Các Trận Chiến Làm Thay Đổi Thế Giới
Chương 13: Rận Hải Chiến ARMADA 1588: Anh Quốc VS Đế chế Espana 1
1. Hoàn Cảnh Trước Trận Chiến:
a. về phía Anh:
Henry mong chờ sự ra đời của một con trai để bảo đảm sự kế tục của triều đại Tudor, nhưng sau khi sinh hạ Elizabeth, Hoàng hậu Anne bị sảy thai hai lần trong năm 1534 và đầu năm 1536, rồi nhà vua bắt đầu có quan hệ với nhiều phụ nữ khác..
Vẫn còn nhiều tranh luận về nguyên nhân Anne bị thất sủng, nhưng các sử gia đồng ý với nhau về sự vô tội của Anne đối với các cáo buộc chống lại bà, họ tin rằng cái chết của bà đã được sắp đặt bởi những đối thủ chính trị. Anne bị bắt ngày 2 tháng 5 năm 1536 và bị cầm tù. Mười bảy ngày sau bà bị hành quyết với các tội danh phản quốc, loạn luận với anh/em trai, George Boleyn, và tội phù thủy
Elizabeth, mới lên ba, bị tuyên bố là con bất hợp pháp và bị mất tước hiệu công chúa, cũng không được hưởng tài sản của người mẹ. Cô chỉ còn là Lady Elizabeth và không được sống gần cha khi ông kết hôn với Jane Seymour. Năm 1537, người vợ thứ ba của Henry, Jane Seymour, sinh con trai, Hoàng tử Edward; theo Đạo luật Kế vị năm 1544, Edward là người kế thừa ngai báu nước Anh.
Henry VIII qua đời năm 1547, truyền ngôi cho Edward VI. Catherine Parr, người vợ cuối của Henry, kết hôn với Thomas Seymour, cậu của Edward VI. Seymour đem Elizabeth về nhà mình. Người ta tin rằng Seymour muốn tạo lập quan hệ thân tình với Elizabeth khi cô sống trong nhà ông. Ở đây, cô nhận lãnh giáo huấn từ Roger Ascham. Dưới ảnh hưởng của Catherine Parr và Ascham, Elizabeth được trưởng dưỡng trong đức tin Tin Lành.
Khi vua em Edward là người Tin Lành sùng tín, còn trị vì, địa vị của Elizabeth vẫn còn an toàn. Đến năm 1553, Edward qua đời ở tuổi mười lăm vì bệnh tật từ khi còn nhỏ. Edward để lại một di chúc thay thế di chúc của Henry. Bất kể Đạo luật Kế vị 1544, di chúc này loại bỏ Mary và Elizabeth khỏi quyền kế thừa và công bố Lady Jane Grey, người được Thomas Seymour bảo hộ, là người kế vị. Một sự hợp tác giữa Thomas và John Dudley, Công tức xứ Northumberland, con trai của John, Guilford Dudley, đã kết hôn với Jane. Lady Jane lên ngai, nhưng bị phế truất chỉ hai tuần lễ sau đó. Trong sự tung hô của dân chúng, Mary chiến thắng tiến vào Luân Đôn, với cô em cùng cha khác mẹ, Elizabeth, ở bên cạnh.
Mối liên kết giữa hai chị em không kéo dài. Mary quyết tâm đàn áp đức tin Tin Lành mà Elizabeth tiếp nhận từ khi còn bé, và buộc mọi người phải dự lễ Misa. Elizabeth không có sự lựa chọn nào khác phải tỏ ra phục tùng nữ hoàng. Song uy tín của Mary sút giảm khi dân chúng biết dự định kết hôn với Hoàng tử Felipe của Tây Ban Nha (về sau là vua Felipe II của Tây Ban Nha) nhằm tìm kiếm sự hậu thuẫn cho phe Công giáo bên trong nước Anh. Sau cuộc nổi dậy của Wyatt năm 1554 tìm cách ngăn cản cuộc hôn nhân giữa Mary và Felipe nhưng thất bại, Elizabeth bị cầm giữ trong Tháp Luân Đôn vì bị cho là có dính líu đến cuộc nổi dậy. Có những sự đòi hỏi xử tử hình Elizabeth, nhưng đa số dân Anh không muốn nhìn thấy một thành viên thuộc dòng họ Tudor rất được lòng dân bị sát hại. Quan Chưởng ấn Stephen Gardiner muốn rút tên Elizabeth khỏi danh sách kế vị, nhưng cả Mary lẫn Quốc hội đều không đồng ý. Sau hai tháng bị giâm giữ, Elizabeth được trả tự do vào đúng ngày mẹ cô bị hành quyết mười tám năm trước. Ngày 22 tháng 5, khi Elizabeth được đưa đến Woodstock để bị quản thúc tại gia dưới sự giám sát của Sir Henry Bedingfield, dân chúng đứng hai bên đường hoan hô cô
Sau một thời gian trị vì ôn hòa, Mary, một người Công giáo sùng tín, khởi sự theo đuổi chính sách ngược đãi người Kháng Cách mà nữ hoàng xem là những kẻ dị giáo và là mối de dọa cho thẩm quyền của bà. Do những cuộc bách hại chống phe Kháng Cách được tiến hành dưới thời trị vì của mình, nữ hoàng bị gán cho biệt danh "Mary khát máu". Dù bị Mary thuyết phục cải đạo theo Công giáo La Mã, Elizabeth khôn khéo duy trì lòng trung thành với lương tâm và khát vọng của mình. Cuối năm ấy, khi có những lời đồn đại về việc Mary có thai, Elizabeth được phép trở lại triều đình theo lời yêu cầu của Felipe. Do lo ngại nữ hoàng có thể chết khi sinh con, Felipe muốn Elizabeth, dưới sự bảo hộ của ông, sẽ là người kế vị, thay vì người có huyết thống gần Elizabeth nhất, Nữ hoàng Mary của Scotland. Mary lớn lên trong hoàng cung Pháp và có hôn ước với Thái tử Pháp, mặc dù là người Công giáo, Felipe không muốn Mary kế thừa ngai báu nước Anh vì sợ ảnh hưởng của người Pháp trên chính trường Anh qua Mary.
Tháng 11 năm 1558, sau cái chết của Mary, Elizabeth lên ngôi báu nước Anh.
Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Elizabeth I khi bắt đầu trị vì là các vấn đề tôn giáo. Nhận biết thần dân muốn nữ hoàng khước từ quyền lực của Giáo hoàng và ảnh hưởng của Tây Ban Nha, điều này phù hợp với ước nguyện của bà và những quyết sách được đề nghị bởi Sir William Cecil. Elizabeth cũng biết Giáo hoàng sẽ không chịu công nhận bà là con hợp pháp của Henry VIII và là quân vương của nước Anh Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1559 buộc tất cả viên chức công phải chấp nhận quyền kiểm soát của nhà vua trên giáo hội. Nhiều giám mục từ chối ủng hộ lập trường của Elizabeth bị bãi chức và được thay thế bởi những chức sắc ủng hộ nữ hoàng. Bà bổ nhiệm Hội đồng Tư vấn mới, không còn có sự hiện diện của các thành viên Công giáo. Dưới triều Elizabeth, tình trạng chia rẽ và tranh chấp do bè phái giảm thiểu đáng kể. Cố vấn trưởng của nữ hoàng, Sir William Cecil, đảm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao, và Sir Nicholas Bacon làm Quan Chưởng ấn.
Nhiều tín hữu Công giáo, nhất là ở châu Âu đại lục, xem Elizabeth là dị giáo. Ngày 25 tháng 3 năm 1570, Giáo hoàng Pius V ra chỉ dụ Regnans in Excelsis phạt vạ tuyệt thông Elizabeth và gọi là bà là "nữ hoàng tiếm vị".Chỉ dụ này, trên lý thuyết giải phóng người Công giáo tại Anh khỏi nghĩa vụ trung thành với Elizabeth, lại khiến giáo hội Anh liên kết chặt chẽ với vương quyền và đặt người Công giáo tại Anh vào tình huống khó khăn
Chính sách đối ngoại của Elizabeth chủ yếu là phòng thủ, với một ngoại lệ là cuộc chiếm đóng Le Havre kéo dài từ tháng 10 năm 1562 đến tháng 6 năm 1563, khi phe Huguenot đồng minh với Elizabeth liên kết với phe Công giáo Pháp tái chiếm bến cảng này. Elizabeth định ý trao đổi Le Havre để lấy Calais mà người Pháp đã chiếm lại vào tháng 1 năm 1558.
Năm 1560, bà gởi quân đến Scotland để ngăn cản ý định của người Pháp sử dụng đất nước này như một hậu cứ để tấn công nước Anh. Năm 1585, Elizabeth ký Hiệp ước Nonsuch với Hà Lan nhằm ngăn chặn hiểm họa từ Tây Ban Nha. Dựa vào sức mạnh của các hạm đội Anh Quốc mà Elizabeth có thể theo đuổi chính sách đối ngoại mạnh mẽ hơn. Khi tranh chấp với Tây Ban Nha, 80% cuộc chiến diễn ra trên mặt biển.
Nữ hoàng phong tước cho Francis Drake sau chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới từ năm 1577 đến 1580, và sau những cuộc đột kích của ông nhắm vào những hải cảng và hạm đội của Tây Ban Nha. Triều đại của bà cũng chứng kiến việc thành lập những đồn điền đầu tiên trên những vùng đất mới ở châu Mỹ, và khu thuộc địa Virginia được đặt tên để vinh danh nữ hoàng. Dù vậy, những vụ cướp biển và những vụ làm ăn bất chính của những tay phiêu lưu trên biển vẫn diễn ra ngoài vòng kiểm soát của triều đình
Elizabeth phê chuẩn Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559, mang lại hòa bình cho hai nước Anh và Pháp. Bà ủng hộ nguyên tắc "Nước Anh của người Anh". Tuy nhiên, một lãnh thổ dưới quyền cai trị của bà là Ireland không chấp nhận nguyên tắc này.
b. Về Phía Tây Ban Nha:
Năm 722, vương quốc Asturias theo đạo Cơ đốc được thành lập, chỉ 11 năm sau khi người Berber xâm chiếm bán đảo Iberia vào năm 711. Đầu năm 739, quân đội Hồi giáo bị đuổi ra khỏi Galacia, nơi có một trong những địa điểm thiêng liêng nhất của Đạo Cơ đốc thời trung cổ, Santiago de Compostela. Một thời gian ngắn sau, quân đội của người Frank cũng đánh đuổi thành công quân đội Hồi giáo về phía nam dãy Pyrenees, thành lập một tỉnh Cơ đốc giáo rồi sau này phát triển thành một vương quốc ở phía đông bắc.
Sự suy yếu của Đế chế Hồi giáo Al-Andalus trong những cuộc chiến tranh với vương quốc Taifa đã tạo điều kiện cho sự mở rộng của các vương quốc Cơ đốc giáo. Việc chiếm thành công thành phố trung tâm Toledo vào năm 1085 đã hoàn thành việc giải phóng phần lớn miền bắc Tây Ban Nha. Sau sự phục hồi vào thế kỉ 12 của vương triều Hồi giáo, những vùng đất lớn của người Hồi giáo đã rơi vào tay người Cơ đốc giáo vào thế kỉ 13 như Córdoba năm 1236 vào Seville năm 1248. Và người Hồi giáo chỉ còn lại mỗi vùng đất bị bao vây Granada và có vai trò như một tiểu quốc chư hầu ở phía nam. Cũng vào thế kỉ 13, vương quốc Aragón đã mở rộng tới vùng Địa Trung Hải và vươn đến đảo Sicily.
Năm 1469, ngai vàng của hai vương quốc Cơ đốc giáo Aragón và Castilla đã được hợp nhất bởi lễ cưới giữa vua Fernando II của Aragón và nữ hoàng Isabel I của Castilla. Năm 1492, vương quốc hợp nhất đã chiếm đóng Granada, chấm dứt 781 năm cai trị của người Hồi giáo tại bán đảo Iberia. Cũng trong năm 1492, với sự hỗ trợ của vua Fernando và nữ hoàng Isabel, nhà thám hiểm Christopher Columbus đã vượt Đại Tây Dương và tìm ra châu Mỹ, một phát kiến địa lí quan trọng hàng đầu của lịch sử. Trong cùng năm, một lượng lớn người Do Thái đã bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha bởi Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.
Vua Fernando và nữ hoàng Isabel đã củng cố vững chắc hệ thống quyền lực trung ương, đồng thời cái tên España (Tây Ban Nha) bắt đầu được dùng để chỉ vương quốc hợp nhất. Với những cải cách lớn về chính trị, pháp luật, tôn giáo và quân đội, Tây Ban Nha đã vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới.
Sự thống nhất của các vương quốc Aragón, Castilla, Leon và Navarre đã làm nên nền tảng của đất nước Tây Ban Nha hiện nay và Đế chế Tây Ban Nha. Tây Ban Nha đã trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh hàng đầu châu Âu trong thế kỉ 16 và nửa đầu của thế kỉ 17, vị thế đó được tạo nên bởi thương mại phát triển và sự chiếm hữu thuộc địa. Tây Ban Nha đã vươn tới đỉnh cao dưới sự trị vì cũa hai vua đầu tiên của hoàng triều Habsburg là Carlos I (1516-1556) và Felipe II (1556-1598).
Hệ thống thuộc địa ở đế chế Tây Ban Nha trải rộng khắp Trung Mỹ và Nam Mỹ, Mexico, một phần lớn miền nam Hoa Kỳ, Philippines ở Đông Á, bán đảo Iberia (trong đó có cả Bồ Đào Nha), miền nam Ý, đảo Sicily và một số nơi ngày nay thuộc các nước Đức, Bỉ, Luxembourg và Hà Lan. Tây Ban Nha là đế quốc đầu tiên được gọi là đất mặt trời không bao giờ lặn. Thời kỳ này được gọi là Kỉ nguyên Khai phá với việc các nước châu Âu đi chiếm thuộc địa, mở ra các trung tâm buôn bán. Cùng với nguồn kim loại, hương liệu, các mặt hàng xa xỉ phẩm mang về từ thuộc địa, các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và châu Âu đã mang về rất nhiều kiến thức, làm thay đổi cách nhìn của người châu Âu về thế giới.
Vào thế kỉ 16 và thế kỉ 17, Tây Ban Nha cũng bắt đầu đối mặt với nhiều khó khăn. Đầu thế kỉ 16, bọn cướp biển Barbary hung hãn dưới sự bảo hộ của đế chế Ottoman đã đột kích vào những vùng ven biển của Tây Ban Nha, với âm mưu lập ra các vùng đất Hồi giáo mới. Thời gian này, những cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha và Pháp cũng thường nổ ra tại Ý và một vài nơi khác. Tiếp đó, phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu đã khiến đất nước rơi vào bãi lầy của những cuộc chiến tranh tôn giáo. Felipe II của Tây Ban Nha (hay Filipe I của Bồ Đào Nha) (21 tháng 5 năm 1527 – 13 tháng 9 năm 1598) là vua Tây Ban Nha từ năm 1556 đến năm 1598, phu quân của nữ hoàng Mary I của Anh từ năm 1554 đến 1558, vương chủ của 17 tỉnh từ năm 1556 đến 1581, dùng nhiều tước hiệu như công tước hay bá tước để trị vì trên các lãnh thổ của đế chế; cũng là vua Bồ Đào Nha và Algarves với tư cách là Filipe I năm 1558. Ông cũng là người trị vì trên những lãnh thổ ở châu Mỹ của Tây Ban Nha như Tân Tây Ban Nha và Peru. Đồng thời, ông kiểm soát được cả Vương quốc Sicily, Công quốc Milan, và Franche-Comté, một vùng đất chiến lược quan trọng ở biên giới phía đông với vương quốc Pháp.
Felipe là con trưởng của Carlos I của Tây Ban Nha và Isabella của Bồ Đào Nha. (tên của ông cũng được những nhà thực dân đặt tên cho một quốc gia trên thế giới Phillipines, có nghĩa là quần đảo của vua Phillip(Felipe),Tên nước này có nguồn gốc từ việc Ruy López de Villalobos đặt tên hai hòn đảo Samar và Leyte là Las Islas Filipinas theo tên vua Philip II của Tây Ban Nha trong chuyến viễn chinh không thành công của ông năm 1543. Quần đảo từng được gọi theo nhiều cái tên như Đông Ấn Tây Ban Nha, Nueva Castilla và Quần đảo San Lázaro. Cuối cùng, cái tên Filipinas được dùng để chỉ toàn bộ quần đảo).
c. Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh:
sau khi Elisabeth lên ngôi, một hiệp ước hoàn bình giữa Anh - Pháp - Tây Ban Nha được ký kết vào năm 1559 và đã đem lại cho châu âu một thời gian hòa bình ngắn ngủi.
thời kỳ hòa bình này đã giúp cho nước Anh cơ hội về tài chính để xây dựng nền kinh tế và mở rộng hạm đội của mình vào năm 1568.
cuối năm 1568 người Anh đã bắt giữ một con tàu Tây Ban Nha đang trên đường đến Hà Lan. Filipe II rất bực tức, và quan hệ giữa hai quốc gia trở nên tồi tệ.
Filipe II cũng rất khó chịu khi người Anh cổ vũ cho đạo Tin Lành. cũng như việc Phong Tước Hiệp sĩ cho Francis Drake, người luôn ủng hộ cho thương mại cá nhân, cho dù trước đó châu âu đã có một hiệp ước tự do mậu dịch và điều này làm Filipe cảm thấy bị sỉ nhục.
Sau khi các nhà lãnh đạo Tin lành của Hà Lan, William of Orange, đã bị ám sát. Elisabeth đã cung cấp cho Drake 25 tàu chiến để ông ta tiến hành quấy rối Tây Ban Nha.
những sự kiện này gây ảnh hưởng liên tục lên Filipe II và cuối cùng ông ta cử một hạm đội đến gây chiến với nước Anh.
2. Các phe tham chiến:
a. Phe Tây Ban Nha:
Tổng: 132 tàu, 8766 thủy thủ, 21500 binh lính, 2088 nô lệ chèo xuồng.
Lãnh đạo: Đô đốc chỉ huy hạm đội trước khi lên đường ( chết trước khi lên đường)
1.Lực lượng hải quân bồ đào nha:
São Martinho (48 guns: Flagship of the commander-in-chief, the Duke of Medina Sidonia and Maestre de Francisco de Bobadilla, the senior army officer)
São João (50 guns).
São Marcos (33 guns).
São Felipe (40 guns).
San Luis (38 guns).
San Mateo (34 guns).
Santiago (24 guns).
Galeon de Florencia (52 guns).
San Cristobel (20 guns).
San Bernardo (21 guns).
Augusta (13 guns).
Julia (14 guns).
2. Lực lượng hải quân tây ban nha tại Biscay:
Santa Ana (30 guns: Flagship of Juan Martinez de Recalde, Captain General and second in command of the Armada).
El Gran Grin (28 guns).
Santiago (25 guns).
La Concepcion de Zubelzu (16 guns).
La Concepcion de Juan del Cano (18 guns).
La Magdalena (18 guns).
San Juan (21 guns).
La Maria Juan (24 guns).
La Manuela (24 guns).
Santa Maria de Montemayor (18 guns).
Maria de Aguirre (6 guns).
Isabela (10 guns).
Patache de Miguel de Suso (6 guns).
San Estaban (6 guns).
3. Lực lượng hải quân của Castilla:
San Cristobal (36 guns: Flagship of Diego Flores de Valdés).
San Juan Bautista (24 guns).
San Pedro (24 guns).
San Juan (24 guns).
Santiago el Mayor (24 guns).
San Felipe y Santiago (24 guns).
La Ascuncion (24 guns).
Nuestra Senora de Begona (24 guns).
La Trinidad (24 guns).
Santa Catalina (24 guns).
San Juan Bautista (24 guns).
Nuestra Senora del Rosario (24 guns).
San Antonio de Padua (12 guns).
4. Lực lượng hải quân của vùng Andalusia:
Nuestra Senora del Rosario (46 guns Flagship of Don Pedro de Valdés).
San Francisco (21 guns).
San Juan Bautista (31 guns).
San Juan de Gargarin (16 guns).
La Concepcion (20 guns).
Duquesa Santa Ana (23 guns).
Santa Catalina (23 guns).
La Trinidad (13 guns).
Santa Maria de Juncal (20 guns).
San Barolome (27 guns).
Espiritu Santo.
5. Lực lượng hải quân guipuzcoan:
Santa Ana (47 guns: Flagship of Miguel de Oquendo).
Santa Maria de la Rosa (47 guns).
San Salvador (25 guns).
San Esteban (26 guns).
Santa Marta (20 guns).
Santa Barbara (12 guns).
San Buenaventura (21 guns).
La Maria San Juan (12 guns).
Santa Cruz (18 guns).
Doncella (16 guns).
Asuncion (9 guns).
San Bernabe (9 guns).
Nuestra Senora de Guadalupe (1 gun).
La Madalena (1 gun).
6. Hải đội Levantine:
La Regazona (30 guns: Flagship of Martin de Bertandona)
La Lavia (25 guns).
La Rata Santa Maria Encoronada (35 guns).
San Juan de Sicila (26 guns).
La Trinidad Valencera (42 guns).
La Anunciada (24 guns).
San Nicolas Prodaneli (26 guns).
La Juliana (32 guns).
Santa Maria de Vison (18 guns).
La Trinidad de Scala (22 guns).
7. Hải đội Hulk:
El Gran Grifon (38 guns: Flagship of Juan Gómez de Medina)
San Salvador (24 guns).
Perro Marino (7 guns).
Falcon Blanco Mayor (16 guns).
Castillo Negro (27 guns).
Barca de Amburg (23 guns).
Casa de Paz Grande (26 guns).
San Pedro Mayor (29 guns).
El Sanson (18 guns).
San Pedro Menor (18 guns).
Barca de Danzig (26 guns).
Falcon Blanco Mediano (16 guns).
San Andres (14 guns).
Casa de Paz Chica (15 guns).
Ciervo Volante (18 guns).
Paloma Blanca (12 guns).
La Ventura (4 guns).
Santa Bárbara (10 guns).
Santiago (19 guns).
David (7 guns).
El Gato (9 guns).
San Gabriel (4 guns).
Esayas (4 guns).
8. hải đội Neapoli:
San Lorenzo (50 guns: Flagship of Don Hugo de Moncado).
Zúniga (50 guns).
Girona (50 guns).
Napolitana (50 guns).
Galleys of Portugal under Don Diego de Medrano: 4 ships (each of 50 guns).
Squadron of Xebecs and other ships under Don Antonio de Medoza (including pinnaces): 24 ships (5 to 10 guns).
b. phe Anh:
Lực lượng gần 200 tàu chiến và một số lượng lớn các tàu chiến của Hà Lan tham chiến nhưng không rõ số lượng.
lãnh đạo: đô đốc William Winter.
1. hạm đội Anh:
Ark (flag ship of Lord Charles Howard of Effingham)
Elizabeth Bonaventure
Rainbow (Lord Henry Seymour)
Golden Lion (Thomas Howard)
White Bear (Alexander Gibson)
Vanguard (William Winter)
Revenge (Francis Drake)
Elizabeth (Robert Southwell)
Victory (Rear Admiral Sir John Hawkins)
Antelope (Henry Palmer)
Triumph (Martin Frobisher)
Dreadnought (George Beeston)
Mary Rose (Edward Fenton)
Nonpareil (Thomas Fenner)
Hope (Robert Crosse)
Galley Bonavolia
Swiftsure (Edward Fenner)
Swallow (Richard Hawkins)
Foresight
Aid
Bull
Tiger
Tramontana
Scout
Achates
Charles
Moon
Advice
Merlin
Cygnet
Brigandine
George (hoy)
Spy (pinnace)
Sun (pinnace)
150 tàu duyên hải
8 tàu phun lửa:
Bark Talbot
Hope
Thomas
Bark Bond
Bear Yonge
Elizabeth
Angel
Cure’s Ship.
a. về phía Anh:
Henry mong chờ sự ra đời của một con trai để bảo đảm sự kế tục của triều đại Tudor, nhưng sau khi sinh hạ Elizabeth, Hoàng hậu Anne bị sảy thai hai lần trong năm 1534 và đầu năm 1536, rồi nhà vua bắt đầu có quan hệ với nhiều phụ nữ khác..
Vẫn còn nhiều tranh luận về nguyên nhân Anne bị thất sủng, nhưng các sử gia đồng ý với nhau về sự vô tội của Anne đối với các cáo buộc chống lại bà, họ tin rằng cái chết của bà đã được sắp đặt bởi những đối thủ chính trị. Anne bị bắt ngày 2 tháng 5 năm 1536 và bị cầm tù. Mười bảy ngày sau bà bị hành quyết với các tội danh phản quốc, loạn luận với anh/em trai, George Boleyn, và tội phù thủy
Elizabeth, mới lên ba, bị tuyên bố là con bất hợp pháp và bị mất tước hiệu công chúa, cũng không được hưởng tài sản của người mẹ. Cô chỉ còn là Lady Elizabeth và không được sống gần cha khi ông kết hôn với Jane Seymour. Năm 1537, người vợ thứ ba của Henry, Jane Seymour, sinh con trai, Hoàng tử Edward; theo Đạo luật Kế vị năm 1544, Edward là người kế thừa ngai báu nước Anh.
Henry VIII qua đời năm 1547, truyền ngôi cho Edward VI. Catherine Parr, người vợ cuối của Henry, kết hôn với Thomas Seymour, cậu của Edward VI. Seymour đem Elizabeth về nhà mình. Người ta tin rằng Seymour muốn tạo lập quan hệ thân tình với Elizabeth khi cô sống trong nhà ông. Ở đây, cô nhận lãnh giáo huấn từ Roger Ascham. Dưới ảnh hưởng của Catherine Parr và Ascham, Elizabeth được trưởng dưỡng trong đức tin Tin Lành.
Khi vua em Edward là người Tin Lành sùng tín, còn trị vì, địa vị của Elizabeth vẫn còn an toàn. Đến năm 1553, Edward qua đời ở tuổi mười lăm vì bệnh tật từ khi còn nhỏ. Edward để lại một di chúc thay thế di chúc của Henry. Bất kể Đạo luật Kế vị 1544, di chúc này loại bỏ Mary và Elizabeth khỏi quyền kế thừa và công bố Lady Jane Grey, người được Thomas Seymour bảo hộ, là người kế vị. Một sự hợp tác giữa Thomas và John Dudley, Công tức xứ Northumberland, con trai của John, Guilford Dudley, đã kết hôn với Jane. Lady Jane lên ngai, nhưng bị phế truất chỉ hai tuần lễ sau đó. Trong sự tung hô của dân chúng, Mary chiến thắng tiến vào Luân Đôn, với cô em cùng cha khác mẹ, Elizabeth, ở bên cạnh.
Mối liên kết giữa hai chị em không kéo dài. Mary quyết tâm đàn áp đức tin Tin Lành mà Elizabeth tiếp nhận từ khi còn bé, và buộc mọi người phải dự lễ Misa. Elizabeth không có sự lựa chọn nào khác phải tỏ ra phục tùng nữ hoàng. Song uy tín của Mary sút giảm khi dân chúng biết dự định kết hôn với Hoàng tử Felipe của Tây Ban Nha (về sau là vua Felipe II của Tây Ban Nha) nhằm tìm kiếm sự hậu thuẫn cho phe Công giáo bên trong nước Anh. Sau cuộc nổi dậy của Wyatt năm 1554 tìm cách ngăn cản cuộc hôn nhân giữa Mary và Felipe nhưng thất bại, Elizabeth bị cầm giữ trong Tháp Luân Đôn vì bị cho là có dính líu đến cuộc nổi dậy. Có những sự đòi hỏi xử tử hình Elizabeth, nhưng đa số dân Anh không muốn nhìn thấy một thành viên thuộc dòng họ Tudor rất được lòng dân bị sát hại. Quan Chưởng ấn Stephen Gardiner muốn rút tên Elizabeth khỏi danh sách kế vị, nhưng cả Mary lẫn Quốc hội đều không đồng ý. Sau hai tháng bị giâm giữ, Elizabeth được trả tự do vào đúng ngày mẹ cô bị hành quyết mười tám năm trước. Ngày 22 tháng 5, khi Elizabeth được đưa đến Woodstock để bị quản thúc tại gia dưới sự giám sát của Sir Henry Bedingfield, dân chúng đứng hai bên đường hoan hô cô
Sau một thời gian trị vì ôn hòa, Mary, một người Công giáo sùng tín, khởi sự theo đuổi chính sách ngược đãi người Kháng Cách mà nữ hoàng xem là những kẻ dị giáo và là mối de dọa cho thẩm quyền của bà. Do những cuộc bách hại chống phe Kháng Cách được tiến hành dưới thời trị vì của mình, nữ hoàng bị gán cho biệt danh "Mary khát máu". Dù bị Mary thuyết phục cải đạo theo Công giáo La Mã, Elizabeth khôn khéo duy trì lòng trung thành với lương tâm và khát vọng của mình. Cuối năm ấy, khi có những lời đồn đại về việc Mary có thai, Elizabeth được phép trở lại triều đình theo lời yêu cầu của Felipe. Do lo ngại nữ hoàng có thể chết khi sinh con, Felipe muốn Elizabeth, dưới sự bảo hộ của ông, sẽ là người kế vị, thay vì người có huyết thống gần Elizabeth nhất, Nữ hoàng Mary của Scotland. Mary lớn lên trong hoàng cung Pháp và có hôn ước với Thái tử Pháp, mặc dù là người Công giáo, Felipe không muốn Mary kế thừa ngai báu nước Anh vì sợ ảnh hưởng của người Pháp trên chính trường Anh qua Mary.
Tháng 11 năm 1558, sau cái chết của Mary, Elizabeth lên ngôi báu nước Anh.
Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Elizabeth I khi bắt đầu trị vì là các vấn đề tôn giáo. Nhận biết thần dân muốn nữ hoàng khước từ quyền lực của Giáo hoàng và ảnh hưởng của Tây Ban Nha, điều này phù hợp với ước nguyện của bà và những quyết sách được đề nghị bởi Sir William Cecil. Elizabeth cũng biết Giáo hoàng sẽ không chịu công nhận bà là con hợp pháp của Henry VIII và là quân vương của nước Anh Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1559 buộc tất cả viên chức công phải chấp nhận quyền kiểm soát của nhà vua trên giáo hội. Nhiều giám mục từ chối ủng hộ lập trường của Elizabeth bị bãi chức và được thay thế bởi những chức sắc ủng hộ nữ hoàng. Bà bổ nhiệm Hội đồng Tư vấn mới, không còn có sự hiện diện của các thành viên Công giáo. Dưới triều Elizabeth, tình trạng chia rẽ và tranh chấp do bè phái giảm thiểu đáng kể. Cố vấn trưởng của nữ hoàng, Sir William Cecil, đảm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao, và Sir Nicholas Bacon làm Quan Chưởng ấn.
Nhiều tín hữu Công giáo, nhất là ở châu Âu đại lục, xem Elizabeth là dị giáo. Ngày 25 tháng 3 năm 1570, Giáo hoàng Pius V ra chỉ dụ Regnans in Excelsis phạt vạ tuyệt thông Elizabeth và gọi là bà là "nữ hoàng tiếm vị".Chỉ dụ này, trên lý thuyết giải phóng người Công giáo tại Anh khỏi nghĩa vụ trung thành với Elizabeth, lại khiến giáo hội Anh liên kết chặt chẽ với vương quyền và đặt người Công giáo tại Anh vào tình huống khó khăn
Chính sách đối ngoại của Elizabeth chủ yếu là phòng thủ, với một ngoại lệ là cuộc chiếm đóng Le Havre kéo dài từ tháng 10 năm 1562 đến tháng 6 năm 1563, khi phe Huguenot đồng minh với Elizabeth liên kết với phe Công giáo Pháp tái chiếm bến cảng này. Elizabeth định ý trao đổi Le Havre để lấy Calais mà người Pháp đã chiếm lại vào tháng 1 năm 1558.
Năm 1560, bà gởi quân đến Scotland để ngăn cản ý định của người Pháp sử dụng đất nước này như một hậu cứ để tấn công nước Anh. Năm 1585, Elizabeth ký Hiệp ước Nonsuch với Hà Lan nhằm ngăn chặn hiểm họa từ Tây Ban Nha. Dựa vào sức mạnh của các hạm đội Anh Quốc mà Elizabeth có thể theo đuổi chính sách đối ngoại mạnh mẽ hơn. Khi tranh chấp với Tây Ban Nha, 80% cuộc chiến diễn ra trên mặt biển.
Nữ hoàng phong tước cho Francis Drake sau chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới từ năm 1577 đến 1580, và sau những cuộc đột kích của ông nhắm vào những hải cảng và hạm đội của Tây Ban Nha. Triều đại của bà cũng chứng kiến việc thành lập những đồn điền đầu tiên trên những vùng đất mới ở châu Mỹ, và khu thuộc địa Virginia được đặt tên để vinh danh nữ hoàng. Dù vậy, những vụ cướp biển và những vụ làm ăn bất chính của những tay phiêu lưu trên biển vẫn diễn ra ngoài vòng kiểm soát của triều đình
Elizabeth phê chuẩn Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559, mang lại hòa bình cho hai nước Anh và Pháp. Bà ủng hộ nguyên tắc "Nước Anh của người Anh". Tuy nhiên, một lãnh thổ dưới quyền cai trị của bà là Ireland không chấp nhận nguyên tắc này.
b. Về Phía Tây Ban Nha:
Năm 722, vương quốc Asturias theo đạo Cơ đốc được thành lập, chỉ 11 năm sau khi người Berber xâm chiếm bán đảo Iberia vào năm 711. Đầu năm 739, quân đội Hồi giáo bị đuổi ra khỏi Galacia, nơi có một trong những địa điểm thiêng liêng nhất của Đạo Cơ đốc thời trung cổ, Santiago de Compostela. Một thời gian ngắn sau, quân đội của người Frank cũng đánh đuổi thành công quân đội Hồi giáo về phía nam dãy Pyrenees, thành lập một tỉnh Cơ đốc giáo rồi sau này phát triển thành một vương quốc ở phía đông bắc.
Sự suy yếu của Đế chế Hồi giáo Al-Andalus trong những cuộc chiến tranh với vương quốc Taifa đã tạo điều kiện cho sự mở rộng của các vương quốc Cơ đốc giáo. Việc chiếm thành công thành phố trung tâm Toledo vào năm 1085 đã hoàn thành việc giải phóng phần lớn miền bắc Tây Ban Nha. Sau sự phục hồi vào thế kỉ 12 của vương triều Hồi giáo, những vùng đất lớn của người Hồi giáo đã rơi vào tay người Cơ đốc giáo vào thế kỉ 13 như Córdoba năm 1236 vào Seville năm 1248. Và người Hồi giáo chỉ còn lại mỗi vùng đất bị bao vây Granada và có vai trò như một tiểu quốc chư hầu ở phía nam. Cũng vào thế kỉ 13, vương quốc Aragón đã mở rộng tới vùng Địa Trung Hải và vươn đến đảo Sicily.
Năm 1469, ngai vàng của hai vương quốc Cơ đốc giáo Aragón và Castilla đã được hợp nhất bởi lễ cưới giữa vua Fernando II của Aragón và nữ hoàng Isabel I của Castilla. Năm 1492, vương quốc hợp nhất đã chiếm đóng Granada, chấm dứt 781 năm cai trị của người Hồi giáo tại bán đảo Iberia. Cũng trong năm 1492, với sự hỗ trợ của vua Fernando và nữ hoàng Isabel, nhà thám hiểm Christopher Columbus đã vượt Đại Tây Dương và tìm ra châu Mỹ, một phát kiến địa lí quan trọng hàng đầu của lịch sử. Trong cùng năm, một lượng lớn người Do Thái đã bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha bởi Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.
Vua Fernando và nữ hoàng Isabel đã củng cố vững chắc hệ thống quyền lực trung ương, đồng thời cái tên España (Tây Ban Nha) bắt đầu được dùng để chỉ vương quốc hợp nhất. Với những cải cách lớn về chính trị, pháp luật, tôn giáo và quân đội, Tây Ban Nha đã vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới.
Sự thống nhất của các vương quốc Aragón, Castilla, Leon và Navarre đã làm nên nền tảng của đất nước Tây Ban Nha hiện nay và Đế chế Tây Ban Nha. Tây Ban Nha đã trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh hàng đầu châu Âu trong thế kỉ 16 và nửa đầu của thế kỉ 17, vị thế đó được tạo nên bởi thương mại phát triển và sự chiếm hữu thuộc địa. Tây Ban Nha đã vươn tới đỉnh cao dưới sự trị vì cũa hai vua đầu tiên của hoàng triều Habsburg là Carlos I (1516-1556) và Felipe II (1556-1598).
Hệ thống thuộc địa ở đế chế Tây Ban Nha trải rộng khắp Trung Mỹ và Nam Mỹ, Mexico, một phần lớn miền nam Hoa Kỳ, Philippines ở Đông Á, bán đảo Iberia (trong đó có cả Bồ Đào Nha), miền nam Ý, đảo Sicily và một số nơi ngày nay thuộc các nước Đức, Bỉ, Luxembourg và Hà Lan. Tây Ban Nha là đế quốc đầu tiên được gọi là đất mặt trời không bao giờ lặn. Thời kỳ này được gọi là Kỉ nguyên Khai phá với việc các nước châu Âu đi chiếm thuộc địa, mở ra các trung tâm buôn bán. Cùng với nguồn kim loại, hương liệu, các mặt hàng xa xỉ phẩm mang về từ thuộc địa, các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và châu Âu đã mang về rất nhiều kiến thức, làm thay đổi cách nhìn của người châu Âu về thế giới.
Vào thế kỉ 16 và thế kỉ 17, Tây Ban Nha cũng bắt đầu đối mặt với nhiều khó khăn. Đầu thế kỉ 16, bọn cướp biển Barbary hung hãn dưới sự bảo hộ của đế chế Ottoman đã đột kích vào những vùng ven biển của Tây Ban Nha, với âm mưu lập ra các vùng đất Hồi giáo mới. Thời gian này, những cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha và Pháp cũng thường nổ ra tại Ý và một vài nơi khác. Tiếp đó, phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu đã khiến đất nước rơi vào bãi lầy của những cuộc chiến tranh tôn giáo. Felipe II của Tây Ban Nha (hay Filipe I của Bồ Đào Nha) (21 tháng 5 năm 1527 – 13 tháng 9 năm 1598) là vua Tây Ban Nha từ năm 1556 đến năm 1598, phu quân của nữ hoàng Mary I của Anh từ năm 1554 đến 1558, vương chủ của 17 tỉnh từ năm 1556 đến 1581, dùng nhiều tước hiệu như công tước hay bá tước để trị vì trên các lãnh thổ của đế chế; cũng là vua Bồ Đào Nha và Algarves với tư cách là Filipe I năm 1558. Ông cũng là người trị vì trên những lãnh thổ ở châu Mỹ của Tây Ban Nha như Tân Tây Ban Nha và Peru. Đồng thời, ông kiểm soát được cả Vương quốc Sicily, Công quốc Milan, và Franche-Comté, một vùng đất chiến lược quan trọng ở biên giới phía đông với vương quốc Pháp.
Felipe là con trưởng của Carlos I của Tây Ban Nha và Isabella của Bồ Đào Nha. (tên của ông cũng được những nhà thực dân đặt tên cho một quốc gia trên thế giới Phillipines, có nghĩa là quần đảo của vua Phillip(Felipe),Tên nước này có nguồn gốc từ việc Ruy López de Villalobos đặt tên hai hòn đảo Samar và Leyte là Las Islas Filipinas theo tên vua Philip II của Tây Ban Nha trong chuyến viễn chinh không thành công của ông năm 1543. Quần đảo từng được gọi theo nhiều cái tên như Đông Ấn Tây Ban Nha, Nueva Castilla và Quần đảo San Lázaro. Cuối cùng, cái tên Filipinas được dùng để chỉ toàn bộ quần đảo).
c. Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh:
sau khi Elisabeth lên ngôi, một hiệp ước hoàn bình giữa Anh - Pháp - Tây Ban Nha được ký kết vào năm 1559 và đã đem lại cho châu âu một thời gian hòa bình ngắn ngủi.
thời kỳ hòa bình này đã giúp cho nước Anh cơ hội về tài chính để xây dựng nền kinh tế và mở rộng hạm đội của mình vào năm 1568.
cuối năm 1568 người Anh đã bắt giữ một con tàu Tây Ban Nha đang trên đường đến Hà Lan. Filipe II rất bực tức, và quan hệ giữa hai quốc gia trở nên tồi tệ.
Filipe II cũng rất khó chịu khi người Anh cổ vũ cho đạo Tin Lành. cũng như việc Phong Tước Hiệp sĩ cho Francis Drake, người luôn ủng hộ cho thương mại cá nhân, cho dù trước đó châu âu đã có một hiệp ước tự do mậu dịch và điều này làm Filipe cảm thấy bị sỉ nhục.
Sau khi các nhà lãnh đạo Tin lành của Hà Lan, William of Orange, đã bị ám sát. Elisabeth đã cung cấp cho Drake 25 tàu chiến để ông ta tiến hành quấy rối Tây Ban Nha.
những sự kiện này gây ảnh hưởng liên tục lên Filipe II và cuối cùng ông ta cử một hạm đội đến gây chiến với nước Anh.
2. Các phe tham chiến:
a. Phe Tây Ban Nha:
Tổng: 132 tàu, 8766 thủy thủ, 21500 binh lính, 2088 nô lệ chèo xuồng.
Lãnh đạo: Đô đốc chỉ huy hạm đội trước khi lên đường ( chết trước khi lên đường)
1.Lực lượng hải quân bồ đào nha:
São Martinho (48 guns: Flagship of the commander-in-chief, the Duke of Medina Sidonia and Maestre de Francisco de Bobadilla, the senior army officer)
São João (50 guns).
São Marcos (33 guns).
São Felipe (40 guns).
San Luis (38 guns).
San Mateo (34 guns).
Santiago (24 guns).
Galeon de Florencia (52 guns).
San Cristobel (20 guns).
San Bernardo (21 guns).
Augusta (13 guns).
Julia (14 guns).
2. Lực lượng hải quân tây ban nha tại Biscay:
Santa Ana (30 guns: Flagship of Juan Martinez de Recalde, Captain General and second in command of the Armada).
El Gran Grin (28 guns).
Santiago (25 guns).
La Concepcion de Zubelzu (16 guns).
La Concepcion de Juan del Cano (18 guns).
La Magdalena (18 guns).
San Juan (21 guns).
La Maria Juan (24 guns).
La Manuela (24 guns).
Santa Maria de Montemayor (18 guns).
Maria de Aguirre (6 guns).
Isabela (10 guns).
Patache de Miguel de Suso (6 guns).
San Estaban (6 guns).
3. Lực lượng hải quân của Castilla:
San Cristobal (36 guns: Flagship of Diego Flores de Valdés).
San Juan Bautista (24 guns).
San Pedro (24 guns).
San Juan (24 guns).
Santiago el Mayor (24 guns).
San Felipe y Santiago (24 guns).
La Ascuncion (24 guns).
Nuestra Senora de Begona (24 guns).
La Trinidad (24 guns).
Santa Catalina (24 guns).
San Juan Bautista (24 guns).
Nuestra Senora del Rosario (24 guns).
San Antonio de Padua (12 guns).
4. Lực lượng hải quân của vùng Andalusia:
Nuestra Senora del Rosario (46 guns Flagship of Don Pedro de Valdés).
San Francisco (21 guns).
San Juan Bautista (31 guns).
San Juan de Gargarin (16 guns).
La Concepcion (20 guns).
Duquesa Santa Ana (23 guns).
Santa Catalina (23 guns).
La Trinidad (13 guns).
Santa Maria de Juncal (20 guns).
San Barolome (27 guns).
Espiritu Santo.
5. Lực lượng hải quân guipuzcoan:
Santa Ana (47 guns: Flagship of Miguel de Oquendo).
Santa Maria de la Rosa (47 guns).
San Salvador (25 guns).
San Esteban (26 guns).
Santa Marta (20 guns).
Santa Barbara (12 guns).
San Buenaventura (21 guns).
La Maria San Juan (12 guns).
Santa Cruz (18 guns).
Doncella (16 guns).
Asuncion (9 guns).
San Bernabe (9 guns).
Nuestra Senora de Guadalupe (1 gun).
La Madalena (1 gun).
6. Hải đội Levantine:
La Regazona (30 guns: Flagship of Martin de Bertandona)
La Lavia (25 guns).
La Rata Santa Maria Encoronada (35 guns).
San Juan de Sicila (26 guns).
La Trinidad Valencera (42 guns).
La Anunciada (24 guns).
San Nicolas Prodaneli (26 guns).
La Juliana (32 guns).
Santa Maria de Vison (18 guns).
La Trinidad de Scala (22 guns).
7. Hải đội Hulk:
El Gran Grifon (38 guns: Flagship of Juan Gómez de Medina)
San Salvador (24 guns).
Perro Marino (7 guns).
Falcon Blanco Mayor (16 guns).
Castillo Negro (27 guns).
Barca de Amburg (23 guns).
Casa de Paz Grande (26 guns).
San Pedro Mayor (29 guns).
El Sanson (18 guns).
San Pedro Menor (18 guns).
Barca de Danzig (26 guns).
Falcon Blanco Mediano (16 guns).
San Andres (14 guns).
Casa de Paz Chica (15 guns).
Ciervo Volante (18 guns).
Paloma Blanca (12 guns).
La Ventura (4 guns).
Santa Bárbara (10 guns).
Santiago (19 guns).
David (7 guns).
El Gato (9 guns).
San Gabriel (4 guns).
Esayas (4 guns).
8. hải đội Neapoli:
San Lorenzo (50 guns: Flagship of Don Hugo de Moncado).
Zúniga (50 guns).
Girona (50 guns).
Napolitana (50 guns).
Galleys of Portugal under Don Diego de Medrano: 4 ships (each of 50 guns).
Squadron of Xebecs and other ships under Don Antonio de Medoza (including pinnaces): 24 ships (5 to 10 guns).
b. phe Anh:
Lực lượng gần 200 tàu chiến và một số lượng lớn các tàu chiến của Hà Lan tham chiến nhưng không rõ số lượng.
lãnh đạo: đô đốc William Winter.
1. hạm đội Anh:
Ark (flag ship of Lord Charles Howard of Effingham)
Elizabeth Bonaventure
Rainbow (Lord Henry Seymour)
Golden Lion (Thomas Howard)
White Bear (Alexander Gibson)
Vanguard (William Winter)
Revenge (Francis Drake)
Elizabeth (Robert Southwell)
Victory (Rear Admiral Sir John Hawkins)
Antelope (Henry Palmer)
Triumph (Martin Frobisher)
Dreadnought (George Beeston)
Mary Rose (Edward Fenton)
Nonpareil (Thomas Fenner)
Hope (Robert Crosse)
Galley Bonavolia
Swiftsure (Edward Fenner)
Swallow (Richard Hawkins)
Foresight
Aid
Bull
Tiger
Tramontana
Scout
Achates
Charles
Moon
Advice
Merlin
Cygnet
Brigandine
George (hoy)
Spy (pinnace)
Sun (pinnace)
150 tàu duyên hải
8 tàu phun lửa:
Bark Talbot
Hope
Thomas
Bark Bond
Bear Yonge
Elizabeth
Angel
Cure’s Ship.
Bình luận truyện