Bán Yêu Tư Đằng
Quyển 4 - Chương 10
Bình thường lúc kết thúc biểu diễn cần cảm ơn đoàn hát mới đi đến hậu đài gặp đào kép, nào có chuyện đang diễn giữa chừng mà lại đi ra hậu
đài chứ?
Tuy vô cùng nghi ngờ nhưng cô vẫn nghe theo. Đào kép đều lên sân khấu hết cả, hậu đài rất yên lặng, Thiệu Diễm Khoan nắm tay cô đi vào nơi hóa trang chật hẹp ở hậu đài. Cô nhìn thấy trên bàn bày biện vô số đồ bịt tóc, tóc giả, trang sức cài tóc, hộp màu và đồ hóa trang đủ mọi màu sắc…
Chỉ là chút đồ đạc nhưng lên sân khấu lại như điểm mắt cho rồng, vô cùng sống động.
Thiệu Diễm Khoan vén rèm lên, tiếng đàn nhị, đàn hồ không bị ngăn cách dội thẳng vào tai khiến cô giật mình: “Đây là sân khấu mà.”
Đúng vậy, là sân khấu. Thiệu Diễm Khoan mỉm cười, kéo cô lên sân khấu.
Nhiều nhân vật đang mặc trang phục, đạo cụ, dải lụa nơi ống tay áo tung bay lên xuống, hát xướng rất chú tâm, biểu diễn nghiêm túc như hoàn toàn không thấy hai người ngoài cuộc hoàn toàn xa lạ này.
Cô hơi ngơ ngác đi theo Thiệu Diễm Khoan đến chính giữa sân khấu, chân mang đôi giày cao gót bằng gấm đính trân châu, bước đi lóc cóc trên sàn sân khấu bằng gỗ. Trong lúc vô tình ngẩng đầu thấy một nữ tướng toàn thân mặc bộ áo giáp, khí thế hào hùng cất tiếng hát vang: “Ba tiếng trống như sấm rền ngoài cửa, Thiên Ba Phủ đi bảo vệ nước nhà, đầu đội mão vàng che tóc mây, áo giáp năm xưa khoác lên người…”
Trong lúc nhất thời như rơi vào vở diễn, bỗng cô nảy sinh một ý nghĩ trong đầu: Cõi đời này ai không diễn tuồng chứ? Nhân gian này rất rộng lớn, vốn là vừa sinh ra đã rơi vào một vở tuồng, hôm nay ngồi dưới sân khấu xem, ngày mai lại lên sân khấu diễn.
Thiệu Diễm Khoan nói: “Tư Đằng, ca diễn trên sân khấu này đều là giả, tuồng hết thì người cũng tan. Nhưng tình cảm anh đối với em là thật, dù trên sân khấu hay dưới sân khấu, dù trước đây hay sau này, dù ở đâu tấm lòng của anh giành cho em đều là chân thật.”
Anh ta quỳ một chân xuống đất, làm ảo thuật lấy ra một tấm lụa trắng trong tay áo, trong tấm lụa là một đóa hoa hồng tươi tắn xinh đẹp.
***
Cậu chủ xưởng dệt Hoa Mỹ, công tử nhà họ Thiệu diễn giống y như thật.
Tư Đằng đưa tay hất cốc trà rơi xuống bàn, đứng dậy cười to.
Thiệu Khánh ngỡ ngàng, không hiểu tại sao đang nói chuyện yên lành cô gái này lại bất chợt phất tay áo bỏ đi. Tần Phóng cũng thoáng sửng sốt, vội vàng nói vài câu với Thiệu Khánh rồi mau chóng đuổi theo Tư Đằng. Tư Đằng đi rất nhanh, hai tay bỏ vào trong túi áo khoác lông chồn, lưng thẳng tắp, mặt tái xanh. Cô hiên ngang đi giữa con đường, mấy chiếc xe đều phải tránh né, khẩn cấp đạp thắng. Tài xế tức giận ló đầu ra ngoài định mắng cô, nhưng khi thấy mắt cô đẫm lệ lời nói đã đến miệng bỗng giật mình nuốt lại.
Tần Phóng vội vã mới bắt kịp cô, biết là cô đang tâm trạng không tốt nhưng vẫn phải kiên trì nhắc nhở: “Tư Đằng, tuân thủ luật lệ giao thông.”
“Sông Hoàng Phố.”
Ban đầu Tần Phóng không hiểu, còn tưởng rằng đây là ám hiệu liên lạc như trong tivi, ví dụ như “Sông Dương Tử, sông Dương Tử, tôi là hồ Động Đình”, sau giây lát mới kịp hiểu ra, cô muốn đến sông Hoàng Phố.
***
Tần Phóng chưa thấy sông Hoàng Phố thời dân quốc, không biết phong cảnh lúc đó thế nào. Anh ngồi trên ghế ở bờ sông, nhìn Tư Đằng đứng yên tựa vào lan can, rồi lại nhìn rừng cao ốc san sát ở bờ bên kia. Rốt cuộc không nhịn được đi đến bên cạnh cô, còn chưa kịp mở lời thì Tư Đằng đã hỏi: “Đặt vé chưa?”
Lúc cô đang nói chuyện thì một chiếc du thuyền tham quan hụ còi chạy qua trên sông, Tần Phóng trả lời theo phản xạ: “Vé du thuyền hả?”
“Cậu đần hả? Hôm nay là ngày thứ ba, phải về bản Miêu, vé máy bay đó.”
Thủ tục hậu sự của An Man còn chưa làm xong, giấy chứng minh hẳn còn dùng được. Tần Phóng lấy điện thoại di động ra đặt vé, lúc thao tác vẫn không nhịn được nhìn Tư Đằng nhiều lần: Là do yêu quái rất giỏi kiểm soát tình cảm hay là con người Tư Đằng đặc biệt? Cô gái bình thường nghe thấy tin tức về người tình cũ chắc chắn trong lòng sẽ rối loạn đúng không? Nhưng Tư Đằng lại tuân thủ từng bước theo kế hoạch nghiêm túc như đánh cờ vậy. Ba ngày là ba ngày, không được phép thay đổi, không tiếp tục truy cứu, dù là manh mối của Thiệu Diệm Khoan mới xuất hiện đi nữa.
Đặt vé xong, anh nhìn đồng hồ: “Bay lúc tám giờ, sân bay rất xa phải lên đường trước. Nếu muốn ngắm cảnh sông, nhiều lắm cô chỉ ngắm được nửa giờ nữa thôi.”
Tư Đằng im lặng, Tần Phóng thoáng do dự mới hỏi cô: “Thiệu Diễm Khoan từng cầu hôn cô sao?”
“Đúng vậy.”
“Cô có chấp nhận không?”
“Suýt nữa.”
Suýt nữa? Cái gì gọi là suýt nữa chứ?
“Tư Đằng, thật ra thì cõi đời này có hai Tư Đằng sao? Hoặc là nói cô còn có một chị em sinh đôi, dùng chung cái tên Tư Đằng này với cô. Có đôi khi cô ta lấy tên Tư Đằng xuất hiện, có đôi khi là chính cô. Cho nên khi đó Thiệu Diễm Khoan cho rằng hắn theo đuổi là một người, nhưng thật ra có lúc ở bên hắn chính là cô, có lúc lại là chị em sinh đôi của cô. Có điều Thiệu Diễm Khoan không phân biệt được, mà những đạo sĩ kia cũng vậy. Gả cho Thiệu Diễm Khoan làm bà hai, mang thai sinh con và bị đạo trưởng Khưu Sơn trấn giết chết vào năm 1946 là chị em sinh đôi của cô. Về phần cô đã chết từ năm 1937 rồi đúng không?”
Cô không trả lời, im lặng kéo dài.
Lúc Tần Phóng không còn hi vọng gì Tư Đằng sẽ trả lời thì cô bỗng thốt lên: “Cái khối trên cổ cậu cuối cùng cũng biết tư duy rồi đó.”
Cái khối trên cổ? Đó kêu là đầu, tên cũng là đầu đó!
Tần Phóng cắn răng: “Cô nói chuyện dễ nghe một chút sẽ chết hả?”
Tư Đằng lại cười, cô nói: “Cậu giận cái gì, chờ tôi làm xong chuyện thì hai chúng ta sẽ đường ai nấy đi. Lúc đó cậu có cầm một triệu đến cầu xin tôi mắng cậu cũng không được đâu.”
Tại sao tôi phải cầm một triệu đến cầu xin cô mắng tôi chứ, chẳng lẽ tôi lại ti tiện bẩm sinh đến vậy à? Tần Phóng còn chưa kịp phản bác thì cô bỗng nói: “Sông Hoàng Phố chảy ra biển, hài cốt Thiệu Diễm Khoan ở trong biển trôi theo dòng nước. Đáng tiếc bây giờ tôi vẫn chưa trở lại làm yêu quái, nếu như yêu lực tôi vẫn còn, hàng vạn hàng nghìn dây mây đi theo dòng nước, kéo dài hàng nghìn hàng vạn dặm, chắc chắn có thể vớt xương hắn về.”
Biết rõ khả năng không lớn, nhưng Tần Phóng vẫn dè dặt hỏi: “An táng hả?”
“Xé hài cốt hắn ra hai trăm lẻ sáu mảnh, mua một cái vali bỏ hết vào. Sau đó kéo vali đi du lịch khắp nơi, gặp heo, chó, gà thì cho một miếng. Lúc tâm trạng tốt lên núi lễ phật thì có thể vứt lại một miếng, tâm trạng không tối thì vứt xuống nước một miếng. Ném hết rồi thì khúc mắc cũng giải, có thể buông xuống tất cả.”
Cô nói say sưa, giọng điệu bình tĩnh giống như miêu tả tương lai tốt đẹp. Nhưng Tần Phóng nghe lại túa mồ hôi lạnh sau lưng: “Cô hận Thiệu Diễm Khoan vậy hả? Đạo trưởng Khưu Sơn đối với cô như vậy, cô cũng nói chuyện đã qua rồi sẽ không liên lụy đến đời sau. Tuy cuối cùng cô và Thiệu Diễm Khoan không có kết quả, nhưng dù sao cũng từng có tình cảm…”
Tư Đằng cười khẩy: “Tình cảm? Sau sự việc ở Thanh Thành, tôi đã không có bất cứ tình cảm gì với Thiệu Diễm Khoan nữa! Lẽ nào cậu không nhìn ra tấm hình của hắn và Khưu Sơn sao?”
“Khưu Sơn đối xử với tôi không tốt, bởi vì họ là người của đạo môn vốn xem yêu quái là thứ thấp hèn, là kẻ thù trời sinh, mưu tính lẫn nhau, không thể nói là tốt hay không. Nhưng Thiệu Diễm Khoan không giống, lời thề non hẹn biển còn văng vẳng bên tai, sau khi biết tôi là yêu quái thì trốn tránh như lũ lụt, thú dữ. Tôi cũng chỉ cười trừ, ai bảo mình là yêu quái chứ, đúng không?”
“Nhưng sau đó hắn lại liên thủ với Khưu Sơn cùng nhau đối phó tôi, cố ý tạo cảnh tượng giả gặp lại tôi ở Thượng Hải, lại giả vờ thật lòng thật dạ bảo tôi gả cho hắn. Một đám hèn nhát, không đối phó được tôi lại muốn dụ tôi động tình. Một khi tôi có thai sinh con với con người sẽ bị mất yêu lực, bọn họ có thể dễ dàng thu thập tôi. Khưu Sơn làm như vậy có thể giải thích là vì lập trường khác nhau, nhưng cậu biết Thiệu Diễm Khoan là vì cái gì không hả?”
Thiệu Diễm Khoan có thể là vì cái gì? Tần Phóng không nghĩ ra được.
Ánh mắt Tư Đằng nhìn chăm chú về phía bờ bên kia thật lâu: “Vì xưởng dệt của hắn đang khốn khó, con nhà giàu không biết kinh doanh, thấy tổ nghiệp khó giữ được Khưu Sơn vẽ cho hắn một cái bánh lớn, chỉ cần hắn làm được thì sẽ lấy tiền tài bảo vật ra giúp hắn chấn hưng gia nghiệp. Hắn như bắt được chiếc phao cứu sinh, sau lưng thì dán bùa tránh yêu đề phòng tôi hại hắn, áo mũ chỉnh tề đến sàn nhảy Bách Nhạc Môn.”
Tần Phóng nhìn sang đó theo ánh mắt cô, cách quá xa anh không nhìn rõ lắm. Nơi đó ban đầu là địa chỉ cũ của xưởng dệt Hoa Mỹ sao?
Vì muốn cải tử hoàn sinh một công xưởng nên phải khẩu phật tâm xà đặt bẫy lừa gạt tình cảm của Tư Đằng, còn cả tính mạng của cô nữa. Tên Thiệu Diễm Khoan này đúng là cái thứ gì mà. Thiệu Diễm Khoan có thể đặt Tư Đằng và công xưởng lên bàn cân để so sánh, vậy tình cảm của hắn đối với Tư Đằng cũng chẳng phải thật tình gì cả.
Tần Phóng không biết nên nói thế nào. Chính anh cảm thấy chỉ một chữ tình nhưng thật ra lại rất phức tạp, có rất nhiều đau đớn và căm hận. Nhưng chúng trộn lẫn vào dư vị tình yêu nênngười đang đắm chìm trong biển tình sẽ không nhận ra, nhất là phụ nữ. Anh cảm thấy Tư Đằng hoặc ít hoặc nhiều cũng có chút tình cảm với Thiệu Diễm Khoan, rõ ràng là căm hận nhưng vẫn muốn nghe, muốn biết…
Tư Đằng cắt ngang suy nghĩ của anh: “Cậu cho rằng tôi là vì yêu mà sinh hận cho nên nhất định phải hỏi thăm được tung tích của Thiệu Diễm Khoan sao?”
Tần Phóng bỗng kịp hiểu ra: Nếu lúc đó Tư Đằng không lựa chọn lấy Thiệu Diễm Khoan, như vậy yêu Thiệu Diễm Khoan và có gút mắt tình cảm với hắn ta chắc chắn là một người khác.
“Cô là vì … chị em kia của cô sao?”
Tư Đằng không nhìn bờ bên kia nữa: “Tôi chỉ đến vì một chuyện thôi. Ban đầu rốt cuộc là ai không ngại xa vạn dặm mang tôi đi chôn ở Nang Khiêm?”
****
Từ màn ảnh camera nhà tang lễ, sếp Trương thấy xác Triệu Giang Long được gói kín đưa vào lò thiêu. Ông liếc mắt nhìn Giả Quế Chi bên cạnh. Chị ta mặc một bộ đồ đen, vòng eo thô to bị chiếc áo siết thành một ngấn mỡ, mang theo vẻ mặt kỳ lạ không tả nổi vẫn nhìn chằm chằm màn ảnh giám sát. Lúc ngẩng đầu lên chị ta hét lên một tiếng rõ to mang theo tiếng nức nở: “Tránh lửa đi.”
Đây là nhân viên nhà tang lễ căn dặn, nói là lúc thiêu phải la lên một câu như vậy, nhắc nhở linh hồn người chết phải nhanh nhạy đừng để bị lửa thiêu trúng. Ban đầu Sếp Trương cười khẩy khinh thường, cảm thấy chết là hết còn làm nhiều chuyện rỗng tuếch như vậy làm gì. Nhưng khi nghe thấy tiếng Giả Quế Chi kêu lên mang theo tiếng khóc, trong đầu ông lại hơi chua xót, thấy chị ta bắt đầu lau nước mắt, ông đứng dậy đi ra ngoài hút thuốc lá.
Ống khói lò thiêu hướng lên trời bắt đầu bốc khói đen, sếp Trương thẩn thờ nhìn, nghĩ đến con người bị thiêu như vậy thật sự quá yếu ớt.
Có hai nhân viên lò thiêu trò chuyện với nhau đi ngang qua sếp Trương.
“Khó thiêu thật, gói từng tầng như vậy kín quá.”
“Chị ta nói quê quán ở khu Tạng Thanh Hải, đây là tín ngưỡng của đạo Phật bên ấy, phải gói kín như vậy, trên vải vàng đều là kinh Phật, tôi cũng không dám mở ra. Nếu làm vậy sẽ bị mắng, nói là không tôn trọng người ta.”
…
Sếp Trương lại thở dài một hơi, sau khi bị mấy cảnh sát cười nhạo không nhận ra tượng Phật của đạo Phật Tây Tạng, ông đã lên mạng bổ sung kiến thức một chút. Hiện tại có thể trò chuyện vài câu với người khác về tập tục khu Tạng rồi. Người dân tộc Tạng đều là thiên táng (1), có điều Triệu Giang Long là người Hán. Trong điều hai của luật pháp Trung Quốc có quy định, chết nơi đất khách thì thi thể phải hỏa táng ngay tại chỗ rồi mới mang về an táng. Cho nên dù Giả Quế Chi muốn an táng Triệu Giang Long theo tập tục quê quán cũng buộc phải mang đi hỏa táng theo điều lệ.
(1) Thiên táng (điểu táng) là hình thức mai táng nổi tiếng “rùng rợn” của người Tây Tạng. Thay vì chôn cất người chết trong lòng đất, người Tây Tạng đưa thi thể lên núi làm mồi cho đàn kền kền đói.
Cũng không biết qua bao lâu, Giả Quế Chi ôm hủ tro cốt được bọc bằng miếng vải đen đi ra. Lúc đi ngang sếp Trương, chị ta thoáng dừng lại lạnh lùng nói: “Ngày nào cũng đi theo, các người không có vụ án khác để điều tra sao? Hai ngày nữa tôi trở về Nang Khiêm, có phải các người cũng đi theo không?”
Nói xong chị ta đẩy sếp Trương ra, đi về phía xe mình. Sếp Trương nhìn bóng lưng của chị ta, vừa nghẹn lòng vừa ấm ức, thật muốn mắng chị ta thật nặng.
Bận bịu lo lắng cho sự an toàn của chị ta, một tiếng cảm ơn không có cũng thôi đi, vậy mà còn bị mắng chửi. Có điều chị ta nói không sai, lực lượng cảnh sát có hạn, vụ án này còn chưa có tiến triển thì cấp trên đã thúc giục chia nhân viên theo những vụ án khác rồi. Hai ngày nay nhân viên cảnh sát nằm vùng ở gần nhà Giả Quế Chi đã sắp rút lui, còn nói gì đi theo đến Nang Khiêm chứ?
***
Chu Vạn Đông đẩy cửa sổ tầng mười ba ra nhìn xuống lầu dưới, trong nhà tối đen như mực không có đèn, chắc là Giả Quế Chi vẫn chưa về. Gã lại đưa tay lên xem đồng hồ, đã mười một giờ năm phút tối rồi.
Đối diện nhà Giả Quế Chi có công an nằm vùng, không tiện đi vào hành lang, may là căn hộ trên tầng lầu này không có ai, bị gã nạy cửa ra lánh vào trong. Tuy lầu mười ba trèo xuống lầu mười hai hơi nguy hiểm, nhưng gã là ai chứ, đã quen làm chuyện như vậy rồi.
Hôm nay hỏa táng Triệu Giang Long, sau khi rời khỏi nhà tang lễ Giả Quế Chi còn phải chào hỏi mọi người, có điều chắc cũng nhanh trở về thôi. Gương mặt Chu Vạn Đông tái mét quấn dây thừng vài vòng vào ngang hông, lại thử mức độ chắc chắn của cọc neo. Sau đó hai tay bám vào cửa sổ, thò người ra ngoài, cẩn thận bám vào vách tường đi xuống.
Lão Tề đã chết một cách khó hiểu, quả thật không không thể tưởng tượng được. Chỗ này có ma sao? Không bàn đến tình cảm do cộng tác nhiều năm với lão Tề có phải là tình cảm anh em sâu đậm không. Nhưng không thể lấy lại công đạo cho đồng bọn đã chết thì sau này Chu Vạn Đông gã làm sao có mặt mũi ra đường lăn lộn nữa.
Tất cả đều thuận lợi, cao ốc không có lắp ráp cửa sổ bảo vệ, Chu Vạn Đông lấy dao cắt thủy tinh khoét một lỗ lên cửa kiếng đủ cho một người chui vào, im lặng chui vào bên trong.
Gã đứng trong nhà một lúc lâu, khi mắt thích ứng với bóng tối mới miễn cưỡng thấy được bày trí xung quanh: Đứng dựa vào tường là chiếc tủ bát lớn. Nhớ hôm đó An Mạn ra vẻ trấn tĩnh nói trong tủ không có ai. Sau đó lão Tề đẩy một cánh cửa ra, sau đó Giả Quế Chi lao ra từ bên trong, lão Tề đuổi theo…
Khi đó gã vô cùng tự tin cho rằng Giả Quế Chi sẽ chết chắc không thể nghi ngờ.
Gương mặt dữ tợn của Chu Vạn Đông nhăn lại, đi đến đẩy cánh cửa tủ một cái như để hả giận. Lúc rút tay lại đột nhiên tim giật thót, gã đặt tay đè lên cửa tủ lần nữa.
Cửa tủ này dường như hơi… lạnh.
Chu Vạn Đông chần chờ một chút, đưa tay đẩy cửa tủ ra. Cửa vừa mở ra, khí lạnh càng tăng, gần như là hơi rét. Bên trong tối đen không thấy rõ, gã đưa tay vào sờ, là cái chăn bông, sờ xuống nữa lại thấy cứng rắn lạnh băng, chắc là có đá khô giữ lạnh.
Trong tủ bát để những thứ này làm gì? Nếu như sợ đồ bị ôi thì nên bỏ vào tủ lạnh mới đúng chứ? Lẽ nào…
Chu Vạn Đông nghe nhiều, thấy nhiều nên vốn quen với những việc kỳ lạ, cũng không sợ hãi, chỉ cảm thấy trong lòng rờn rợn. Gã nắm cái chăn bông vén một góc lên xem. Lúc vén được một nửa thì bị thứ gì ngăn lại không vén lên được, gã liền nóng vội giật một cú thật mạnh.
Rào rào, rất nhiều túi đựng đá lạnh lăn ra, còn có vật gì đó nặng nề rớt xuống đất. Chu Vạn Đông lòng hoảng loạn, sợ tiếng động quá lớn sẽ kinh động đến bên ngoài. Gã nín thở nghe ngóng một hồi, hình như không có gì khác thường.
Tất cả khôi phục lại yên tĩnh, ánh trăng chiếu xuyên qua cửa sổ, im ắng soi sáng một góc mặt đất.
Đó là thi thể Triệu Giang Long, có lẽ do rớt xuống nên miệng cười toe toét quái dị, ngay cả mí mắt đều trợn lên, ánh mắt tỏa ra tia sáng lạnh lùng.
Nhưng chuyện này vẫn không phải là chuyện quái lạ nhất. Quái lạ nhất chính là…
Chu Vạn Đông nuốt nước miếng, đến gần một chút. Đúng vậy, gã không nhìn lầm, trên người Triệu Giang Long đóng ba cọc nhọn ở lồng ngực và hai bên xương sườn. Cũng không biết cọc nhọn làm bằng chất liệu gì, nhìn sang chỉ thấy đường viền nhọn hoắc màu đen.
Trong lòng Chu Vạn Đông bỗng nảy sinh dự cảm chẳng lành. Kinh nghiệm làm chuyện phạm pháp nhiều năm khiến gã có một nguyên tắc: Không nên đụng chạm đến bất cứ chuyện nào kỳ lạ không thể lý giải, lui đến chỗ an toàn quan sát mới làm bước kế tiếp.
Gã bật dậy, đi vài bước đến bên cửa sổ. Mới vừa bắt được dây thừng thả xuống thì vang lên một tiếng cạch khe khẽ. Đèn sáng lên, ánh đèn sáng quắc chiếu vào người, toàn thân lạnh lẽo trong nháy mắt giống như bị một lớp sương bao phủ.
Phía sau vang lên tiếng Giả Quế Chi.
“Cậu đến rồi.”
Tuy vô cùng nghi ngờ nhưng cô vẫn nghe theo. Đào kép đều lên sân khấu hết cả, hậu đài rất yên lặng, Thiệu Diễm Khoan nắm tay cô đi vào nơi hóa trang chật hẹp ở hậu đài. Cô nhìn thấy trên bàn bày biện vô số đồ bịt tóc, tóc giả, trang sức cài tóc, hộp màu và đồ hóa trang đủ mọi màu sắc…
Chỉ là chút đồ đạc nhưng lên sân khấu lại như điểm mắt cho rồng, vô cùng sống động.
Thiệu Diễm Khoan vén rèm lên, tiếng đàn nhị, đàn hồ không bị ngăn cách dội thẳng vào tai khiến cô giật mình: “Đây là sân khấu mà.”
Đúng vậy, là sân khấu. Thiệu Diễm Khoan mỉm cười, kéo cô lên sân khấu.
Nhiều nhân vật đang mặc trang phục, đạo cụ, dải lụa nơi ống tay áo tung bay lên xuống, hát xướng rất chú tâm, biểu diễn nghiêm túc như hoàn toàn không thấy hai người ngoài cuộc hoàn toàn xa lạ này.
Cô hơi ngơ ngác đi theo Thiệu Diễm Khoan đến chính giữa sân khấu, chân mang đôi giày cao gót bằng gấm đính trân châu, bước đi lóc cóc trên sàn sân khấu bằng gỗ. Trong lúc vô tình ngẩng đầu thấy một nữ tướng toàn thân mặc bộ áo giáp, khí thế hào hùng cất tiếng hát vang: “Ba tiếng trống như sấm rền ngoài cửa, Thiên Ba Phủ đi bảo vệ nước nhà, đầu đội mão vàng che tóc mây, áo giáp năm xưa khoác lên người…”
Trong lúc nhất thời như rơi vào vở diễn, bỗng cô nảy sinh một ý nghĩ trong đầu: Cõi đời này ai không diễn tuồng chứ? Nhân gian này rất rộng lớn, vốn là vừa sinh ra đã rơi vào một vở tuồng, hôm nay ngồi dưới sân khấu xem, ngày mai lại lên sân khấu diễn.
Thiệu Diễm Khoan nói: “Tư Đằng, ca diễn trên sân khấu này đều là giả, tuồng hết thì người cũng tan. Nhưng tình cảm anh đối với em là thật, dù trên sân khấu hay dưới sân khấu, dù trước đây hay sau này, dù ở đâu tấm lòng của anh giành cho em đều là chân thật.”
Anh ta quỳ một chân xuống đất, làm ảo thuật lấy ra một tấm lụa trắng trong tay áo, trong tấm lụa là một đóa hoa hồng tươi tắn xinh đẹp.
***
Cậu chủ xưởng dệt Hoa Mỹ, công tử nhà họ Thiệu diễn giống y như thật.
Tư Đằng đưa tay hất cốc trà rơi xuống bàn, đứng dậy cười to.
Thiệu Khánh ngỡ ngàng, không hiểu tại sao đang nói chuyện yên lành cô gái này lại bất chợt phất tay áo bỏ đi. Tần Phóng cũng thoáng sửng sốt, vội vàng nói vài câu với Thiệu Khánh rồi mau chóng đuổi theo Tư Đằng. Tư Đằng đi rất nhanh, hai tay bỏ vào trong túi áo khoác lông chồn, lưng thẳng tắp, mặt tái xanh. Cô hiên ngang đi giữa con đường, mấy chiếc xe đều phải tránh né, khẩn cấp đạp thắng. Tài xế tức giận ló đầu ra ngoài định mắng cô, nhưng khi thấy mắt cô đẫm lệ lời nói đã đến miệng bỗng giật mình nuốt lại.
Tần Phóng vội vã mới bắt kịp cô, biết là cô đang tâm trạng không tốt nhưng vẫn phải kiên trì nhắc nhở: “Tư Đằng, tuân thủ luật lệ giao thông.”
“Sông Hoàng Phố.”
Ban đầu Tần Phóng không hiểu, còn tưởng rằng đây là ám hiệu liên lạc như trong tivi, ví dụ như “Sông Dương Tử, sông Dương Tử, tôi là hồ Động Đình”, sau giây lát mới kịp hiểu ra, cô muốn đến sông Hoàng Phố.
***
Tần Phóng chưa thấy sông Hoàng Phố thời dân quốc, không biết phong cảnh lúc đó thế nào. Anh ngồi trên ghế ở bờ sông, nhìn Tư Đằng đứng yên tựa vào lan can, rồi lại nhìn rừng cao ốc san sát ở bờ bên kia. Rốt cuộc không nhịn được đi đến bên cạnh cô, còn chưa kịp mở lời thì Tư Đằng đã hỏi: “Đặt vé chưa?”
Lúc cô đang nói chuyện thì một chiếc du thuyền tham quan hụ còi chạy qua trên sông, Tần Phóng trả lời theo phản xạ: “Vé du thuyền hả?”
“Cậu đần hả? Hôm nay là ngày thứ ba, phải về bản Miêu, vé máy bay đó.”
Thủ tục hậu sự của An Man còn chưa làm xong, giấy chứng minh hẳn còn dùng được. Tần Phóng lấy điện thoại di động ra đặt vé, lúc thao tác vẫn không nhịn được nhìn Tư Đằng nhiều lần: Là do yêu quái rất giỏi kiểm soát tình cảm hay là con người Tư Đằng đặc biệt? Cô gái bình thường nghe thấy tin tức về người tình cũ chắc chắn trong lòng sẽ rối loạn đúng không? Nhưng Tư Đằng lại tuân thủ từng bước theo kế hoạch nghiêm túc như đánh cờ vậy. Ba ngày là ba ngày, không được phép thay đổi, không tiếp tục truy cứu, dù là manh mối của Thiệu Diệm Khoan mới xuất hiện đi nữa.
Đặt vé xong, anh nhìn đồng hồ: “Bay lúc tám giờ, sân bay rất xa phải lên đường trước. Nếu muốn ngắm cảnh sông, nhiều lắm cô chỉ ngắm được nửa giờ nữa thôi.”
Tư Đằng im lặng, Tần Phóng thoáng do dự mới hỏi cô: “Thiệu Diễm Khoan từng cầu hôn cô sao?”
“Đúng vậy.”
“Cô có chấp nhận không?”
“Suýt nữa.”
Suýt nữa? Cái gì gọi là suýt nữa chứ?
“Tư Đằng, thật ra thì cõi đời này có hai Tư Đằng sao? Hoặc là nói cô còn có một chị em sinh đôi, dùng chung cái tên Tư Đằng này với cô. Có đôi khi cô ta lấy tên Tư Đằng xuất hiện, có đôi khi là chính cô. Cho nên khi đó Thiệu Diễm Khoan cho rằng hắn theo đuổi là một người, nhưng thật ra có lúc ở bên hắn chính là cô, có lúc lại là chị em sinh đôi của cô. Có điều Thiệu Diễm Khoan không phân biệt được, mà những đạo sĩ kia cũng vậy. Gả cho Thiệu Diễm Khoan làm bà hai, mang thai sinh con và bị đạo trưởng Khưu Sơn trấn giết chết vào năm 1946 là chị em sinh đôi của cô. Về phần cô đã chết từ năm 1937 rồi đúng không?”
Cô không trả lời, im lặng kéo dài.
Lúc Tần Phóng không còn hi vọng gì Tư Đằng sẽ trả lời thì cô bỗng thốt lên: “Cái khối trên cổ cậu cuối cùng cũng biết tư duy rồi đó.”
Cái khối trên cổ? Đó kêu là đầu, tên cũng là đầu đó!
Tần Phóng cắn răng: “Cô nói chuyện dễ nghe một chút sẽ chết hả?”
Tư Đằng lại cười, cô nói: “Cậu giận cái gì, chờ tôi làm xong chuyện thì hai chúng ta sẽ đường ai nấy đi. Lúc đó cậu có cầm một triệu đến cầu xin tôi mắng cậu cũng không được đâu.”
Tại sao tôi phải cầm một triệu đến cầu xin cô mắng tôi chứ, chẳng lẽ tôi lại ti tiện bẩm sinh đến vậy à? Tần Phóng còn chưa kịp phản bác thì cô bỗng nói: “Sông Hoàng Phố chảy ra biển, hài cốt Thiệu Diễm Khoan ở trong biển trôi theo dòng nước. Đáng tiếc bây giờ tôi vẫn chưa trở lại làm yêu quái, nếu như yêu lực tôi vẫn còn, hàng vạn hàng nghìn dây mây đi theo dòng nước, kéo dài hàng nghìn hàng vạn dặm, chắc chắn có thể vớt xương hắn về.”
Biết rõ khả năng không lớn, nhưng Tần Phóng vẫn dè dặt hỏi: “An táng hả?”
“Xé hài cốt hắn ra hai trăm lẻ sáu mảnh, mua một cái vali bỏ hết vào. Sau đó kéo vali đi du lịch khắp nơi, gặp heo, chó, gà thì cho một miếng. Lúc tâm trạng tốt lên núi lễ phật thì có thể vứt lại một miếng, tâm trạng không tối thì vứt xuống nước một miếng. Ném hết rồi thì khúc mắc cũng giải, có thể buông xuống tất cả.”
Cô nói say sưa, giọng điệu bình tĩnh giống như miêu tả tương lai tốt đẹp. Nhưng Tần Phóng nghe lại túa mồ hôi lạnh sau lưng: “Cô hận Thiệu Diễm Khoan vậy hả? Đạo trưởng Khưu Sơn đối với cô như vậy, cô cũng nói chuyện đã qua rồi sẽ không liên lụy đến đời sau. Tuy cuối cùng cô và Thiệu Diễm Khoan không có kết quả, nhưng dù sao cũng từng có tình cảm…”
Tư Đằng cười khẩy: “Tình cảm? Sau sự việc ở Thanh Thành, tôi đã không có bất cứ tình cảm gì với Thiệu Diễm Khoan nữa! Lẽ nào cậu không nhìn ra tấm hình của hắn và Khưu Sơn sao?”
“Khưu Sơn đối xử với tôi không tốt, bởi vì họ là người của đạo môn vốn xem yêu quái là thứ thấp hèn, là kẻ thù trời sinh, mưu tính lẫn nhau, không thể nói là tốt hay không. Nhưng Thiệu Diễm Khoan không giống, lời thề non hẹn biển còn văng vẳng bên tai, sau khi biết tôi là yêu quái thì trốn tránh như lũ lụt, thú dữ. Tôi cũng chỉ cười trừ, ai bảo mình là yêu quái chứ, đúng không?”
“Nhưng sau đó hắn lại liên thủ với Khưu Sơn cùng nhau đối phó tôi, cố ý tạo cảnh tượng giả gặp lại tôi ở Thượng Hải, lại giả vờ thật lòng thật dạ bảo tôi gả cho hắn. Một đám hèn nhát, không đối phó được tôi lại muốn dụ tôi động tình. Một khi tôi có thai sinh con với con người sẽ bị mất yêu lực, bọn họ có thể dễ dàng thu thập tôi. Khưu Sơn làm như vậy có thể giải thích là vì lập trường khác nhau, nhưng cậu biết Thiệu Diễm Khoan là vì cái gì không hả?”
Thiệu Diễm Khoan có thể là vì cái gì? Tần Phóng không nghĩ ra được.
Ánh mắt Tư Đằng nhìn chăm chú về phía bờ bên kia thật lâu: “Vì xưởng dệt của hắn đang khốn khó, con nhà giàu không biết kinh doanh, thấy tổ nghiệp khó giữ được Khưu Sơn vẽ cho hắn một cái bánh lớn, chỉ cần hắn làm được thì sẽ lấy tiền tài bảo vật ra giúp hắn chấn hưng gia nghiệp. Hắn như bắt được chiếc phao cứu sinh, sau lưng thì dán bùa tránh yêu đề phòng tôi hại hắn, áo mũ chỉnh tề đến sàn nhảy Bách Nhạc Môn.”
Tần Phóng nhìn sang đó theo ánh mắt cô, cách quá xa anh không nhìn rõ lắm. Nơi đó ban đầu là địa chỉ cũ của xưởng dệt Hoa Mỹ sao?
Vì muốn cải tử hoàn sinh một công xưởng nên phải khẩu phật tâm xà đặt bẫy lừa gạt tình cảm của Tư Đằng, còn cả tính mạng của cô nữa. Tên Thiệu Diễm Khoan này đúng là cái thứ gì mà. Thiệu Diễm Khoan có thể đặt Tư Đằng và công xưởng lên bàn cân để so sánh, vậy tình cảm của hắn đối với Tư Đằng cũng chẳng phải thật tình gì cả.
Tần Phóng không biết nên nói thế nào. Chính anh cảm thấy chỉ một chữ tình nhưng thật ra lại rất phức tạp, có rất nhiều đau đớn và căm hận. Nhưng chúng trộn lẫn vào dư vị tình yêu nênngười đang đắm chìm trong biển tình sẽ không nhận ra, nhất là phụ nữ. Anh cảm thấy Tư Đằng hoặc ít hoặc nhiều cũng có chút tình cảm với Thiệu Diễm Khoan, rõ ràng là căm hận nhưng vẫn muốn nghe, muốn biết…
Tư Đằng cắt ngang suy nghĩ của anh: “Cậu cho rằng tôi là vì yêu mà sinh hận cho nên nhất định phải hỏi thăm được tung tích của Thiệu Diễm Khoan sao?”
Tần Phóng bỗng kịp hiểu ra: Nếu lúc đó Tư Đằng không lựa chọn lấy Thiệu Diễm Khoan, như vậy yêu Thiệu Diễm Khoan và có gút mắt tình cảm với hắn ta chắc chắn là một người khác.
“Cô là vì … chị em kia của cô sao?”
Tư Đằng không nhìn bờ bên kia nữa: “Tôi chỉ đến vì một chuyện thôi. Ban đầu rốt cuộc là ai không ngại xa vạn dặm mang tôi đi chôn ở Nang Khiêm?”
****
Từ màn ảnh camera nhà tang lễ, sếp Trương thấy xác Triệu Giang Long được gói kín đưa vào lò thiêu. Ông liếc mắt nhìn Giả Quế Chi bên cạnh. Chị ta mặc một bộ đồ đen, vòng eo thô to bị chiếc áo siết thành một ngấn mỡ, mang theo vẻ mặt kỳ lạ không tả nổi vẫn nhìn chằm chằm màn ảnh giám sát. Lúc ngẩng đầu lên chị ta hét lên một tiếng rõ to mang theo tiếng nức nở: “Tránh lửa đi.”
Đây là nhân viên nhà tang lễ căn dặn, nói là lúc thiêu phải la lên một câu như vậy, nhắc nhở linh hồn người chết phải nhanh nhạy đừng để bị lửa thiêu trúng. Ban đầu Sếp Trương cười khẩy khinh thường, cảm thấy chết là hết còn làm nhiều chuyện rỗng tuếch như vậy làm gì. Nhưng khi nghe thấy tiếng Giả Quế Chi kêu lên mang theo tiếng khóc, trong đầu ông lại hơi chua xót, thấy chị ta bắt đầu lau nước mắt, ông đứng dậy đi ra ngoài hút thuốc lá.
Ống khói lò thiêu hướng lên trời bắt đầu bốc khói đen, sếp Trương thẩn thờ nhìn, nghĩ đến con người bị thiêu như vậy thật sự quá yếu ớt.
Có hai nhân viên lò thiêu trò chuyện với nhau đi ngang qua sếp Trương.
“Khó thiêu thật, gói từng tầng như vậy kín quá.”
“Chị ta nói quê quán ở khu Tạng Thanh Hải, đây là tín ngưỡng của đạo Phật bên ấy, phải gói kín như vậy, trên vải vàng đều là kinh Phật, tôi cũng không dám mở ra. Nếu làm vậy sẽ bị mắng, nói là không tôn trọng người ta.”
…
Sếp Trương lại thở dài một hơi, sau khi bị mấy cảnh sát cười nhạo không nhận ra tượng Phật của đạo Phật Tây Tạng, ông đã lên mạng bổ sung kiến thức một chút. Hiện tại có thể trò chuyện vài câu với người khác về tập tục khu Tạng rồi. Người dân tộc Tạng đều là thiên táng (1), có điều Triệu Giang Long là người Hán. Trong điều hai của luật pháp Trung Quốc có quy định, chết nơi đất khách thì thi thể phải hỏa táng ngay tại chỗ rồi mới mang về an táng. Cho nên dù Giả Quế Chi muốn an táng Triệu Giang Long theo tập tục quê quán cũng buộc phải mang đi hỏa táng theo điều lệ.
(1) Thiên táng (điểu táng) là hình thức mai táng nổi tiếng “rùng rợn” của người Tây Tạng. Thay vì chôn cất người chết trong lòng đất, người Tây Tạng đưa thi thể lên núi làm mồi cho đàn kền kền đói.
Cũng không biết qua bao lâu, Giả Quế Chi ôm hủ tro cốt được bọc bằng miếng vải đen đi ra. Lúc đi ngang sếp Trương, chị ta thoáng dừng lại lạnh lùng nói: “Ngày nào cũng đi theo, các người không có vụ án khác để điều tra sao? Hai ngày nữa tôi trở về Nang Khiêm, có phải các người cũng đi theo không?”
Nói xong chị ta đẩy sếp Trương ra, đi về phía xe mình. Sếp Trương nhìn bóng lưng của chị ta, vừa nghẹn lòng vừa ấm ức, thật muốn mắng chị ta thật nặng.
Bận bịu lo lắng cho sự an toàn của chị ta, một tiếng cảm ơn không có cũng thôi đi, vậy mà còn bị mắng chửi. Có điều chị ta nói không sai, lực lượng cảnh sát có hạn, vụ án này còn chưa có tiến triển thì cấp trên đã thúc giục chia nhân viên theo những vụ án khác rồi. Hai ngày nay nhân viên cảnh sát nằm vùng ở gần nhà Giả Quế Chi đã sắp rút lui, còn nói gì đi theo đến Nang Khiêm chứ?
***
Chu Vạn Đông đẩy cửa sổ tầng mười ba ra nhìn xuống lầu dưới, trong nhà tối đen như mực không có đèn, chắc là Giả Quế Chi vẫn chưa về. Gã lại đưa tay lên xem đồng hồ, đã mười một giờ năm phút tối rồi.
Đối diện nhà Giả Quế Chi có công an nằm vùng, không tiện đi vào hành lang, may là căn hộ trên tầng lầu này không có ai, bị gã nạy cửa ra lánh vào trong. Tuy lầu mười ba trèo xuống lầu mười hai hơi nguy hiểm, nhưng gã là ai chứ, đã quen làm chuyện như vậy rồi.
Hôm nay hỏa táng Triệu Giang Long, sau khi rời khỏi nhà tang lễ Giả Quế Chi còn phải chào hỏi mọi người, có điều chắc cũng nhanh trở về thôi. Gương mặt Chu Vạn Đông tái mét quấn dây thừng vài vòng vào ngang hông, lại thử mức độ chắc chắn của cọc neo. Sau đó hai tay bám vào cửa sổ, thò người ra ngoài, cẩn thận bám vào vách tường đi xuống.
Lão Tề đã chết một cách khó hiểu, quả thật không không thể tưởng tượng được. Chỗ này có ma sao? Không bàn đến tình cảm do cộng tác nhiều năm với lão Tề có phải là tình cảm anh em sâu đậm không. Nhưng không thể lấy lại công đạo cho đồng bọn đã chết thì sau này Chu Vạn Đông gã làm sao có mặt mũi ra đường lăn lộn nữa.
Tất cả đều thuận lợi, cao ốc không có lắp ráp cửa sổ bảo vệ, Chu Vạn Đông lấy dao cắt thủy tinh khoét một lỗ lên cửa kiếng đủ cho một người chui vào, im lặng chui vào bên trong.
Gã đứng trong nhà một lúc lâu, khi mắt thích ứng với bóng tối mới miễn cưỡng thấy được bày trí xung quanh: Đứng dựa vào tường là chiếc tủ bát lớn. Nhớ hôm đó An Mạn ra vẻ trấn tĩnh nói trong tủ không có ai. Sau đó lão Tề đẩy một cánh cửa ra, sau đó Giả Quế Chi lao ra từ bên trong, lão Tề đuổi theo…
Khi đó gã vô cùng tự tin cho rằng Giả Quế Chi sẽ chết chắc không thể nghi ngờ.
Gương mặt dữ tợn của Chu Vạn Đông nhăn lại, đi đến đẩy cánh cửa tủ một cái như để hả giận. Lúc rút tay lại đột nhiên tim giật thót, gã đặt tay đè lên cửa tủ lần nữa.
Cửa tủ này dường như hơi… lạnh.
Chu Vạn Đông chần chờ một chút, đưa tay đẩy cửa tủ ra. Cửa vừa mở ra, khí lạnh càng tăng, gần như là hơi rét. Bên trong tối đen không thấy rõ, gã đưa tay vào sờ, là cái chăn bông, sờ xuống nữa lại thấy cứng rắn lạnh băng, chắc là có đá khô giữ lạnh.
Trong tủ bát để những thứ này làm gì? Nếu như sợ đồ bị ôi thì nên bỏ vào tủ lạnh mới đúng chứ? Lẽ nào…
Chu Vạn Đông nghe nhiều, thấy nhiều nên vốn quen với những việc kỳ lạ, cũng không sợ hãi, chỉ cảm thấy trong lòng rờn rợn. Gã nắm cái chăn bông vén một góc lên xem. Lúc vén được một nửa thì bị thứ gì ngăn lại không vén lên được, gã liền nóng vội giật một cú thật mạnh.
Rào rào, rất nhiều túi đựng đá lạnh lăn ra, còn có vật gì đó nặng nề rớt xuống đất. Chu Vạn Đông lòng hoảng loạn, sợ tiếng động quá lớn sẽ kinh động đến bên ngoài. Gã nín thở nghe ngóng một hồi, hình như không có gì khác thường.
Tất cả khôi phục lại yên tĩnh, ánh trăng chiếu xuyên qua cửa sổ, im ắng soi sáng một góc mặt đất.
Đó là thi thể Triệu Giang Long, có lẽ do rớt xuống nên miệng cười toe toét quái dị, ngay cả mí mắt đều trợn lên, ánh mắt tỏa ra tia sáng lạnh lùng.
Nhưng chuyện này vẫn không phải là chuyện quái lạ nhất. Quái lạ nhất chính là…
Chu Vạn Đông nuốt nước miếng, đến gần một chút. Đúng vậy, gã không nhìn lầm, trên người Triệu Giang Long đóng ba cọc nhọn ở lồng ngực và hai bên xương sườn. Cũng không biết cọc nhọn làm bằng chất liệu gì, nhìn sang chỉ thấy đường viền nhọn hoắc màu đen.
Trong lòng Chu Vạn Đông bỗng nảy sinh dự cảm chẳng lành. Kinh nghiệm làm chuyện phạm pháp nhiều năm khiến gã có một nguyên tắc: Không nên đụng chạm đến bất cứ chuyện nào kỳ lạ không thể lý giải, lui đến chỗ an toàn quan sát mới làm bước kế tiếp.
Gã bật dậy, đi vài bước đến bên cửa sổ. Mới vừa bắt được dây thừng thả xuống thì vang lên một tiếng cạch khe khẽ. Đèn sáng lên, ánh đèn sáng quắc chiếu vào người, toàn thân lạnh lẽo trong nháy mắt giống như bị một lớp sương bao phủ.
Phía sau vang lên tiếng Giả Quế Chi.
“Cậu đến rồi.”
Bình luận truyện