Các Anh Hùng Của Đỉnh Olympus Tập 4: Ngôi Nhà Thần Hades
Chương 12: Leo 4
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
BỌN LÙN CHẲNG CỐ GẮNG CHO LẮM TRONG VIỆC CẮT ĐUÔI CẬU, điều này làm Leo rất nghi ngờ. Bọn chúng giữ khoảng cách vừa đủ để cậu nhìn thấy, chạy nhảy trên các mái nhà lợp ngói đỏ, đấm ngã các bồn hoa bên bậu cửa sổ, vừa hú hét, vừa vứt lại mấy cái đinh và ốc vít lấy từ đai lưng của Leo – cứ như là bọn chúng muốn Leo đuổi theo vậy.
Cậu chạy đuổi theo, chửi rủa mỗi lần quần của vậu tụt xuống. Cậu rẽ và một góc đường và nhìn thấy hai tòa tháp cổ bằng đá sừng sững giữa trời[1], cạnh nhau, cao vượt lên bất cứ cái gì xung quanh – có lẽ là đôi tháp canh từ thời Trung Cổ? Chúng nghiêng theo hai hướng khác nhau cứ như hai cái cần số trên xe đua.
Hai tên Kerkope leo thoăn thoắt lên tòa tháp bên phải. Khi leo lên đến đỉnh, chúng leo vòng ra sao rồi mất hút.
Chẳng lẽ bọn chúng vào trong? Leo nhìn thấy vài cái cửa sổ tí teo trên đỉnh tháp, có lưới sắt, nhưng Leo nghi ngờ là mấy thứ đó chẳng xi nhê gì với bọn lùn. Cậu quan sát gần một phút, nhưng bọn Kerkopes chẳng hề tái xuất hiện. Thế nghĩa là Leo phải leo lên đấy mà tìm chúng.
‘Tuyệt vời ông mặt zời.’ Cậu lẩm bẩm. Không có người bạn biết bay nào để cậu đi nhờ cả. Con tàu thì ở quá xa nên chẳng giúp được gì. Cậu có thể lắp quả cầu Ác-si-mét này thành một loại thiết bị bay, có thể, nếu cậu vẫn còn cái đai lưng dụng cụ – là cái cậu đã mất. Cậu nhìn quanh, cố nghĩ. Cách đấy nửa dãy nhà, một đôi cửa kính mở ra và một bà già lụ khụ đi ra, mang theo một túi đồ bằng nhựa.
Một cửa hàng tạp hóa? Hừmm …
Leo thò tay lục túi. Thật ngạc nhiên, cậu vẫn còn mấy tờ Euro từ lúc ở Rome. Hai thằng lùn đần độn đó lấy của cậy tất cả mọi thứ, trừ TIỀN!
Cậu chạy nhanh về phía cửa hàng đó – nhanh hết cỡ một người mặc quần không có khóa kéo có thể chạy.
Leo lùng sục các kệ hàng, cố tìm gì đấy cậu có thể dùng. Cậu không biết nói câu Xin chào, làm ơn cho biết các hóa chất nguy hiểm nằm ở chỗ nào bằng tiếng Ý. Nhưng thế có khi lại hay. Cậu không muốn nằm lại trong nhà đá ở nước Ý này.
May thay, cậu chẳng cần đọc nhãn. Cậu lấy luôn mấy tuýp kem đánh răng có chứa Kali nitrat (KNO3). Cậu tìm thấy thanh củi(C), rồi đường(C6H12O6), rồi bột nở (NH4CO3). Cửa hàng này còn bán cả diêm, bình xịt muỗi và phôi nhôm. Hầu như mọi thứ cậu cần, kể cả dây thừng để cậu làm thắt lưng. Cậu nhét luôn mấy thứ đồ ăn vặt của Ý vào giỏ, để cho đống hàng của cậu bớt đáng ngờ hơn, rồi đổ đống hàng của cậu lên quầy. Một cô thu ngân mắt to hỏi cậu mấy câu hỏi mà cậu chẳng hiểu, nhưng cậu thanh toán rồi chuồn thẳng.
Cậu núp vào bậc thềm gần nhất mà cậu có thể đển mắt đến hai tòa tháp. Cậu bắt đầu làm việc, triệu hồi lửa để sấy khô nguyên vật liệu và nấu vài thứ mà bình thường phải mất mấy ngày để nấu.
Thỉnh thoảng cậu lại liếc mắt ra hai tòa tháp nhưng vẫn chẳng thấy dấu hiệu nào của bọn lùn cả. Leo chỉ đành hy vọng là bọn chúng vẫn ở trên đấy. Chế một khẩu pháo chỉ mất của cậu vài phút – cậu đỉnh cỡ đấy đấy – nhưng bằng đấy cứ như mấy tiếng đồng hồ vậy.
Jason vẫn chẳng thấy đâu. Có lẽ cậu ta vẫn kẹt trong đống dây nhợ lằng nhằng đấy ở chỗ đài phun nước Neptune hay lùng sục trên các con phố tìm Leo. Không ai khác trên tàu đến giúp. Chắc là mấy cái đai cao su trên tóc huấn luyện viên Hedge phải cần nhiều thời gian mới gỡ ra được.
Thế có nghĩa là Leo chỉ có cái thân cậu, một túi đồ ăn vặt và mấy thứ vụ khí tự chế chất lượng cao làm từ đường và kem đánh răng, À, còn cả quả cầu Ác-si-mét nữa. Cái đấy khá là quan trọng. Cậu hy vọng là mình không phá hỏng nó bằng thuốc nổ hóa học.
Cậu chạy đến chỗ tòa tháp và tìm thấy lối vào. Cậu bắt đầu trèo lên những cái cầu thang quanh co, chỉ bị chặn lại mỗi một lần ở chỗ bốt soát vé khi người trông tháp quát cậu bằng tiếng Ý.
‘Thật à?’ Leo hỏi. ‘Nghe này, ông bạn, ông có hai con quỷ lùn trên tháp chuông. Tôi là người diệt lùn.’ Cậu giơ cái bình xịt lên. ‘Thấy không? Thuốc diệt lùn hiệu Molto Buono [2]. Xịt, xịt. Ááááááááááá!’ Cậu làm điệu bộ một tên lùn bị tan chảy trong nỗi khiếp sợ, điều mà vì một lí do nào đó mà thằng cha Italia kia có vẻ không hiểu mô tê gì cả.
Thằng chả cứ nắm chặt lấy tay cậu để đòi tiền.
‘Thôi nào, ông bạn,’ Leo càu nhàu, ‘Tôi vừa mới nướng sạch tiền vào mớ chất nổ tự chế và cái này.’ Cậu đung đưa cái túi, ‘Tôi cho là ông bạn sẽ không lấy …ờ… bất kể đó là cái gì?
Leo cầm lên một cái bịch snack màu đỏ-và-vàng gọi là Fonzies[3]. Cậu nghĩ rằng đấy là một loạt khoai tây rán mỏng nào đấy. Trước sự ngạc nhiên của Leo, thằng cha bảo vệ nhún va và lấy luôn túi snack. ‘Avanti!’ [4]
Leo tiếp tục leo, nhưng cậu ghim một cái note trong đầu là sau này phải đầu cơ một ít Fonzies. Có vẻ như ở Ý, cái này còn tuyệt hơn cả tiền.
Cầu thang cứ lên, lên rồi lại lên. Có vẻ như người ta xây tòa tháp này chẳng qua vì cuồng xây cầu thang.
Cậu dừng lại ở một cái chiếu nghỉ và tự vào một cái cửa sổ hẹp có chấn song, thở hổn hển. Caaji đang đổ mồ hôi như điên, còn tim thì cứ thụi liên hồi vào lồng ngực. Mấy tên Kerkopes ngu ngốc. Leo biết là lúc cậu leo lên đế đỉnh tháp bọn chúng sẻ nhảy đi trước khi cậu có thể dùng vũ khí của cậu, nhưng cậu phải thử.
Cậu tiếp tục trèo. Cuối cùng, khi chân cậu mềm ra như mì ống chín kĩ, cậu cũng leo lên đến dỉnh tháp.
Căn phòng to cỡ cái tủ để chổi, với 4 cái cửa sổ có chấn song trên 4 bức tường. Vứt bừa vào các góc tường là hàng bao tải kho báo, những đồng và sáng lóa tung tóe khắp sàn. Leo nhìn thấy con dao của Piper, một quyển sách bìa da cũ, và mấy thứ máy móc cơ khí trông-rất-tuyệt và đủ vàng để làm cho con ngựa của Hazel phải đau dạ dày.
Ban đầu, cậu nghĩ là bọn lùn đã bỏ đi. Rồi cậu nhìn lên. Akmon và Passalos đang vắt vẻo treo ngược mình trên xà nhà bằng đôi bàn chân khỉ của chúng, chơi poker lơ lửng giữa không trung. Khi chúng thấy Leo, chúng tung bài như tung hoa giấy trong đám cưới.
‘Anh đã bảo chú là nó sẽ lên mà!’ Akmon la hét đầy sung sướng.
Passalos nhún vai rồi cởi cái đồng hồ bằng vàng ra và đưa cho Akmon. ‘Ừ thì chú mày thắng. Tại anh mày không tưởng tượng ra rằng trên đời này có một thằng cha ngu đến thế.’
Cả hai buông chân rơi xuống sàn. Akmon đang đeo thắt lưng của Leo – hắn ta ở gần cậu đến nỗi Leo phải cưỡng lại cái thôi thúc tống cho hắn một cái để lấy lại cái thắt lưng.
Passalos chỉnh lại cái mũ cao bồi hắn đang đội cho ngay ngắn và đá cái tung cái lướt sắt trên cái cửa sổ gần nhất. ‘Mình dụ nó trèo tiếp lên cái gì bây giờ nhỉ? Mái vòm của San Luca[5]?
Leo chỉ muốn bóp cổ mấy con yêu lùn, nhưng cậu phải cố rặn ra một nụ cười. ‘Ồ, nghe có vẻ vui đấy! Nhưng, trước khi các chú đi, anh vẫy còn mấy thứ bóng loáng đây.’
‘Làm gì có chuyện! Akmon cau có. ‘Bọn ta đỉnh lắm.’
‘Mấy chú chắc chứ?’ Leo giơ cái túi đồ lên.
Hai tên lùn nhích đến gần. Đúng như Leo hy vọng, tính tò mò của bọn chúng quá mạnh đến nỗi át cả sự đề phòng.
‘Nhìn này.’ Leo mang thứ vũ khí đầu tiên ra – một bọc chất nổ sấy khô bọc trong lá phôi nhôm – và dùng tay đốt chúng.
Cậu đủ thông minh để quay mặt đi lúc cái bọc nổ, nhưng hai thằng lùn thì đang nhìn chằm chằm vào đấy. Kem đánh răng, đường và thuốc xịt bọ tuy không tốt bằng âm nhạc của thần Apollo, nhưng để làm pháo sáng thừa sức.
Hai tên Kerkopes rên rỉ, bấu chặt lấy mắt. Bọn chúng loạng choạng về phía cửa sổ, nhưng Leo rút ra mấy quả pháo nổ tự chế – ném quanh chân hai tên yêu lùn để làm chúng mất thăng bằng. Rồi, với một sự tính toán siêu đỉnh, Leo quay cái vòng số trên quả câu Ác – si –mét, nhả ra một đống sương trắng phủ kín căn phòng.
Leo thì chẳng sợ gì khói. Miễn dịch với lửa, cậu có thể đứng trong một đám cháy mù mịt khói, chịu được hơi thở của rồng và lau chùi mấy cái lò rèn đang đỏ lửa vô số lần. Trong lúc hai tên lùn đang đấm đá và thở khò khè, cậu chộp lại luôn cái thắt lưng dụng cụ của cậu từ Akmon, bình tĩnh lấy ra mấy sợi dây bungee và trói gô hai thằng lùn lại.
‘Mắt tao!’ Akmon ho khù khụ. ‘Thắt lưng của tao!’ ‘Chân tao đang cháy!’ Passalos rên rỉ. ‘Không sáng loáng! Không sáng loáng tí nào cả!’
Sau khi chắc chắn rằng bọn lùn đã bị trói chặt, Leo kéo hai tên Kerkopes vào một góc và bắt đầu lục tung đống kho báu của bọn chúng. Cậu tìm thấy con dao găm của Piper, mấy quả lựu đạn mẫu của cậu và một tá thứ lặt vặt mà hai thằng lùn đã trấn từ tàu Argo II.
‘Xin cậu!’ Akmon rên. ‘Đừng lấy các thứ sáng bóng của chúng tôi!’
‘Chúng tôi sẽ thỏa thuận với cậu!’ Passalos đề nghị. ‘Chúng tôi sẽ chia cho cậu mười phần trăm và cậu thả chúng tôi đi!’
‘Sợ là không được đâu,’ Leo lầm bầm. ‘Bây giờ tất cả là của tao.’
‘Hai mươi phần trăm!’
Đúng lúc đấy, sấm đánh rầm một cái trên trời. Chớp lóe lên, và hàng song sắt ở cửa sổ gần nhất nóng đỏ lên, chảy thành một vũng sắt lỏng.
Jason bay vào như Peter Pan, tia lửa điện lóe sáng quanh cậu và thanh kiếm vàng của cậu bốc khói.
Leo huýt sáo thánh phục: ‘Anh bạn à, cậu vừa phí phạm một màn đạp cửa ngoạm mục đấy.’
Jason cau mày. Cậu nhìn thấy hai tên Kerkopes bị trói quặt chân tay. ‘Cái –‘
‘Tự làm hết đấy,’ Leo nói ‘Tớ đỉnh như thế đáy. Cậu làm cách nào mà tìm ra tớ vậy?’
‘À, khói,’ Jason thừa nhận. ‘Và tớ nghe thấy tiếng nổ. Cậu vừa có một trận đấu súng ở đây đấy à?’
‘Đại loại là thế.’ Leo đưa cậu dao găm của Piper, và tiếp tục lục lọi những cái bao chứa đồ lấp lánh của bọn lùn. Cậu nhớ là Hazel đã nói gì đó về tìm một báu vật có thể giúp họ trong nhiệm vụ lần này, nhưng cậu không chắc lắm là mình đang tìm cái gì. Ở đấy có những đồng xu, những mảnh quặng vàng nguyên chất, châu báu, cái loại, dập ghim, giấy nhôm, măng séc.
Cậu chú ý đến một đôi thứ trông chẳng thuộc về chốn này. Có một thiết bị định hướng bằng đồng cũ, giống như một cái thước kinh vĩ [6] trên tàu. Nó đã hỏng nặng và có vẻ như đã mất mất vài linh kiện, nhưng Leo vẫn thấy mê mẩn.
‘Lấy đi!’ Passalos đề nghị. ‘Odysseus đã phát làm ra nó đấy! Lấy nó đi và thả bọn ta ra.’
‘Odysseus?’ Jason hỏi. ‘Odysseus vĩ đại đấy á?’
‘Đúng!’ Passalos rít ‘Làm ra nó lúc đã là một ông già ở đảo Ithaca. Một trong những phát minh cuối cùng của lão già đó, và bọn ta đã chôm nó!’
‘Cái này hoạt động như thế nào?’ Leo hỏi.
‘À. Nó có hoạt động qué đâu!,’ Akmon nói ‘Có liên quan gì đấy đến mảnh pha lê mất tích nào đấy?’ Hắn liếc qua Passalos tim sự trợ giúp.
‘ “Nuối tiếc lớn nhất đời ta”,’ Passalos nói. ‘ “Đáng lẽ phải lấy một mảnh pha lê.” Đấy là những gì lão ta cứ lẩm bẩm miết trong giấc ngủ, cái đêm chũng tôi lấy nó.’ Passalos nhún vai. ‘Chẳng hiểu lão nói gì luôn. Nhưng cái đồ lấp lánh đấy là của cậu đấy! Chúng tôi đi được chưa?’
Leo chẳng hiểu tại sao cậu lại muốn cái thước kinh vĩ này. Nó hiển nhiên là đã hỏng, và chẳng có dấu hiệu nào chỉ ra rằng đây là thứ mà Hecate bảo họ tìm. Nhưng cậu vẫn bỏ nó vào một cái túi ma thuật trên cái thắt lưng của cậu.
Cậu hướng sự chú ý vào một thứ đồ ăn cắp kì lạ khác – một quyển sách bìa da. Tựa của nó được mạ vàng, bằng một thứ ngôn ngữ mà Leo không hiểu, nhưng chẳng phần nào khác của quyển sách trông sáng bóng cả. Cậu không hề biết bọn Kerkopes cũng là những người mê đọc sách.
‘Cái gì đây?’ Cậu đung đưa nó trước mặt hai tên lùn, vẫn chảy nước mặt vì khói.
‘Chẳng gì cả!’ Akmon trả lời. ‘Chỉ là một quyển sách thôi. Nó có cái vỏ đẹp, thế là bọn tôi lấy của hắn.’
‘Ai?’ Leo hỏi. Akmon và Passalos trao đổi với nhau một cái nhìn lo sợ. ‘Tiểu thần,’ Passalos nói. ‘Ở Venice. Thật đấy, không có gì đâu mà.’
‘Venice.’ Jason cau mày nhìn Leo. ‘Chẳng phải đó là nơi chúng ta sẽ đến tiếp theo đúng không?’
‘Chuẩn.’ Leo nghiên cứu quyển sách. Cậu không đọc được chữ, nhưng có ất nhiều hình minh họa: lưỡi hái, các loại thảo mộc khác nhau, một bắc hình mặt trời, mấy con bò đang kéo xe. Cậu không hiểu mấy cái đấy có quan tròn hay không, nhưng nếu quyển sách này bị trộm từ một tiểu thần ở Venice – nơi Hecate bảo bọm họ ghé qua – thì nó phải – là thứ họ đang tìm.
‘Chính xác thì bọn ta có thể tìm vị tiểu thần này ở đâu?’ Leo hỏi.
‘Không!’ Akmon rít lên. ‘Ngươi không được trả lại cho hắn ta! Nếu hắn mà biết rằng chúng ta đã lấy trộm nó –‘
‘Thì hắn sẽ xử lí các ngươi,’ Jason đoán. ‘Đó cũng là việc mà bọn ta sẽ làm với các ngươi, nếu các ngươi không khai, mà việc đấy thì gần hơn nhiều so với ‘hắn’. ‘ Cậu ấn mũi kiếm vào cá cổ họng lông lá của Akmon.
‘Rồi, rồi!’ tên lùn rít lên ‘La Casa Nera! Calle Frezzeria!’
‘Đấy là địa chỉ đó à?’ Leo hỏi Hai tên lùn đồng thời gật mạnh đầu. ‘Xin đừng nói với hắn rằng bọn tôi đã trộm nó,’ Passalos van xin. ‘Hắn không tốt tí nào cẢ!’ ‘Hắn là ai?’ Jason hỏi ‘Thần thánh nào?’ ‘Tôi – tôi không nói được,’ Passalos lắp bắp.
‘À thế à?’ Leo gằn giọng
‘Không,’ Passalos nói như khóc. ‘Ý tôi, ý tôi là tôi thực sự không nói được. Không phát âm được! Tr – Tri – Khó quá!’
‘Thật đấy,’ Akmon nói. ‘Tru-toh – Có quá nhiều âm tiết!’
Cả hai cùng bật khóc. Leo không chắc bọn Kerkorpes có nói thật hay không, nhưng khó mà tức giận trước cảnh hai tên lùn khóc lóc, cho dù bọn chúng thực sự khó chịu và ăn mặc xấu không tả nổi.
Jason hạ mũi kiếm của cậu xuống. ‘Cậu muốn làm gì với bọn chúng hả Leo? Cho bọn chúng xuống Tartarus?’
‘Xin cậu, không!’ Akmon rên rỉ. ‘Phải mất đến mấy tuần bọn tôi mới về được’
‘Đấy là giả sử Gaia cho chúng tôi qua!’ Passalos khịt mũi. ‘Bà ta đang kiểm soát Cửa Tử. Bà ta sẽ làm khó chúng tôi.’
Leo nhìn xuống bọn lùn. Cậu đã đánh nhau với rất nhiều quái vật trước đây và chưa bao giờ cảm thấy tệ khi hóa bột bọn chúng, nhưng lần này thì khác. Cậu phải thừa nhận rằng cậu khác thích mấy thằng cha này. Chúng chơi khăm rất đỉnh và thích mấy thứ lấp lánh. Có khi chúng có họ hàng với Leo. Hơn nữa, Percy và Annabeth đang ở dưới Tartarus, mong rằng vẫn còn sống, đang lê bước về phía Cửa Tử. Cái ý tưởng về việc gửi hai tên khỉ sinh đôi này xuống dưới đấy để gặp một cơn ác mộng tương tự như ở trên này … ừ thì thế là không đúng lắm.
Cậu tưởng tượng ra cảnh Gaia cười và cái diểm yếu của cậu – một á thần quá mềm yếu để giết quái. Cậu nhớ lại giấc mơ về Trại Con Lai đổ nát, thây á thần Hy Lạp và La Mã rải đầy đồng. Cậu nhớ lại những điều Octavian nói bằng giọng của nữ thần Đất Mẹ: Người La Mã đông tiến từ NewYork. Họ đang tiến đến trại của ngươi, và không có gì có thể cản bước tiến của họ.
‘Không gì có thể cản bước tiến của họ,’ Leo lẩm bẩm. ‘Liệu…’
‘Gì cơ?’ Jason hỏi. Leo nhìn xuống bọn lùn. ‘Ta sẽ lập một thỏa thuận với hai ngươi.’
Mắt Akmon mở to. ‘Ba mươi phần trăm?’ ‘Chúng ta sẽ để lại kho báu cho các ngươi.’Leo nói. ‘trừ những thứ thuộc về chúng ta và cái thước kinh vĩ với quyển sách này, chúng ta sẽ đem chúng cho anh chàng ở Venice.’
‘Nhưng hắn sẽ xử chúng tôi!’Passalos rên.
‘Chúng ta sẽ không nói chúng ta lấy nó từ đâu,’ Leo hứa. ‘Và chúng ta sẽ không giết các ngươi. Chúng ta sẽ tha cho các ngươi.’
‘Này, Leo…?’ Jason hỏi đầy lo lắng.
Akmon la lên như bố đẻ em bé. ‘Tôi biết rằng cậu thông minh như Hercules mà! Tôi sẽ gọi cậu là Mông Đen đệ Nhị!’
‘Ờ, Không, cám ơn,’ Leo nói ‘Nhưng để trả ơn cho việc chúng ta tha mạng cho các ngươi, các ngươi phải làm cho chúng ta vài việc. Ta sẽ gửi các ngươi đến một nơi để ăn trôm của người ta, quấy rối họ, làm cho đời họ khó khăn hết mức có thể. Các ngươi phải tuân lệnh ta. Các ngươi phải thề trước sông Styx.’
‘Chúng tôi thề!’ Passalos nói. ‘Ăn cắp đồ là chuyên môn của bọn!’
‘Tôi yêu việc quấy rồi!’ Akmon đồng ý. ‘Chúng tôi sẽ đi đâu đây?’ Leo cười toe toét. ‘Đã bao giờ nghe đến New York chưa?’
————
[1] tháp Bologna: được xây hàng loạt vào thế kỉ 12, 13 với mục đích ban đầu là bảo vệ thành phố trước các làn sóng Thập tự chinh và các cuộc cuộc tranh phong chức Giáo Hoàng. Hiện nay chỉ còn lại 2 tòa tháp:
[2] nguyên văn tiếng ý, có nghĩa là Cực tốt
[3] 1 loại snack ở Ý
[4] nguyên văn bằng tiếng Ý, dịch ra là Phắn!
[5] nhà chung San Luca
[6] nguyên văn: Astrolabe. một dụng cụ đi biển thời cổ, dùng để đo góc phương vị giữa một ngôi sao và đường chân trời, thường dùng để xem bản đồ sao và xác định tọa độ khi đi biển,. sau này, người ta cải tiến dụng cụ này thành kính lục phân rồi máy đo kinh vĩ
BỌN LÙN CHẲNG CỐ GẮNG CHO LẮM TRONG VIỆC CẮT ĐUÔI CẬU, điều này làm Leo rất nghi ngờ. Bọn chúng giữ khoảng cách vừa đủ để cậu nhìn thấy, chạy nhảy trên các mái nhà lợp ngói đỏ, đấm ngã các bồn hoa bên bậu cửa sổ, vừa hú hét, vừa vứt lại mấy cái đinh và ốc vít lấy từ đai lưng của Leo – cứ như là bọn chúng muốn Leo đuổi theo vậy.
Cậu chạy đuổi theo, chửi rủa mỗi lần quần của vậu tụt xuống. Cậu rẽ và một góc đường và nhìn thấy hai tòa tháp cổ bằng đá sừng sững giữa trời[1], cạnh nhau, cao vượt lên bất cứ cái gì xung quanh – có lẽ là đôi tháp canh từ thời Trung Cổ? Chúng nghiêng theo hai hướng khác nhau cứ như hai cái cần số trên xe đua.
Hai tên Kerkope leo thoăn thoắt lên tòa tháp bên phải. Khi leo lên đến đỉnh, chúng leo vòng ra sao rồi mất hút.
Chẳng lẽ bọn chúng vào trong? Leo nhìn thấy vài cái cửa sổ tí teo trên đỉnh tháp, có lưới sắt, nhưng Leo nghi ngờ là mấy thứ đó chẳng xi nhê gì với bọn lùn. Cậu quan sát gần một phút, nhưng bọn Kerkopes chẳng hề tái xuất hiện. Thế nghĩa là Leo phải leo lên đấy mà tìm chúng.
‘Tuyệt vời ông mặt zời.’ Cậu lẩm bẩm. Không có người bạn biết bay nào để cậu đi nhờ cả. Con tàu thì ở quá xa nên chẳng giúp được gì. Cậu có thể lắp quả cầu Ác-si-mét này thành một loại thiết bị bay, có thể, nếu cậu vẫn còn cái đai lưng dụng cụ – là cái cậu đã mất. Cậu nhìn quanh, cố nghĩ. Cách đấy nửa dãy nhà, một đôi cửa kính mở ra và một bà già lụ khụ đi ra, mang theo một túi đồ bằng nhựa.
Một cửa hàng tạp hóa? Hừmm …
Leo thò tay lục túi. Thật ngạc nhiên, cậu vẫn còn mấy tờ Euro từ lúc ở Rome. Hai thằng lùn đần độn đó lấy của cậy tất cả mọi thứ, trừ TIỀN!
Cậu chạy nhanh về phía cửa hàng đó – nhanh hết cỡ một người mặc quần không có khóa kéo có thể chạy.
Leo lùng sục các kệ hàng, cố tìm gì đấy cậu có thể dùng. Cậu không biết nói câu Xin chào, làm ơn cho biết các hóa chất nguy hiểm nằm ở chỗ nào bằng tiếng Ý. Nhưng thế có khi lại hay. Cậu không muốn nằm lại trong nhà đá ở nước Ý này.
May thay, cậu chẳng cần đọc nhãn. Cậu lấy luôn mấy tuýp kem đánh răng có chứa Kali nitrat (KNO3). Cậu tìm thấy thanh củi(C), rồi đường(C6H12O6), rồi bột nở (NH4CO3). Cửa hàng này còn bán cả diêm, bình xịt muỗi và phôi nhôm. Hầu như mọi thứ cậu cần, kể cả dây thừng để cậu làm thắt lưng. Cậu nhét luôn mấy thứ đồ ăn vặt của Ý vào giỏ, để cho đống hàng của cậu bớt đáng ngờ hơn, rồi đổ đống hàng của cậu lên quầy. Một cô thu ngân mắt to hỏi cậu mấy câu hỏi mà cậu chẳng hiểu, nhưng cậu thanh toán rồi chuồn thẳng.
Cậu núp vào bậc thềm gần nhất mà cậu có thể đển mắt đến hai tòa tháp. Cậu bắt đầu làm việc, triệu hồi lửa để sấy khô nguyên vật liệu và nấu vài thứ mà bình thường phải mất mấy ngày để nấu.
Thỉnh thoảng cậu lại liếc mắt ra hai tòa tháp nhưng vẫn chẳng thấy dấu hiệu nào của bọn lùn cả. Leo chỉ đành hy vọng là bọn chúng vẫn ở trên đấy. Chế một khẩu pháo chỉ mất của cậu vài phút – cậu đỉnh cỡ đấy đấy – nhưng bằng đấy cứ như mấy tiếng đồng hồ vậy.
Jason vẫn chẳng thấy đâu. Có lẽ cậu ta vẫn kẹt trong đống dây nhợ lằng nhằng đấy ở chỗ đài phun nước Neptune hay lùng sục trên các con phố tìm Leo. Không ai khác trên tàu đến giúp. Chắc là mấy cái đai cao su trên tóc huấn luyện viên Hedge phải cần nhiều thời gian mới gỡ ra được.
Thế có nghĩa là Leo chỉ có cái thân cậu, một túi đồ ăn vặt và mấy thứ vụ khí tự chế chất lượng cao làm từ đường và kem đánh răng, À, còn cả quả cầu Ác-si-mét nữa. Cái đấy khá là quan trọng. Cậu hy vọng là mình không phá hỏng nó bằng thuốc nổ hóa học.
Cậu chạy đến chỗ tòa tháp và tìm thấy lối vào. Cậu bắt đầu trèo lên những cái cầu thang quanh co, chỉ bị chặn lại mỗi một lần ở chỗ bốt soát vé khi người trông tháp quát cậu bằng tiếng Ý.
‘Thật à?’ Leo hỏi. ‘Nghe này, ông bạn, ông có hai con quỷ lùn trên tháp chuông. Tôi là người diệt lùn.’ Cậu giơ cái bình xịt lên. ‘Thấy không? Thuốc diệt lùn hiệu Molto Buono [2]. Xịt, xịt. Ááááááááááá!’ Cậu làm điệu bộ một tên lùn bị tan chảy trong nỗi khiếp sợ, điều mà vì một lí do nào đó mà thằng cha Italia kia có vẻ không hiểu mô tê gì cả.
Thằng chả cứ nắm chặt lấy tay cậu để đòi tiền.
‘Thôi nào, ông bạn,’ Leo càu nhàu, ‘Tôi vừa mới nướng sạch tiền vào mớ chất nổ tự chế và cái này.’ Cậu đung đưa cái túi, ‘Tôi cho là ông bạn sẽ không lấy …ờ… bất kể đó là cái gì?
Leo cầm lên một cái bịch snack màu đỏ-và-vàng gọi là Fonzies[3]. Cậu nghĩ rằng đấy là một loạt khoai tây rán mỏng nào đấy. Trước sự ngạc nhiên của Leo, thằng cha bảo vệ nhún va và lấy luôn túi snack. ‘Avanti!’ [4]
Leo tiếp tục leo, nhưng cậu ghim một cái note trong đầu là sau này phải đầu cơ một ít Fonzies. Có vẻ như ở Ý, cái này còn tuyệt hơn cả tiền.
Cầu thang cứ lên, lên rồi lại lên. Có vẻ như người ta xây tòa tháp này chẳng qua vì cuồng xây cầu thang.
Cậu dừng lại ở một cái chiếu nghỉ và tự vào một cái cửa sổ hẹp có chấn song, thở hổn hển. Caaji đang đổ mồ hôi như điên, còn tim thì cứ thụi liên hồi vào lồng ngực. Mấy tên Kerkopes ngu ngốc. Leo biết là lúc cậu leo lên đế đỉnh tháp bọn chúng sẻ nhảy đi trước khi cậu có thể dùng vũ khí của cậu, nhưng cậu phải thử.
Cậu tiếp tục trèo. Cuối cùng, khi chân cậu mềm ra như mì ống chín kĩ, cậu cũng leo lên đến dỉnh tháp.
Căn phòng to cỡ cái tủ để chổi, với 4 cái cửa sổ có chấn song trên 4 bức tường. Vứt bừa vào các góc tường là hàng bao tải kho báo, những đồng và sáng lóa tung tóe khắp sàn. Leo nhìn thấy con dao của Piper, một quyển sách bìa da cũ, và mấy thứ máy móc cơ khí trông-rất-tuyệt và đủ vàng để làm cho con ngựa của Hazel phải đau dạ dày.
Ban đầu, cậu nghĩ là bọn lùn đã bỏ đi. Rồi cậu nhìn lên. Akmon và Passalos đang vắt vẻo treo ngược mình trên xà nhà bằng đôi bàn chân khỉ của chúng, chơi poker lơ lửng giữa không trung. Khi chúng thấy Leo, chúng tung bài như tung hoa giấy trong đám cưới.
‘Anh đã bảo chú là nó sẽ lên mà!’ Akmon la hét đầy sung sướng.
Passalos nhún vai rồi cởi cái đồng hồ bằng vàng ra và đưa cho Akmon. ‘Ừ thì chú mày thắng. Tại anh mày không tưởng tượng ra rằng trên đời này có một thằng cha ngu đến thế.’
Cả hai buông chân rơi xuống sàn. Akmon đang đeo thắt lưng của Leo – hắn ta ở gần cậu đến nỗi Leo phải cưỡng lại cái thôi thúc tống cho hắn một cái để lấy lại cái thắt lưng.
Passalos chỉnh lại cái mũ cao bồi hắn đang đội cho ngay ngắn và đá cái tung cái lướt sắt trên cái cửa sổ gần nhất. ‘Mình dụ nó trèo tiếp lên cái gì bây giờ nhỉ? Mái vòm của San Luca[5]?
Leo chỉ muốn bóp cổ mấy con yêu lùn, nhưng cậu phải cố rặn ra một nụ cười. ‘Ồ, nghe có vẻ vui đấy! Nhưng, trước khi các chú đi, anh vẫy còn mấy thứ bóng loáng đây.’
‘Làm gì có chuyện! Akmon cau có. ‘Bọn ta đỉnh lắm.’
‘Mấy chú chắc chứ?’ Leo giơ cái túi đồ lên.
Hai tên lùn nhích đến gần. Đúng như Leo hy vọng, tính tò mò của bọn chúng quá mạnh đến nỗi át cả sự đề phòng.
‘Nhìn này.’ Leo mang thứ vũ khí đầu tiên ra – một bọc chất nổ sấy khô bọc trong lá phôi nhôm – và dùng tay đốt chúng.
Cậu đủ thông minh để quay mặt đi lúc cái bọc nổ, nhưng hai thằng lùn thì đang nhìn chằm chằm vào đấy. Kem đánh răng, đường và thuốc xịt bọ tuy không tốt bằng âm nhạc của thần Apollo, nhưng để làm pháo sáng thừa sức.
Hai tên Kerkopes rên rỉ, bấu chặt lấy mắt. Bọn chúng loạng choạng về phía cửa sổ, nhưng Leo rút ra mấy quả pháo nổ tự chế – ném quanh chân hai tên yêu lùn để làm chúng mất thăng bằng. Rồi, với một sự tính toán siêu đỉnh, Leo quay cái vòng số trên quả câu Ác – si –mét, nhả ra một đống sương trắng phủ kín căn phòng.
Leo thì chẳng sợ gì khói. Miễn dịch với lửa, cậu có thể đứng trong một đám cháy mù mịt khói, chịu được hơi thở của rồng và lau chùi mấy cái lò rèn đang đỏ lửa vô số lần. Trong lúc hai tên lùn đang đấm đá và thở khò khè, cậu chộp lại luôn cái thắt lưng dụng cụ của cậu từ Akmon, bình tĩnh lấy ra mấy sợi dây bungee và trói gô hai thằng lùn lại.
‘Mắt tao!’ Akmon ho khù khụ. ‘Thắt lưng của tao!’ ‘Chân tao đang cháy!’ Passalos rên rỉ. ‘Không sáng loáng! Không sáng loáng tí nào cả!’
Sau khi chắc chắn rằng bọn lùn đã bị trói chặt, Leo kéo hai tên Kerkopes vào một góc và bắt đầu lục tung đống kho báu của bọn chúng. Cậu tìm thấy con dao găm của Piper, mấy quả lựu đạn mẫu của cậu và một tá thứ lặt vặt mà hai thằng lùn đã trấn từ tàu Argo II.
‘Xin cậu!’ Akmon rên. ‘Đừng lấy các thứ sáng bóng của chúng tôi!’
‘Chúng tôi sẽ thỏa thuận với cậu!’ Passalos đề nghị. ‘Chúng tôi sẽ chia cho cậu mười phần trăm và cậu thả chúng tôi đi!’
‘Sợ là không được đâu,’ Leo lầm bầm. ‘Bây giờ tất cả là của tao.’
‘Hai mươi phần trăm!’
Đúng lúc đấy, sấm đánh rầm một cái trên trời. Chớp lóe lên, và hàng song sắt ở cửa sổ gần nhất nóng đỏ lên, chảy thành một vũng sắt lỏng.
Jason bay vào như Peter Pan, tia lửa điện lóe sáng quanh cậu và thanh kiếm vàng của cậu bốc khói.
Leo huýt sáo thánh phục: ‘Anh bạn à, cậu vừa phí phạm một màn đạp cửa ngoạm mục đấy.’
Jason cau mày. Cậu nhìn thấy hai tên Kerkopes bị trói quặt chân tay. ‘Cái –‘
‘Tự làm hết đấy,’ Leo nói ‘Tớ đỉnh như thế đáy. Cậu làm cách nào mà tìm ra tớ vậy?’
‘À, khói,’ Jason thừa nhận. ‘Và tớ nghe thấy tiếng nổ. Cậu vừa có một trận đấu súng ở đây đấy à?’
‘Đại loại là thế.’ Leo đưa cậu dao găm của Piper, và tiếp tục lục lọi những cái bao chứa đồ lấp lánh của bọn lùn. Cậu nhớ là Hazel đã nói gì đó về tìm một báu vật có thể giúp họ trong nhiệm vụ lần này, nhưng cậu không chắc lắm là mình đang tìm cái gì. Ở đấy có những đồng xu, những mảnh quặng vàng nguyên chất, châu báu, cái loại, dập ghim, giấy nhôm, măng séc.
Cậu chú ý đến một đôi thứ trông chẳng thuộc về chốn này. Có một thiết bị định hướng bằng đồng cũ, giống như một cái thước kinh vĩ [6] trên tàu. Nó đã hỏng nặng và có vẻ như đã mất mất vài linh kiện, nhưng Leo vẫn thấy mê mẩn.
‘Lấy đi!’ Passalos đề nghị. ‘Odysseus đã phát làm ra nó đấy! Lấy nó đi và thả bọn ta ra.’
‘Odysseus?’ Jason hỏi. ‘Odysseus vĩ đại đấy á?’
‘Đúng!’ Passalos rít ‘Làm ra nó lúc đã là một ông già ở đảo Ithaca. Một trong những phát minh cuối cùng của lão già đó, và bọn ta đã chôm nó!’
‘Cái này hoạt động như thế nào?’ Leo hỏi.
‘À. Nó có hoạt động qué đâu!,’ Akmon nói ‘Có liên quan gì đấy đến mảnh pha lê mất tích nào đấy?’ Hắn liếc qua Passalos tim sự trợ giúp.
‘ “Nuối tiếc lớn nhất đời ta”,’ Passalos nói. ‘ “Đáng lẽ phải lấy một mảnh pha lê.” Đấy là những gì lão ta cứ lẩm bẩm miết trong giấc ngủ, cái đêm chũng tôi lấy nó.’ Passalos nhún vai. ‘Chẳng hiểu lão nói gì luôn. Nhưng cái đồ lấp lánh đấy là của cậu đấy! Chúng tôi đi được chưa?’
Leo chẳng hiểu tại sao cậu lại muốn cái thước kinh vĩ này. Nó hiển nhiên là đã hỏng, và chẳng có dấu hiệu nào chỉ ra rằng đây là thứ mà Hecate bảo họ tìm. Nhưng cậu vẫn bỏ nó vào một cái túi ma thuật trên cái thắt lưng của cậu.
Cậu hướng sự chú ý vào một thứ đồ ăn cắp kì lạ khác – một quyển sách bìa da. Tựa của nó được mạ vàng, bằng một thứ ngôn ngữ mà Leo không hiểu, nhưng chẳng phần nào khác của quyển sách trông sáng bóng cả. Cậu không hề biết bọn Kerkopes cũng là những người mê đọc sách.
‘Cái gì đây?’ Cậu đung đưa nó trước mặt hai tên lùn, vẫn chảy nước mặt vì khói.
‘Chẳng gì cả!’ Akmon trả lời. ‘Chỉ là một quyển sách thôi. Nó có cái vỏ đẹp, thế là bọn tôi lấy của hắn.’
‘Ai?’ Leo hỏi. Akmon và Passalos trao đổi với nhau một cái nhìn lo sợ. ‘Tiểu thần,’ Passalos nói. ‘Ở Venice. Thật đấy, không có gì đâu mà.’
‘Venice.’ Jason cau mày nhìn Leo. ‘Chẳng phải đó là nơi chúng ta sẽ đến tiếp theo đúng không?’
‘Chuẩn.’ Leo nghiên cứu quyển sách. Cậu không đọc được chữ, nhưng có ất nhiều hình minh họa: lưỡi hái, các loại thảo mộc khác nhau, một bắc hình mặt trời, mấy con bò đang kéo xe. Cậu không hiểu mấy cái đấy có quan tròn hay không, nhưng nếu quyển sách này bị trộm từ một tiểu thần ở Venice – nơi Hecate bảo bọm họ ghé qua – thì nó phải – là thứ họ đang tìm.
‘Chính xác thì bọn ta có thể tìm vị tiểu thần này ở đâu?’ Leo hỏi.
‘Không!’ Akmon rít lên. ‘Ngươi không được trả lại cho hắn ta! Nếu hắn mà biết rằng chúng ta đã lấy trộm nó –‘
‘Thì hắn sẽ xử lí các ngươi,’ Jason đoán. ‘Đó cũng là việc mà bọn ta sẽ làm với các ngươi, nếu các ngươi không khai, mà việc đấy thì gần hơn nhiều so với ‘hắn’. ‘ Cậu ấn mũi kiếm vào cá cổ họng lông lá của Akmon.
‘Rồi, rồi!’ tên lùn rít lên ‘La Casa Nera! Calle Frezzeria!’
‘Đấy là địa chỉ đó à?’ Leo hỏi Hai tên lùn đồng thời gật mạnh đầu. ‘Xin đừng nói với hắn rằng bọn tôi đã trộm nó,’ Passalos van xin. ‘Hắn không tốt tí nào cẢ!’ ‘Hắn là ai?’ Jason hỏi ‘Thần thánh nào?’ ‘Tôi – tôi không nói được,’ Passalos lắp bắp.
‘À thế à?’ Leo gằn giọng
‘Không,’ Passalos nói như khóc. ‘Ý tôi, ý tôi là tôi thực sự không nói được. Không phát âm được! Tr – Tri – Khó quá!’
‘Thật đấy,’ Akmon nói. ‘Tru-toh – Có quá nhiều âm tiết!’
Cả hai cùng bật khóc. Leo không chắc bọn Kerkorpes có nói thật hay không, nhưng khó mà tức giận trước cảnh hai tên lùn khóc lóc, cho dù bọn chúng thực sự khó chịu và ăn mặc xấu không tả nổi.
Jason hạ mũi kiếm của cậu xuống. ‘Cậu muốn làm gì với bọn chúng hả Leo? Cho bọn chúng xuống Tartarus?’
‘Xin cậu, không!’ Akmon rên rỉ. ‘Phải mất đến mấy tuần bọn tôi mới về được’
‘Đấy là giả sử Gaia cho chúng tôi qua!’ Passalos khịt mũi. ‘Bà ta đang kiểm soát Cửa Tử. Bà ta sẽ làm khó chúng tôi.’
Leo nhìn xuống bọn lùn. Cậu đã đánh nhau với rất nhiều quái vật trước đây và chưa bao giờ cảm thấy tệ khi hóa bột bọn chúng, nhưng lần này thì khác. Cậu phải thừa nhận rằng cậu khác thích mấy thằng cha này. Chúng chơi khăm rất đỉnh và thích mấy thứ lấp lánh. Có khi chúng có họ hàng với Leo. Hơn nữa, Percy và Annabeth đang ở dưới Tartarus, mong rằng vẫn còn sống, đang lê bước về phía Cửa Tử. Cái ý tưởng về việc gửi hai tên khỉ sinh đôi này xuống dưới đấy để gặp một cơn ác mộng tương tự như ở trên này … ừ thì thế là không đúng lắm.
Cậu tưởng tượng ra cảnh Gaia cười và cái diểm yếu của cậu – một á thần quá mềm yếu để giết quái. Cậu nhớ lại giấc mơ về Trại Con Lai đổ nát, thây á thần Hy Lạp và La Mã rải đầy đồng. Cậu nhớ lại những điều Octavian nói bằng giọng của nữ thần Đất Mẹ: Người La Mã đông tiến từ NewYork. Họ đang tiến đến trại của ngươi, và không có gì có thể cản bước tiến của họ.
‘Không gì có thể cản bước tiến của họ,’ Leo lẩm bẩm. ‘Liệu…’
‘Gì cơ?’ Jason hỏi. Leo nhìn xuống bọn lùn. ‘Ta sẽ lập một thỏa thuận với hai ngươi.’
Mắt Akmon mở to. ‘Ba mươi phần trăm?’ ‘Chúng ta sẽ để lại kho báu cho các ngươi.’Leo nói. ‘trừ những thứ thuộc về chúng ta và cái thước kinh vĩ với quyển sách này, chúng ta sẽ đem chúng cho anh chàng ở Venice.’
‘Nhưng hắn sẽ xử chúng tôi!’Passalos rên.
‘Chúng ta sẽ không nói chúng ta lấy nó từ đâu,’ Leo hứa. ‘Và chúng ta sẽ không giết các ngươi. Chúng ta sẽ tha cho các ngươi.’
‘Này, Leo…?’ Jason hỏi đầy lo lắng.
Akmon la lên như bố đẻ em bé. ‘Tôi biết rằng cậu thông minh như Hercules mà! Tôi sẽ gọi cậu là Mông Đen đệ Nhị!’
‘Ờ, Không, cám ơn,’ Leo nói ‘Nhưng để trả ơn cho việc chúng ta tha mạng cho các ngươi, các ngươi phải làm cho chúng ta vài việc. Ta sẽ gửi các ngươi đến một nơi để ăn trôm của người ta, quấy rối họ, làm cho đời họ khó khăn hết mức có thể. Các ngươi phải tuân lệnh ta. Các ngươi phải thề trước sông Styx.’
‘Chúng tôi thề!’ Passalos nói. ‘Ăn cắp đồ là chuyên môn của bọn!’
‘Tôi yêu việc quấy rồi!’ Akmon đồng ý. ‘Chúng tôi sẽ đi đâu đây?’ Leo cười toe toét. ‘Đã bao giờ nghe đến New York chưa?’
————
[1] tháp Bologna: được xây hàng loạt vào thế kỉ 12, 13 với mục đích ban đầu là bảo vệ thành phố trước các làn sóng Thập tự chinh và các cuộc cuộc tranh phong chức Giáo Hoàng. Hiện nay chỉ còn lại 2 tòa tháp:
[2] nguyên văn tiếng ý, có nghĩa là Cực tốt
[3] 1 loại snack ở Ý
[4] nguyên văn bằng tiếng Ý, dịch ra là Phắn!
[5] nhà chung San Luca
[6] nguyên văn: Astrolabe. một dụng cụ đi biển thời cổ, dùng để đo góc phương vị giữa một ngôi sao và đường chân trời, thường dùng để xem bản đồ sao và xác định tọa độ khi đi biển,. sau này, người ta cải tiến dụng cụ này thành kính lục phân rồi máy đo kinh vĩ
Bình luận truyện