nước Tần, “Võ An Quân” Bạch Khởi, trong một đêm đã cho giết sạch bốn mươi vạn hàng binh nước Triệu khi chiếm được ải Trường Bình. Sử chép rằng ngày ấy máu đổ nhiều đến nỗi nước sông suối, ao hồ của vùng Dương Cốc đều biến thành sắc đỏ.
Trước hành vi tàn nhẫn phi thường ấy thì cũi tù quái ác kia nào có đáng gì! Tử Khuê là người nhân hậu, tin vào trời đất, quỷ thần nên chán ghét điều ác.
Chàng chợt nghĩ đến bộ lạc người Di hiền lành ở vùng núi Vũ Lương sơn và cho rằng họ tốt hơn người Hán rất nhiều. Khổng Phu Tử luôn đề cao đức nhân vì thiên hạ vốn bất nhân, nhất là bọn vua quan.
Bất giác, Tử Khuê thở dài khiến Tái Vân thắc mắc, nàng nghé tai chàng nũng nịu thì thầm:
- Tướng công phiền muộn vì điều gì vậy, sao không chia sẽ với thiếp.
Tử Khuê chưa kịp đáp thì trống canh ba từ huyện đường vọng lại, sau đó là tiếng mõ tre của những gã tuần đêm, nhắc nhở bách tính cài chặt then cửa, dập lửa trong bếp, đề phòng đạo chích cùng hỏa hoạn.
Phía dưới sân kia, đối phương đã thay ca gác, một già, một trẻ. Theo kế hoạch, Tử Khuê cùng Tái Vân đợi thêm ít khắc, chờ hai kẻ đã đi vào phòng ngủ thật say và hai kẻ ở ngoài cũng gật gù mới ra tay thần phục. Nhưng cặp mới thay ca lại lớn tiếng gọi bình trà thật đậm khiến Tử Khuê quyết định thay đổi chiến thuật.
Chàng nói nhanh ý mình rồi nhảy xuống đất, chạy vào khu nhà bếp. Thấy gã tiểu nhị của lữ điếm đang lui cui pha trà và chỉ có một mình, Tử Khuê liền điểm huyệt gã rồi lột áo mặc bên ngoài bộ hắc y. Người võ lâm nào cũng có trong tay nải một bộ y phục sẫm màu, thường là màu đen, may bằng lụa tốt, bó sát thân mình để dễ bề hành động trong đêm tối.
Khi rời nhà, Tử Khuê không mang theo “Hắc Long Tiêu” nhưng lại chẳng quên đôi bao tay “Ngư giáp miệt” cực kỳ quý giá. Đêm nay, chàng đã sớm đeo vào, tăng cường ưu thế để có thể kết liễu đối thủ thật bất ngờ và chóng vánh.
Dưới ánh trăng mờ ảo này, người ngoài sẽ khó mà nhận ra việc chàng mang bao tay, nhất là khi chúng đã được quét lên một lớp sơn màu da người.
Tử Khuê chít dải khăn của gã tiểu nhị lên đầu, cố tình để một đầu khăn rũ xuống che bớt khuôn mặt.
Chàng đã để trường kiếm lại cho Tái Vân nên giờ đây hai tay rảnh rang, bưng khay đồng đựng ấm chén trà.
Khi Tử Khuê bước đến gần chỗ cỗ xe tù thì Tái Vân cũng lần tới mép mái ngói của dãy Tây sương, chờ phối hợp hành động.
Hai kẻ gác tù đang ngồi trên một mành chiếu, cách tù xa hơn trượng. Họ không dám ngồi gần vì xe tù rất hôi hám, sặc mùi nước tiểu. Tội nhân chỉ được phép xin dừng xe để đại tiện mỗi ngày một lần, còn tiểu tiện thì tại chỗ ngồi.
May thay, Dịch Quan San chưa ngủ, rầu rĩ ngửa cổ ngắm những vầng trăng mùa Hạ. Và khi liếc về hướng Tây, gã đã phát hiện một hắc y nhân trên rìa ngói. Người này giơ hai bàn tay trắng muốt như ra dấu với gã.
Dịch Quan San nhận ra đối phương cứ vẽ lên không trung một chữ “Vân” thì biết là bào muội mình. Gã vui mừng khôn xiết, gật đầu lia lịa tỏ vẻ đã hiểu ý.
Rối gã bắt đầu ho lên sù sụ, liên miên như đứa trẻ bị ho gà. Những âm thanh ấy đã che giấu tiếng động mà Tái Vân sẽ gây ra khi nhảy xuống đất, phía sau hai gã Xoa Lạp cốc. Cặp cai tù cùng ngồi quay về hướng Đông để có thể quan sát cỗ tù xa.
Cuối cùng, Tử Khuê cũng đã đến bên chiếc chiếu, còn Tái Vân thì cách chỉ gần một trượng.
Đêm hè oi bức nên hai vị cai tù đã lột bỏ tơi nón, tạm quên mình là người của Xoa Lạp cốc. Nhờ vậy Tử Khuê nhận rõ dung mạo nạn nhân của mình. Đấy là Hán tử tuổi bốn mươi mà chàng đã gặp và một lão nhân tuổi lục tuần, không râu, mũi to, mặt xương xẩu, đanh ác.
Hai người ấy ngồi xếp bằng, kiếm tuốt trần gác lên đùi, và vì là kẻ lão luyện giang hồ nên họ đã sớm đặt tay lên chuôi gươm để đề phòng bất trắc, dù gã tiểu nhị kia không hề có khí giới.
Tử Khuê thản nhiên ngồi cạnh manh chiếu, đặt khay trà xuống, và chàng mỉm cười, hắng giọng như chuẩn bị nói vài lời nịnh nọt vậy. Nhưng không phải thế, đấy chính là ám hiệu để Tái Vân xuất thủ. Nàng đang ngồi thu lu sau một chậu hoa, nghe hiệu lệnh của tình lang thì búng mạnh đôi chân lao vút đến. Khi một kẻ bị định đánh lén từ phía sau lưng, trong một khoảng cách quá gần như thế thì rất khó toàn mạng. Lưỡi kiếm của Tái Vân đã tiện phăng cổ Hán tử trung niên, khiến tiếng rú bi thương không sao phát ra được.
Trước đó một khoảnh khắc nhỏ bé, Tử Khuê đã vươn tả thủ thọc vào yết hầu người còn lại. Lão ta thuộc hàng Hộ pháp của Xoa Lạp cốc nên bản lãnh chẳng tầm thường, lại sớm vận khí phòng bị nên phản ứng rất mau lẹ. Thanh bảo kiếm trên đùi lão lập tức ngóc lên, chặt vào cổ tay Tử Khuê. Đồng thời, tay trái của lão xỉa thẳng vào ngực chàng theo thế cương đao.
Hai thế thức nọ đúng là công thủ vẹn toàn nhưng chỉ tiếc rằng vô hiệu đối với “Ngư giáp miệt”. Lưỡi gươm sắc bén của lão ta không chặt đứt được uyển mạch Tử Khuê, còn tả thủ thì chạm phải lòng bàn tay phải cứng như thép nguội mà chàng đã thủ hờ.
Bốn ngón tay của Tử Khuê xuyên thủng cổ họng nạn nhân, phá nát cả khí quản lẫn thực quản nên những tiếng rên ằng ặc, tắc nghẹn không làm chấn động cảnh đêm trăng tĩnh mịch.
Sau khi đắc thủ, hai người lập tức chạy đến tù xa. Trong lúc Tử Khuê loay hoay tháo chốt gông cổ, Tái Vân ôm đầu bào huynh mà khóc:
- Đại ca! Đã hơn năm không gặp, nào ngờ đại ca lại rơi vào cảnh ngộ này.
Dịch Quan San cằn nhằn:
- Hồi nhỏ ngươi khóc lóc chưa đủ sao? Mau đưa ta rời chốn này kẻo không kịp nữa.
Tử Khuê đã tháo được hai mảnh gông, vươn vai nhấc bổng tù nhân ra ngoài, bồng xốc họ Dịch rồi cùng Tái Vân lướt về phía vườn hoa nhỏ sát tường sau lữ điếm.
Chàng thuận đà chạy nên có trớn lao vút qua bức tường cao gần trượng khiến Dịch Quan San vô cùng thán phục. Gã nằm ngửa nên nhìn rõ nét mặt trẻ trung, văn nhã của Tử Khuê, liền nghĩ thầm:
- Tiểu tử này là học trò của bậc dị nhân nào mà võ công lại cao cường đến thế nhỉ? Tướng mạo y đầy vẻ thuần hậu, thiện lương, sao lại xui xẻo đến mức bị em gái ta chài mồi lợi dụng. Ta phải bảo Vân muội buông tha cho gã mới được.
Dịch Quan San thừa biết bào muội mình là thạch nữ nên sẽ chẳng thực lòng với bất cứ nam nhân nào.
Nửa khắc sau, ba người về đến một tòa trang viện hoang phế gần cửa Tây thành. Tử Khuê và Tái Vân đã chọn nơi này làm chỗ trọ để dễ bề hành động. Họ không thể đưa Dich Quan San đến khách điếm được.
Đã lâu không có người chăm sóc nên tòa phế trang tiêu điều. Cỏ dại và bụi rậm mọc đầy sân. Tuy nhiên, tường và cổng trang còn nguyên vẹn nên người ngoài chẳng thể thấy ánh đèn phát ra từ một phòng ở dãy nhà hướng Đông. Nó tương đối tốt vì Tái Vân đã quét dọn rất sạch sẽ.
Nhà hoang chẳng có vật dụng gì cả song may thay những chiếc lu sành sau bếp lại đầy ắp nước mưa. Dẫu là anh em một thì trai gái cũng không thể tắm cho nhau nên Tử Khuê phải lãnh luôn nhiệm vụ cọ rửa cái xác thân hôi hám của Dịch Quan San. Gã đã kiệt lực chẳng còn sức đâu mà kỳ cọ. Chàng rất ngạc nhiên khi họ Dịch cẩn thận gỡ tấm mặt nạ da người, để lộ một dung mạo tuấn tú, khá giống Tái Vân.
Gần nửa canh giờ sau, họ Dịch sạch sẽ và tươi tỉnh trong y phục mới. Tái Vân đã mua sẵn cho bào huynh bốn năm bộ và đồ lót.
Món cháo gà hầm tam thất nóng hổi và vài chung rượu ngon đã làm cho gương mặt tái sanh của Quan San có sắc hồng. Trước đó, gã đã được Tử Khuê cho uống ba viên linh đan do mẹ chàng bào chế theo toa trong y kinh của Cửu Hoa Thánh y.
Dịch Quan San là kẻ thâm trầm, kín đáo, cơ trí còn tinh minh còn hơn cả Tái Vân. Cho nên, đến tận lúc này gã mới mở miệng, nghiêm trang bảo Tử Khuê:
- Này Quách công tử! Tại hạ thọ ơn cứu mạng nên chẳng thể lừa dối ân nhân của mình. Tại hạ xin nói thực rằng gia muội là người mắc quái tật không thể làm vợ, làm mẹ được. Do vậy, tốt nhất là công tử nên cắt đứt mối tình duyên này tìm một nữ nhân toàn vẹn hơn mà giá nghĩa.
Gã tưởng chàng sẽ nhảy dựng lên, nào ngờ Tử Khuê chỉ mỉm cười, hòa nhã đáp:
- Cảm tạ đại ca đã có thành ý. Nhưng thực ra tiểu đệ đã sớm biết việc này và vẫn yêu thương Tái Vân.
Đông Nhạc Tiên Hồ nhìn gương mặt ngơ ngác của bào huynh mà phá lên cười ngặt nghẽo. Rồi nàng ghé tai thì thầm khiến Dịch Quan San giật mình mừng rỡ, cười khà khà:
- Hay lắm! Đại ca xin chúc mừng cho hai người.
Một chiều gần cuối tháng năm, Quách gia trang nhận được hai lá thư gần như cùng một lúc. Lá thứ nhất là của Kỹ Tòng Thư thông báo hôn lễ giữa ái nữ Kỹ Lưu Tiên và nam tử của Lưu Tài Thần. Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán đã ngỏ lời cầu hôn và đám cưới sẽ cử hành vào đầu hạ tuần tháng sáu. Đấy là lý do vì sao Tòng Thư không đi Hứa Xương như đã hẹn. Kỹ lão đã mời vợ chồng Quách Thiên Tường và Tử Khuê đến chơi sẵn có dịp tham dự hôn lễ luôn một thể.
Được tin này, Kỹ nương rất hân hoan vì có dịp tạ lỗi với huynh trưởng. Bà sẽ đứng ra tổ chức lễ vu qui cho cháu gái một cách linh đình và chu đáo nhất.
Tòng Thư là nam nhân lại góa vợ nên chẳng thể nào làm tốt việc ấy được. Kỹ nương thì đã từng gả hai chị cùng cha khác mẹ của Tử Khuê nên rất có kinh nghiệm.
Lá thư thứ hai là của Bang chủ Cái bang gởi cho Tử Khuê. Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường là một trong hai người của Hội đồng Võ lâm biết lai lịch thực của Vu Diệp chân nhân. Người kia là Trương Thiên Sư.
Nội dung thư chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: “Kỳ Hoàng đã ngộ nạn. Vu Diệp mau đến Lạc Dương”. Kỳ Hoàng chính là đạo hiệu của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ hoành, sư thúc của hai mẹ con Tử Khuê. Thư gởi đi Hứa Xương bằng chim câu, do đệ tử Cái bang sở tại mang đến Quách gia trang, xem ra tình trạng của Cổ chân nhân rất nguy ngập.
Người võ sĩ rất xem trọng nghĩa sư môn nên Kỷ nương vô cùng lo lắng, đốc thúc Tử Khuê lên đường ngay sáng mai. Bà tư lự nói:
- Thạch bang chủ đã viết như thế là có ý bảo ngươi dùng thân phận Vu Diệp chân nhân mà đến Lạc Dương. Nghĩa là ngoài Bang chủ Cái bang và Trương Thiên Sư ra, không ai biết ngươi là Quách Tử Khuê!
Trong lúc ái tử sửa soạn hành lý, Kỹ nương sai tỳ nữ Thu Linh đi vào thành mua ba bốn bộ đạo bào. Tử Khuê đã mập lên rất nhiều chẳng thể mặc vừa y phục đạo sĩ cũ.
Trình Thiên Kim rất muốn đi theo Tử Khuê nhưng không dám ngỏ lời.
Nàng sắp phải tháp tùng vợ chồng Quách trang chủ đi Bảo Bình sau đó về Hầu phủ. Họ sẽ mang lễ vật đến gặp Trình lão thái, chính thức hỏi cưới nàng cho Tử Khuê.
Thiên Kim mới được gần gũi người thương chẳng mấy ngày, nay phải xa lìa nên lòng buồn vô hạn. Tối đến, nàng lặng lẽ bỏ những vật dụng cần thiết vào tay nải của Tử Khuê và thỉnh thoảng lén gạt nước mắt.
Tử Khuê liền ôm nàng, hôn lên mắt:
- Chúng ta chỉ xa nhau vài ngày thôi, nàng chớ nên bi lụy. Ta sẽ xuôi Nam ngay khi có thể và muộn lắm thì cũng tương phùng trong ngày xuất giá của Lưu Tiên biểu tỷ.
Thiên Kim gật đầu, tỏ vẻ đồng ý nhưng vẫn ôm chặt tình lang như chẳng muốn xa. Da thịt mềm mại ấm nóng và mùi hương ôn nhu từ tóc nàng đã khiến Tử Khuê động tình. Chàng đã biết giấc mộng Vu Sơn ngày ấy là thực, càng yêu thương Thiên Kim tha thiết và không quá giữ gìn lễ giáo khi kề cận. Nhưng hai người chỉ dám vuốt ve nhau chứ không giao hợp vì sợ Thiên Kim cấn thai trước ngày cưới. Nàng là một Nữ Hầu tước, chẳng thể để người đời dị nghị được.
Hôm nay, hai thân xác thanh xuân dán chặt vào nhau nên Thiên Kim cảm nhận được ngay sự ham muốn của Tử Khuê. Nàng thẹn thùng thì thầm:
- Thiếp cũng khao khát được hầu hạ gối chăn cho tướng công. Chỉ tiếc rằng chàng là đạo sĩ mà không thạo thuật Phòng Tung của đạo gia nên hậu quả sẽ khó lường.
Tử Khuê tỉnh ngộ, nhớ lại những đoạn văn trong Đạo Tạng. Chàng hôn nàng và ngượng ngùng nói:
- Ta đúng là ngốc tử. Cảm tạ nàng đã nhắc nhở. Thực ra, muốn tránh thai thì nào có khó gì?
Đạo Tạng là tổng hợp kinh thư của Đạo giáo, bắt đầu xuất hiện từ giữa thời Đông Hán, trước hết là Thái Bình kinh và các đạo thư liên quan đến dưỡng sinh. Từ thời Đường đến thời nhà Minh, Đạo Tạng được hoàn thành và thông hành toàn quốc gồm có: Tam Động Quỳnh Cương, Đại Tống Thiên Cung Bảo Tạng, Vạn Thị Đạo Tạng, Đại Kim Huyền Đô Bảo Tạng, Chính Thống Đạo Tạng, Vạn Lịch Tục Đạo Tạng.
Nội dung sách vở được đưa vào Đạo Tạng rất phồn tạp, có một lượng lớn Đạo kinh và các điển tích liên quan tới sử tích thần tiên, nghi thức tri tiên, cũng có cả giáo nghĩa của các giáo phái khác nhau trong các đời. Ngoài ra còn có sách vở của Bách Gia Chư Tử, từ Tiền Tần đến đời Minh, và những sách liên quan tới các nội dung y dược, dưỡng sinh, luyện đan.
Trong phép dưỡng sinh của Đạo Tạng có cả thuật Phòng Tung, dựa vào thuyết Âm Dương Hòa Hợp. Thuật Phòng Tung là nghệ thuật đạt đến hoan lạc tột cùng trong ân ái, hoặc thu được lợi ích từ việc giao phối để thân thể tráng kiện, sống lâu.
Một trong những thủ thuật ấy của nam nhân là giữ cho mình không thoát dương. Tuy người đàn ông sẽ thiệt thòi về mặt khoái lạc nhưng nguyên khí được bảo toàn. Đạo Tạng còn dạy cả một phương thức tránh thai rất đơn giản là thoát dương bên ngoài.
Đã có cẩm nang, đội uyên ương dìu nhau vào cõi mộng, thỏa lòng nhung nhớ bấy lâu.
Mờ sáng ngày hai mươi bảy tháng năm, Tử Khuê bí mật rời Hứa Xương, mang theo hương da thịt nồng nàn của Thiên Kim.
Xế chiều ngày hôm sau, chàng chỉ còn cách Dĩ thành vài dặm. Chợt trời đổ mưa như trút nước, giông gió thét gào, biến những giọt mưa thành những mũi kim đâm rát mặt người và che mờ nhãn tuyến. Dù đã có áo tơi nhưng Tử Khuê cũng đành bó tay, thúc ngựa ghé vào căn Thập Lý đình bên vệ đường mà ẩn náu.
Dù là trường đình hay đoản đình thì chung quanh cũng chẳng bao giờ có vách nên bụi mưa tạt vào đến tận nơi. Nhưng dẫu sao thì còn khá hơn là phơi mình dưới gió mưa. Vả lại, sấm sét nổ liên hồi, giận dữ xé toang bầu trời xám xịt.
Sau khi đến Vũ Lương sơn, Tử Khuê đã ba lần bị sét đánh và thấy được công dụng nhiệm màu của “Tỵ Lôi thần châu”. Mặc dù thế, chàng cũng chẳng thích làm mục tiêu cho Lôi Thần một chút nào cả. Viên ngọc quý đã được giấu trong đùi chàng bởi một cết mổ nhỏ để nó không bị thất lạc.
Tử Khuê ngơ ngẩn ngắm cảnh mưa gió tơi bời, tiếc rằng không có Thiên Kim bên cạnh để hàn huyên và sưởi ấm cho nhau. Những trận ái ân cuồng nhiệt, đắm say đêm hôm trước đã khắc sâu hình bóng nàng vào tâm thức Tử Khuê. Giờ đây, tất cả những nữ nhân khác mà chàng từng biết đều mờ nhạt bên cạnh Thiên Kim. Nữ Hầu tước chẳng những xinh đẹp mà còn là một tình nhân vĩ đại nhất thế gian.
Đang miên man tưởng nhớ đến người yêu, Tử Khuê chợt phát hiện trên đường quan đạo có một bóng kỵ sĩ rạp mình phi nước đại về hướng Thập Lý đình, nơi chàng đang đứng. Và kỳ lạ thay, những tia sét liên tiếp giáng xuống xa xa vó ngựa cứ như Lôi Thần đang truy sát người ấy vậy.
Tử Khuê vô cùng kinh ngạc và thoáng nghĩ:
- Chẳng lẽ kỵ sĩ kia là kẻ hung tàn, ác độc tới mức chấn động lòng trời? Hay hắn cũng mang một số phận giống ta?
Lúc này, nạn nhân của lão Thiên Lôi mỏ nhọn chỉ còn cách căn Thập Lý đình sáu bảy trượng. Và một tia sét đã giáng xuống khá gần con tuấn mã, làm cho nó đau đớn hí vang rồi gục ngã, quăng cả người cưỡi ngựa xuống đất.
Ánh sáng rực rỡ của nhát búa lôi đình đã giúp Tử Khuê nhìn rõ gương mặt đầy cả kinh hoàng của “Đông Nhạc Tiên Hồ” Dịch Tái Vân. Tóc tai dựng ngược, toàn thân đau đớn khủng khiếp, nhất là hai chân, nhưng Tái Vân vẫn gượng đứng lên, loạng choạng chạy về phía căn dịch đình.
Tử Khuê chẳng kịp suy nghĩ thiệt hơn, lao vút ra như mũi tên rời dây cung, dang tay đón lấy nàng và nhấc bổng lên khỏi mặt đất sũng nước rồi nhảy lùi.
Sau đó, tia sét cuồng nộ kế tiếp đã đánh thẳng xuống, cách hai người mấy bước. Đông Nhạc Tiên Hồ tưởng phen này chết chắc, sợ quá nên ngất xỉu bởi tiếng sét đinh tai nhức óc.
Khi tỉnh lại, Tái Vân mơ màng nhận ra mình đang lõa thể, nằm ngửa trên một lớp vải lụa khô ráo. Và có đôi bàn tay ấm của ai đó xoa bóp khắp thân người nàng. Kỳ diệu thay, đội bàn tay nọ chạm đến đâu thì vị trí ấy không còn đau đớn nữa. Nàng đã nhớ ra kẻ cứu mình là một nam nhân nhưng không quan tâm đến. Nàng chỉ muốn mau mau thoát khỏi cảm giác đau nhức mà thôi.
Thấy ân nhân không dám động chạm đến hai vùng cấm, Tái Vân liền kéo tay người ấy đặt lên đôi nhũ phong mơn mởn của mình, rồi đến phần bụng dưới. Khi đã hoàn toàn thư thái, Tái Vân ngồi lên, thản nhiên nói:
- Ơn cứu mạng tiện nữ chẳng dám quên. Nếu các hạ thích thú, tiện nữ xin hầu hạ ba ngày để đền đáp.
Lúc này ngoài trời mưa đã bớt dữ dội nhưng không gian vẫn tối mờ. Nhờ ánh sáng của một tia sét ở xa xa, Tái Vân nhìn hơi rõ dung mạo của ân nhân. Té ra đấy là một chàng đạo sĩ trẻ, mặt mũi khá tuấn tú.
Chàng ta chẳng hề tỏ ra ham hố hay phân vân mà lại nghiêm trang bảo:
- Nữ thí chủ vốn kém phần âm đức, lại dám đem Lôi Thần ra đùa giỡn nên mới bị báo ứng ngay trong kiếp này. Nếu nữ thí chủ không tỉnh ngộ sửa mình, tu nhân tích đức thì khó toàn thây. Bấy nhiêu lời nhắn nhủ, mong nữ thí chủ chớ quên. Đấy chính là cách đền ơn bần đạo.
Nói xong, vị đạo sĩ trẻ mở tay nải, trao cho Tái Vân một bộ đạo bào để mặc tạm. Y phục nàng đã ướt và dính đầy bùn đất.
Tái Vân thẫn thờ mặc vào, lòng rất sợ hãi, nhớ đến việc mình bắt Hàn Thiếu Lăng từ hôn dù đã nhờ Lôi Thần chứng giám.
Trong nỗi tuyệt vọng ngút ngàn, Đông Nhạc Tiên Hồ chợt thức ngộ ra rằng chỉ có cách đi theo vị đạo sĩ thần thông quảng đại này thì mới mong sống thọ. Tuy trẻ tuổi nhưng đạo hạnh của chàng cao thâm đến mức cứu được người bị sét đánh.
Tái Vân liền quỳ xuống, hành lễ khóc nói:
- Đệ tử Dịch Tái Vân, trước giờ chỉ làm ác, hại người, tội lỗi chất chồng, nay đã tỉnh cơn mê, xin theo bậc Chân nhân tu hành sám hối, mong đạo trưởng cứu vớt kẻ bạc mệnh này.
Tử Khuê mỉm cười đáp:
- Nàng là tuyệt sắc giai nhân, làm đạo sĩ chẳng phải uổng kiếp hồng nhan hay sao?
Tái Vân buồn rầu thú thực:
- Bẩm đạo trưởng! Đệ tử luyện “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp” nên chẳng còn ham muốn nhục dục, đi tu cũng là phải đạo.
Tử Khuê hài lòng nói bỡn:
- Vậy tại sao lúc nãy nàng lại đòi hiến thân cho bần đạo?
Tái Vân thẹn thùng đáp:
- Đệ tử biết người là bậc chân tu, không màng sắc dục nên mới nói thế. Vả lại, đệ tử hơi ấm ức khi thấy người chẳng hề động lòng trước vẻ quyến rũ của đệ tử.
Tử Khuê thấy nàng cực kỳ chân thực với mình nên cũng thương xót.
Chàng trầm ngâm bảo:
- Đạo danh của ta là Vu Diệp chân nhân. Bần đạo cũng muốn giúp nàng trở về nẻo chánh nhưng đồng hành thì e rằng không tiện. Người ngoài làm sao biết nàng là thạch nữ.
Dịch Tái Vân dập đầu van nài:
- Đệ tử xin từ bỏ danh hiệu Đông Nhạc Tiên Hồ, suốt đời mặt áo đạo sĩ, tôn người làm sư phụ. Danh phận rõ ràng như thế thì người đời sẽ không đàm tiếu được.
Tử Khuê bối rối tự nhủ:
- Ta đâu có đóng mãi vai Vu Diệp và cũng chẳng thể tiết lộ thân thế thì làm sao dám cưu mang ả hồ ly đã hướng thiện này?
Chàng phân vân một lúc rồi nói:
- Bần đạo trẻ tuổi hơn mà, nếu nàng làm học trò thì quả là miễn cưỡng, khó coi. Hay là bần đạo thay mặt tiên sư, nhận nàng làm đệ tử Huyền Hư phái.
Nàng gọi ta là sư huynh thì hợp lý hơn. Ta sẽ dạy nàng kinh nghĩa.
Dịch Tái Vân nghe xuôi tai, mừng rỡ hỏi lại:
- Dám hỏi tiên sư đạo hiệu là chi?
Tử Khuê liền nói ra danh hiệu Vu Mộc chân nhân và giải thích sơ qua nguồn gốc của Huyền Hư phái núi Nga Mi. Chàng cũng đặt cho Tái Vân đạo hiệu Vu Thiện.
Tạnh mưa, hai người cưỡi chung một con ngựa, chậm rãi đi đến Dĩ thành.
Trước tiên, Tử Khuê ghé tiệm bán y phục mua sắm vài bộ đạo bào mới cho Tái Vân, cùng những vật dụng cần thiết của mỹ nhân. Tay nải của nàng đã rơi mất trên đường chạy trốn sấm sét.
Đêm ấy, họ trọ trong lữ điếm, sáng ra mua thêm ngựa khởi hành đi Lạc Dương. Hai ngày sau, hai kẻ đồng môn đến Đăng Phong, mướn phòng ở Tung Sơn đệ nhất khách sạn. Rặng Trung Nhạc lừng danh ở phía Bắc thành Đăng Phong, chỉ cách chừng vài dặm.
Nửa đêm, tiết trời u ám và nhiều sấm sét. Tái Vân sợ khiếp bỏ lại phòng riêng, sang phòng Tử Khuê nép vào người chàng mà run rẩy. Chợt có tia sét đánh tới gần, nàng hoảng hốt ôm chặt lấy chàng.
Tử Khuê dở khóc dở mếu, nằm cứng đơ chịu trận. Tuy mang bản chất thạch nữ song Tái Vân lại là vưu vật hiếm có trên đời. Mặt nàng đẹp tựa tố nữ trong tranh, da dẻ trắng trẻo, thơm tho như bông bưởi. Thân thể nàng là kiệt tác của một nghệ sĩ điêu khắc bậc thầy, cân đối phi thường. Hôm trước, lúc hút điện sét trong người nàng ra, Tử Khuê đã có dịp chiêm ngưỡng, lòng thầm khen đấy là tác phẩm không hề có khuyết điểm. Ngực Tái vân đầy đặn nhưng không quá lớn, vòng eo thanh mảnh tương xứng với đôi mông tròn trịa, gọn gàng và cặp chân dài săn chắc.
Pho tượng quyến rũ ấy không biết rung động nhưng cũng khiến bọn nam nhân cháy bỏng bởi khát khao. Đêm ấy, Tài Vân tả tơi khốn khổ vì tai họa nên Tử Khuê chỉ lo cứu chữa mà không nổi tà tâm. Đêm nay, uy lực của nàng đã phục hồi nguyên vẹn, ngát hương dưới lớp áp ngủ bằng the mỏng. Trước những cơn mưa Hạ, tiết trời khá oi bức nên Tử Khuê đã ở trần, cảm nhận được tận cùng sự tiếp xúc thịt da người ngọc.
Chàng biết mình đã động tình, liền cố hình dung đến khuôn mặt u buồn của Thiên Kim để sự hổ thẹn dập tắt lửa dục. Tử Khuê đã cầm cự được cho đến lúc tạnh mưa, nhẹ nhõm trút bỏ gánh nặng.
- Sư muội có thể về phòng mình được rồi đấy.
Tái Vân phụng phịu dụi đầu vào chàng mà thỏ thẻ:
- Lỡ trời lại mưa nữa thì sao? Tiểu muội chỉ yên tâm khi ở bên cạnh sư huynh.
Tử Khuê thở dài bảo:
- Ta là người chứ nào phải thần tiên mà có thể dằn lòng mãi khi nằm cạnh sư muội.
Tái Vân cười khúc khích:
- Té ra sư huynh cũng bị tiểu muội cám dỗ, nãy giờ cắn răng kiềm chế lửa lòng. Nhưng để xem định lực của sư huynh thâm hậu đến dường nào, nếu sư huynh không động tình, tiểu muội sẽ về phòng mình.
Dứt lời, nàng vuốt ve khắp người chàng chẳng sót chỗ nào cả. Song Tử Khuê lại có linh cảm rằng Tái Vân đã sinh nghi, đang cố tìm viên “Tỵ Lôi thần châu” trên cơ thể mình. Nàng là nghĩa nữ của Âu Dương Mẫn tất phải biết thần châu là vật duy nhất đối phó được với sấm sét. Sự cảnh giác đã khiến lòng chàng nguội lạnh, lửa dục tắt lịm. Tử Khuê còn thầm lo lắng mình sẽ vì Tái Vân mà bại lộ thân thể, di hại đến gia đình.
Bỗng Tái Vân dừng tay, cúi xuống hôn lên má chàng và thì thầm:
- Tiểu muội biết sư huynh là công tử nhà họ Quách và cũng là Hàn Thiếu Lăng. Nhưng sư huynh cứ yên tâm, tiểu muội thà bị sét đánh chứ không tiết lộ việc này cho ai biết.
Tử Khuê hoảng sợ tới mức toát mồ hôi hột, lát sau mới trấn tĩnh được và ấp úng hỏi:
- Vì sao nàng biết được bí mật của ta?
Tái Vân cười đắc ý:
- Tiểu muội có một khả năng là luôn ghi nhớ những đặc điểm của người mình đã gặp, từ ánh mắt, nụ cười, giọng nói, dáng đi. Vì vậy, chỉ cần kề cận một hai hôm là tiểu muội đã nhận ra chàng là gã râu rậm Hàn Thiếu Lăng. Còn cái thân phận thực thì chẳng khó đoán, vì ngoài “Tỵ Lôi thần châu” ra không gì có thể cứu được một nạn nhân của Lôi Thần. Từ lâu, tiểu muội đã nghi ngờ Quách gia trang bán ngọc giả cho Âu Dương minh chủ.
Và nàng đổi giọng u uất:
- Quách công tử! Hai lần được chàng cứu mạng, lòng thiếp vô cùng cảm kích. Thiếp hận mình là một thạch mỹ, không xứng nâng khăn sửa túi cho chàng. Nhưng thân xác hèn mọn này, thiếp xin dâng cho chàng mua vui. Dẫu sao thì lấn trước thiếp đã thề chỉ thuộc về chàng rồi.
Dứt lời, Tái Vân gục xuống ngực chàng mà thổn thức. Tử Khuê động lòng trắc ẩn vuốt ve lưng nàng và định nói lời an ủi nhưng chẳng biết nói sao.
Trưa mùng bốn tháng sáu, Tử Khuê cùng Tái Vân đến Lạc Dương. Đưa nàng vào Tổng đàn Cái bang thì bất tiện, Tử Khuê để Tái Vân ở lại trong Cửu Triều đại khách sạn. Lạc Dương được tôn xưng là “Cửu triều danh đô” (Kinh dô danh tiếng của chín triều đại), nên lữ điếm này mới chọn tên như thế, hàm ý tự hào về lịch sử lâu đời.
Chính Tái Vân chọn khách sạn này, vì nó có đến bốn tầng, sấm sét chẳng thể nào xuyên thủng hết được. Và nàng còn thận trọng đòi tầng dưới cùng.
Thẹn vì thân không chút bạc vàng, sống bám vào Tử Khuê nên nàng phải tiết kiệm. Biết giá phòng đắt cắt cổ, Tái Vân thản nhiên bảo lão chưởng quỹ:
- Bọn ta là phu thê, chỉ cần một phòng mà thôi. Đạo giáo Trung hoa có rất nhiều môn phái, quy củ mỗi phái khác nhau, và đa số không cấm đồng môn kết hôn. Ví dụ như Thiên Sư giáo hoặc Hoa Sơn chẳng hạn. Vì thế, lão chưởng quỹ không lấy làm lạ, cứ thế thi hành.
Vào đến trong phòng Tái Vân mỉm cười bảo Tử Khuê:
- Thiếp phải xưng mình là vợ chàng may ra Lôi Thần nguôi giận, bỏ qua lỗi cũ.
Tuy đang cười song ánh mắt nàng buồn vời vợi, khiến Tử Khuê bất nhẫn.
Quả thực là trên đường đi, Tái Vân đã chăm sóc cho chàng chu đáo chẳng khác gì hiền phụ. Giờ đây nàng lặng lẽ theo vào phòng tắm, kỳ lưng và gội đầu cho chàng.
Chẳng kịp dùng cơm, Tử Khuê đi ngay đến tổng đà Cái bang ở gần cửa Đông thành. Nghe khách xưng là Vu Diệp chân nhân, bọn hán tử ba túi cho người dẫn vào ngay.
Cơ ngơi của ăn mày tất chẳng nguy nga, tráng lệ, sơn son thếp vàng. Ở đây chỉ có màu xanh của cây cối là tươi mát, còn toàn bộ quần thể tam hợp viện này khá u ám bởi những mảng màu xám xịt, lờ lợ. Mái ngói rêu xanh, tường vôi loang lổ, cột kèo tróc sơn, trơ mộc, nền gạch mòn vẹt, lở lói. Ba năm liền nhiều địa phương lại bị thiên tai, đệ tử Cái bang chết đói như rạ, nên Thất Bổng Cái làm gì có tiền tu sửa tổng đà.
Đấy là thảm trạng của hai dãy Tây sương và Đông sương, nằm cạnh sân gạch rộng, lồi lõm. Còn dãy mặt Bắc, nơi thờ phụng linh vị Đại Tổ sư và hội họp, tiếp khách thì có khá hơn đôi chút.
Trong gian khách sảnh ở mé Đông Bắc, sáu vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ lâm đang ngồi uống trà, sắc mặt buồn rầu, trầm trọng. Tử Khuê vội chắp tay thi lễ:
- Đệ tử Vu Diệp bái kiến lục vị Chưởng môn.
Thất Bổng Cái nóng nảy xua tay:
- Được rồi, ngươi cứ việc ngồi!
Tử Khuê an tọa, chưa kịp hỏi han tình hình của sư thúc là Cửu Hoa Thánh Y thì Bang chủ Cái bang đã hỏi ngay:
- Này Vu Diệp! Chẳng hay ngươi có quen biết lãi già nào họ Lỗ tên Trực hay không?
Tử Khuê nhớ đến Lỗ phán quan, phân vân đáp:
- Bẩm có! Nhung lão ấy là Phán quan dưới Âm ty chứ đâu phải người sống.
Trương Thiên Sư vỗ đùi cái bép và than:
- Thôi đúng rồi! Hèn chi lúc gặp lão, bần đạo nghe âm khí nặng nề song không thể xác quyết vì cho rằng ma quỷ chẳng dám lên Long hổ sơn. Té ra Lỗ Trực là chức sắc của Diêm cung nên chẳng sợ Tam Thanh.
Thấy vẻ ngơ ngác của Tử Khuê, Trương giáo chủ giải thích ngọn ngành:
- Số là thế này. Hồi cuối tháng tư, lúc hiền điệt và ngũ vị Chưởng môn đây, đang ở Kỹ gia trang vì việc “Diêm Vương quỷ kỳ”, thì bần đạo vẫn còn ở Long Hổ sơn. Tối ngày hai mươi chín, bỗng đệ tử vào báo rằng có khách xin cầu khiến, đem đến tin tức của Cửu hoa Thánh Y. Bần đạo mừng rỡ ra ngay khách sảnh, thấy một lão nhân tuổi độ sáu mươi, râu quai nón rất oai phong. Lão ta tự giới thiệu mình là “Vô Địch Quyền” Vương Lỗ Trực, bằng hữu vong niên của Vu Diệp hiền điệt.
Sau đó, Lỗ thí chủ nghiêm trang bảo rằng Cổ chân nhân hiện đang bị giam cầm trong “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận”, trên đất Hồ Nam. Lão không tiết lộ địa điểm mà nói rằng chỉ một mình Vu Diệp hiền điệt là có thể phá được trận pháp ấy. Và hiền điệt phải có mặt ở bờ hồ Động Đình, ngay trước lầu Nhạc Dương, đúng đêm rằm tháng bảy, để lão ta dẫn đi phá trận.
Nói xong lão bỏ đi ngay. Bần đạo lìên bói một quẻ, để xem Thánh Y hung cát thế nào, thì phát hiện tượng quả cực kỳ hắc ám, nguy hiểm phi thường. Vì vậy bần đạo tin lời Lỗ thí chủ, lên đường đi Lạc Dương hy vọng Cái bang sẽ tìm ra Vu Diệp hiền điệt.
Biết Tử Khuê không hiểu vì sao Hội đồng Võ lâm lại đủ mặt, Thất Bổng Cái tiếp lời Trương giáo chủ:
- Lúc đến Nam Xương, Trương Thiên Sư đã nhờ đệ tử bổn bang dùng chim câu báo tin trước, nên lão phu kịp thông tin cho bốn phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Hoa Sơn, Toàn Chân. Cổ chân nhân là đại ân nhân của sáu phái nên các Chưởng môn đã mau chóng có mặt.
Tùng Xuân Tử, Chưởng môn nhân phái Toàn Chân, hiền hòa an ủi Tử Khuê:
- Hiền điệt cứ an tâm lên đường. Trước ngày rằm tháng bảy, lực lượng của sáu phái sẽ có mặt ở Nhạc Dương để hỗ trợ hiền điệt.
Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi hỏi Thất Bổng Cái:
- Bẩm Thạch tiền bối. Chẳng hay người có đoán ra nhân vật nào ở Hồ Nam liên quan đến “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận” hay chưa?
Thạch Kính Tường nhăn mặt lắc đầu:
- Chẳng có chút manh mối nào cả. Lão phu chỉ thị cho ba ngàn đệ tử bổn bang ở Hồ Nam truy tìm những địa điểm khả nghi song đến nay vẫn chưa có kết quả.
Tử Khuê thất vọng cáo từ, hứa với sáu Chưởng môn rằng sẽ có mặt đúng hẹn.
Chàng về đến phòng trong khách sạn thì Tái vân vẫn chờ cơm chứ không ăn trước. Nàng đợi quá lâu nên mệt mỏi ngủ gục ngay tại bàn ăn. Tử Khuê mỉm cười vỗ nhẹ vai nàng lay gọi.
Tái vân tỉnh giấc, đứng bật dậy, tuy còn ngái ngủ mà ánh mắt vẫn tràn ngập niềm hân hoan cực độ:
- Ôi, tướng công! Chàng đã về đấy ư.
Tử Khuê rùng mình, xúc động đến tận đáy lòng, bất giác ôm lấy Tái Vân và hôn lên má, lên môi.
Tái Vân có vẻ sung sướng, đứng im nhận lãnh sự ban thưởng, song sau đó bật cười khúc khích, tuột khỏi vòng tay chàng:
- Để thiếp bảo tiểu nhị bưng thức ăn xuống bếp hâm lại đã. Cơm canh nguội cả rồi.
Hai người trò chuyện, dùng bữa xong thì trời đổ mưa rào. Tử Khuê quyết định trọ lại Lạc Dương một đêm, sáng mai mới lên đường. Những cơn mưa Hạ khu vực sông Hoàng Hà rất dai dẳng, kéo dài suốt mấy canh giờ, và Tái Vân thì tối kỵ đi lại dưới mưa.
Tử Khuê bỗng nghe mệt mỏi che miệng ngáp dài và tìm một giấc ngủ trưa. Tái Vân thấy vậy sốt sắng lấy áo mỏng mang đến, dịu dàng giúp chàng thay y phục. Nàng vui vẻ bảo:
- Tướng công cứ nghỉ ngơi đi. Thiếp đã ngủ được một chút rồi.
Khi Tử Khuê lên giường thì nàng cũng lên theo song nằm cách xa vài gang. Mùi hương tóc và da thịt mỹ nhân khiến Tử Khuê nhớ đến ái thê Trình Thiên Kim, lòng chợt xốn xang, bối rối. Chàng sẽ giải thích với nàng thế nào đây về việc gắn bó với Tái Vân. Do định mệnh mà chàng và Đông Nhạc Tiên Hồ đã trở thành một đôi uyên ương sống chết không rời. Nếu có thể thì chàng đã tặng viên “Tỵ Lôi thần châu” cho Tái Vân rồi. Tử Khuê còn thầm lo ngại khi phát hiện mình ngày càng có cảm tình với ả hồ ly núi Thái Sơn. Chàng rất hổ thẹn và buột miệng thở dài.
Dịch Tái Vân thấy chàng thao thức mãi liền xích lại gần, thỏ thẻ bảo:
- Thiếp sẽ hát ru tướng công ngủ.
Sau đó, nàng hát nho nhỏ một khúc dân ca đất Sơn Đông. Âm điệu đều đều, buồn bã đã đưa Tử Khuê vào giấc ngủ dễ dàng hơn.
Sẩm tối, Tử Khuê mới thức giấc, liếc sang bên cạnh thì thấy Tái Vân đang miên man nhìn lên trần nhà và lệ tuôn dài. Có lẽ nảng thương tâm vì số phận hẩm hiu của mình, một kiếp hồng nhan nửa mùa và suốt đời phải trốn chạy những cơn mưa.
Tử Khuê chợt cảm thương nàng vô hạn, xoay qua kéo nàng vào lòng tỏ ý bảo bọc. Tái Vân bật khóc thành tiếng, ôm lấy chàng thật chật. Bỗng nàng thủ thỉ:
- Thiếp sợ nhưng không hề oán giận lão Lôi Thần. Nhờ lão ta mà thiếp được kề cận tướng công và hạnh phúc biết bao. Có lẽ trong thiếp đã nảy sinh một thứ tình cảm mà thế gian gọi là tình yêu? Và thiếp đã khóc vì sợ mình sẽ bị Trình tiểu thư xua đuổi, bắt phải xa tướng công.
Tử Khuê bàng hoàng nhớ đến mối tình tuyệt vọng của Thái Sơn Tiên Nương và Cửu Hoa Thánh y. Đúng là những nữ nhân lãnh cảm vẫn có thể yêu.
Thân xác họ nguội lạnh nhưng trái tim chẳng bao giờ thôi xúc cảm.
Tử Khuê đã kể hết gia thế và tao ngộ trong cuộc đời mình cho Tái Vân nghe, nên nàng biết tính nết của Kỹ nương cũng như Thiên Kim. Nghĩa là không còn chỗ cho Tái Vân trong Quách gia trang và Tử Khuê thì chẳng thể phụ bạc tấm lòng trinh liệt của Thiên Kim.
Tái Vân hiểu được điều ấy qua thái độ câm lặng của Tử Khuê. Nàng ngồi dậy, nhìn vào mắt chàng và nói với giọng thiết tha:
- Thiếp quyết chẳng để tướng công phải khó sử nên sẽ rời xa chàng trước khi đến Kỹ gia trang. Trong những ngày còn lại, mong tướng công đối xử với thiếp như người vợ thực thụ để hóa giải tai họa lôi giáng. Sau này xa cách, thiếp sẽ vẫn chung thủy đúng như lời thề xưa, chắc là Lôi Thần sẽ nguôi giận.
Nói xong, Tái vân run rẩy cởi áo ngủ và yếm đào, để lộ phần thân trên kỳ diệu của mình. Và nàng cầm tay Tử Khuê đặt vào đôi nhũ phong mơn mởn tựa đào tơ.
Tử Khuê hiểu rằng đây là cách duy nhất để cứu Tái Vân và giải quyết mối quan hệ éo le của hai người. Hơn nữa, chàng thực sự bị quyến rũ bởi nét đẹp thiên kiều bá mị của Tái Vân.
Tử Khuê say đắm vuốt ve thân thể ngà ngọc của Tái Vân. Nàng hân hoan đón nhận nhưng da thịt chẳng hề có dấu hiệu của sự động tình và ánh mắt thấp thoáng vẻ sợ sệt.
Tử Khuê xót thương vô củng và hiểu rằng mình không thể ái ân với Tái Vân được. Chàng nghe lửa dục nguội dần và định bỏ cuộc. Nào ngờ, bên tai Tử Khuê bổng văng vẳng tiếng ai, nhỏ tựa tiếng muỗi vo ve:
- Hãy điểm vào bốn huyệt Thủy Đạo, Phủ Xá, Quan Nguyên, Âm Giao trên bụng và ba huyệt Yên Du, Huyền Khu, Cân Súc trên xương sống.
Giọng nói đầy ma lực khiến Tử Khuê răm rắp làm theo, chẳng chút nghĩ ngợi. Chàng là đại cao thủ trong nghề phất huyệt môn nên chẳng cần nhìn cũng có thể điểm rất chính xác. Sau bốn huyệt trên bụng dưới, Tử Khuê lòn tay bấm tiếp ba huyệt dưới lưng người ngọc.
Kỳ diệu thay, gương mặt trắng trẻo của Tái Vân bổng đỏ hồng và ánh mắt rực rỡ nỗi khát khao. Nàng háo hức mời gọi ái ân và rồi đắm mình trong hoan lạc.
Đến tận cuối canh hai đôi uyên ương mới rời nhau. Tái Vân gối đầu lên vai Tử Khuê, thẹn thùng nói:
- Sao tướng công biết phương thức hóa giải khuyết điểm của “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp”. Giờ thiếp đã là một người đàn bà trọn vẹn rồi.
Tử Khuê nhớ lại, hiểu rằng hồn ma Lỗ phán quan đã chỉ điểm cho mình lúc nãy chứ chẳng còn ai khác. Chàng vô củng hổ thẹn khi nghĩ đến việc lão chết tiệt ấy đã rình xem cảnh phong lưu giữa mình và Tái Vân. Nhưng Tử Khuê cho rằng lão là ma nên không giận.
Tất nhiên, chàng chẳng thể nói thực với Tái Vân, đành gượng cười:
- Phương pháp ấy ta học trong sách thuốc từ lâu, nay dùng thử không ngờ lại công hiệu.
Tái Vân định nói gì đấy nhưng lại thôi.
Sáng ra, hai người xuôi Nam, từ Lạc Dương xuống Nam Dương còn có đường khác, không phải qua Hứa Xương.
Niềm hạnh phúc được trở thành người đàn bà thực thụ đã biến đổi tâm trạng Tái Vân. Sau lớp sa đen buông quanh vành nón rộng, nụ cười kiều mị thoáng điểm và ánh mắt nàng dành cho Tử Khuê luôn chất ngất yêu thương và mê đắm.
Nàng càng vui hơn khi thức ngộ Tử Khuê cũng yêu mến mình. Tái Vân sung sướng vì điều ấy và thề sẽ lấy cho được chàng, dẫu phải chịu muôn ngàn cay đắng cũng chẳng từ nan.
Nhưng giờ đây, nàng chưa vội thổ lộ ý định nọ.
Xế chiều mùng bảy tháng sáu, cặp đạo sĩ giả hiệu đến cánh rừng hòe ngoại thành Nhữ Châu. Thành nằm cạnh sông Nhữ Hà nên mới có tên như thế.
Mùa hạ là mùa của loài hòe nên cành lá sum suê, um tùm, che mát cả một đoạn quan đạo dài đến tận mấy dặm. Và lúc này đang là tháng sáu, hoa hòe nở rộ vàng rực bên đường, hương thơm ngào ngạt. Không những thế, hoa rụng đầy đường tựa như tấm thảm gấm vàng đón chào người lữ khách.
Hoa hòe được dùng làm thuốc nhuộm và còn là nguồn tạo ra mật ong tốt nên loài vật nhỏ bé siêng năng ấy bay lượn khắp nơi, ve ve góp tiếng cùng lũ ve sầu đang rỉ rả khóc than.
Đàn ong gợi cho Tử Khuê nhớ đến Thiên Kim, người con gái nuôi ong ở đất Trình. Lòng chàng thắt lại vì hổ thẹn. Tử Khuê do hoàn cảnh mà ngày càng say đắm Tái Vân nhưng vẫn yêu Thiên Kim hơn cả. Dẫu cho tập quán đa thê được thế gian công nhận song đấy vẫn là hành vi bất nghĩa mà người quân tử không làm.
Dòng suy tư phiền muộn của Tử Khuê bị cắt ngang bởi chuyện lạ trước mắt. Bên vệ đường mé hữu có một toán kỵ sĩ đang nghỉ chân. Họ gồm bốn người, áp giải một cỗ tù xa. Trong xe tù là một nam nhân áo đen, vóc dáng trung bình. Gọi là lạ vì bốn kỹ sĩ kia chẳng phải là công sai mà là cao thủ của Xoa Lạp cốc, còn cỗ xa tù thì lại cắm cờ Tổng đàn Võ lâm. Tử Khuê biết lai lịch họ là nhờ nhận ra hai gã trung niên đã từng chặn đánh chủ tớ Trình Thiên Kim ở cổng Tịch Hà Đệ nhất tửu quán.
Tử Khuê và Tái Vân chẳng có gì phải sợ vì đang mặc y phục đạo sĩ và đội nón tre có viềm the đen phủ kín mít. Bộ đạo bào hơi rộng nên đã che giấu thân hình thon thả của Tái Vân, khiến người ngoài thoạt nhìn khó biết là nam hay nữ.
Nhưng khi đi ngang qua cỗ xe tù, thấy gương mặt tiền tụy, lem luốc của tù nhân, chẳng hiều sao Đông Nhạc Tiên Hồ lại thoáng rùng mình.
Hai người chậm rãi phi nước kiệu trước ánh mắt soi mói, đề phòng của bốn kẻ giải tù đang ngồi trên bãi cỏ. Lúc đã khuất tầm mắt của họ bởi một khúc đường quanh co, Tái Vân bỗng đưa tay ra hiệu cho Tử Khuê rẽ vào lối mòn. Rồi nàng hạ mã, quỳ xuống mặt cỏ, dập đầu lạy chàng và khóc nói:
- Tướng công! Người tù nhân kia chính là đại ca của thiềp. Hai mươi năm trước, nhà thiếp ở vùng quan tái phía bắc tỉnh Hà Bắc, cha làm Tri huyện huyện Ngọc Điền. Tiên phụ tính tình thanh liêm, chính trực, từng gởi tấu chương về kinh sư để đàn hặc tội tham nhũng, xén bớt quân lương của Tri phủ Bắc Bình là Lý Cần Khoa. Lão cẩu quan ấy được Thái sư đỡ đầu nên đã bình an vô sự và còn biết ai đã tố cáo mình. Thế là lão ta liền mướn cao thủ đến tàn sát gia đình thiếp.
Nam phụ lão ấu, tổng cộng hai mươi tám người đã bị giết, chỉ mình thiếp và đại ca Dịch Quan San thoát ra được. Biết rằng ở lại quê nhà sẽ khó sống sót dưới tay Lý Tri phủ nên gia huynh đã cõng thiếp lúc ấy mới năm tuổi trốn vào Trung Nguyên.
Sau khi gởi gắm thiếp cho tiên sư là Thái Sơn Nương Nương, gia huynh đi tìm bậc dị nhân mà học thêm võ nghệ. Tiên sư chính thực là đại di của anh em thiếp. Song vì võ công của bà không thích hợp với nam nhân nên đã giới thiệu gia huynh với một bằng hữu của mình.
Ba năm sau, gia huynh quay về cố quận, hành thích Lý Tri phủ rửa thù nhà. San ca đã tra khảo Lý Tri phủ để biết lai lịch toán sát thủ mà lão ta đã mướn. Kể từ lúc ấy, gia huynh dành cả cuộc đời cho việc truy tầm sào huyệt của Hoạch Đầu hội. Nay chẳng hiểu sao Âu Dương Mẫn lại cho người truy bắt gia huynh? Thiếp xin dập đầu khẩn cầu tướng công bạt kiếm cứu y. Thiếp nguyện làm thân trâu ngựa mà hầu hạ tướng công suốt kiếp này và muôn kiếp khác.
Tái Vân kể lể một hơi rồi gục vào ngực Tử Khuê mà khóc vùi. Chàng đã sớm xuống ngựa đỡ nàng lên chứ không để mỹ nhân quỳ lâu như thế.
Tử Khuê không ngờ cuộc đời Đông Nhạc Tiên Hồ lại đầy bất hạnh đến vậy. Chàng xúc động đưa tay lau nước mắt trên má nàng và nghiêm nghị nói:
- Vân muội cứ yên lòng. Tất nhiên là ta phải cứu Đại cửu tử của mình rồi.
Tái Vân choáng váng bởi niềm hạnh phúc bất ngờ, hiểu rằng Tử Khuê đã quyết lấy mình làm vợ. Nàng e ấp thỏ thẻ:
- Đa tạ tướng công đã xót thương thân phận bọt bèo này. Song thiếp chỉ e tình khang lệ của chàng sẽ vì thế mà sứt mẻ.
Tử Khuê cười buồn:
- Thiên Kim tính tình cương liệt, hào sảng chẳng kém bậc tu mi, hy vọng sẽ rộng lượng chấp nhận mối nhân duyên kỳ lạ của chúng ta. Nhưng theo gia quy nhà họ Quách, nàng phải cam phận nhị phòng, chịu nhiều thiệt thòi.
Tái Vân sung sướng đưa tay bịt miệng tình quân, vui vẻ nói:
- Tướng công bất tất xót xa cho thiếp. Được hầu hạ chàng và Trình tiểu thư là thiếp mãn nguyện lắm rồi. Hơn nữa, thiếp không sinh nở được, sao dám so bì với Thiên Kim?
Tái Vân rất thản nhiên khi nói lên điều đau lòng ấy. Nhưng thực ra, cũng chẳng có gì đáng buồn vì phong tục xã hội đương thời quy định rằng con của thiếp phải xem người vợ cả là đích mẫu và nàng chỉ như kẻ mang thai hộ mà thôi. Vả lại, việc sanh nở sẽ khiến nhan sắc nữ nhân tàn phai nhanh chóng, một điều mà Tái Vân tối kỵ. Không còn bận bịu con cái, nàng sẽ luôn được thảnh thơi cùng Tử Khuê hưởng lạc thú hoặc sánh vai hành hiệp. Là người cơ trí, Tái Vân biết mình phải làm gì, liền dặn dò Tử Khuê:
- Thiếp cho rằng tướng công nên giữ kín việc thiếp không còn là thạch nữ, như thế sẽ khiến Trình thư yên tâm hơn.
Tử Khuê mỉm cười giả lả rằng:
- Trò xảo quyết ấy ta không làm được. Nếu Thiên Kim hỏi thì ta chẳng thể giấu vì phu thê phải luôn thành thực.
Tái Vân đỏ mặt vì xấu hổ song trong lòng thầm kính phục Tử Khuê. Nàng liền đánh trống lảnh bằng cách bàn định kế hoạch giải cứu Dịch Quan San.
- Tướng công! Chúng ta sẽ giải cứu Dịch đại ca bằng cách nào?
Nàng nổi danh là hồ ly núi Thái Sơn, mưu kế có thừa, song vì kính yêu phu tướng mà chẳng dám khoe tài, tế nhị hỏi ý kiến Tử Khuê. Tuy dung nhan trẻ tựa gái đôi mươi, Tái Vân vẫn tự hiểu mình đã hai mươi sáu, không nên tỏ ra quá lão luyện khiến chàng trai non nớt kia mặc cảm. Nam nhân thích là cây sồi vững chắc cho nữ nhân nương tựa chứ không muốn kém cạnh đàn bà.
Tái Vân tưởng Tử Khuê sẽ vấn kế mình, nào ngờ chàng lại từ tốn đáp:
- Bốn kỵ sĩ chính là cao thủ Xoa Lạp cốc, bản lĩnh rất cao cường. Chúng ta chỉ có hai người, chẳng thể nào ngăn cản họ hạ sát Dịch đại ca khi thấy nguy. Vì vậy, ta nghĩ rằng phải chờ họ vào thành Nhữ Châu nghỉ trọ rồi hẵng ra tay. Tù xa phải để ở ngoài quán và phe đối phương luân phiên canh giữ. Khi họ chỉ còn một hoặc hai người thì việc cướp tù rất dễ dàng.
Tái Vân nghe đúng ý mình chẳng sai một nét, lòng vô cùng cao hứng, thán phục. Nàng kiễng chân lên hôn vào má chàng và tán dương:
- Tướng công quả là bậc tài trí, liệu việc như thần.
Tử Khuê cười mát:
- Ta làm sao dám sánh với nàng.
Gần cuối canh hai đêm ấy, trăng thượng huyền bàng bạc giữa không trung tỏa ánh sáng dịu dàng vuốt ve vạn vật, song không làm lộ tung tích hai khách dạ hành đang ẩn mình trên tàn cây du rậm rạp, cạnh bức tường cao của Hoàng Lương đại lữ điếm trong thành Nhữ Châu.
Tử Khuê và Tái Vân ngồi bên nhau trên một chảng ba, nhìn xuống cỗ tù xa không ngựa đặt trên một sân gạch rộng ở giữa dãy phòng ốc của lữ điếm. Xe tù thực chất là một xe độc mã không mui, trên có cũi gỗ chắc chắn. Cũi gỗ ấy chỉ cho vừa đến vai người ngồi bệt nên đầu của tù nhân sẽ ló ra ngoài.
Nhưng cạnh bên của cũi tù kết cấu bằng những thanh song gỗ lớn nhưng mặt trên là hai mảnh ván dày. Chỗ tiếp giáp là hai mảnh ván ấy có khoét lỗ để gông ngang cần cổ tù nhân. Lỗ này rộng hơn vòng cổ một chút nhưng đủ hẹp để đầu không qua được. Nghĩa là kẻ phạm tội phải giữ mãi tư thế khổ sở ấy suốt những dặm đường áp giải. Tất nhiên hai tay họ bị xích chặt, chẳng thể thò ra tháo chốt gông được.
Kích thước cũi tù tính theo tầm vóc trung bình của người Hán nên tù nhân nào quá cao hoặc quá thấp thì sẽ phải khốn khổ, khốn nạn.
Tử Khuê ngắm nghía cỗ tù xa và thảm trạng của tù nhân mà lòng bất nhẫn. Chàng chua chát nghĩ thầm:
- Tại sao một dân tộc có nền văn hóa rực rỡ như Trung Hoa lại có thể sáng chế ra cái loại hình cụ đáng ghê tởm đến thế nhỉ? Sao không để cho kẻ xấu số kia lọt hẳn vào trong cũi, ngã lưng đôi chút trên nệm rơm?
Tử Khuê bỗng rùng mình nhớ lại tướng nước Tần, “Võ An Quân” Bạch Khởi, trong một đêm đã cho giết sạch bốn mươi vạn hàng binh nước Triệu khi chiếm được ải Trường Bình. Sử chép rằng ngày ấy máu đổ nhiều đến nỗi nước sông suối, ao hồ của vùng Dương Cốc đều biến thành sắc đỏ.
Trước hành vi tàn nhẫn phi thường ấy thì cũi tù quái ác kia nào có đáng gì! Tử Khuê là người nhân hậu, tin vào trời đất, quỷ thần nên chán ghét điều ác.
Chàng chợt nghĩ đến bộ lạc người Di hiền lành ở vùng núi Vũ Lương sơn và cho rằng họ tốt hơn người Hán rất nhiều. Khổng Phu Tử luôn đề cao đức nhân vì thiên hạ vốn bất nhân, nhất là bọn vua quan.
Bất giác, Tử Khuê thở dài khiến Tái Vân thắc mắc, nàng nghé tai chàng nũng nịu thì thầm:
- Tướng công phiền muộn vì điều gì vậy, sao không chia sẽ với thiếp.
Tử Khuê chưa kịp đáp thì trống canh ba từ huyện đường vọng lại, sau đó là tiếng mõ tre của những gã tuần đêm, nhắc nhở bách tính cài chặt then cửa, dập lửa trong bếp, đề phòng đạo chích cùng hỏa hoạn.
Phía dưới sân kia, đối phương đã thay ca gác, một già, một trẻ. Theo kế hoạch, Tử Khuê cùng Tái Vân đợi thêm ít khắc, chờ hai kẻ đã đi vào phòng ngủ thật say và hai kẻ ở ngoài cũng gật gù mới ra tay thần phục. Nhưng cặp mới thay ca lại lớn tiếng gọi bình trà thật đậm khiến Tử Khuê quyết định thay đổi chiến thuật.
Chàng nói nhanh ý mình rồi nhảy xuống đất, chạy vào khu nhà bếp. Thấy gã tiểu nhị của lữ điếm đang lui cui pha trà và chỉ có một mình, Tử Khuê liền điểm huyệt gã rồi lột áo mặc bên ngoài bộ hắc y. Người võ lâm nào cũng có trong tay nải một bộ y phục sẫm màu, thường là màu đen, may bằng lụa tốt, bó sát thân mình để dễ bề hành động trong đêm tối.
Khi rời nhà, Tử Khuê không mang theo “Hắc Long Tiêu” nhưng lại chẳng quên đôi bao tay “Ngư giáp miệt” cực kỳ quý giá. Đêm nay, chàng đã sớm đeo vào, tăng cường ưu thế để có thể kết liễu đối thủ thật bất ngờ và chóng vánh.
Dưới ánh trăng mờ ảo này, người ngoài sẽ khó mà nhận ra việc chàng mang bao tay, nhất là khi chúng đã được quét lên một lớp sơn màu da người.
Tử Khuê chít dải khăn của gã tiểu nhị lên đầu, cố tình để một đầu khăn rũ xuống che bớt khuôn mặt.
Chàng đã để trường kiếm lại cho Tái Vân nên giờ đây hai tay rảnh rang, bưng khay đồng đựng ấm chén trà.
Khi Tử Khuê bước đến gần chỗ cỗ xe tù thì Tái Vân cũng lần tới mép mái ngói của dãy Tây sương, chờ phối hợp hành động.
Hai kẻ gác tù đang ngồi trên một mành chiếu, cách tù xa hơn trượng. Họ không dám ngồi gần vì xe tù rất hôi hám, sặc mùi nước tiểu. Tội nhân chỉ được phép xin dừng xe để đại tiện mỗi ngày một lần, còn tiểu tiện thì tại chỗ ngồi.
May thay, Dịch Quan San chưa ngủ, rầu rĩ ngửa cổ ngắm những vầng trăng mùa Hạ. Và khi liếc về hướng Tây, gã đã phát hiện một hắc y nhân trên rìa ngói. Người này giơ hai bàn tay trắng muốt như ra dấu với gã.
Dịch Quan San nhận ra đối phương cứ vẽ lên không trung một chữ “Vân” thì biết là bào muội mình. Gã vui mừng khôn xiết, gật đầu lia lịa tỏ vẻ đã hiểu ý.
Rối gã bắt đầu ho lên sù sụ, liên miên như đứa trẻ bị ho gà. Những âm thanh ấy đã che giấu tiếng động mà Tái Vân sẽ gây ra khi nhảy xuống đất, phía sau hai gã Xoa Lạp cốc. Cặp cai tù cùng ngồi quay về hướng Đông để có thể quan sát cỗ tù xa.
Cuối cùng, Tử Khuê cũng đã đến bên chiếc chiếu, còn Tái Vân thì cách chỉ gần một trượng.
Đêm hè oi bức nên hai vị cai tù đã lột bỏ tơi nón, tạm quên mình là người của Xoa Lạp cốc. Nhờ vậy Tử Khuê nhận rõ dung mạo nạn nhân của mình. Đấy là Hán tử tuổi bốn mươi mà chàng đã gặp và một lão nhân tuổi lục tuần, không râu, mũi to, mặt xương xẩu, đanh ác.
Hai người ấy ngồi xếp bằng, kiếm tuốt trần gác lên đùi, và vì là kẻ lão luyện giang hồ nên họ đã sớm đặt tay lên chuôi gươm để đề phòng bất trắc, dù gã tiểu nhị kia không hề có khí giới.
Tử Khuê thản nhiên ngồi cạnh manh chiếu, đặt khay trà xuống, và chàng mỉm cười, hắng giọng như chuẩn bị nói vài lời nịnh nọt vậy. Nhưng không phải thế, đấy chính là ám hiệu để Tái Vân xuất thủ. Nàng đang ngồi thu lu sau một chậu hoa, nghe hiệu lệnh của tình lang thì búng mạnh đôi chân lao vút đến. Khi một kẻ bị định đánh lén từ phía sau lưng, trong một khoảng cách quá gần như thế thì rất khó toàn mạng. Lưỡi kiếm của Tái Vân đã tiện phăng cổ Hán tử trung niên, khiến tiếng rú bi thương không sao phát ra được.
Trước đó một khoảnh khắc nhỏ bé, Tử Khuê đã vươn tả thủ thọc vào yết hầu người còn lại. Lão ta thuộc hàng Hộ pháp của Xoa Lạp cốc nên bản lãnh chẳng tầm thường, lại sớm vận khí phòng bị nên phản ứng rất mau lẹ. Thanh bảo kiếm trên đùi lão lập tức ngóc lên, chặt vào cổ tay Tử Khuê. Đồng thời, tay trái của lão xỉa thẳng vào ngực chàng theo thế cương đao.
Hai thế thức nọ đúng là công thủ vẹn toàn nhưng chỉ tiếc rằng vô hiệu đối với “Ngư giáp miệt”. Lưỡi gươm sắc bén của lão ta không chặt đứt được uyển mạch Tử Khuê, còn tả thủ thì chạm phải lòng bàn tay phải cứng như thép nguội mà chàng đã thủ hờ.
Bốn ngón tay của Tử Khuê xuyên thủng cổ họng nạn nhân, phá nát cả khí quản lẫn thực quản nên những tiếng rên ằng ặc, tắc nghẹn không làm chấn động cảnh đêm trăng tĩnh mịch.
Sau khi đắc thủ, hai người lập tức chạy đến tù xa. Trong lúc Tử Khuê loay hoay tháo chốt gông cổ, Tái Vân ôm đầu bào huynh mà khóc:
- Đại ca! Đã hơn năm không gặp, nào ngờ đại ca lại rơi vào cảnh ngộ này.
Dịch Quan San cằn nhằn:
- Hồi nhỏ ngươi khóc lóc chưa đủ sao? Mau đưa ta rời chốn này kẻo không kịp nữa.
Tử Khuê đã tháo được hai mảnh gông, vươn vai nhấc bổng tù nhân ra ngoài, bồng xốc họ Dịch rồi cùng Tái Vân lướt về phía vườn hoa nhỏ sát tường sau lữ điếm.
Chàng thuận đà chạy nên có trớn lao vút qua bức tường cao gần trượng khiến Dịch Quan San vô cùng thán phục. Gã nằm ngửa nên nhìn rõ nét mặt trẻ trung, văn nhã của Tử Khuê, liền nghĩ thầm:
- Tiểu tử này là học trò của bậc dị nhân nào mà võ công lại cao cường đến thế nhỉ? Tướng mạo y đầy vẻ thuần hậu, thiện lương, sao lại xui xẻo đến mức bị em gái ta chài mồi lợi dụng. Ta phải bảo Vân muội buông tha cho gã mới được.
Dịch Quan San thừa biết bào muội mình là thạch nữ nên sẽ chẳng thực lòng với bất cứ nam nhân nào.
Nửa khắc sau, ba người về đến một tòa trang viện hoang phế gần cửa Tây thành. Tử Khuê và Tái Vân đã chọn nơi này làm chỗ trọ để dễ bề hành động. Họ không thể đưa Dich Quan San đến khách điếm được.
Đã lâu không có người chăm sóc nên tòa phế trang tiêu điều. Cỏ dại và bụi rậm mọc đầy sân. Tuy nhiên, tường và cổng trang còn nguyên vẹn nên người ngoài chẳng thể thấy ánh đèn phát ra từ một phòng ở dãy nhà hướng Đông. Nó tương đối tốt vì Tái Vân đã quét dọn rất sạch sẽ.
Nhà hoang chẳng có vật dụng gì cả song may thay những chiếc lu sành sau bếp lại đầy ắp nước mưa. Dẫu là anh em một thì trai gái cũng không thể tắm cho nhau nên Tử Khuê phải lãnh luôn nhiệm vụ cọ rửa cái xác thân hôi hám của Dịch Quan San. Gã đã kiệt lực chẳng còn sức đâu mà kỳ cọ. Chàng rất ngạc nhiên khi họ Dịch cẩn thận gỡ tấm mặt nạ da người, để lộ một dung mạo tuấn tú, khá giống Tái Vân.
Gần nửa canh giờ sau, họ Dịch sạch sẽ và tươi tỉnh trong y phục mới. Tái Vân đã mua sẵn cho bào huynh bốn năm bộ và đồ lót.
Món cháo gà hầm tam thất nóng hổi và vài chung rượu ngon đã làm cho gương mặt tái sanh của Quan San có sắc hồng. Trước đó, gã đã được Tử Khuê cho uống ba viên linh đan do mẹ chàng bào chế theo toa trong y kinh của Cửu Hoa Thánh y.
Dịch Quan San là kẻ thâm trầm, kín đáo, cơ trí còn tinh minh còn hơn cả Tái Vân. Cho nên, đến tận lúc này gã mới mở miệng, nghiêm trang bảo Tử Khuê:
- Này Quách công tử! Tại hạ thọ ơn cứu mạng nên chẳng thể lừa dối ân nhân của mình. Tại hạ xin nói thực rằng gia muội là người mắc quái tật không thể làm vợ, làm mẹ được. Do vậy, tốt nhất là công tử nên cắt đứt mối tình duyên này tìm một nữ nhân toàn vẹn hơn mà giá nghĩa.
Gã tưởng chàng sẽ nhảy dựng lên, nào ngờ Tử Khuê chỉ mỉm cười, hòa nhã đáp:
- Cảm tạ đại ca đã có thành ý. Nhưng thực ra tiểu đệ đã sớm biết việc này và vẫn yêu thương Tái Vân.
Đông Nhạc Tiên Hồ nhìn gương mặt ngơ ngác của bào huynh mà phá lên cười ngặt nghẽo. Rồi nàng ghé tai thì thầm khiến Dịch Quan San giật mình mừng rỡ, cười khà khà:
- Hay lắm! Đại ca xin chúc mừng cho hai người.
Bình luận truyện