Bàn Tay Định Mệnh
Chương 2: Quá khứ
Một tuần khác lại trôi qua. Bà khách trẻ đó không trở lại nhưng cũng không vì thế mà công việc của Nadia gặp trở ngại. Có điều là nàng cảm thấy mệt mỏi, không còn hứng thú trong công việc hằng ngày; có gắng giải thoát những nỗi băn khoăn lo ngại cho người khác dù khẩn thiết hay không thường là thuộc về lĩnh vực tâm tình. Còn những lo nghĩ của chính nàng thì chẳng có ai ngó ngàng tới bao giờ trừ người bà mà nàng cùng chung sống. Đôi khi bà thân mật bảo nàng:
− Nhưng mà, cháu yêu bà, cháu không thể sống mãi như thế này được! Cháu hãy còn trẻ, lại ngày càng xinh đẹp, duyên dáng, là niềm ao ước của bao chàng trai. Ngoài ra cháu còn thông minh sắc sảo, tóm lại là cháu có tất cả. Vậy thì có đều gì không ổn? Tự giam mình cùng với một bà già trong căn nhà như thế này, đó không phải là cuộc sống của một người ở lứa tuổi cháu, nhất là suốt ngày này qua ngày khác ngồi trong phòng đoán vận mệnh để lắng nghe những đều bất hạnh hoặc những niềm ước mơ của bao người xa lạ đối với cháu. Thật là vô nghĩa! Và họ thì cũng chẳng bao giờ thèm đếm xỉa đến những gì xảy ra trong cuộc đời của cháu! Bà cũng biết rất rõ là nếu cháu tìm được một người chồng hợp với cháu hoặc dù là chỉ một chàng trai mà cháu ưa thích thì bà sẽ mất cháu, chắc chắn là bà cháu ta sẽ chẳng được cùng sống bên nhau như bao năm nay, nhưng đều đó không quan trọng. Chỉ có hạnh phúc của người phụ nữ trẻ như cháu là đáng kể chứ không phải cái già nua tuổi tác của bà! Với cái tuổi ngoài bảy chục, người ta đã quá quen với cảnh cô đơn. Đó là số phận của tất cả những người như bà đã từng dày dạn trong cuộc sống nhất là trong tình trường khi chúng ta còn ở cái tuổi của các cháu nội cháu ngoại bây giờ. Chúng ta không đòi hỏi và thật không xứng đáng với sự hi sinh của chúng vì chúng ta. Cháu cũng biết đấy: bà chẳng phải là một bà già yếu đuối, què lê liệt bại gì mà còn mạnh chân khỏe tay, mắt tinh tai sáng, bà có thể một mình xoay xở rất tốt. Thỉnh thoảng cháu đến thăm bà cùng người bạn đời của cháu, đối với bà như thế là hạnh phúc rồi. Bà sẽ thật sự sung sướng khi được nói với cháu: "Thế là con bé cũng hạnh phúc như mình ngày xưa ở bên Nga với ông nó khi mình còn trẻ và xinh đẹp"
− Bà ơi, xin bà đừng tìm cách làm cháu xiêu lòng; cháu chỉ thất thật sự hạnh phúc khi được sống gần bà. Cháu không muốn và sẽ không bao giờ muốn sống với một người đàn ông nào khác.
− Cháu Nadia thân yêu của bà, cháu nói dối! Thật không xứng đáng với một cô gái trung thực như cháu! Nếu khách của cháu mà biết là cháu đã có thể không nói lên sự thật thì cháu sẽ mất tất cả! Bà biết là năm mười tám tuổi cháu đã yêu nhưng sự việc đã không được xếp đặt như ý muốn của cháu, vì vậy cháu đinh ninh trong đầu là không bao giờ cháu lại có thể yêu được nũa. Để quên đi, cháu đã lẩn trốn vào nghề bói toán, tưởng rằng vai trò của cháu từ nay là giúp đồng loại đi tìm thấy cái hạnh phúc mà hình như đối với cháu đã xa vời rồi. Có đúng thế không? Đúng hay không chắc là cháu cũng không dám trả lời. Cháu cũng sẽ nhận thấy là chưa bao giờ bà nói với cháu về chuyện này cả nhưng bây giờ bà thấy đã đến lúc phải làm việc đó. Nếu cháu biết là bà đã tự trách mình, tự giận mình như thế nào vì phải chờ đợi quá lâu! Bà cảm thấy trong thâm tâm là có tội đối với cháu.
− Cháu xin bà đừng nói nữa! Lúc này chỉ riêng có công việc mới làm cháu say mê ham thích mà thôi.
− Công việc của cháu! Rất tốt đẹp đấy! Nhưng ngay cả chuyện nếu có mang cho ta cái ảo giác là làm cho cuộc sống phong phú dồi dào thì cũng không thể che lấp hết được mọi khoảng trống! Nếu bà không có trong tim những kỷ niệm của một thời son trẻ huy hoàng, thì hàng bao năm nay làm sao bà có thể đứng vững được, như cháu thấy đó! Khi bà không còn ở trên đời này nữa thì ít nhất bà cũng đã từng có cái may mắn đó. Nhưng còn cháu? Trơ trọi một mình không có những kỷ niệm loại đó. Oâi, thật khủng khiếp!
− Cháu không cô độc vì cháu vẫn tiếp tục tiếp khách suốt cả ngày.
− Thế cháu định hành nghề đoán vận số này đến hết đời hết đời sao?
− Phải chăng đây là thiên chức của cháu? Chính bà chẳng đã khuyến khích cháu đó ư?
− Đúng thật là cũng đáng tiếc khi có một năng khiếu thiên bẩm như vậy mà không đem phục vụ mọi người. Nhưng cháu ạ, tất cả đều có chung cục của nó. Bà biết: nhờ có năng khiếu đó mà cháu đã kiếm được rất nhiều tiền, tất nhiên là vì nghe theo lời khuyên của bà. Cháu chẳng còn phải lo nghĩ gì về mặt tiền nong, cả bà cũng thế nhờ có cháu. Nhưng cũng không phải thế là cháu đã hạnh phúc. Cháu cũng đừng vội bảo: tiền tài đối với cháu không phải là vấn đề quan trọng vì cháu có một tâm hồn thật trong sáng và trung thực. Cháu cũng quan niệm như bà: tiền là cần thiết nhưng đó là phương tiện chứ không phải là mục đích! Vậy thì cháu hãy để cho con người của cháu sống và tận dụng hết cuộc sống khi cháu đang còn có thời gian trước mắt. Cháu phải ra ngoài, vui chơi, đi du lịch, thoát ra khỏi vòng xích mà cháu tự nguyện trói mình vào. Tại sao lại không đóng cửa phòng chiêm lý này lại trong một thời gian, với lý do đi nghỉ hè?
− Cháu không có quyền đóng cửa, bà đã biết quá đi. Một phòng đoán vận số mà đóng cửa thì mất hết khách rất nhanh: đám quần chúng đông đảo cần một nhà ngoại cảm nam hoặc nữ quen thuộc để đoán xem vận mệnh sẽ lập tức đi tìm đến những nơi khác.
Họ không thể chờ đợi và, khi cháu trở về thì sẽ không còn ai nữa. Họ sẽ không tha thứ vì cháu đã bỏ mặc họ. Đóng cửa dù chỉ một ngày cũng sẽ là đóng cửa mãi mãi.
− Tại sao cháu lại không tìm người thay thế tạm thời?
− Có thể bà cho là cháu rất tự kiêu khi cháu nói thế này: cháu chỉ tin ở mội mình cháu trong nghề này thôi. Nếu cháu đi thì phòng đoán vận số của Phu nhân Nadia sẽ trở thành một nơi khai thác tính dễ tin và sự đần độn của mọi người. Điều đó, cháu chẳng muốn chút nào!
− Và... nếu chính bà thay khi cháu đi vắng? Từ khi bà được chứng kiến công việc của cháu hàng ngày và qua những cuộc chuyện trò trao đổi tâm sự giữa hai bà cháu, bà cũng nắm được nhiều bí ẩn trong nghề. Bà tin chắc là có thể xoay xở được tốt và có đủ tri thức để có thể ít nhất là giữ khách lại cho cháu.
− Nếu cháu đi nghỉ ngơi ở đâu đó thì nhất thiết là phải có bà cùng đi. Cháu cũng cảm thấy chính bà không chịu nổi khi cứ phải ở lì một chỗ.
− Đúng, cái đó đúng! Bà rất muốn thay đổi không khí một chút. Thú thật là bà đã chán ngấy việc mở đóng cửa cho tất cả bọn người khát khao hạnh phúc đó. Bà cũng chán ngấy cả cái việc quan sát và bước đầu nhận xét về họ: ngày nọ qua ngày kia lâu dần bà có cảm tưởng là tất cả bọn họ đều giống nhau như đúc! Chúng ta hãy đi đi, Nadia!
− Chỉ có một chổ duy nhất mà cháu muốn tới: đó là Cố trang. Đã bao năm nay rồi, bà cháu ta chưa về thăm.
− Không biết bây giờ nó ra sao nhỉ, Cố trang thân thương của chúng ta.
− Cháu chắc chắn là nó vẫn còn nguyên vẹn. Gia đình nhà Levasseur nhất định sẽ trông nom chu đáo và bảo quản nó với một niềm tin và hi vọng là một ngày nào đó sẽ trông thấy bà cháu ta trở lại... Hơn nữa, họ vẫn thư từ cho cháu đều đặn và thỉnh thoảng cháu lại gửi một khoản tiền về đủ để chi vào việc tu sửa, bảo quản. Tháng trước tất cả ngói bên mái cánh tả đã được thay. Bà thấy dù ở xa nhưng cháu đâu có kém phần quan tâm đến Cố trang thân thương của chúng ta. Bà thấy thế nào khi lại được hít thở bầu không khí miền Sologne? Lại được nhìn thấy những ao hồ và những cách rừng nhỏ đầy muôn thú mà khá lâu rồi không bị ai săn bắt?
− Thôi đi, Nadia! Bà có cảm tưởng như đang ở đó rồi... Thế bao giờ chúng ta đi nào?
− Nhưng cháu xin nhắc lại: Phòng chiêm ký sẽ ra sao?
− Có thể cứ đóng cửa một vài tháng.
− Không.
− Bà có một ý: trong thời gian đi vắng tại sao không nói với ông thuật sĩ bạn cháu đó tạm thời đảm nhiệm giúp.
− Oâng Raphael hả bà?
− Đúng đấy! Oâng ta chả đúng là ông thầy của cháu là gì? Có phải chính ông ấy đã dạy cháu những bí quyết nghề nghiệp và giúp cho cháu hành nghề thông thạo? Cháu rất quý trọng ông ta, đúng không? Chỉ cần ghim ở trước cửa một dòng chữ nhã nhặn chỉ cho khách tìm tới ông ta khi thật cần thiết không thể chờ đợi được đồng thời thời thông báo ngày mở cửa lại cho cháu.
− Cháu không thể ghi lý do vắng mặt của cháu là để nghỉ ngơi! Cháu nhắc lại: Một nhà ngoại cảm không có quyền đi nghỉ hè... Cô ta phải luôn ở đó, tĩnh táo và mạnh mẽ. Nếu không người ta sẽ cho là cô ta mất hết khả năng thiên bẩm, đó là điều tồi tệ nhất!
− Vậy thì chỉ cần ghi "vì việc gia đình". Mà chẳng phải là rất hợp lý một khi cả hai bà cháu ta thấy thật cần thiết phải sống cùng nhau trong một bầu không khí trong lành, xa sự vào ra ồn ào không dứt của khách hàng ư?
− Có thể bà có lý đấy bà ạ? Để cháu gọi điện thoại cho ông Raphael nhé!
− Cuối cùng thì cháu cũng nghe ra đấy! Khi cháu trở lại với công việc, cháu sẽ hoàn toàn khỏe khoắn. Dù là trong thời gian nghỉ ngơi, cháu có mất đi một vài người khách thì cũng sẽ chiếm lại được mau chóng thôi. Không có gì thú vị hơn là một cuộc trở về với thiên nhiên.
Bà già Vêra biết rất rõ việc mình làm và hiểu cháu gái mình hơn bất cứ ai trên cõi đời này. Đã nhiều năm nay bà biết vào năm mười tám tuổi Nadia đã phải hứng chịu một vết thương lòng cho đến nay chưa liền sẹo và co thể chẳng bao giờ thôi rỉ máu. Nadia không bao giờ nói đến vết thương đó, nàng muốn quên đi bằng cách vùi đầu vào công việc hằng ngày. Các cuộc chuyện trò trao đổi vớ khách về số may, vận rủi nối tiếp nhau liên tục đối với nàng đã trở thành một phương thuốc linh nghiệm nó làm dịu nỗi đau. Dường như sự cuồn nhiệt say mê lao vào việc cố gắng làm dịu đi những nỗi buồn đau bất hạnh của người khác bằng những lời khuyên nhủ chí tình, đối với nàng là phương cách mạnh mẽ ngất chắc chắn nhất để quên đi nỗi đau thấm kín của chính mình.
Nhưng bà già Vêra biết còn có một phương thuốc khác để làm cho cô cháu yêu quý của bà khuây khỏa hơn là những giờ dài dằng dặc trôi trong phòng bói toán căng thẳng đấu óc không tránh khỏi sẽ dẫn đến suy nhược thần kinh.
Nếu Nadia thất mệt mỏi, như thời gian gần đây, thì chẳng qua đó chỉ là vì có quá nhiều khách bất mãn với số phận mà Nadia không đủ sức để giải thích, để khuyên răn mà thôi. Nhưng thật không thể tưởng tượng nổi là chỉ ba lần tiếp người khách nữ trẻ ca lạ kia mà đã làm cho nàng suy sụp đến vậy. Phải chăng đó là hiện tượng cuối cùng của bộ máy đang chuyển động bắt đầu rệu rã. Nếu còn để nó tiếp tục vận hành dù là chỉ là tý chút, thì cách duy nhất để hạn chế sự tàn phá là phải tổ chức một đợt nghỉ ngơi thoải mái có lợi cho sức khỏe và như Nadia đã chọn nơi về nghỉ để lấy lại sự yên tĩnh và thăng trầm trong tâm hồn. Bà Vêra cũng thấy đó là một việc tối cần thiết. Hai bà cháu phải đi ẩn náu và nếu cần, lẫn tránh mọi người trong một thời gian để về với Cố trang hầu như bị chôn vùi trong lòng miền Sologne mà cả hai đã sống qua những năm tháng tuyệt vời trong đời trước khi đến định cư ở Thủ đô Pari hoa lệ.
Ba hôm sau, được nhà thuật sỹ Raphael bằng lòng tạm thay cô gái mà ông coi như học trò giỏi nhất của ông, hai bà cháu đã thấy lại tòa kiến trúc cổ khiêm tốn với kiểu dáng kiến trúc thuần khiết vùng Sologne: Cả hai người tự nhiên đều có một cảm giác diệu hỳ là hình như được trẻ lại đến hàng chục tuổi. Khi người ta cảm thấy bớt già đi thì đó là lúc người ta thấy yêu đời, thấy phấn chấn lạ lùng. Và nhất là ở Cố trang không còn nghe thấy những hồi chuông đáng ghét cứ nủa giờ một lại reo vang báo hiệu có khách mới.
Cuối cùng yên tĩnh đã được thấy lại.
Đó là những cuộc dạo chơi kéo dài trong ngày và các buổi tối quây quần trước lò sưởi lớn mà "cha" Levasseur cẩn thận nhóm lửa bằng những thanh củi gỗ thơm nổ lép bép đã làm cho mọi người sảng khoái. Vợ ông, "mẹ" Levasseur, phụ trách việc bếp núc và sưởi ấm các giường nằm. Đều lạ lùng là không bao giờ bà Vêra và Nadia gọi nhà Levasseur bằng tên riêng. Đối với hai bà cháu, thì họ là những nông dân địa phương được trao nhiệm vụ chăm nom trang trại sát liền với tòa nhà cổ và là những người thân luôn được gọi một cách gần gũi là "cha Levasseur" và "mẹ Levasseur". Ở địa phương, hễ nói tới Cố trang là người ta nghĩ ngay đến nhà Levasseur mà hầu như rất ít nhớ đến "những bà chủ đích thực" của tòa nhà cổ đã bao năm qua họ không nhìn thấy mặt.
Những buổi tối yên tĩnh trong lúc đó bà Vêra thêu thùa may vá thì Nadia cảm thấy thực sự thích thú vùi đầu vào bộ sư tập các tranh ảnh cổ. Đó là những buổi tối tuyệt vời. Thời gian như dừng lại, cuộc sống mệt phờ trong phòng chiêm ký dường như không còn nữa.
Một buổi tối, tình cờ Nadia lần giở mấy trang của tờ tuần san thời sự mà theo yêu cầu của bà Vêra "cha" Levasseur mới mua buổi sáng ở thị trấn Salbris đem về. Nàng như bị một cú sốc dữ dội khi trông thấy, trong số rất nhiều ảnh chụp ngững khách đến dự lễ khánh thành một phòng triển lãm ở Pari, ảnh một cặp nam nữ bên dưới có ghi dòng chữ: Oâng và bà Marc Davault. Cặp này trông thật xứng đôi: người vợ đẹp và lịch sự, người chồng trang nhã. Và cả hai đều mỉm cười rất tươi tỏ ra thật hạnh phúc.
− Thật không sao tin được! – Nadia thốt lên và chìa tờ báo cho bà Vêra – Bà trông này: đây chính là người đàn bà đã tới gặp cháu ba lần. Và người đàn ông, chồng chị ta theo như chú thích dưới bức ảnh đó chính là Marc!
Sau khi nhìn thật kỹ tấm ảnh, bà Vêra trả lại tờ báo và chậm rãi nói:
− Và chúng ta phải về tận đây ẩn lánh để mà khám phá ra đều đó! Cháu không lầm: đúng là người phụ nữ tóc nâu đó mà bà đã thấy trong phòng đợi nhưng ở đây có vẻ tươi tắn hơn... Còn Marc, thì đúng là anh ta rồi. Đều đáng ngạc nhiên là họ đã lấy nhau.
Nadia thốt lên:
− Bây giờ thì cháu hiểu sao mình thấy có một cái gì đó thôi thúc về nghỉ tại nơi Cố trang này... Phải chăng gần đây thôi mọi việc không hay đã bắt đầu đối với cháu? Cháu cũng hiểu là tại sao chị ta chỉ mới bước vào phòng cháu ở Pari thôi mà đã làm cháu khó chịu... Bà đừng nói gì cả, bà ơi, cháu xin bà! Cháu về phòng đây.
Nàng không sao chợp mắt được. Cả bà Vêra cũng vậy: một bà Vêra thất vọng tự trách mình sao không đọc trước để giấu biệt cái tờ báo khốn khổ ấy đi, sao lại đồng ý với cháu trở về cái xứ Sologne này và bà biết rằng từ giờ phút này trở đi sẽ chẳng còn là chốn nghỉ ngơi yên tĩnh nữa mà sẽ là nơi gợi lại nỗi đau thực sự cho cháu bé bỏng của bà. Lúc này, giam mình trong buồn ngủ, chắc là cô đang gom lại trong trí nhớ những nỗi ưu phiền đầu tiên của một thời trẻ trung và nỗi đau buồn to lớn cô đã vượt qua từ cái ngày mà Marc, gặp gỡ từ mười năm trước nơi cách Cố – trang chưa đầy một cây số rồi biệt tăm luôn.
Toàn bộ ý nghĩ đầu tiên ám ảnh đầu óc Nadia: "Nếu Marc la chồng của người đàn bà mà lần thứ ba đến gặp mình để hỏi la liệu chị ta có sớm trở thành quả phụ không, cái đó có nghĩa chàng sẽ là nạn nhân và là người chồng bị phản bội!" Nếu không có bức ảnh đó trên báo, có lẽ nàng sẽ không bao giờ biết rõ được sự thật. Nàng cũng nhận thấy là mặc dù, thời gian và sự xa cách, tất cả những gì xảy ra và có thể xày ra với Marc nàng không thể hững hờ. Và nếu con đầm cơ đó, hiện ra ở hàng cuối cỗ bài trong cả ba lần gieo quẻ của người phụ nữ tóc nâu, phải chăng đó chính là nàng, là Nadia? Nếu thật thế thì quả là một điều kỳ diệu!
Số phận đã dẫn dắt nàng đi vào cuộc đời của Marc để cho nàng cứu chàng một lần nữa! Nàng sẽ phải làm tất cả để tách chàng ra khỏi cái con người đang mong chờ cái chết của chàng! Nhưng ngay tức khắc nàng hiểu ra là chỉ có thể thành công nếu nàng có đủ nghị lực để kiềm chế xúc động bản thân. Cách tốt nhất để tìm lại được sự bình tĩnh phải chăng trước tiên là cố gắng thử nhìn lại các giai đoạn chính của quá khứ và bắt đầu cũng chính trong căn nhà cổ nơi tỉnh lẽ này, nơi mà nàng đã cất tiếng khóc chào đời hai mươi tám năm trước? Nếu cần thiết, nàng sẽ thức suốt đêm để gợi nhớ, để hồi ức lại cả giai đoạn đã qua, linh cảm la khi bình minh hé rạng, sương mù dần tan, nàng sẽ sáng suốt hơn trong hành động.
Nàng đã chào đời ra sao nhỉ? Tất cả những gì nàng biết là mẹ nàng đã chết khi sinh nàng ra trong gian buồn này, trên chính chiếc giường nàng đang nằm đây.
Sau đó nàng được bà ngoại Vêra gốc Nga, nuôi dạy trong Cố trang. Đôi khi, cha nàng, một kỹ nghệ gia, phần lớn thời gian sống ở Hoa Kỳ, về thăm. Vì vậy nàng rất biết ít về người cha này. Một người cha bao giờ cũng gây cho nàng xúng động nhưng nàng không sao thực sự yêu quý được: ông chỉ là một người khách lạ mà thời gian lưu lại ngắn ngủi bên con gái và mẹ vợ, ông coi như những ngày khổ sai bắt buộc. Người thân độc nhất trong gia đình, người mà nữ tính tràn đầy và cũng đầy tình thương yêu, người nghiêng xuống những mộng mơ cũng như những phản phất âu lo thiếu nữ của nàng chính là bà ngoại Vêra, người thực sự đã trở thành người mẹ hiền yêu dấu của nàng.
Năm lên sáu, Nadia nhớ rất rõ, nàng bị mắc một căn bệnh hiểm nghèo mà tên bệnh nàng nghe được ở những người xung quanh thì thào và nàng nhớ rất kỹ, mãi hai mươi năm sau nàng còn kinh sợ: đó là bệnh bại liệt, lúc đầu nằm liệt, sau đó dần dần nhúc nhích được bằng đôi nạng gỗ qua một thời gian dài rèn luyện phục hồi chức năng trong các bệnh viện chuyên khoa. Giai đoạn cực kỳ đau khổ nhưng qua đó nàng bắt đầu khám phá ra một kho báu về tình yêu thương hiền diệu của người bà ngoại. Bà Vêra hầu như không lúc nào rời cô cháu gái bé nhỏ. Cũng chính trong thời kỳ bệnh hoạn như thế, một lần trong lúc nằm dài trên giường nữa thức nữa ngủ, ngàng bỗng thấy một ảo ảnh kinh hoàng... Cái ông mà nàng gọi là "cha" ấy, cứ mỗi lần về cũng thật hiếm hoi, lại mang cho nàng một con búp bê mà nàng rất ghét nên khi ông đi thì nàng ném ngay xuống đất... Người "cha" ấy bỗng nhiên xuất hiện trước mắc nàng. Khuông mặt trắng bệch nhuốm máu; ông ta nhìn nàng với đôi mắt không chớp như mắt những con búp bê, và chẳng nói chẳng rằng. Cũng từ ngày đó Nadia cứ thấy máu là hoảng sợ, và mỗi lần trong quẻ bói mà thấy xuất hiện màu của máu là nàng lại thấy có thể ngất xỉu. Chính máu đã dùng để viết lên cát hai chữ QUẢ PHỤ khi người vợ của Marc tới gặp và nhờ nàng xem quẻ ở Pari... Đó cũng là lần đầu tiên mà cô bé Nadia có phép thấu thị mà chính cô cũng không hiểu đó là cái gì.
Cơn ác mộng lần đầu đó, cô không dám nói với bà ngoại, nhưng chỉ ít ngày sau đó bà cho biết là cô sẽ chẳng bao giờ thấy người cha mang đến cho cô những con búp bê ấy nữa. Oâng đã bị chết trong một tai nạn xe cộ. Thật là khủng khiếp nhưng cô bé lại hầu như dễ chịu vì cô chẳng còn gì liên quan đến người khách lạ đó trong khi đã có cái may mắn là bà Vêra "của cô" luôn luôn ở bên cạnh.
Khỏi bệnh, quẳng được đôi nạng đáng ghét đi, nàng lại chạy nhảy trong khu vườn của Cố trang mà bà Vêra đã biết sửa sang và duy trì một không khí hỳ diệu nửa thực nửa hư giúp cho trí tưởng tượng của đứa trẻ phát triển và đâm hoa kết trái. Cũng không chắc là ngay đêm đó cô bé đã không mơ mộng trong phòng mình... Cả bà Vêra cũng vậy. Bà chẳng phải là đến từ một xứ sở đầy mơ mộng nhuốm chút ảo huyền đó sao? Đó là quê hương Nga yêu dấu của bà. Phải chăng định mệnh đã uỷ thác cho bà lôi cuốn Nadia vào những chặng đường phi ngựa trên xe tam mã xuyên thảo nguyên mênh mông tuyết trắng trong âm thanh trầm bổng của một điệu ca di-gan mà mỗi buổi tối bà khe khẽ hát bên nôi để ru cháu ngủ. Với Nadia, bà là một bà tiên và mãi mãi là một bà tiên trong các câu chuyện cổ tích. Vào thời kỳ đó, bà Vêra chưa bận vào việc dệt thảm, vá may: bà rút và ngắm nghía những quân bài trong khi nàng giở xem những trang sách tranh ảnh... Nhưng nhiều khi nàng dứt bỏ sự ham say đó mà sán tới gần bà ngoại:
− Bà thấy gì trong những quân bài đó?
− Rất nhiều đều kỳ lạ và đặc biệt có đều này: cháu sẽ là một cô gái khác thường ở tuổi trưởng thành.
− Khi lớn thì cháu sẽ thế nào?
− Cháu sẽ nhìn nhận sự vật một cách khác hẳn. Vì vậy nên chẳng vội lớn làm gì.
Nadia như bị thôi miên bởi những quân Vua, quân Hoàng hậu, quân Bồi trong cỗ bài tây. Những quân bài này hình như nói với cô: "Chúng tôi chờ để đến một ngày nào đó cô sẽ khám phá ra lý do tồn tại của chúng tôi".
Nàng còn có một bạn chơi khác: đó là cậu Jacques, con trai người tá điền, hơn cô một tuổi. Một chàng trai chắc nịnh của ruộng đồng chỉ biết yêu thích những gì cậu nhìn thấy xung quanh: những cách rừng, ao hồ, thú săn bắt và súc vật của trang trại. Hình như cậu ta cũng phải lòng cô bé có những búp tóc màu hung mà người trong vùng thường gọi là: "Cô tiểu thư của Cố trang". Sau này,cả Jacques và Nadia là biết cậu ta sẽ trông nom trang trại cũng như hiện nay cha mẹ cậu đang làm, đó là số phận của dòng họ nhà Levasseur... còn Nadia thì sẽ trở thành "Bà chủ trang trại". Tuy nhiên, vào cái tuổi của hai người vào lúc đó, chưa có sự chênh lệch về địa vị xã hội. Khi vui chơi, họ tin là trò chơi đó sẽ vĩnh cửu. Sự hồn nhiên vui vẻ kéo dài được hai năm.
Một đêm, khi đó Nadia mới mười một tuổi và không còn là một em bé nữa,bà Vêra thức giấc vì có tiếng kêu khóc ở buồng bên cạnh vẳng sang. Bà vội vàng chạy tới và thấy Nadia nhổm dậy ngồi trên giường mặt mày ngơ ngác và chan hòa nước mắt.
− Cháu làm sao thế, cháu gái yêu của bà?
− Cháu không biết... Cháu không biết nữa...
− Chắc là một cơn ác mộng đó thôi. Chẳng có gì quan trọng! Cháu nằm ngủ tiếp đi!
− Bà ơi, vì sao người ta lại nằm mơ?
− Không ai có thể giải thích cho cháu một cách thấu đáo được... Đó là những kỷ niệm hoặc là những dự cảm về việc xắp xảy ra lướt qua não bộ khi người ta đang ngủ. Có hiện tượng này là vì bộ não không bao giờ ngừng làm việc cả. Ngày xưa, tổ tiên chúng ta tin ở sức mạnh của những giấc mơ... Vì vậy các cụ luôn có những nhà thuật sĩ bên cạnh để đoán điềm giải mộng.
− Thuật sĩ là người như thế nào, bà?
− Cũng như mọi người thôi nhưng ông ta đoán nhận được những đều mà mọi người không thấy.
− Cháu thích trở thành nhà thuật sĩ!
− Còn lúc này cháu chỉ là cô cháu gái nhỏ bé của bà và ngoan ngoãn nằm xuống ngủ đi.
− Bà thân yêu ơi, lúc nãy bà bảo những giấc mộng là những kỷ niệm. Nhưng những cái cháu thấy trong mơ chua từng có trong trí nhớ của cháu:
− Thế thì cháu mơ thấy gì nào?
− Cháu chẳng còn nhớ nữa.
− Vậy thì cháu hãy bình tĩnh lại và ngủ đi.
− Và những dự cảm, đó là cái gì hả bà?
− Đó là một hiện tượng về tâm linh cảnh báo cho ta bằng trực giác một sự kiện nảy sinh hoặc sẽ tới từ xa... Nadia, cháu phải ngủ đi! Cháu có muốn bà hát bằng tiếng Nga, một điệu hát quê hương của bà để ru cháu ngủ không?
− Có cháu rất thích bài bà hát hôm nọ và bà bảo đó là bài mà các bà mẹ Kiev thường hát ru con ngủ...
− Cháu nhớ cả tên tỉnh kia à! Trí nhớ của cháu thật tuyệt vời! Bây giờ cháu hãy yên lặng nghe bài hát nhé!
Khi đôi mắt của Nadia đã ngắm nghiền, bà Vêra nhẹ nhàng rời khỏi phòng ngủ.
Điều mà bà không thể biết được là Nadia đã giả vờ ngủ, không phải là để đánh lừa bà mà là để cho bà yên tâm cũng như lúc cô nói với bà là cô chẳng nhớ những gì đã thấy trong giấc mơ cả. Khi còn lại một mình trong bóng tối, cô lại mở to đôi mắt. Điều mà cô nhìn thấy cũng khủng khiếp như bộ mặt nhợt nhạt của người đàn ông đã từng là cha cô. Điều đáng sợ hơn cả là không chắc là đã nhìn thấy lại cái ảo ảnh lần thứ hai đó trong giấc ngủ... Thân thể của anh bạn Jacques của cô nổi bập bềnh trên mặt nước.
Cô thấy rất rõ là đôi mắt của Jacques cũng bất động như đôi mắt của cha và của những con búp bê. Và cô cũng tự trông thấy mình giơ hai cánh tay bất lực về phía cái cơ thể mà cô không thể với tới được để lôi nó lên khỏi mặt nước.
Tám ngày sau Nadia cùng với Jacques dạo chơi cạnh hồ nước ở phía sau những toà nhà của trang trại, ở đó có đàn vịt trời non tơ đang vùng vẫy không biết là mùa săn sắp tới. Cô chỉ tay về phía những bông sen bập bềnh ở giữa hồ và nói:
− Em rất thích làm sao mà hái được vài bông đem về cắm trong phòng khách.
− Dễ thôi, bằng chiếc thuyền này. Rồi em xem... Nói rồi cậu ta cởi dây buộc quanh cọc, chiếc thuyền cũ nát đầy rêu. Cầm lấy bơi chèo, cậu từ từ cho thuyền trôi xa rồi tới cụm hoa sen và cất tiếng vui vẻ:
− Chẳng phải là một vài bông mà cả một rừng hoa anh sẽ đem về cho em cắm đầy phòng!
Bao giờ cậu cũng chiều chuộng Nadia và sẳn sàng thỏa mãn mọi yêu cầu dù là nhỏ nhất của cô: trèo một cây cao, vượt hàng rào chỉ bằng một cú nhẩy để hái một đoá hoa, vừa co cẳng chạy vừa cười rút rít sau một chú thỏ đang hốt hoảng phóng nhanh... Cũng vì thế mà cô rất mến cậu! Nhưng, bất ngờ, giữa lúc chiếc thuyền lướt gần tới cụm hoa sen thì nó bổng chao đi và chìm dần trong tiếng rú của Jacques:
− Cứu, cứu tôi với, Nadia! Anh không biết bơi! Nhưng Nadia cũng không biết bơi. Vả lại người trong trang trại luôn cấm mọi người không được trèo vào trong chiếc thuyền đó. Lúc này, Nadia rụng rời khi nhìn thấy nó chìm dần chìm dần. Aûo ảnh cuối cùng mà cô đã nhìn thấy là cánh tay của Jacques giơ cao chiếc bơi chèo lên trời. Rồi yên lặng, chỉ đôi lúc bị ngắt quảng bởi tiếng kêu của một con vịt trời nào đó.
Người ta tìm thấy Nadia nằm ngất lịm bên bờ ao. Thi hài của Jacques bị vướn vào những rễ sen không nổi lên được. Đến đêm hôm đó dưới ánh sáng của những ngọn đuốc cậu ta mới được vớt lên.
Nadia ốm nặng, mê sảng suốt ba ngày đêm. Khi cô tỉnh, bà Vêra hết sức thận trọng, cho cô biết là cũng như với cha cô ít năm về trước, cô sẽ không bao giờ còn nhìn thấy anh bạn Jacques của cô nữa. Và bà cầu nguyện cho chàng trai đó. Cũng từ ngày đó, trong hồi ức của Nadia, người đã ra đi chỉ là Jacques, còn bố mẹ bất hạnh của anh, với cô, trở thành "cha" và "mẹ" Levasseur. Khi hai ông bà bị mất đi người con trai duy nhất của mình thì họ già xọm đi một cách kinh khủng.
Mọi người không còn nhắc đến Jacques ở Cố trang nữa. Bà Vêra hiểu là một trong những sức mạnh to lớn của tuổi trẻ là quên đi quá khứ để hướng về tương lai. Bà cũng thấy bình thường khi Nadia không bao giờ trở lại gần bờ ao, nơi đã làm cho cô kinh sợ, và hết sức tránh gặp ông bố và bà mẹ của người đã khuất. Nếu bất ngờ đụng phải thì cô trốn chạy, không biết phải nói gì với họ cả.
Trong trái tim thiếu nữ của cô, mặc dù tất cả những gì bà ngoại đã cố gắng nói cho cô hiểu là tai nạn đó xảy ra là do định mệnh khắc nghiệt, nhưng cô vẫn thấy chính mình và duy nhất chỉ có mình là người chịu trách nhiệm về tất cả những gì đã xảy ra. Nếu cô không tỏ ý muốn có những bông sen đó thì không bao giờ cậu thiếu niên lại mạo hiểm trèo lên chiếc thuyền cũ đã bị cấm sử dụng nhưng tại sao người ta lại không hủy ngay chiếc thuyền đáng bị nguyền rủa đó đi? Những người lớn tất là những đàn anh, đàn chị, cả họ nữa cũng là những thủ phạm vì đã sơ suất. Cảm giác hối hận nặng nề và sâu sắc đã dày vò Nadia, làm cô không sao chợp mắt được trọn đêm: mười lần, một trăm lần cảnh tượng đó cứ hiện ra trước mắt làm cô xúc động mãnh liệt, đến nỗi tối nào bà Vêra cũng thấy cô nước mắt chan hoà.
Năm, tháng lặng lẽ trôi qua. Không còn bạn chơi, Nadia một mình lủi thủi lần bước hàng tiếng đồng hồ dọc theo bìa rừng già hoặc khu rừng nhỏ liền kề vói đồng ruộng. Một trong những buổi tối đó, cũng như tất cả những ngày sau bữa ăn chiều, nàng ngồi trước lò sưởi lớn, hết nhìn những lưỡi trong lò lại nhìn bà Vêra – bà đã bỏ công việc dệt thảm cố hữu – đang bày những quân của cỗ bài tây để làm một quẻ bói, nàng nói bằng một giọng nghiêm trang không còn là giọng của một cô bé mà là một người con gái đã trưởng thành.
− Có một chuyện bà ạ, cháu chưa bao giờ nói với bà vì cháu không chắc là có đúng không... Nhưng bây giờ sau khi cháu đã có một thời gian nghiền ngẫm, cháu biết là mình đã không lầm. Cái đêm mà bà thấy cháu khóc ròng ấy, ít ngày trước cái chết của Jacques, trái với bà đã tưởng, cháu không ngủ. Cháu thức rõ ràng và cháu nhìn thấy thi thể của Jacques bập bềnh trôi trên mặt nước nhưng cháu không dám nói vì sợ bà kinh hãi, và cũng có thể cháu sợ rằng bà nghĩ là cháu điên rồ. Điều đáng sợ là không phải cháu trông thấy hình ảnh trong một cơn ác mộng mà là lúc mắt cháu đang mở to.
− Chúng ta đừng nói đến tất cả những cái đó nữa. Hãy cố gắng quên đi cháu ạ.
− Nhưng thật khủng khiếp đối với cháu vì cháu đã nhìn thấy cái đó trước khi nó xảy ra.
− Cái này chỉ đơn giản là có thể cháu có một năng khiếu đặc biệt mà người khác không có. Dù sao thì cũng không có gì nghiêm trọng cả và biết đâu cái đó có thể giúp ít cho cháu sau này. Biết trước sự việc, có thể giúp ta tránh nó, không để cho nó xảy ra... Tóm lại, cũng như tất cả những người rất nhạy cảm, cháu tưởng tượng quá nhiều đấy. Phải cảnh giác với nó! Bà không có cái đó vì vậy, bà phải dùng đến những quân bài. Còn bây giờ cháu phải đi ngủ thôi. Đừng quên ngày mai là chủ nhật, chúng ta phải dậy sớm để đi nhà thờ.
Còn lại một mình, bà Vêra thấy thật sự lo ngại: phải chăng cô cháu gái của bà được thừa hưởng cái khả năng thấu thị mà người mẹ sinh ra bà đã có ngày xưa? Bà mẹ tuyệt vời người Slave ấy tên là Natacha cứ ỗi tối lại tới gần chiếc giường trẻ em trong căn nhà ấm cúng của gia đình ở Kiev để kể cho cô cháu nghe những câu chuyện lạ kỳ cốt để ru cho cháu ngủ. Bà Natacha có năng khiếu bẩm sinh về tài tiên tri mà cả vùng đều biết tiếng. Những người dân từ những nơi rất xa cũng tìm đến nhờ bà xem và rất kính trọng bà vì bà giúp đỡ mọi người không phải vì tiền bạc. Chính tấm lòng nhân ái đã chỉ đạo hành vi của bà. Bà đã tiên đoán được biết bao sự kiện. Và đặc biệt là tới một ngày, cũng chưa xa lắm, có những thay đổi nghiêm trọng xảy ra trên đất nước Đại – Nga: Những sự kiện mà nhiều người không ngờ nhưng đã ập tới... Và nếu cái năng khiếu bí ẩn đó được truyền cho Nadia sau khi đã bỏ qua hai thế hệ: bà và con gái bà, mẹ của Nadia đã chết lúc lâm bồn? Khả năng thấu thị rất có thể, trong một số gia đình, là một tính cách duy truyền lắm chứ! Nếu những gì mà Nadia vừa tâm sự với bà là sự thật – và thật ra cũng chẳng có ký do gì để nghi ngờ – thì cháu gái của bà, đúng vậy, cả con bé này đã sở hữu một năng khiếu mà không một phạm vi ảnh hưởng nào, không một sức mạnh nào của nhân loại có thể chống lại. Cần phải chấp nhận đồng thời phải hết sức tránh không cho con bé biết là nó có năng khiếu đó. Nó chưa biết tác hại rất lớn và nguy hiểm đến mức nào khi nhìn trước được tương lại. Muốn vậy thì chỉ có một cánh: cười cợt coi thường những ảo ảnh mà nó đã thấy. Nếu cần thì làm như chế nhạo nó. Chỉ có như thế mới làm cho nó đừng quá xúc động và cuối cùng là nó sẽ không chú ý tới, không cho là quan trọng nữa. Đó là lập luận sai lầm của người bà. Nhất là bà đã hiểu không đúng về Nadia.
Bà Vêra quyết định không bao giờ đem cỗ bài ra bói nữa mặc dù nó vẫn nằm lù lù trên chiếc bàn tròn. Những quân bài cũng chẳng mách bảo bà được đều gì nhưng nó lại tiếp tục khiêu gợi tính hiếu kỳ của cô bé khi nhìn thấy. Cần phải gạt bỏ ra ngoài cái tầm hiểu biết còn non trẻ của cô bé tất cả những gì thuộc về lĩnh vực thấu thị! Lập tức bà xếp những quân bài lại, giấu vào một trong những ngăn kéo bàn viết, dưới một chồng giấy tờ với ý định là sẽ không bao giờ lôi nó ra khỏi chỗ đó nữa. Các buổi tối, bà lại quay lại công việc cũ là tiếp tục dệt thảm.
Nadia vẫn lớn lên và có thể lấy ại được niềm hạnh phúc không có mây che nếu bà không đặt nàng, đã hai năm nay dưới sự dạy dỗ của một cô giáo già, cô giáo Bạch mà nàng không thấy mến yêu; nhưng bà Vêra chỉ còn có nàng trên cỏi đời này nên không nỡ đưa nàng đến một trường lưu trú, để phải xa cách cô cháu ngây thơ, lẽ sống duy nhất của bà.
Với vẻ bề ngoài nghiêm khắc cô giáo Bạch không phải là một phụ nữ xấu. Rất mau chóng, cô đã tỏ ra là một nhà giáo dục suất sắc. Nhờ có cô mà Nadia tiến bộ vững vàng. Ba năm trời đủ để biến cải một cô gái nhỏ: mười bốn tuổi thành một thiếu nữ mà tri thức về văn hoá và kể về nghệ thuật đã vượt xa các bạn cùng lứa tuổi. Thế nhưng ngoài bà Vêra và cô giáo Bạch ra thì nàng chỉ được tiếp xúc với rất ít người trong Cố trang.
Tình trạng nửa cô đơn đó cũng chẳng đè nặng lên nàng lắm. Bởi vì nàng đã biết cách loại trừ nó. Ngoài những giờ học kiến thức văn hóa xen với giờ học nhạc và học vẽ, Nadia rất thích chơi Pianô đặc biệt là chơi những tác phẩm của Chopin. Còn về hội họa, một trong những niềm vui của nàng là đi, cùng với giá vẽ và hộp màu, tới những vùng thôn giã bao quanh lâu đài để vẽ cảnh vật thiên nhiên. Trong tiếng hót líu lo của các loài chim, nàng vẽ một bức tranh phong cảnh và nàng gọi là bức tranh "ngẫu hứng". Đặc biệt yêu thích cảnh quan vùng Sologne mà nàng cho là nó thuộc về mình, khi cầm lấy bút vẽ nàng cảm thấy một vái gì đó êm dịu nhẹ nhàng làm tâm trí nàng bay bổng. Nàng chỉ còn nghĩ đến tác phẩm bắt đầu sự sống với màu sắc trên khung vải. Lúc ấy nàng quên đi tất cả Cố trang, cô giáo Bạch và cả bà Vêra. Cứ như thế mà dần dần, con người thật, một tâm hồn hoang dại, mộng mơ phát triển và tự khẳng định. Khi tở về lâu đài, nàng lên thẳng buồn riêng, nhìn một lần cuối khung vải đã vẽ xong hoặc còn bỏ dở, cất nó vào tấm màng che hốc tường trong bóng tối cùng với những tấm đã vẽ trước. Và mỗi lần bà Vêra hỏi:
− Tại sao không cho bà xem những bức họa của cháu? Thì nàng trả lời lần nào cũng vậy:
− Vì cháu thấy xấu hổ! Chúng chẳng có giá trị gì... Không phải là cháu vẽ cho mọi người xem mà chỉ để cho một mình cháu thôi. Cháu không được cái quyền là có những bí mật nhỏ cho riêng mình sao.
− Hãy cẩn thận đấy, cháu yêu ạ! Cứ xử sự như thế ở vào cái tuổi cháu bây giờ thì về sau cháu sẽ trở thành... Một khuyết điểm xấu, đó là thói vị kỷ! Không nên vùi sâu tất cả những điều bí mật trong trái tim mình... Có những nỗi buồn nếu chỉ một mình mình biết, một mình mình hay thì không ổn, tốt hơn hết là hãy trúc bầu tâm sự với một người bạn chí cốt hoặc với bà ngoại thân yêu của cháu đây chẳng hạn thì nỗi buồn sẽ vợi đi.
Nadia im lặng.
− Tiện đây, bà hỏi cháu, dường như trong khoảng ba năm nay cháu không còn thấy những ảo ảnh khủng khiếp đó nữa phải không?
− Hội họa đúng là một phương thuốc màu nhiệm đối với cháu bàạ. Mỗi lần thấy ảo ảnh mà cháu căm ghét xuất hiện, cháu lại vội vàng lấy những bức vẽ ra xem lại với cảm tưởng là đang ngắm nghía một cái gì thất đối với cháu. Việc làm này đã làm tan biến đi những ảo ảnh chỉ có thể là những hình ảnh sai lầm. Đúng là bà có lý: cháu đã tưởng tượng thái quá... Cách tốt nhất phải chăng là thay thế ngay tức khắc sự mộng mơ bằng nhìn thấy cái gì thực sự tồn tại?
Lời bộc bạch của Nadia chỉ làm cho bà Vêra yên tâm một phần vì nó chỉ ra bằng khả năng thấu thị vẫn tiếp tục tồn tại mặc dù nàng có thiện ý rõ ràng là muốn thoát khỏi nó.
− Nhưng cháu thích vẽ gì hơn cả: hoa quả, cây cối, những bức rào?
− Tất cả những gì thuộc về thiên nhiên đều đáng vẽ, cháu đều thích cả bà ạ.
Nàng không dám thú nhận với bà là có một phong cảnh duy nhất mà nàng không bao giờ đặt bút vẽ, đó là khung cảnh mà trong đó có hồ ao. Nàng trốn chạy những dòng suối, những con sông hình như đối với nàng chúng có thể mang lại sự chết chóc.
Một buổi trưa, vừa lúc xong bài học tiếng Anh, cô giáo Bạch, vốn rất tiết kiệm lời khen tặng, bảo nàng:
− Nadia thân mến, cô rất hài lòng. Em phát âm rất chuẩn. Cũng vì vậy cô muốn là mùa xuân sau sẽ gửi em sang Anh ở đó một vài tháng trong một gia đình chỉ nói toàn tiếng Anh. Khi trở về, em sẽ nói tiến Anh như một người Anh chính cống, cô phải nói dự kiến này với bà em mới được.
− Chả cần vội vã thế đâu, thưa cô. Em chẳng thích ra nước ngoài một tý nào. Em thấy ở đây thật thoải mái... Nếu em có quyền quyết định thì không bao giờ em rời khỏi quê hương Sologne của em.
− Thôi thì cái đó để sau sẽ hay. Còn bây giờ cô sẽ phải vắng mặt khoảng một tiếng đồng hồ. Nhất thiết cô phải đi đến bưu điện xã gửi một lá thư trước giờ họ mở hộp thư.Chị gái của cô đang chờ tin của cô đấy.
− Cô có chị gái à? Sao chẳng bao giờ thấy cô nói cả.
− Cố đã nói với em từ hôm mới tới đây. Nếu như không mấy khi nói tới nữa là vì cô nghĩ cái đó đối với em cũng chả có gì đáng quan tâm.
− Bà ấy cũng dạy học như cô chứ?
− Ồ không! Chị ấy không thể dạy học cũng như không thể làm một cái gì khác... Chị ấy bị bại liệt từ nhỏ và hiện đang sống trong một học viện chuyên khoa cách xa đây.
Đó là một khám phá mới của Nadia. Như vậy là cũng có những người như cô giáo Bạch đây chẳng hạn có nỗi bất hạnh trong gia đình mà không bao giờ nói ra. Có những người, như nàng, Nadia, cũng có những điều bí mật của riêng mình.
− Cô còn có những người thân nào khác nữa không?
− Cô chỉ có mình chị ấy. Cũng vì phải chu cấp cho chị mà cô bắt buộc phải làm phải làm việc nhiều.
− Cô có muốn em đi cùng cô vào làng không?
− Chả cần, em Nadia của cô ạ. Em thật dễ thương khi đưa ra ý kiến đó nhưng cô biết là em sẽ vất vả đấy. Em ở nhà tập nhạc đi. Đến hàng tuần nay rồi em không đụng đến pianô và em biết rất rõ là bà em thích nghe em đàn. Em có biết hôm qua bà em nói với cô như thế nào không? "Mỗi lần nghe vang lên tiếng pianô của Nadia tôi lại có cảm tưởng là tất cả Cố trang cất lên tiếng hát".
− Bà em đã nói thế hả cô? Thế thì em sẽ làm cho bà vui thích ngay đây... Nhưng, về cái hư đó, cô không để lại được đến ngày mai ư? Thời tiết đang thay đổi: em sợ trời sắp có cơn giông.
− Chân cô còn kỏe, cô sẽ quay về trước khi bão tới... Và lại, đôi khi cô cũng không thấy sợ mưa gió lắm.
− Còn em thì em chỉ thích cái mùa đất ẩm bốc lên khi mưa gió đả chấm dứt. Nhưng, cô đi mau lên thôi!
− Hẹn sau một tiếng nhé!
Qua cửa sổ phòng khách Nadia trầm ngâm nhìn cô bước đi mỗi lúc một xa. Thấy cô giáo già một mình ra đi như vậy, nàng thấy vô cùng bứt rứt. Nàng cũng không hiểu tại sao nữa: đây là lần đầu tiên nàng cảm thấy băn khoăn lo lắng cho người mà nàng không yêu thích. Có thể là qua những trao đổi vừa rồi, nàng đã khám phá ra là cô giáo già nghiêm nghị và khô khan đó, cũng là một con người đã biết giấu đi nỗi đau khổ riêng tư? Hay là vì nàng biết ơn cô về những lời khen tặng sự tiến bộ trong việc học tiếng Anh? Tuyệt đối không phải vậy: Nadia không thích những lời khen. Có cái gì khác đang làm cho lòng nàng nặng thắt: nàng thực sự lo lắng khi thấy cô một mình ra đi và tự nhủ thầm là bất cứ tai nạn nào cũng có thể xảy đến với cô. Ngày hôm kia, nàng lại chẳng thấy một ảo ảnh đó sao? Nàng trông thấy rõ cô giáo Bạch nằm bất động, gương mặt như làm bằng sáp. Và nàng nhìn thấy cái đó, không phải là trong giấc ngủ! Ngay lúc ấy – thật là khủng khiếp mà thú nhận – nàng lại thấy hầu như thích thú: thế là đã nhổ bỏ được cái gai trước mắt! Nhưng lúc này đây khi cô giáo đã ra đi, Nadia lại thấy cô vô cùng sợ hãi. Tất nhiên là bí mật này nàng không hề hé môi với bà Vêra, càng không nói gì với cô giáo. Để quên đi cái ảo ảnh đáng sợ đó, nàng nhanh nhẹn chạy đến chỗ để pianô và lẫn trốn trong một điệu valse của Chopin đồng thời tìm cách át đi tiếng rơi hung hãn của những giọt mưa to lớn của trận bảo đang bắt đầu. Nàng cũng hiểu là âm nhạc sẽ làm cho quên đi tất cả.
Không phải chỉ là một tiếng đồng hồ đã trôi qua từ lúc cô giáo Bạch ra đi mà là đã ba tiếng rồi vẫn chưa thấy cô về. Trận bão đã chấm dứt để lại cảnh vật ướt sũng. Đêm ập xuống mang đến bao đều lo lắng băn khoăn. Theo yêu cầu của bà Vêra, "cha" Levasseur phải đi tìm bằng được cô giáo. Như thường lệ trong các buổi tối quanh lò sưởi, Nadia ngồi co ro lọt thỏm trong chiếc ghế bành có trải nệm mà nàng yêu thích. Tối nay nàng im lặng. Đôi mắt lơ đãng như đang nhìn vào khoảng hư vô. Chẳng còn gì để khám phá sự việc xảy ra lúc này đã được thấy trước bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Nàng biết chắc chắn là cô giáo Bạch đã chết rồi nhưng không dám nói với bà ngoại.
Sau một tiếng đồng hồ, người tá điền trở về, có người giúp việc đi theo, báo là đã tìm thấy thi thể của cô giáo bị sét đánh ở đầu con đường đi về phía lâu đài dưới một cây bách hương, chắc là cô đã núp ở đó để tránh mưa.Nghe lời xét nhận đều mình đã nhìn thấy, Nadia bật khóc: những giọt nước mắt thầm lặng.
− Cháu yêu cô ấy đến thế kia à? Bà Vêra hỏi.
Không có lời đáp: cô gái nhỏ đã lên phòng riêng đóng kín cửa lại. Nói với bà làm gì cái việc mà lúc này nàng có chứng cứ không thể chối cãi được là có khả năng biết trước những biến cố sẽ xảy ra mà những người khác không linh cảm đuợc. Phát hiện này đã làm nàng kinh hoàng sửng sốt.
Ở Cố trang chẳng ai còn nhắc tới cô giáo Bạch đã mất cũng như chẳng ai đả động tới người cha nàng và anh bạn Jacques nữa. Nadia không ra khỏi nhà. Nàng chẳng còn thích thú vẽ những lùm cây ngoạn mục trong mục cũng như ngồi trước hàng phím đàn pianô. Nàng khước từ cả việc đi vào trong làng để khỏi phài đi qua gốc cây đổ vì sét đánh. Cũng như cái ao sen, chỗ gốc cây đổ đối với nàng đã trở thành một nơi quái đản. Chỗ ẩn trốn của nàng cũng chẳng còn phải là buồng riêng mà là trên tầng gác nhỏ sát mái mà nàng ở đó suốt ngày nọ sang ngày kia.
Một buổi tối bà Vêra hỏi nàng:
− Nhưng cháu làm gì ở trên đó mới được chứ?
− Cháu tiếp tục học bà ạ. Bà không biết là ở trên gác ấy có chồng sách đầy bụi bám nhưng thật hấp dẫn ư?
− Bà biết, nhưng thú thật với cháu là chẳng bao giờ bà mở ra xem cả. Nhược điểm lớn nhất trong đời bà là không ham mê đọc sách: bà chỉ thích kim chỉ giá may.
− Những tấm thảm bất tận của bà! Và cả những quẻ bói của bà nữa chứ? Nhưng có lẽ cũng đã lâu rồi, cháu không thấy bà sử dụng cỗ bài.
− Những quẻ bói bài ấy chẳng đi đến đâu cả! Có thể là bà không có năng khiếu... và nếu có thông thạo đi chăng nữa thì những quẻ bói cũng chẳng có nghĩa gì! Người ta không thể bắt những quân bài nói lên bất cứ cái gì người ta muốn.
− Bà cho là thế ư?
Nếu bà Vêra nảy ra ý định tìm lại cỗ bài mà bà đã giấu ở đáy ngăn kéo thì bà sẽ chẳng bao giờ thấy nữa. Đã mấy tuần nay, Nadia chiếm giữ và giấu kỹ vào một chỗ khác, ter6n tầng gác hẹp, sau những cuốn sách đầy sức quyến rũ mê hoặc, trong số đó có một cuốn dạy cách rút tỉa các quân bài và làm cho chúng nói lên những đều bí ẩn. Cỗ bài đã giúp nàng thực hành những trường hợp nêu ra trong cuốn sách và nhất là – đối với nàng phải chăng là quan trọng hơn cả – dần dần nàng khám phá ra sự tương quan giữa những quân bài và khả năng thấu thị bí ẩn mà nàng đang có. Những hình ảnh báo trước về những sự kiện trong cuộc sống đời thường này hầu như xảy ra thường xuyên hàng ngày, khá bình thường, chẳng có chút gì là bi tráng nhưng rồi trong thực tế đã diễn ra y như nàng đã thấy trước. Hiện tượng này đã giúp nàng kiểm tra được tính chân thật của những ảo ảnh nối tiếp trong trí óc của nàng. Một công việc kỳ lạ đòi hỏi tính kiên trì đã lôi cuốn nàng, làm nàng say mê. Những cuốn sách khác chuyên về lĩnh vực khoa học huyền bí đã mang đến cho nàng rất nhiều khám phá mới. Tầng gác sát mái mà nàng không thể rời xa được đã trở thành bối cảnh trong đó nàng đã sống một cách vô cùng phong phú.
Một buổi trưa bà Vêra bất chợt gặp nàng ở nơi ẩn trú, bà vui vẻ nói:
− Với những mạng nhện chằng chịt như thế này người ta dễ tưởng đây là lãnh địa của một đạo sĩ luyện đan hoặc phù thủy Merlin. ( Và thấy cỗ bài rải ra trên sàn): Nhưng đây là cỗ bài của bà, cháu đã lấy lúc nào vậy? Thế ra bây giờ cháu cũng quan tâm đến những quân bài?
− Không phải cho cháu đâu... mà qua chúng, cháu có thể biết những gì về người khác.
− Và cháu đã dũng cảm đọc hết những cuốn sách vớ vẩn này mà hồi ở tuổi cháu bà thấy chán phè? Cháu biết đấy, cháu yêu ạ, không phải là bất cứ thứ gì được in ra là mang tâm lý của Kinh Thánh! Đi sâu vào cái mớ lộn xộn này cháu thấy thế nào?
− Rất hay bà ạ.
− Cháu làm cho bà càng ngày càng nhớ tới bà cụ đã sinh ra bà... Tất cả cái đó đều rất hay nhưng dù sao thì cháu cũng phải tiếp tục học, trước hết là qua trung học. Rồi sau đó sẽ tính tiếp.
− Tất cả đã được định trước rồi bà thân yêu ạ. Bà chẳng cần lo lắng gì cả: cháu biết rõ sau này cháu làm gì... Cháu sẽ tiên đoán tương lai cho mọi người.
− Nhà nữ tiên tri ư?
− Bà muốn gọi là gì cũng được nhưng chắc chắn cháu sẽ thành đạt.
− Nhưng cháu không có ý định coi đó là nghề nghiệp suốt đời chứ?
− Tất nhiên là không rồi... Nhưng cháu có thể giúp ích nhiều cho mọi người đấy.
− Bây giờ chúng ta nói chuyện thật nghiêm túc nhé: cháu không thể tiếp tục học mà không có thầy dạy được. Bà chỉ có hai giải pháp: hoặc là chúng ta tìm một cô giáo Bạch khác...
− Ồ không! Cháu xin bà: không cần cô giáo nào nữa!
− Hoặc cháu học hàm thụ... Nhưng cách này không đem lại kết quả tốt lắm đâu! Nếu có thể thì... có lẽ là hay hơn cả, nếu cháu xin vào học một trường lưu trú?
− Không bao giờ bà thân yêu ơi, nếu như vậy bà sẽ xa cháu ư?
− Thú thật là không bao giờ bà muốn như thế cả... Có thể còn có cách thứ tư nữa: hay là chúng ta chuyển về sống ở Pari. Cháu sẽ xin vào học ở một trường trung học cạnh đó và bà cháu ta vẫn sống gần nhau.
− Thế còn Cố – trang của chúng ta sẽ ra sao?
− Còn có những người khác chứ. Cố trang sẽ chờ đó chúng ta trở về, vào những kỳ nghỉ hè hoặc bất cứ lúc nào cũng được. Gia đình Levasseur sẽ chăm nom săn sóc nó.
− Cháu thất rất buồn một khi phải rời bỏ miền Sologne dù chỉ là tạm thời. Cháu cảm thấy như có tội bỏ phế gia sản vậy.
− Cần phải biết suy nghĩ một chút cháu ạ. Bây giờ cháu đã là một cô gái chẳng còn bé bỏng gì, cần phải có điều kiện để học hành thật tốt và cũng không thể sống ẩn dật trong sự tách biệt với thế giới bên ngoài và có mỗi mình bà là bạn được!
− Nhất thiết là cháu phải có sự giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi.
− Cháu chẳng muốn chơi bời giao lưu với ai cả.
− Bây giờ thì cháu nói thế đấy, nhưng khi đến Pari, cháu sẽ thay đổi ý kiến ngay. Thế là quyết định nhé: chúng ta sẽ đi thủ đô Pari ngay khi tìm thấy một chỗ ở ưng ý trong một khu vực dễ chịu. Ngày mai bà sẽ gọi điện cho người nhà của chúng ta đi tìm: đó là một người tinh nhanh tháo vát chắc sẽ tìm thấy ngay thôi. Hẹn cháu trong buổi ăn tối nhé. Bà để mặt cháu với những cuốn sách vớ vẩn này nhưng bà nhắc lại: chớ vội đánh giá cao năng lực huyền bí của những quân bài!
Bà Vêra lấy làm hài lòng về cuộc trò chuyện này. Lý do theo đuổi việc học hành thật tuyệt diệu. Điều bà không nói ra và chẳng bao giờ nói thật với cô cháu gái là, đã lâu lắm rồi, bà thấy Nadia cần phải rời xa cái Cố trang này, nơi chồng chất bao nhiêu phiền muộn mà nàng phải chiệu đựng trong sự cô đơn vô bổ. Bà cũng không muốn thấy nàng say mê đọc những cuốn sách về khoa học huyền bí cũng như không tin là nghề nghiệp tương lai của cháu bà lại là một nhà nữ tiên tri. Bói bài là một cách giải trí không có hiệu quả kéo dài, nhưng đóng chốt cả một cuộc đời vào những gì mà quân bài nói hoặc không nói là một sự điên rồ không hơn không kém. Cũng có thể là sống xa trang trại, năng khiếu thấu thị – đều bà rất lo ngại sẽ gây hậu quả xấu đến với cô gái ở tuổi như cháu bà – có thể giảm rồi mất hẳn? Thủ đô với những phương tiện giải trí đầy hấp dẫn sẽ vô cùng cuốn hút đối với một đầu óc còn non trẻ. Cần phải đến Pari thôi!
Bà ngoại đã nhìn nhận đúng. Cuộc sống ở thủ đô Pari đã trôi qua được bốn năm và Nadia đã học xong bậc trung học. Nàng đã có nhiều bạn trai và bạn gái cùng lứa tuổi. Năm mười tám tuổi, nàng đã trở thành một cô gái có vẻ đẹp dịu dàng: đều này đã góp thêm thắng lợi cho nàng về mọi mặt. Nàng cũng tỏ vẻ rất ham thích cuộc sống ồn ào, vui chơi giải trí làm cho bà Vêra thích thú và yên tâm. Như vậy cái năng khiếu thấu thị của cô cháu chẳng thành vấn đề gì nữa! Và khi người bà ngoại đáng kính đó hỏi cháu gái:
− Bây giờ cháu đã là cô tú rồi, cháu có ý định sẽ làm gì? Nghành nghề nào cháu yêu thích nhất?
Câu trả lời là:
− Thực ra thì cháu cũng không biết nữa. Cháu thích tất cả... có lẽ cháu muốn trở thành một nữ luật sư...
− Thế còn ngành y?
− Chỉ có một loại ngành y mà cháu cảm thấy thoải mái để hành nghề: đó chăm sóc và đều trị bệnh về tư tưởng.
− Thầy thuốc khoa thần kinh ư?
− Đúng vậy. Đau đớn về thể xác cháu coi là phụ, bệnh hoạn về thần kinh mới là quan trọng... Nhưng bà hãy để cháu suy nghĩ trong thời gian nghỉ hè này. Các chuyên khoa chỉ bắt đầu khi khai giảng niên khoá mới.
Trưa hôm sau, nàng tiếp một bạn gái thân đã cùng học một trường và cũng vừa tốt nghiệp trung học. Mỗi lần Béatrice tới, hai cô gái lại cùng nhau chuyện trò tâm sự chẳng liên tới một ai, trong buồn riêng của Nadia.
Béatrice là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, không giống Nadia một chút nào: một cô tóc nâu, cô kia tóc vàng. Song có lẽ sự khác biệt rõ ràng nhất giữa hai cô gái là phong cách ứng xử: Béatrice thẳng tính, hơi nóng nảy và ham thích thể thao: cô chơi tennít, cưởi ngựa, bơi lội và trượt tuyết rất giỏi. Còn Nadia thì kín đáo trầm mặc hơn và cũng bí ẩn hơn, thích những thú vui của những phụ nữ sống nhiều về nội tâm. Cô tóc nâu thì ruột để ngoài da còn cô tóc vàng thì thâm trầm mơ mộng. Có lẽ vì vậy mà họ bổ sung cho nhau, rất ý hợp tâm đầu.
Ngày hôm đó Béatrice nói chắc nịch:
− Nhất thiết là cậu phải bói cho mình một quẻ bằng cỗ bài tây của cậu.
− Tại sao vậy?
− Nó sẽ giúp mình chọn một nghề. Bố mẹ mình thì muốn mình trở thành một dược sĩ. Các cụ nói đó là một nghề vẻ vang nhưng mình thì thấy chẳng có gì thú vị! Cậu sẽ trông thấy mình ngập giữa ống chai lọ hoặc chúi mũi đọc những đơn thuốc, những công thức pha chế ư? Và mình lại chúa ghét cái mùi của các hiệu bào chế! Những quân bài có thể nói cho mình biết tương lai đích thật của mình là ở đâu. Mỗi lần mà cậu rút bài bói cho mình, mọi việc đều xảy ra đúng y như đều cậu đã thấy.
Việc này bà Vêra cũng không biết: khi từ Cố trang ra đi, Nadia đã đem theo cả cỗ bài và kể từ đó, chưa bao giờ nàng rời khỏi nó. Lúc này nàng rất thông thạo trong việc sử dụng để bắt nó nói lên những đều cần nói và nàng tận dụng để giúp đỡ những cô bạn người Pari và cả những bạn trai nữa. Mỗi một khi cô này hoặc cậu kia gặ
− Nhưng mà, cháu yêu bà, cháu không thể sống mãi như thế này được! Cháu hãy còn trẻ, lại ngày càng xinh đẹp, duyên dáng, là niềm ao ước của bao chàng trai. Ngoài ra cháu còn thông minh sắc sảo, tóm lại là cháu có tất cả. Vậy thì có đều gì không ổn? Tự giam mình cùng với một bà già trong căn nhà như thế này, đó không phải là cuộc sống của một người ở lứa tuổi cháu, nhất là suốt ngày này qua ngày khác ngồi trong phòng đoán vận mệnh để lắng nghe những đều bất hạnh hoặc những niềm ước mơ của bao người xa lạ đối với cháu. Thật là vô nghĩa! Và họ thì cũng chẳng bao giờ thèm đếm xỉa đến những gì xảy ra trong cuộc đời của cháu! Bà cũng biết rất rõ là nếu cháu tìm được một người chồng hợp với cháu hoặc dù là chỉ một chàng trai mà cháu ưa thích thì bà sẽ mất cháu, chắc chắn là bà cháu ta sẽ chẳng được cùng sống bên nhau như bao năm nay, nhưng đều đó không quan trọng. Chỉ có hạnh phúc của người phụ nữ trẻ như cháu là đáng kể chứ không phải cái già nua tuổi tác của bà! Với cái tuổi ngoài bảy chục, người ta đã quá quen với cảnh cô đơn. Đó là số phận của tất cả những người như bà đã từng dày dạn trong cuộc sống nhất là trong tình trường khi chúng ta còn ở cái tuổi của các cháu nội cháu ngoại bây giờ. Chúng ta không đòi hỏi và thật không xứng đáng với sự hi sinh của chúng vì chúng ta. Cháu cũng biết đấy: bà chẳng phải là một bà già yếu đuối, què lê liệt bại gì mà còn mạnh chân khỏe tay, mắt tinh tai sáng, bà có thể một mình xoay xở rất tốt. Thỉnh thoảng cháu đến thăm bà cùng người bạn đời của cháu, đối với bà như thế là hạnh phúc rồi. Bà sẽ thật sự sung sướng khi được nói với cháu: "Thế là con bé cũng hạnh phúc như mình ngày xưa ở bên Nga với ông nó khi mình còn trẻ và xinh đẹp"
− Bà ơi, xin bà đừng tìm cách làm cháu xiêu lòng; cháu chỉ thất thật sự hạnh phúc khi được sống gần bà. Cháu không muốn và sẽ không bao giờ muốn sống với một người đàn ông nào khác.
− Cháu Nadia thân yêu của bà, cháu nói dối! Thật không xứng đáng với một cô gái trung thực như cháu! Nếu khách của cháu mà biết là cháu đã có thể không nói lên sự thật thì cháu sẽ mất tất cả! Bà biết là năm mười tám tuổi cháu đã yêu nhưng sự việc đã không được xếp đặt như ý muốn của cháu, vì vậy cháu đinh ninh trong đầu là không bao giờ cháu lại có thể yêu được nũa. Để quên đi, cháu đã lẩn trốn vào nghề bói toán, tưởng rằng vai trò của cháu từ nay là giúp đồng loại đi tìm thấy cái hạnh phúc mà hình như đối với cháu đã xa vời rồi. Có đúng thế không? Đúng hay không chắc là cháu cũng không dám trả lời. Cháu cũng sẽ nhận thấy là chưa bao giờ bà nói với cháu về chuyện này cả nhưng bây giờ bà thấy đã đến lúc phải làm việc đó. Nếu cháu biết là bà đã tự trách mình, tự giận mình như thế nào vì phải chờ đợi quá lâu! Bà cảm thấy trong thâm tâm là có tội đối với cháu.
− Cháu xin bà đừng nói nữa! Lúc này chỉ riêng có công việc mới làm cháu say mê ham thích mà thôi.
− Công việc của cháu! Rất tốt đẹp đấy! Nhưng ngay cả chuyện nếu có mang cho ta cái ảo giác là làm cho cuộc sống phong phú dồi dào thì cũng không thể che lấp hết được mọi khoảng trống! Nếu bà không có trong tim những kỷ niệm của một thời son trẻ huy hoàng, thì hàng bao năm nay làm sao bà có thể đứng vững được, như cháu thấy đó! Khi bà không còn ở trên đời này nữa thì ít nhất bà cũng đã từng có cái may mắn đó. Nhưng còn cháu? Trơ trọi một mình không có những kỷ niệm loại đó. Oâi, thật khủng khiếp!
− Cháu không cô độc vì cháu vẫn tiếp tục tiếp khách suốt cả ngày.
− Thế cháu định hành nghề đoán vận số này đến hết đời hết đời sao?
− Phải chăng đây là thiên chức của cháu? Chính bà chẳng đã khuyến khích cháu đó ư?
− Đúng thật là cũng đáng tiếc khi có một năng khiếu thiên bẩm như vậy mà không đem phục vụ mọi người. Nhưng cháu ạ, tất cả đều có chung cục của nó. Bà biết: nhờ có năng khiếu đó mà cháu đã kiếm được rất nhiều tiền, tất nhiên là vì nghe theo lời khuyên của bà. Cháu chẳng còn phải lo nghĩ gì về mặt tiền nong, cả bà cũng thế nhờ có cháu. Nhưng cũng không phải thế là cháu đã hạnh phúc. Cháu cũng đừng vội bảo: tiền tài đối với cháu không phải là vấn đề quan trọng vì cháu có một tâm hồn thật trong sáng và trung thực. Cháu cũng quan niệm như bà: tiền là cần thiết nhưng đó là phương tiện chứ không phải là mục đích! Vậy thì cháu hãy để cho con người của cháu sống và tận dụng hết cuộc sống khi cháu đang còn có thời gian trước mắt. Cháu phải ra ngoài, vui chơi, đi du lịch, thoát ra khỏi vòng xích mà cháu tự nguyện trói mình vào. Tại sao lại không đóng cửa phòng chiêm lý này lại trong một thời gian, với lý do đi nghỉ hè?
− Cháu không có quyền đóng cửa, bà đã biết quá đi. Một phòng đoán vận số mà đóng cửa thì mất hết khách rất nhanh: đám quần chúng đông đảo cần một nhà ngoại cảm nam hoặc nữ quen thuộc để đoán xem vận mệnh sẽ lập tức đi tìm đến những nơi khác.
Họ không thể chờ đợi và, khi cháu trở về thì sẽ không còn ai nữa. Họ sẽ không tha thứ vì cháu đã bỏ mặc họ. Đóng cửa dù chỉ một ngày cũng sẽ là đóng cửa mãi mãi.
− Tại sao cháu lại không tìm người thay thế tạm thời?
− Có thể bà cho là cháu rất tự kiêu khi cháu nói thế này: cháu chỉ tin ở mội mình cháu trong nghề này thôi. Nếu cháu đi thì phòng đoán vận số của Phu nhân Nadia sẽ trở thành một nơi khai thác tính dễ tin và sự đần độn của mọi người. Điều đó, cháu chẳng muốn chút nào!
− Và... nếu chính bà thay khi cháu đi vắng? Từ khi bà được chứng kiến công việc của cháu hàng ngày và qua những cuộc chuyện trò trao đổi tâm sự giữa hai bà cháu, bà cũng nắm được nhiều bí ẩn trong nghề. Bà tin chắc là có thể xoay xở được tốt và có đủ tri thức để có thể ít nhất là giữ khách lại cho cháu.
− Nếu cháu đi nghỉ ngơi ở đâu đó thì nhất thiết là phải có bà cùng đi. Cháu cũng cảm thấy chính bà không chịu nổi khi cứ phải ở lì một chỗ.
− Đúng, cái đó đúng! Bà rất muốn thay đổi không khí một chút. Thú thật là bà đã chán ngấy việc mở đóng cửa cho tất cả bọn người khát khao hạnh phúc đó. Bà cũng chán ngấy cả cái việc quan sát và bước đầu nhận xét về họ: ngày nọ qua ngày kia lâu dần bà có cảm tưởng là tất cả bọn họ đều giống nhau như đúc! Chúng ta hãy đi đi, Nadia!
− Chỉ có một chổ duy nhất mà cháu muốn tới: đó là Cố trang. Đã bao năm nay rồi, bà cháu ta chưa về thăm.
− Không biết bây giờ nó ra sao nhỉ, Cố trang thân thương của chúng ta.
− Cháu chắc chắn là nó vẫn còn nguyên vẹn. Gia đình nhà Levasseur nhất định sẽ trông nom chu đáo và bảo quản nó với một niềm tin và hi vọng là một ngày nào đó sẽ trông thấy bà cháu ta trở lại... Hơn nữa, họ vẫn thư từ cho cháu đều đặn và thỉnh thoảng cháu lại gửi một khoản tiền về đủ để chi vào việc tu sửa, bảo quản. Tháng trước tất cả ngói bên mái cánh tả đã được thay. Bà thấy dù ở xa nhưng cháu đâu có kém phần quan tâm đến Cố trang thân thương của chúng ta. Bà thấy thế nào khi lại được hít thở bầu không khí miền Sologne? Lại được nhìn thấy những ao hồ và những cách rừng nhỏ đầy muôn thú mà khá lâu rồi không bị ai săn bắt?
− Thôi đi, Nadia! Bà có cảm tưởng như đang ở đó rồi... Thế bao giờ chúng ta đi nào?
− Nhưng cháu xin nhắc lại: Phòng chiêm ký sẽ ra sao?
− Có thể cứ đóng cửa một vài tháng.
− Không.
− Bà có một ý: trong thời gian đi vắng tại sao không nói với ông thuật sĩ bạn cháu đó tạm thời đảm nhiệm giúp.
− Oâng Raphael hả bà?
− Đúng đấy! Oâng ta chả đúng là ông thầy của cháu là gì? Có phải chính ông ấy đã dạy cháu những bí quyết nghề nghiệp và giúp cho cháu hành nghề thông thạo? Cháu rất quý trọng ông ta, đúng không? Chỉ cần ghim ở trước cửa một dòng chữ nhã nhặn chỉ cho khách tìm tới ông ta khi thật cần thiết không thể chờ đợi được đồng thời thời thông báo ngày mở cửa lại cho cháu.
− Cháu không thể ghi lý do vắng mặt của cháu là để nghỉ ngơi! Cháu nhắc lại: Một nhà ngoại cảm không có quyền đi nghỉ hè... Cô ta phải luôn ở đó, tĩnh táo và mạnh mẽ. Nếu không người ta sẽ cho là cô ta mất hết khả năng thiên bẩm, đó là điều tồi tệ nhất!
− Vậy thì chỉ cần ghi "vì việc gia đình". Mà chẳng phải là rất hợp lý một khi cả hai bà cháu ta thấy thật cần thiết phải sống cùng nhau trong một bầu không khí trong lành, xa sự vào ra ồn ào không dứt của khách hàng ư?
− Có thể bà có lý đấy bà ạ? Để cháu gọi điện thoại cho ông Raphael nhé!
− Cuối cùng thì cháu cũng nghe ra đấy! Khi cháu trở lại với công việc, cháu sẽ hoàn toàn khỏe khoắn. Dù là trong thời gian nghỉ ngơi, cháu có mất đi một vài người khách thì cũng sẽ chiếm lại được mau chóng thôi. Không có gì thú vị hơn là một cuộc trở về với thiên nhiên.
Bà già Vêra biết rất rõ việc mình làm và hiểu cháu gái mình hơn bất cứ ai trên cõi đời này. Đã nhiều năm nay bà biết vào năm mười tám tuổi Nadia đã phải hứng chịu một vết thương lòng cho đến nay chưa liền sẹo và co thể chẳng bao giờ thôi rỉ máu. Nadia không bao giờ nói đến vết thương đó, nàng muốn quên đi bằng cách vùi đầu vào công việc hằng ngày. Các cuộc chuyện trò trao đổi vớ khách về số may, vận rủi nối tiếp nhau liên tục đối với nàng đã trở thành một phương thuốc linh nghiệm nó làm dịu nỗi đau. Dường như sự cuồn nhiệt say mê lao vào việc cố gắng làm dịu đi những nỗi buồn đau bất hạnh của người khác bằng những lời khuyên nhủ chí tình, đối với nàng là phương cách mạnh mẽ ngất chắc chắn nhất để quên đi nỗi đau thấm kín của chính mình.
Nhưng bà già Vêra biết còn có một phương thuốc khác để làm cho cô cháu yêu quý của bà khuây khỏa hơn là những giờ dài dằng dặc trôi trong phòng bói toán căng thẳng đấu óc không tránh khỏi sẽ dẫn đến suy nhược thần kinh.
Nếu Nadia thất mệt mỏi, như thời gian gần đây, thì chẳng qua đó chỉ là vì có quá nhiều khách bất mãn với số phận mà Nadia không đủ sức để giải thích, để khuyên răn mà thôi. Nhưng thật không thể tưởng tượng nổi là chỉ ba lần tiếp người khách nữ trẻ ca lạ kia mà đã làm cho nàng suy sụp đến vậy. Phải chăng đó là hiện tượng cuối cùng của bộ máy đang chuyển động bắt đầu rệu rã. Nếu còn để nó tiếp tục vận hành dù là chỉ là tý chút, thì cách duy nhất để hạn chế sự tàn phá là phải tổ chức một đợt nghỉ ngơi thoải mái có lợi cho sức khỏe và như Nadia đã chọn nơi về nghỉ để lấy lại sự yên tĩnh và thăng trầm trong tâm hồn. Bà Vêra cũng thấy đó là một việc tối cần thiết. Hai bà cháu phải đi ẩn náu và nếu cần, lẫn tránh mọi người trong một thời gian để về với Cố trang hầu như bị chôn vùi trong lòng miền Sologne mà cả hai đã sống qua những năm tháng tuyệt vời trong đời trước khi đến định cư ở Thủ đô Pari hoa lệ.
Ba hôm sau, được nhà thuật sỹ Raphael bằng lòng tạm thay cô gái mà ông coi như học trò giỏi nhất của ông, hai bà cháu đã thấy lại tòa kiến trúc cổ khiêm tốn với kiểu dáng kiến trúc thuần khiết vùng Sologne: Cả hai người tự nhiên đều có một cảm giác diệu hỳ là hình như được trẻ lại đến hàng chục tuổi. Khi người ta cảm thấy bớt già đi thì đó là lúc người ta thấy yêu đời, thấy phấn chấn lạ lùng. Và nhất là ở Cố trang không còn nghe thấy những hồi chuông đáng ghét cứ nủa giờ một lại reo vang báo hiệu có khách mới.
Cuối cùng yên tĩnh đã được thấy lại.
Đó là những cuộc dạo chơi kéo dài trong ngày và các buổi tối quây quần trước lò sưởi lớn mà "cha" Levasseur cẩn thận nhóm lửa bằng những thanh củi gỗ thơm nổ lép bép đã làm cho mọi người sảng khoái. Vợ ông, "mẹ" Levasseur, phụ trách việc bếp núc và sưởi ấm các giường nằm. Đều lạ lùng là không bao giờ bà Vêra và Nadia gọi nhà Levasseur bằng tên riêng. Đối với hai bà cháu, thì họ là những nông dân địa phương được trao nhiệm vụ chăm nom trang trại sát liền với tòa nhà cổ và là những người thân luôn được gọi một cách gần gũi là "cha Levasseur" và "mẹ Levasseur". Ở địa phương, hễ nói tới Cố trang là người ta nghĩ ngay đến nhà Levasseur mà hầu như rất ít nhớ đến "những bà chủ đích thực" của tòa nhà cổ đã bao năm qua họ không nhìn thấy mặt.
Những buổi tối yên tĩnh trong lúc đó bà Vêra thêu thùa may vá thì Nadia cảm thấy thực sự thích thú vùi đầu vào bộ sư tập các tranh ảnh cổ. Đó là những buổi tối tuyệt vời. Thời gian như dừng lại, cuộc sống mệt phờ trong phòng chiêm ký dường như không còn nữa.
Một buổi tối, tình cờ Nadia lần giở mấy trang của tờ tuần san thời sự mà theo yêu cầu của bà Vêra "cha" Levasseur mới mua buổi sáng ở thị trấn Salbris đem về. Nàng như bị một cú sốc dữ dội khi trông thấy, trong số rất nhiều ảnh chụp ngững khách đến dự lễ khánh thành một phòng triển lãm ở Pari, ảnh một cặp nam nữ bên dưới có ghi dòng chữ: Oâng và bà Marc Davault. Cặp này trông thật xứng đôi: người vợ đẹp và lịch sự, người chồng trang nhã. Và cả hai đều mỉm cười rất tươi tỏ ra thật hạnh phúc.
− Thật không sao tin được! – Nadia thốt lên và chìa tờ báo cho bà Vêra – Bà trông này: đây chính là người đàn bà đã tới gặp cháu ba lần. Và người đàn ông, chồng chị ta theo như chú thích dưới bức ảnh đó chính là Marc!
Sau khi nhìn thật kỹ tấm ảnh, bà Vêra trả lại tờ báo và chậm rãi nói:
− Và chúng ta phải về tận đây ẩn lánh để mà khám phá ra đều đó! Cháu không lầm: đúng là người phụ nữ tóc nâu đó mà bà đã thấy trong phòng đợi nhưng ở đây có vẻ tươi tắn hơn... Còn Marc, thì đúng là anh ta rồi. Đều đáng ngạc nhiên là họ đã lấy nhau.
Nadia thốt lên:
− Bây giờ thì cháu hiểu sao mình thấy có một cái gì đó thôi thúc về nghỉ tại nơi Cố trang này... Phải chăng gần đây thôi mọi việc không hay đã bắt đầu đối với cháu? Cháu cũng hiểu là tại sao chị ta chỉ mới bước vào phòng cháu ở Pari thôi mà đã làm cháu khó chịu... Bà đừng nói gì cả, bà ơi, cháu xin bà! Cháu về phòng đây.
Nàng không sao chợp mắt được. Cả bà Vêra cũng vậy: một bà Vêra thất vọng tự trách mình sao không đọc trước để giấu biệt cái tờ báo khốn khổ ấy đi, sao lại đồng ý với cháu trở về cái xứ Sologne này và bà biết rằng từ giờ phút này trở đi sẽ chẳng còn là chốn nghỉ ngơi yên tĩnh nữa mà sẽ là nơi gợi lại nỗi đau thực sự cho cháu bé bỏng của bà. Lúc này, giam mình trong buồn ngủ, chắc là cô đang gom lại trong trí nhớ những nỗi ưu phiền đầu tiên của một thời trẻ trung và nỗi đau buồn to lớn cô đã vượt qua từ cái ngày mà Marc, gặp gỡ từ mười năm trước nơi cách Cố – trang chưa đầy một cây số rồi biệt tăm luôn.
Toàn bộ ý nghĩ đầu tiên ám ảnh đầu óc Nadia: "Nếu Marc la chồng của người đàn bà mà lần thứ ba đến gặp mình để hỏi la liệu chị ta có sớm trở thành quả phụ không, cái đó có nghĩa chàng sẽ là nạn nhân và là người chồng bị phản bội!" Nếu không có bức ảnh đó trên báo, có lẽ nàng sẽ không bao giờ biết rõ được sự thật. Nàng cũng nhận thấy là mặc dù, thời gian và sự xa cách, tất cả những gì xảy ra và có thể xày ra với Marc nàng không thể hững hờ. Và nếu con đầm cơ đó, hiện ra ở hàng cuối cỗ bài trong cả ba lần gieo quẻ của người phụ nữ tóc nâu, phải chăng đó chính là nàng, là Nadia? Nếu thật thế thì quả là một điều kỳ diệu!
Số phận đã dẫn dắt nàng đi vào cuộc đời của Marc để cho nàng cứu chàng một lần nữa! Nàng sẽ phải làm tất cả để tách chàng ra khỏi cái con người đang mong chờ cái chết của chàng! Nhưng ngay tức khắc nàng hiểu ra là chỉ có thể thành công nếu nàng có đủ nghị lực để kiềm chế xúc động bản thân. Cách tốt nhất để tìm lại được sự bình tĩnh phải chăng trước tiên là cố gắng thử nhìn lại các giai đoạn chính của quá khứ và bắt đầu cũng chính trong căn nhà cổ nơi tỉnh lẽ này, nơi mà nàng đã cất tiếng khóc chào đời hai mươi tám năm trước? Nếu cần thiết, nàng sẽ thức suốt đêm để gợi nhớ, để hồi ức lại cả giai đoạn đã qua, linh cảm la khi bình minh hé rạng, sương mù dần tan, nàng sẽ sáng suốt hơn trong hành động.
Nàng đã chào đời ra sao nhỉ? Tất cả những gì nàng biết là mẹ nàng đã chết khi sinh nàng ra trong gian buồn này, trên chính chiếc giường nàng đang nằm đây.
Sau đó nàng được bà ngoại Vêra gốc Nga, nuôi dạy trong Cố trang. Đôi khi, cha nàng, một kỹ nghệ gia, phần lớn thời gian sống ở Hoa Kỳ, về thăm. Vì vậy nàng rất biết ít về người cha này. Một người cha bao giờ cũng gây cho nàng xúng động nhưng nàng không sao thực sự yêu quý được: ông chỉ là một người khách lạ mà thời gian lưu lại ngắn ngủi bên con gái và mẹ vợ, ông coi như những ngày khổ sai bắt buộc. Người thân độc nhất trong gia đình, người mà nữ tính tràn đầy và cũng đầy tình thương yêu, người nghiêng xuống những mộng mơ cũng như những phản phất âu lo thiếu nữ của nàng chính là bà ngoại Vêra, người thực sự đã trở thành người mẹ hiền yêu dấu của nàng.
Năm lên sáu, Nadia nhớ rất rõ, nàng bị mắc một căn bệnh hiểm nghèo mà tên bệnh nàng nghe được ở những người xung quanh thì thào và nàng nhớ rất kỹ, mãi hai mươi năm sau nàng còn kinh sợ: đó là bệnh bại liệt, lúc đầu nằm liệt, sau đó dần dần nhúc nhích được bằng đôi nạng gỗ qua một thời gian dài rèn luyện phục hồi chức năng trong các bệnh viện chuyên khoa. Giai đoạn cực kỳ đau khổ nhưng qua đó nàng bắt đầu khám phá ra một kho báu về tình yêu thương hiền diệu của người bà ngoại. Bà Vêra hầu như không lúc nào rời cô cháu gái bé nhỏ. Cũng chính trong thời kỳ bệnh hoạn như thế, một lần trong lúc nằm dài trên giường nữa thức nữa ngủ, ngàng bỗng thấy một ảo ảnh kinh hoàng... Cái ông mà nàng gọi là "cha" ấy, cứ mỗi lần về cũng thật hiếm hoi, lại mang cho nàng một con búp bê mà nàng rất ghét nên khi ông đi thì nàng ném ngay xuống đất... Người "cha" ấy bỗng nhiên xuất hiện trước mắc nàng. Khuông mặt trắng bệch nhuốm máu; ông ta nhìn nàng với đôi mắt không chớp như mắt những con búp bê, và chẳng nói chẳng rằng. Cũng từ ngày đó Nadia cứ thấy máu là hoảng sợ, và mỗi lần trong quẻ bói mà thấy xuất hiện màu của máu là nàng lại thấy có thể ngất xỉu. Chính máu đã dùng để viết lên cát hai chữ QUẢ PHỤ khi người vợ của Marc tới gặp và nhờ nàng xem quẻ ở Pari... Đó cũng là lần đầu tiên mà cô bé Nadia có phép thấu thị mà chính cô cũng không hiểu đó là cái gì.
Cơn ác mộng lần đầu đó, cô không dám nói với bà ngoại, nhưng chỉ ít ngày sau đó bà cho biết là cô sẽ chẳng bao giờ thấy người cha mang đến cho cô những con búp bê ấy nữa. Oâng đã bị chết trong một tai nạn xe cộ. Thật là khủng khiếp nhưng cô bé lại hầu như dễ chịu vì cô chẳng còn gì liên quan đến người khách lạ đó trong khi đã có cái may mắn là bà Vêra "của cô" luôn luôn ở bên cạnh.
Khỏi bệnh, quẳng được đôi nạng đáng ghét đi, nàng lại chạy nhảy trong khu vườn của Cố trang mà bà Vêra đã biết sửa sang và duy trì một không khí hỳ diệu nửa thực nửa hư giúp cho trí tưởng tượng của đứa trẻ phát triển và đâm hoa kết trái. Cũng không chắc là ngay đêm đó cô bé đã không mơ mộng trong phòng mình... Cả bà Vêra cũng vậy. Bà chẳng phải là đến từ một xứ sở đầy mơ mộng nhuốm chút ảo huyền đó sao? Đó là quê hương Nga yêu dấu của bà. Phải chăng định mệnh đã uỷ thác cho bà lôi cuốn Nadia vào những chặng đường phi ngựa trên xe tam mã xuyên thảo nguyên mênh mông tuyết trắng trong âm thanh trầm bổng của một điệu ca di-gan mà mỗi buổi tối bà khe khẽ hát bên nôi để ru cháu ngủ. Với Nadia, bà là một bà tiên và mãi mãi là một bà tiên trong các câu chuyện cổ tích. Vào thời kỳ đó, bà Vêra chưa bận vào việc dệt thảm, vá may: bà rút và ngắm nghía những quân bài trong khi nàng giở xem những trang sách tranh ảnh... Nhưng nhiều khi nàng dứt bỏ sự ham say đó mà sán tới gần bà ngoại:
− Bà thấy gì trong những quân bài đó?
− Rất nhiều đều kỳ lạ và đặc biệt có đều này: cháu sẽ là một cô gái khác thường ở tuổi trưởng thành.
− Khi lớn thì cháu sẽ thế nào?
− Cháu sẽ nhìn nhận sự vật một cách khác hẳn. Vì vậy nên chẳng vội lớn làm gì.
Nadia như bị thôi miên bởi những quân Vua, quân Hoàng hậu, quân Bồi trong cỗ bài tây. Những quân bài này hình như nói với cô: "Chúng tôi chờ để đến một ngày nào đó cô sẽ khám phá ra lý do tồn tại của chúng tôi".
Nàng còn có một bạn chơi khác: đó là cậu Jacques, con trai người tá điền, hơn cô một tuổi. Một chàng trai chắc nịnh của ruộng đồng chỉ biết yêu thích những gì cậu nhìn thấy xung quanh: những cách rừng, ao hồ, thú săn bắt và súc vật của trang trại. Hình như cậu ta cũng phải lòng cô bé có những búp tóc màu hung mà người trong vùng thường gọi là: "Cô tiểu thư của Cố trang". Sau này,cả Jacques và Nadia là biết cậu ta sẽ trông nom trang trại cũng như hiện nay cha mẹ cậu đang làm, đó là số phận của dòng họ nhà Levasseur... còn Nadia thì sẽ trở thành "Bà chủ trang trại". Tuy nhiên, vào cái tuổi của hai người vào lúc đó, chưa có sự chênh lệch về địa vị xã hội. Khi vui chơi, họ tin là trò chơi đó sẽ vĩnh cửu. Sự hồn nhiên vui vẻ kéo dài được hai năm.
Một đêm, khi đó Nadia mới mười một tuổi và không còn là một em bé nữa,bà Vêra thức giấc vì có tiếng kêu khóc ở buồng bên cạnh vẳng sang. Bà vội vàng chạy tới và thấy Nadia nhổm dậy ngồi trên giường mặt mày ngơ ngác và chan hòa nước mắt.
− Cháu làm sao thế, cháu gái yêu của bà?
− Cháu không biết... Cháu không biết nữa...
− Chắc là một cơn ác mộng đó thôi. Chẳng có gì quan trọng! Cháu nằm ngủ tiếp đi!
− Bà ơi, vì sao người ta lại nằm mơ?
− Không ai có thể giải thích cho cháu một cách thấu đáo được... Đó là những kỷ niệm hoặc là những dự cảm về việc xắp xảy ra lướt qua não bộ khi người ta đang ngủ. Có hiện tượng này là vì bộ não không bao giờ ngừng làm việc cả. Ngày xưa, tổ tiên chúng ta tin ở sức mạnh của những giấc mơ... Vì vậy các cụ luôn có những nhà thuật sĩ bên cạnh để đoán điềm giải mộng.
− Thuật sĩ là người như thế nào, bà?
− Cũng như mọi người thôi nhưng ông ta đoán nhận được những đều mà mọi người không thấy.
− Cháu thích trở thành nhà thuật sĩ!
− Còn lúc này cháu chỉ là cô cháu gái nhỏ bé của bà và ngoan ngoãn nằm xuống ngủ đi.
− Bà thân yêu ơi, lúc nãy bà bảo những giấc mộng là những kỷ niệm. Nhưng những cái cháu thấy trong mơ chua từng có trong trí nhớ của cháu:
− Thế thì cháu mơ thấy gì nào?
− Cháu chẳng còn nhớ nữa.
− Vậy thì cháu hãy bình tĩnh lại và ngủ đi.
− Và những dự cảm, đó là cái gì hả bà?
− Đó là một hiện tượng về tâm linh cảnh báo cho ta bằng trực giác một sự kiện nảy sinh hoặc sẽ tới từ xa... Nadia, cháu phải ngủ đi! Cháu có muốn bà hát bằng tiếng Nga, một điệu hát quê hương của bà để ru cháu ngủ không?
− Có cháu rất thích bài bà hát hôm nọ và bà bảo đó là bài mà các bà mẹ Kiev thường hát ru con ngủ...
− Cháu nhớ cả tên tỉnh kia à! Trí nhớ của cháu thật tuyệt vời! Bây giờ cháu hãy yên lặng nghe bài hát nhé!
Khi đôi mắt của Nadia đã ngắm nghiền, bà Vêra nhẹ nhàng rời khỏi phòng ngủ.
Điều mà bà không thể biết được là Nadia đã giả vờ ngủ, không phải là để đánh lừa bà mà là để cho bà yên tâm cũng như lúc cô nói với bà là cô chẳng nhớ những gì đã thấy trong giấc mơ cả. Khi còn lại một mình trong bóng tối, cô lại mở to đôi mắt. Điều mà cô nhìn thấy cũng khủng khiếp như bộ mặt nhợt nhạt của người đàn ông đã từng là cha cô. Điều đáng sợ hơn cả là không chắc là đã nhìn thấy lại cái ảo ảnh lần thứ hai đó trong giấc ngủ... Thân thể của anh bạn Jacques của cô nổi bập bềnh trên mặt nước.
Cô thấy rất rõ là đôi mắt của Jacques cũng bất động như đôi mắt của cha và của những con búp bê. Và cô cũng tự trông thấy mình giơ hai cánh tay bất lực về phía cái cơ thể mà cô không thể với tới được để lôi nó lên khỏi mặt nước.
Tám ngày sau Nadia cùng với Jacques dạo chơi cạnh hồ nước ở phía sau những toà nhà của trang trại, ở đó có đàn vịt trời non tơ đang vùng vẫy không biết là mùa săn sắp tới. Cô chỉ tay về phía những bông sen bập bềnh ở giữa hồ và nói:
− Em rất thích làm sao mà hái được vài bông đem về cắm trong phòng khách.
− Dễ thôi, bằng chiếc thuyền này. Rồi em xem... Nói rồi cậu ta cởi dây buộc quanh cọc, chiếc thuyền cũ nát đầy rêu. Cầm lấy bơi chèo, cậu từ từ cho thuyền trôi xa rồi tới cụm hoa sen và cất tiếng vui vẻ:
− Chẳng phải là một vài bông mà cả một rừng hoa anh sẽ đem về cho em cắm đầy phòng!
Bao giờ cậu cũng chiều chuộng Nadia và sẳn sàng thỏa mãn mọi yêu cầu dù là nhỏ nhất của cô: trèo một cây cao, vượt hàng rào chỉ bằng một cú nhẩy để hái một đoá hoa, vừa co cẳng chạy vừa cười rút rít sau một chú thỏ đang hốt hoảng phóng nhanh... Cũng vì thế mà cô rất mến cậu! Nhưng, bất ngờ, giữa lúc chiếc thuyền lướt gần tới cụm hoa sen thì nó bổng chao đi và chìm dần trong tiếng rú của Jacques:
− Cứu, cứu tôi với, Nadia! Anh không biết bơi! Nhưng Nadia cũng không biết bơi. Vả lại người trong trang trại luôn cấm mọi người không được trèo vào trong chiếc thuyền đó. Lúc này, Nadia rụng rời khi nhìn thấy nó chìm dần chìm dần. Aûo ảnh cuối cùng mà cô đã nhìn thấy là cánh tay của Jacques giơ cao chiếc bơi chèo lên trời. Rồi yên lặng, chỉ đôi lúc bị ngắt quảng bởi tiếng kêu của một con vịt trời nào đó.
Người ta tìm thấy Nadia nằm ngất lịm bên bờ ao. Thi hài của Jacques bị vướn vào những rễ sen không nổi lên được. Đến đêm hôm đó dưới ánh sáng của những ngọn đuốc cậu ta mới được vớt lên.
Nadia ốm nặng, mê sảng suốt ba ngày đêm. Khi cô tỉnh, bà Vêra hết sức thận trọng, cho cô biết là cũng như với cha cô ít năm về trước, cô sẽ không bao giờ còn nhìn thấy anh bạn Jacques của cô nữa. Và bà cầu nguyện cho chàng trai đó. Cũng từ ngày đó, trong hồi ức của Nadia, người đã ra đi chỉ là Jacques, còn bố mẹ bất hạnh của anh, với cô, trở thành "cha" và "mẹ" Levasseur. Khi hai ông bà bị mất đi người con trai duy nhất của mình thì họ già xọm đi một cách kinh khủng.
Mọi người không còn nhắc đến Jacques ở Cố trang nữa. Bà Vêra hiểu là một trong những sức mạnh to lớn của tuổi trẻ là quên đi quá khứ để hướng về tương lai. Bà cũng thấy bình thường khi Nadia không bao giờ trở lại gần bờ ao, nơi đã làm cho cô kinh sợ, và hết sức tránh gặp ông bố và bà mẹ của người đã khuất. Nếu bất ngờ đụng phải thì cô trốn chạy, không biết phải nói gì với họ cả.
Trong trái tim thiếu nữ của cô, mặc dù tất cả những gì bà ngoại đã cố gắng nói cho cô hiểu là tai nạn đó xảy ra là do định mệnh khắc nghiệt, nhưng cô vẫn thấy chính mình và duy nhất chỉ có mình là người chịu trách nhiệm về tất cả những gì đã xảy ra. Nếu cô không tỏ ý muốn có những bông sen đó thì không bao giờ cậu thiếu niên lại mạo hiểm trèo lên chiếc thuyền cũ đã bị cấm sử dụng nhưng tại sao người ta lại không hủy ngay chiếc thuyền đáng bị nguyền rủa đó đi? Những người lớn tất là những đàn anh, đàn chị, cả họ nữa cũng là những thủ phạm vì đã sơ suất. Cảm giác hối hận nặng nề và sâu sắc đã dày vò Nadia, làm cô không sao chợp mắt được trọn đêm: mười lần, một trăm lần cảnh tượng đó cứ hiện ra trước mắt làm cô xúc động mãnh liệt, đến nỗi tối nào bà Vêra cũng thấy cô nước mắt chan hoà.
Năm, tháng lặng lẽ trôi qua. Không còn bạn chơi, Nadia một mình lủi thủi lần bước hàng tiếng đồng hồ dọc theo bìa rừng già hoặc khu rừng nhỏ liền kề vói đồng ruộng. Một trong những buổi tối đó, cũng như tất cả những ngày sau bữa ăn chiều, nàng ngồi trước lò sưởi lớn, hết nhìn những lưỡi trong lò lại nhìn bà Vêra – bà đã bỏ công việc dệt thảm cố hữu – đang bày những quân của cỗ bài tây để làm một quẻ bói, nàng nói bằng một giọng nghiêm trang không còn là giọng của một cô bé mà là một người con gái đã trưởng thành.
− Có một chuyện bà ạ, cháu chưa bao giờ nói với bà vì cháu không chắc là có đúng không... Nhưng bây giờ sau khi cháu đã có một thời gian nghiền ngẫm, cháu biết là mình đã không lầm. Cái đêm mà bà thấy cháu khóc ròng ấy, ít ngày trước cái chết của Jacques, trái với bà đã tưởng, cháu không ngủ. Cháu thức rõ ràng và cháu nhìn thấy thi thể của Jacques bập bềnh trôi trên mặt nước nhưng cháu không dám nói vì sợ bà kinh hãi, và cũng có thể cháu sợ rằng bà nghĩ là cháu điên rồ. Điều đáng sợ là không phải cháu trông thấy hình ảnh trong một cơn ác mộng mà là lúc mắt cháu đang mở to.
− Chúng ta đừng nói đến tất cả những cái đó nữa. Hãy cố gắng quên đi cháu ạ.
− Nhưng thật khủng khiếp đối với cháu vì cháu đã nhìn thấy cái đó trước khi nó xảy ra.
− Cái này chỉ đơn giản là có thể cháu có một năng khiếu đặc biệt mà người khác không có. Dù sao thì cũng không có gì nghiêm trọng cả và biết đâu cái đó có thể giúp ít cho cháu sau này. Biết trước sự việc, có thể giúp ta tránh nó, không để cho nó xảy ra... Tóm lại, cũng như tất cả những người rất nhạy cảm, cháu tưởng tượng quá nhiều đấy. Phải cảnh giác với nó! Bà không có cái đó vì vậy, bà phải dùng đến những quân bài. Còn bây giờ cháu phải đi ngủ thôi. Đừng quên ngày mai là chủ nhật, chúng ta phải dậy sớm để đi nhà thờ.
Còn lại một mình, bà Vêra thấy thật sự lo ngại: phải chăng cô cháu gái của bà được thừa hưởng cái khả năng thấu thị mà người mẹ sinh ra bà đã có ngày xưa? Bà mẹ tuyệt vời người Slave ấy tên là Natacha cứ ỗi tối lại tới gần chiếc giường trẻ em trong căn nhà ấm cúng của gia đình ở Kiev để kể cho cô cháu nghe những câu chuyện lạ kỳ cốt để ru cho cháu ngủ. Bà Natacha có năng khiếu bẩm sinh về tài tiên tri mà cả vùng đều biết tiếng. Những người dân từ những nơi rất xa cũng tìm đến nhờ bà xem và rất kính trọng bà vì bà giúp đỡ mọi người không phải vì tiền bạc. Chính tấm lòng nhân ái đã chỉ đạo hành vi của bà. Bà đã tiên đoán được biết bao sự kiện. Và đặc biệt là tới một ngày, cũng chưa xa lắm, có những thay đổi nghiêm trọng xảy ra trên đất nước Đại – Nga: Những sự kiện mà nhiều người không ngờ nhưng đã ập tới... Và nếu cái năng khiếu bí ẩn đó được truyền cho Nadia sau khi đã bỏ qua hai thế hệ: bà và con gái bà, mẹ của Nadia đã chết lúc lâm bồn? Khả năng thấu thị rất có thể, trong một số gia đình, là một tính cách duy truyền lắm chứ! Nếu những gì mà Nadia vừa tâm sự với bà là sự thật – và thật ra cũng chẳng có ký do gì để nghi ngờ – thì cháu gái của bà, đúng vậy, cả con bé này đã sở hữu một năng khiếu mà không một phạm vi ảnh hưởng nào, không một sức mạnh nào của nhân loại có thể chống lại. Cần phải chấp nhận đồng thời phải hết sức tránh không cho con bé biết là nó có năng khiếu đó. Nó chưa biết tác hại rất lớn và nguy hiểm đến mức nào khi nhìn trước được tương lại. Muốn vậy thì chỉ có một cánh: cười cợt coi thường những ảo ảnh mà nó đã thấy. Nếu cần thì làm như chế nhạo nó. Chỉ có như thế mới làm cho nó đừng quá xúc động và cuối cùng là nó sẽ không chú ý tới, không cho là quan trọng nữa. Đó là lập luận sai lầm của người bà. Nhất là bà đã hiểu không đúng về Nadia.
Bà Vêra quyết định không bao giờ đem cỗ bài ra bói nữa mặc dù nó vẫn nằm lù lù trên chiếc bàn tròn. Những quân bài cũng chẳng mách bảo bà được đều gì nhưng nó lại tiếp tục khiêu gợi tính hiếu kỳ của cô bé khi nhìn thấy. Cần phải gạt bỏ ra ngoài cái tầm hiểu biết còn non trẻ của cô bé tất cả những gì thuộc về lĩnh vực thấu thị! Lập tức bà xếp những quân bài lại, giấu vào một trong những ngăn kéo bàn viết, dưới một chồng giấy tờ với ý định là sẽ không bao giờ lôi nó ra khỏi chỗ đó nữa. Các buổi tối, bà lại quay lại công việc cũ là tiếp tục dệt thảm.
Nadia vẫn lớn lên và có thể lấy ại được niềm hạnh phúc không có mây che nếu bà không đặt nàng, đã hai năm nay dưới sự dạy dỗ của một cô giáo già, cô giáo Bạch mà nàng không thấy mến yêu; nhưng bà Vêra chỉ còn có nàng trên cỏi đời này nên không nỡ đưa nàng đến một trường lưu trú, để phải xa cách cô cháu ngây thơ, lẽ sống duy nhất của bà.
Với vẻ bề ngoài nghiêm khắc cô giáo Bạch không phải là một phụ nữ xấu. Rất mau chóng, cô đã tỏ ra là một nhà giáo dục suất sắc. Nhờ có cô mà Nadia tiến bộ vững vàng. Ba năm trời đủ để biến cải một cô gái nhỏ: mười bốn tuổi thành một thiếu nữ mà tri thức về văn hoá và kể về nghệ thuật đã vượt xa các bạn cùng lứa tuổi. Thế nhưng ngoài bà Vêra và cô giáo Bạch ra thì nàng chỉ được tiếp xúc với rất ít người trong Cố trang.
Tình trạng nửa cô đơn đó cũng chẳng đè nặng lên nàng lắm. Bởi vì nàng đã biết cách loại trừ nó. Ngoài những giờ học kiến thức văn hóa xen với giờ học nhạc và học vẽ, Nadia rất thích chơi Pianô đặc biệt là chơi những tác phẩm của Chopin. Còn về hội họa, một trong những niềm vui của nàng là đi, cùng với giá vẽ và hộp màu, tới những vùng thôn giã bao quanh lâu đài để vẽ cảnh vật thiên nhiên. Trong tiếng hót líu lo của các loài chim, nàng vẽ một bức tranh phong cảnh và nàng gọi là bức tranh "ngẫu hứng". Đặc biệt yêu thích cảnh quan vùng Sologne mà nàng cho là nó thuộc về mình, khi cầm lấy bút vẽ nàng cảm thấy một vái gì đó êm dịu nhẹ nhàng làm tâm trí nàng bay bổng. Nàng chỉ còn nghĩ đến tác phẩm bắt đầu sự sống với màu sắc trên khung vải. Lúc ấy nàng quên đi tất cả Cố trang, cô giáo Bạch và cả bà Vêra. Cứ như thế mà dần dần, con người thật, một tâm hồn hoang dại, mộng mơ phát triển và tự khẳng định. Khi tở về lâu đài, nàng lên thẳng buồn riêng, nhìn một lần cuối khung vải đã vẽ xong hoặc còn bỏ dở, cất nó vào tấm màng che hốc tường trong bóng tối cùng với những tấm đã vẽ trước. Và mỗi lần bà Vêra hỏi:
− Tại sao không cho bà xem những bức họa của cháu? Thì nàng trả lời lần nào cũng vậy:
− Vì cháu thấy xấu hổ! Chúng chẳng có giá trị gì... Không phải là cháu vẽ cho mọi người xem mà chỉ để cho một mình cháu thôi. Cháu không được cái quyền là có những bí mật nhỏ cho riêng mình sao.
− Hãy cẩn thận đấy, cháu yêu ạ! Cứ xử sự như thế ở vào cái tuổi cháu bây giờ thì về sau cháu sẽ trở thành... Một khuyết điểm xấu, đó là thói vị kỷ! Không nên vùi sâu tất cả những điều bí mật trong trái tim mình... Có những nỗi buồn nếu chỉ một mình mình biết, một mình mình hay thì không ổn, tốt hơn hết là hãy trúc bầu tâm sự với một người bạn chí cốt hoặc với bà ngoại thân yêu của cháu đây chẳng hạn thì nỗi buồn sẽ vợi đi.
Nadia im lặng.
− Tiện đây, bà hỏi cháu, dường như trong khoảng ba năm nay cháu không còn thấy những ảo ảnh khủng khiếp đó nữa phải không?
− Hội họa đúng là một phương thuốc màu nhiệm đối với cháu bàạ. Mỗi lần thấy ảo ảnh mà cháu căm ghét xuất hiện, cháu lại vội vàng lấy những bức vẽ ra xem lại với cảm tưởng là đang ngắm nghía một cái gì thất đối với cháu. Việc làm này đã làm tan biến đi những ảo ảnh chỉ có thể là những hình ảnh sai lầm. Đúng là bà có lý: cháu đã tưởng tượng thái quá... Cách tốt nhất phải chăng là thay thế ngay tức khắc sự mộng mơ bằng nhìn thấy cái gì thực sự tồn tại?
Lời bộc bạch của Nadia chỉ làm cho bà Vêra yên tâm một phần vì nó chỉ ra bằng khả năng thấu thị vẫn tiếp tục tồn tại mặc dù nàng có thiện ý rõ ràng là muốn thoát khỏi nó.
− Nhưng cháu thích vẽ gì hơn cả: hoa quả, cây cối, những bức rào?
− Tất cả những gì thuộc về thiên nhiên đều đáng vẽ, cháu đều thích cả bà ạ.
Nàng không dám thú nhận với bà là có một phong cảnh duy nhất mà nàng không bao giờ đặt bút vẽ, đó là khung cảnh mà trong đó có hồ ao. Nàng trốn chạy những dòng suối, những con sông hình như đối với nàng chúng có thể mang lại sự chết chóc.
Một buổi trưa, vừa lúc xong bài học tiếng Anh, cô giáo Bạch, vốn rất tiết kiệm lời khen tặng, bảo nàng:
− Nadia thân mến, cô rất hài lòng. Em phát âm rất chuẩn. Cũng vì vậy cô muốn là mùa xuân sau sẽ gửi em sang Anh ở đó một vài tháng trong một gia đình chỉ nói toàn tiếng Anh. Khi trở về, em sẽ nói tiến Anh như một người Anh chính cống, cô phải nói dự kiến này với bà em mới được.
− Chả cần vội vã thế đâu, thưa cô. Em chẳng thích ra nước ngoài một tý nào. Em thấy ở đây thật thoải mái... Nếu em có quyền quyết định thì không bao giờ em rời khỏi quê hương Sologne của em.
− Thôi thì cái đó để sau sẽ hay. Còn bây giờ cô sẽ phải vắng mặt khoảng một tiếng đồng hồ. Nhất thiết cô phải đi đến bưu điện xã gửi một lá thư trước giờ họ mở hộp thư.Chị gái của cô đang chờ tin của cô đấy.
− Cô có chị gái à? Sao chẳng bao giờ thấy cô nói cả.
− Cố đã nói với em từ hôm mới tới đây. Nếu như không mấy khi nói tới nữa là vì cô nghĩ cái đó đối với em cũng chả có gì đáng quan tâm.
− Bà ấy cũng dạy học như cô chứ?
− Ồ không! Chị ấy không thể dạy học cũng như không thể làm một cái gì khác... Chị ấy bị bại liệt từ nhỏ và hiện đang sống trong một học viện chuyên khoa cách xa đây.
Đó là một khám phá mới của Nadia. Như vậy là cũng có những người như cô giáo Bạch đây chẳng hạn có nỗi bất hạnh trong gia đình mà không bao giờ nói ra. Có những người, như nàng, Nadia, cũng có những điều bí mật của riêng mình.
− Cô còn có những người thân nào khác nữa không?
− Cô chỉ có mình chị ấy. Cũng vì phải chu cấp cho chị mà cô bắt buộc phải làm phải làm việc nhiều.
− Cô có muốn em đi cùng cô vào làng không?
− Chả cần, em Nadia của cô ạ. Em thật dễ thương khi đưa ra ý kiến đó nhưng cô biết là em sẽ vất vả đấy. Em ở nhà tập nhạc đi. Đến hàng tuần nay rồi em không đụng đến pianô và em biết rất rõ là bà em thích nghe em đàn. Em có biết hôm qua bà em nói với cô như thế nào không? "Mỗi lần nghe vang lên tiếng pianô của Nadia tôi lại có cảm tưởng là tất cả Cố trang cất lên tiếng hát".
− Bà em đã nói thế hả cô? Thế thì em sẽ làm cho bà vui thích ngay đây... Nhưng, về cái hư đó, cô không để lại được đến ngày mai ư? Thời tiết đang thay đổi: em sợ trời sắp có cơn giông.
− Chân cô còn kỏe, cô sẽ quay về trước khi bão tới... Và lại, đôi khi cô cũng không thấy sợ mưa gió lắm.
− Còn em thì em chỉ thích cái mùa đất ẩm bốc lên khi mưa gió đả chấm dứt. Nhưng, cô đi mau lên thôi!
− Hẹn sau một tiếng nhé!
Qua cửa sổ phòng khách Nadia trầm ngâm nhìn cô bước đi mỗi lúc một xa. Thấy cô giáo già một mình ra đi như vậy, nàng thấy vô cùng bứt rứt. Nàng cũng không hiểu tại sao nữa: đây là lần đầu tiên nàng cảm thấy băn khoăn lo lắng cho người mà nàng không yêu thích. Có thể là qua những trao đổi vừa rồi, nàng đã khám phá ra là cô giáo già nghiêm nghị và khô khan đó, cũng là một con người đã biết giấu đi nỗi đau khổ riêng tư? Hay là vì nàng biết ơn cô về những lời khen tặng sự tiến bộ trong việc học tiếng Anh? Tuyệt đối không phải vậy: Nadia không thích những lời khen. Có cái gì khác đang làm cho lòng nàng nặng thắt: nàng thực sự lo lắng khi thấy cô một mình ra đi và tự nhủ thầm là bất cứ tai nạn nào cũng có thể xảy đến với cô. Ngày hôm kia, nàng lại chẳng thấy một ảo ảnh đó sao? Nàng trông thấy rõ cô giáo Bạch nằm bất động, gương mặt như làm bằng sáp. Và nàng nhìn thấy cái đó, không phải là trong giấc ngủ! Ngay lúc ấy – thật là khủng khiếp mà thú nhận – nàng lại thấy hầu như thích thú: thế là đã nhổ bỏ được cái gai trước mắt! Nhưng lúc này đây khi cô giáo đã ra đi, Nadia lại thấy cô vô cùng sợ hãi. Tất nhiên là bí mật này nàng không hề hé môi với bà Vêra, càng không nói gì với cô giáo. Để quên đi cái ảo ảnh đáng sợ đó, nàng nhanh nhẹn chạy đến chỗ để pianô và lẫn trốn trong một điệu valse của Chopin đồng thời tìm cách át đi tiếng rơi hung hãn của những giọt mưa to lớn của trận bảo đang bắt đầu. Nàng cũng hiểu là âm nhạc sẽ làm cho quên đi tất cả.
Không phải chỉ là một tiếng đồng hồ đã trôi qua từ lúc cô giáo Bạch ra đi mà là đã ba tiếng rồi vẫn chưa thấy cô về. Trận bão đã chấm dứt để lại cảnh vật ướt sũng. Đêm ập xuống mang đến bao đều lo lắng băn khoăn. Theo yêu cầu của bà Vêra, "cha" Levasseur phải đi tìm bằng được cô giáo. Như thường lệ trong các buổi tối quanh lò sưởi, Nadia ngồi co ro lọt thỏm trong chiếc ghế bành có trải nệm mà nàng yêu thích. Tối nay nàng im lặng. Đôi mắt lơ đãng như đang nhìn vào khoảng hư vô. Chẳng còn gì để khám phá sự việc xảy ra lúc này đã được thấy trước bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Nàng biết chắc chắn là cô giáo Bạch đã chết rồi nhưng không dám nói với bà ngoại.
Sau một tiếng đồng hồ, người tá điền trở về, có người giúp việc đi theo, báo là đã tìm thấy thi thể của cô giáo bị sét đánh ở đầu con đường đi về phía lâu đài dưới một cây bách hương, chắc là cô đã núp ở đó để tránh mưa.Nghe lời xét nhận đều mình đã nhìn thấy, Nadia bật khóc: những giọt nước mắt thầm lặng.
− Cháu yêu cô ấy đến thế kia à? Bà Vêra hỏi.
Không có lời đáp: cô gái nhỏ đã lên phòng riêng đóng kín cửa lại. Nói với bà làm gì cái việc mà lúc này nàng có chứng cứ không thể chối cãi được là có khả năng biết trước những biến cố sẽ xảy ra mà những người khác không linh cảm đuợc. Phát hiện này đã làm nàng kinh hoàng sửng sốt.
Ở Cố trang chẳng ai còn nhắc tới cô giáo Bạch đã mất cũng như chẳng ai đả động tới người cha nàng và anh bạn Jacques nữa. Nadia không ra khỏi nhà. Nàng chẳng còn thích thú vẽ những lùm cây ngoạn mục trong mục cũng như ngồi trước hàng phím đàn pianô. Nàng khước từ cả việc đi vào trong làng để khỏi phài đi qua gốc cây đổ vì sét đánh. Cũng như cái ao sen, chỗ gốc cây đổ đối với nàng đã trở thành một nơi quái đản. Chỗ ẩn trốn của nàng cũng chẳng còn phải là buồng riêng mà là trên tầng gác nhỏ sát mái mà nàng ở đó suốt ngày nọ sang ngày kia.
Một buổi tối bà Vêra hỏi nàng:
− Nhưng cháu làm gì ở trên đó mới được chứ?
− Cháu tiếp tục học bà ạ. Bà không biết là ở trên gác ấy có chồng sách đầy bụi bám nhưng thật hấp dẫn ư?
− Bà biết, nhưng thú thật với cháu là chẳng bao giờ bà mở ra xem cả. Nhược điểm lớn nhất trong đời bà là không ham mê đọc sách: bà chỉ thích kim chỉ giá may.
− Những tấm thảm bất tận của bà! Và cả những quẻ bói của bà nữa chứ? Nhưng có lẽ cũng đã lâu rồi, cháu không thấy bà sử dụng cỗ bài.
− Những quẻ bói bài ấy chẳng đi đến đâu cả! Có thể là bà không có năng khiếu... và nếu có thông thạo đi chăng nữa thì những quẻ bói cũng chẳng có nghĩa gì! Người ta không thể bắt những quân bài nói lên bất cứ cái gì người ta muốn.
− Bà cho là thế ư?
Nếu bà Vêra nảy ra ý định tìm lại cỗ bài mà bà đã giấu ở đáy ngăn kéo thì bà sẽ chẳng bao giờ thấy nữa. Đã mấy tuần nay, Nadia chiếm giữ và giấu kỹ vào một chỗ khác, ter6n tầng gác hẹp, sau những cuốn sách đầy sức quyến rũ mê hoặc, trong số đó có một cuốn dạy cách rút tỉa các quân bài và làm cho chúng nói lên những đều bí ẩn. Cỗ bài đã giúp nàng thực hành những trường hợp nêu ra trong cuốn sách và nhất là – đối với nàng phải chăng là quan trọng hơn cả – dần dần nàng khám phá ra sự tương quan giữa những quân bài và khả năng thấu thị bí ẩn mà nàng đang có. Những hình ảnh báo trước về những sự kiện trong cuộc sống đời thường này hầu như xảy ra thường xuyên hàng ngày, khá bình thường, chẳng có chút gì là bi tráng nhưng rồi trong thực tế đã diễn ra y như nàng đã thấy trước. Hiện tượng này đã giúp nàng kiểm tra được tính chân thật của những ảo ảnh nối tiếp trong trí óc của nàng. Một công việc kỳ lạ đòi hỏi tính kiên trì đã lôi cuốn nàng, làm nàng say mê. Những cuốn sách khác chuyên về lĩnh vực khoa học huyền bí đã mang đến cho nàng rất nhiều khám phá mới. Tầng gác sát mái mà nàng không thể rời xa được đã trở thành bối cảnh trong đó nàng đã sống một cách vô cùng phong phú.
Một buổi trưa bà Vêra bất chợt gặp nàng ở nơi ẩn trú, bà vui vẻ nói:
− Với những mạng nhện chằng chịt như thế này người ta dễ tưởng đây là lãnh địa của một đạo sĩ luyện đan hoặc phù thủy Merlin. ( Và thấy cỗ bài rải ra trên sàn): Nhưng đây là cỗ bài của bà, cháu đã lấy lúc nào vậy? Thế ra bây giờ cháu cũng quan tâm đến những quân bài?
− Không phải cho cháu đâu... mà qua chúng, cháu có thể biết những gì về người khác.
− Và cháu đã dũng cảm đọc hết những cuốn sách vớ vẩn này mà hồi ở tuổi cháu bà thấy chán phè? Cháu biết đấy, cháu yêu ạ, không phải là bất cứ thứ gì được in ra là mang tâm lý của Kinh Thánh! Đi sâu vào cái mớ lộn xộn này cháu thấy thế nào?
− Rất hay bà ạ.
− Cháu làm cho bà càng ngày càng nhớ tới bà cụ đã sinh ra bà... Tất cả cái đó đều rất hay nhưng dù sao thì cháu cũng phải tiếp tục học, trước hết là qua trung học. Rồi sau đó sẽ tính tiếp.
− Tất cả đã được định trước rồi bà thân yêu ạ. Bà chẳng cần lo lắng gì cả: cháu biết rõ sau này cháu làm gì... Cháu sẽ tiên đoán tương lai cho mọi người.
− Nhà nữ tiên tri ư?
− Bà muốn gọi là gì cũng được nhưng chắc chắn cháu sẽ thành đạt.
− Nhưng cháu không có ý định coi đó là nghề nghiệp suốt đời chứ?
− Tất nhiên là không rồi... Nhưng cháu có thể giúp ích nhiều cho mọi người đấy.
− Bây giờ chúng ta nói chuyện thật nghiêm túc nhé: cháu không thể tiếp tục học mà không có thầy dạy được. Bà chỉ có hai giải pháp: hoặc là chúng ta tìm một cô giáo Bạch khác...
− Ồ không! Cháu xin bà: không cần cô giáo nào nữa!
− Hoặc cháu học hàm thụ... Nhưng cách này không đem lại kết quả tốt lắm đâu! Nếu có thể thì... có lẽ là hay hơn cả, nếu cháu xin vào học một trường lưu trú?
− Không bao giờ bà thân yêu ơi, nếu như vậy bà sẽ xa cháu ư?
− Thú thật là không bao giờ bà muốn như thế cả... Có thể còn có cách thứ tư nữa: hay là chúng ta chuyển về sống ở Pari. Cháu sẽ xin vào học ở một trường trung học cạnh đó và bà cháu ta vẫn sống gần nhau.
− Thế còn Cố – trang của chúng ta sẽ ra sao?
− Còn có những người khác chứ. Cố trang sẽ chờ đó chúng ta trở về, vào những kỳ nghỉ hè hoặc bất cứ lúc nào cũng được. Gia đình Levasseur sẽ chăm nom săn sóc nó.
− Cháu thất rất buồn một khi phải rời bỏ miền Sologne dù chỉ là tạm thời. Cháu cảm thấy như có tội bỏ phế gia sản vậy.
− Cần phải biết suy nghĩ một chút cháu ạ. Bây giờ cháu đã là một cô gái chẳng còn bé bỏng gì, cần phải có điều kiện để học hành thật tốt và cũng không thể sống ẩn dật trong sự tách biệt với thế giới bên ngoài và có mỗi mình bà là bạn được!
− Nhất thiết là cháu phải có sự giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi.
− Cháu chẳng muốn chơi bời giao lưu với ai cả.
− Bây giờ thì cháu nói thế đấy, nhưng khi đến Pari, cháu sẽ thay đổi ý kiến ngay. Thế là quyết định nhé: chúng ta sẽ đi thủ đô Pari ngay khi tìm thấy một chỗ ở ưng ý trong một khu vực dễ chịu. Ngày mai bà sẽ gọi điện cho người nhà của chúng ta đi tìm: đó là một người tinh nhanh tháo vát chắc sẽ tìm thấy ngay thôi. Hẹn cháu trong buổi ăn tối nhé. Bà để mặt cháu với những cuốn sách vớ vẩn này nhưng bà nhắc lại: chớ vội đánh giá cao năng lực huyền bí của những quân bài!
Bà Vêra lấy làm hài lòng về cuộc trò chuyện này. Lý do theo đuổi việc học hành thật tuyệt diệu. Điều bà không nói ra và chẳng bao giờ nói thật với cô cháu gái là, đã lâu lắm rồi, bà thấy Nadia cần phải rời xa cái Cố trang này, nơi chồng chất bao nhiêu phiền muộn mà nàng phải chiệu đựng trong sự cô đơn vô bổ. Bà cũng không muốn thấy nàng say mê đọc những cuốn sách về khoa học huyền bí cũng như không tin là nghề nghiệp tương lai của cháu bà lại là một nhà nữ tiên tri. Bói bài là một cách giải trí không có hiệu quả kéo dài, nhưng đóng chốt cả một cuộc đời vào những gì mà quân bài nói hoặc không nói là một sự điên rồ không hơn không kém. Cũng có thể là sống xa trang trại, năng khiếu thấu thị – đều bà rất lo ngại sẽ gây hậu quả xấu đến với cô gái ở tuổi như cháu bà – có thể giảm rồi mất hẳn? Thủ đô với những phương tiện giải trí đầy hấp dẫn sẽ vô cùng cuốn hút đối với một đầu óc còn non trẻ. Cần phải đến Pari thôi!
Bà ngoại đã nhìn nhận đúng. Cuộc sống ở thủ đô Pari đã trôi qua được bốn năm và Nadia đã học xong bậc trung học. Nàng đã có nhiều bạn trai và bạn gái cùng lứa tuổi. Năm mười tám tuổi, nàng đã trở thành một cô gái có vẻ đẹp dịu dàng: đều này đã góp thêm thắng lợi cho nàng về mọi mặt. Nàng cũng tỏ vẻ rất ham thích cuộc sống ồn ào, vui chơi giải trí làm cho bà Vêra thích thú và yên tâm. Như vậy cái năng khiếu thấu thị của cô cháu chẳng thành vấn đề gì nữa! Và khi người bà ngoại đáng kính đó hỏi cháu gái:
− Bây giờ cháu đã là cô tú rồi, cháu có ý định sẽ làm gì? Nghành nghề nào cháu yêu thích nhất?
Câu trả lời là:
− Thực ra thì cháu cũng không biết nữa. Cháu thích tất cả... có lẽ cháu muốn trở thành một nữ luật sư...
− Thế còn ngành y?
− Chỉ có một loại ngành y mà cháu cảm thấy thoải mái để hành nghề: đó chăm sóc và đều trị bệnh về tư tưởng.
− Thầy thuốc khoa thần kinh ư?
− Đúng vậy. Đau đớn về thể xác cháu coi là phụ, bệnh hoạn về thần kinh mới là quan trọng... Nhưng bà hãy để cháu suy nghĩ trong thời gian nghỉ hè này. Các chuyên khoa chỉ bắt đầu khi khai giảng niên khoá mới.
Trưa hôm sau, nàng tiếp một bạn gái thân đã cùng học một trường và cũng vừa tốt nghiệp trung học. Mỗi lần Béatrice tới, hai cô gái lại cùng nhau chuyện trò tâm sự chẳng liên tới một ai, trong buồn riêng của Nadia.
Béatrice là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, không giống Nadia một chút nào: một cô tóc nâu, cô kia tóc vàng. Song có lẽ sự khác biệt rõ ràng nhất giữa hai cô gái là phong cách ứng xử: Béatrice thẳng tính, hơi nóng nảy và ham thích thể thao: cô chơi tennít, cưởi ngựa, bơi lội và trượt tuyết rất giỏi. Còn Nadia thì kín đáo trầm mặc hơn và cũng bí ẩn hơn, thích những thú vui của những phụ nữ sống nhiều về nội tâm. Cô tóc nâu thì ruột để ngoài da còn cô tóc vàng thì thâm trầm mơ mộng. Có lẽ vì vậy mà họ bổ sung cho nhau, rất ý hợp tâm đầu.
Ngày hôm đó Béatrice nói chắc nịch:
− Nhất thiết là cậu phải bói cho mình một quẻ bằng cỗ bài tây của cậu.
− Tại sao vậy?
− Nó sẽ giúp mình chọn một nghề. Bố mẹ mình thì muốn mình trở thành một dược sĩ. Các cụ nói đó là một nghề vẻ vang nhưng mình thì thấy chẳng có gì thú vị! Cậu sẽ trông thấy mình ngập giữa ống chai lọ hoặc chúi mũi đọc những đơn thuốc, những công thức pha chế ư? Và mình lại chúa ghét cái mùi của các hiệu bào chế! Những quân bài có thể nói cho mình biết tương lai đích thật của mình là ở đâu. Mỗi lần mà cậu rút bài bói cho mình, mọi việc đều xảy ra đúng y như đều cậu đã thấy.
Việc này bà Vêra cũng không biết: khi từ Cố trang ra đi, Nadia đã đem theo cả cỗ bài và kể từ đó, chưa bao giờ nàng rời khỏi nó. Lúc này nàng rất thông thạo trong việc sử dụng để bắt nó nói lên những đều cần nói và nàng tận dụng để giúp đỡ những cô bạn người Pari và cả những bạn trai nữa. Mỗi một khi cô này hoặc cậu kia gặ
Bình luận truyện