Chiến Dịch Trái Tim
Chương 7
TRONG THẾ GIỚI NHƯ THƯỚC PHIM âm BẢN mà nàng đang di chuyển này, nàng nhìn thấy thần khí của người đàn ông ấy còn rõ hơn cả gương mặt anh ta.
Nàng đứng khựng lại, sững sờ.
Vùng thần khí ấy là độc nhất vô nhị và không thể của ai khác ngoài Gabriel Jones.
Tự chủ, mãnh liệt và mạnh mẽ, luồng năng lượng thâm trầm huyền bí lan tỏa quanh nàng.
“Là phu nhân Jones đây rồi, nhỉ,” Gabriel lên tiếng. Chàng đứng gần cửa sổ, mặt ẩn trong vùng bóng tối.
Âm giọng của chàng khiến Venetia vuột mất sức tập trung đang lơi dần của mình. Nàng chớp chớp mắt. Thế giới xung quanh đảo ngược trở về trạng thái hình bóng sắc màu bình thường.
“Ngài còn sống,” nàng thì thào.
“Phải, quả thật ta vẫn còn sống,” Gabriel đáp. “Có thể thấy tin này là một cú sốc khó chịu đối với nàng. Thứ lỗi cho ta nhé, nhưng thật lòng mà nói, ta phải thừa nhận rằng mình cảm thấy hơi chút nhẹ nhõm trước tình huống này đấy.”
Toàn bộ tâm trí nàng đang hối thúc nàng quăng mình vào vòng tay chàng, để vuốt ve và hít hà hương thân thể chàng; để đắm mình hân hoan vào nhận thức huy hoàng rằng thực sự chàng vẫn còn sống. Nhưng tầm cỡ vĩ đại của điều thảm họa đang lù lù ra đấy khiến nàng tê liệt.
Venetia nuốt khan. “Mẩu cáo phó trên báo…”
“Chứa đựng vài chi tiết sai lầm. Đừng bao giờ tin vào những gì mình đọc được trên báo nhé, phu nhân Jones.”
“Trời đất ôi.” Vận dụng hết sức mạnh ý chí để trấn tĩnh lại, Venetia cố gượng đến bên bàn giấy. Nàng ngồi phịch xuống ghế. Không thể cất mắt khỏi chàng. Chàng còn sống. “Tôi phải thưa với ngài rằng, tôi rất lấy làm vui mừng khi thấy ngài sức khỏe được dồi dào.”
“Đa tạ.” Chàng vẫn đứng ngay tại đấy, bóng hình chàng nổi bật trên nền cửa sổ. “Xin thứ lỗi, thưa phu nhân, nhưng ta nghĩ rằng, trong tình huống này, ta buộc phải hỏi rằng nàng có… ổn không?”
Nàng chớp mắt. “Dĩ nhiên, ổn chứ. Tôi cũng rất khỏe, cảm ơn.”
“Thế à.”
Liệu có phải nàng vừa nghe thấy vẻ thất vọng trong giọng chàng không thế?
“Ngài đang mong thấy tôi không ổn sao?” nàng bối rối hỏi lại.
“Ta đang lo là có thể có chút hệ lụy từ lần tác hợp trước kia giữa chúng ta,” chàng nghiêm túc nói.
Mãi đến lúc này nàng mới ngộ ra chắc chàng đang băn khoăn không biết có phải nàng đã có thai hay không. Venetia bỗng thấy người nóng bừng lên rồi lại chuyển sang lạnh toát.
“Tôi cứ tưởng ngài đang băn khoăn vì sao tôi lại mượn tên của ngài chứ,” nàng lẩm bẩm.
“Ta có thể hoàn toàn hiểu được vì sao nàng lại quyết định ra làm ăn dưới danh nghĩa một góa phụ. Đấy là một quyết định không ngoan, căn cứ vào thái độ của giới thượng lưu dành cho những người phụ nữ không chồng. Nhưng quả thật, ta thừa nhận là có chút tò mò liên quan chính xác đến việc sao nàng lại chọn dùng họ của ta. Có phải đấy chỉ do tiện thể chọn bừa hay chăng?”
“Không phải.”
“Có phải là do nàng nghĩ rằng Jones là một cái họ quá thông dụng nên sẽ chẳng ai để tâm đến mối liên hệ chăng?”
“Không hẳn là thế.” Nàng siết chặt cây bút trong tay phải. “Thật ra tôi lựa chọn theo cảm tính thôi.”
Hàng chân mày rậm đen của chàng nhướng lên. “Thật vậy sao? Nhưng ta tưởng nàng đã ám chỉ rằng không cần thiết phải che giấu bất cứ điều gì mang tính riêng tư cơ mà?”
“Chính do quyết định của ngài thuê tôi chụp lại bộ sưu tập tại trụ sở Hội Arcane. Món tiền công dư dả mà tôi nhận được từ dự án đó đã cho phép chúng tôi mở hiệu ảnh ngay tại Luân Đôn này. Vì thế tôi nghĩ rằng đặt theo tên ngài sẽ là một cách tưởng kính xác đáng.”
“Một cách tưởng kính.”
“Một cách tưởng kính rất chi là, rất chi là riêng tư,” nàng nhấn mạnh. “Ngoài những người trong gia đình thì không ai có thể biết được điều này.”
“Ta hiểu rồi. Thực tình ta không tài nào nhớ nổi trước giờ đã có ai thấy đáng phải tôn kính ta chỉ vì đã được nhận món tiền thanh toán trước hay chưa.”
Giọng nói thâm trầm, bí ẩn, rền vang của chàng làm dấy lên một luồng ý thức lạnh sống lưng nàng. Nghe ra chàng không được vui vẻ.
Nàng đã đặt bút xuống bàn thấm, ngồi rướn người tới trước và khoanh hai tay lại. “Thưa ngài Jones, xin hãy tin rằng tôi thực lòng lấy làm tiếc về toàn bộ chuyện này. Tôi hoàn toàn ý thức được rằng mình tuyệt đối không có quyền chiếm đoạt họ của ngài.”
“Trong hoàn cảnh này thì chiếm đoạt là một từ khá thú vị đấy.”
“Tuy nhiên,” nàng sấn số, “tôi phải nói rõ ra rằng vấn đề rắc rối này ngay từ đầu hẳn sẽ không bao giờ xảy ra nếu ngài biết kiềm chế không tham dự vào cuộc phỏng vấn có phần chi tiết ấy với tay phóng viên tờ Người đưa tin bay.”
“Tay Otford ấy à?”
“Cho phép tôi hỏi vì sao ngài lại đi nói chuyện với ông ta thế? Nếu ngài giữ im lặng, thì hẳn chúng ta đã có thể mạo nhận chuyện này mà chẳng ai biết đấy là đâu. Cả thế giới này có biết bao là Jones cơ chứ. Sẽ chẳng ai tìm được mối liên hệ nào giữa hai người chúng ta.”
“Thật không may ta e là không thể trông chờ vào sự giả tạo như thế được.”
“Đừng có nực cười như thế.” Nàng không khoanh tay nữa mà dang rộng hai tay. “Nếu ngài không trao đổi với cánh báo chí thì đã chẳng ai mảy may để ý đến sự trùng tên cả. Rủi thay, ngài đã quả quyết tuyên bố với tay phóng viên ấy rằng ngài đang nôn nóng với lòng hăm hở nhiệt thành được đoàn tụ với phu nhân của ngài, là một nhiếp ảnh gia cơ đấy.”
Gabriel gục gặc. “Phải, ta tin là mình đã nói như thế.”
“Nói khí không phải nhé, thưa ngài, nhưng tôi phải hỏi ngài rằng tại sao, nhân danh mọi điều tỉnh táo lẫn hợp tình hợp lý, mà ngài lại đi làm một chuyện ngu si, u mê và đần độn đến vậy? Thật tình, ngài đang suy nghĩ gì thế?”
Gabriel ngắm nàng một đỗi. Đoạn chàng băng qua căn phòng đến đứng ngay đối diện nàng, đứng choán bàn giấy theo cách khiến người khác thấy bất an.
“Ta đang suy nghĩ, thưa phu nhân Jones, rằng nàng đã khiến cho cuộc đời ta thêm vô vàn phức tạp, và trong quá trình ấy nàng cũng có khả năng bị đặt vào mối nguy hiểm chết người. Đấy là điều ta đang suy nghĩ.”
Venetia vội dựa người ra sau. “Tôi không hiểu.”
“Là từ phức tạp hay từ nguy hiểm đã khiến nàng đầu hàng thế?”
Hai má nàng đỏ bừng. “Tôi hoàn toàn hiểu được nghĩa của từ phức tạp, nhất là căn cứ vào ngữ cảnh này.”
“Tốt. Vậy là chúng ta đang có tiến triển rồi đây.”
Nàng cau mày. “Chuyện bản thân tôi đang trong vòng nguy hiểm là có ý gì thế?”
“Khía cạnh này cũng rất là phức tạp đấy.”
Venetia ép hai bàn tay run rẩy của mình xuống bàn thấm mực. “Có lẽ phiền ngài giải thích ý mình đi, thưa ngài.”
Gabriel thở phù, quay lưng bước trở lại về phía cửa sổ. “Ta sẽ cố, mặc dù chuyện này sẽ cần chút thời gian.”
“Theo tôi thì ngài nên nói thẳng vào trọng tâm vấn đề đi.”
Chàng dừng bước đưa mắt nhìn ra khu vườn bé nhỏ. “Nàng có nhớ cái đêm mà nàng phải rời khỏi trụ sở Hội Arcane qua đường hầm bí mật không?”
“Chắc hẳn tôi khó lòng mà quên được vụ việc ấy.” Một ý nghĩ lóe lên trong nàng. “Mà nhắc đến mới nhớ, vì giờ đây rõ ràng ngài đang còn sống, thế thì xác của ai đã được tìm thấy trong bảo tàng ấy vậy? Cái xác đã được bà quản gia và tay xà ích nhận diện là của Gabriel Jones ấy.”
“Hắn ta là một trong những kẻ đột nhập đã băng qua khu rừng mà nàng nhìn thấy đêm hôm đó. Đáng tiếc tên còn lại đã trốn thoát, mặc dù hắn cũng đã không thể chuồn đi cùng với món cổ vật mà hắn và tên tòng phạm định đến thó. Món cổ vật ấy rất nặng, nàng cũng biết rồi. Hẳn phải cần đến hai người mới mang đi được.”
“Mẩu tin trên báo có đề cập rằng trong bảo tàng đã xảy ra tai nạn,” nàng đánh bạo nói tiếp. “Liên quan gì đấy đến một món đồ cổ bằng đá nặng đã rơi xuống nạn nhân xấu số, theo tôi nhớ là thế.”
“Phải, ta tin rằng cái chết ấy đã được báo cáo là vậy.”
“Tôi thật không hiểu. Tại sao gia đình Willard lại nhận diện kẻ đột nhập đã thiệt mạng là ngài cơ chứ?”
“Những gia nhân trong trụ sở Hội Arcane được đào tạo rất kỹ,” Gabriel đáp mà chẳng tỏ vẻ gì. “Và cũng được trả công rất hậu nữa.”
Đám gia nhân ấy đã nói láo, nàng tự nhủ. Một cơn rùng mình buốt giá chạy rần rật dọc sống lưng nàng. Nàng cảm thấy như mình đang lội vào vùng nước rất sâu, rất nguy hiểm. Nàng thực sự không muốn biết thêm bất cứ bí mật nào của Hội Arcane nữa. Nhưng theo kinh nghiệm của bản thân nàng, việc vui vẻ làm ngơ trước một vấn đề có khả năng biến thành rắc rối cũng sẽ mang lại đủ loại hệ lụy không hay ho gì.
“Liệu tôi có thể kết luận rằng đã chẳng có vụ hỏa hoạn nào và cũng chẳng có món cổ vật nào bị tiêu hủy cả?” nàng hỏi.
“Không có ngọn lửa nào và các cổ vật đều trong tình trạng tốt đẹp, mặc dù nhiều món đã phải chuyển vào Hầm Lớn để bảm đảm an toàn.”
“Vậy ngài đã hy vọng sẽ đạt được gì khi phao tin cho báo chí biết rằng ngài là người bị thiệt mạng thế?” Venetia hỏi.
“Dự định là để câu chút thời gian và làm cho kẻ thủ ác đã sai hai người đến trụ sở Hội ấy phải rối trí. Đây là một chiến lược xưa như trái đất.”
“Còn tôi cứ tưởng truy tìm kẻ thủ ác là việc của cảnh sát chứ.”
Gabriel quay đầu lại nở nụ cười bí hiểm với nàng. “Chắc hẳn nàng đã biết khá rõ kiểu cách lập dị của Hội Arcane để hiểu rằng các hội viên chẳng hề muốn đám cảnh sát dính mũi vào chuyện của Hội. Truy tìm kẻ thủ ác là nhiệm vụ của ta.”
“Tại sao Hội lại chọn ngài để giúp họ tiến hành một cuộc điều tra như thế?” nàng tỏ vẻ nghi hoặc.
Khóe miệng chàng cong thành nụ cười vô cảm. “Nàng có thể nói là ta đã được thừa hưởng rắc rối ấy.”
“Tôi không hiểu.”
“Tin ta đi, phu nhân Jones, ta ý thức được rất rõ việc đó. Rủi thay, nhằm làm cho nàng nhận thức toàn diện về mối nguy mà nàng có thể phải đối mặt, ta sẽ phải kể cho nàng biết vài điều bí mật được phong kín nhất của Hội Arcane.”
“Thật lòng nhé, thưa ngài, thà là ngài đừng kể còn hơn.”
“Hai ta chẳng ai được phép lựa chọn cả. Nhất là giờ đây khi nàng đã tự chọn gọi mình là phu nhân Jones thì lại càng không.” Chàng quan sát nàng bằng cặp mắt của thầy phù thủy. “Dầu gì thì chúng ta cũng đã làm vợ chồng. Giữa chúng ta không nên có bất cứ điều bí mật nào.”
Venetia cảm thấy như thể toàn bộ không khí trong phổi mình bị ép hết ra ngoài. Nàng phải mất vài giây sau mới lấy lại bình tĩnh mà thốt nên lời.
“Đây không phải là lúc để ngài vận dụng tính khôi hài rõ ràng là không đúng chỗ của ngài đâu, thưa ngài. Tôi muốn nghe lời giải thích và muốn được nghe ngay lúc này. Tôi đáng được nghe.”
“Được thôi. Như đã nói, ta ít nhiều đã phải thừa hưởng lại rắc rối.”
“Sao lại như thế được?”
Chàng bắt đầu đi lòng vòng trong phòng, dừng lại trước một trong hai bức ảnh được đóng khung treo trên tường. Trước tiên chàng săm soi bức ảnh người phụ nữ tóc sẫm màu rồi quay sang tấm chân dung một người đàn ông vạm vỡ, bệ vệ.
“Cha nàng đây ư?” Gabriel hỏi.
“Vâng. Cha mẹ tôi đã mất trong một vụ tai nạn tàu hỏa cách đây một năm rưỡi. Tôi chụp mất bức ảnh này không lâu trước khi cả hai thiệt mạng.”
“Xin thành thật chia buồn.”
“Cảm ơn.” Nàng ngừng lại đầy ngụ ý. “Ngài đang nói gì ấy nhỉ?”
Gabriel bước tiếp. “Ta bảo với nàng rằng ta đang theo đuổi kẻ đã phái người đột nhập vào trụ sở Hội Arcane.”
“Vâng.”
“Ta lại không nói cho nàng biết những kẻ ấy đến đấy để đánh cắp món gì.”
“Chắc là một trong những món cổ vật giá trị thôi, tôi đoán vậy.”
Chàng dừng bước, quay người lại nhìn nàng. “Khía cạnh hết sức kỳ quặc của chuyện này là món đồ mà bọn chúng cố đánh cắp lại không được coi là có giá trị cả trong nghiên cứu khoa học lẫn tiền bạc của cải. Đấy là một chiếc hòm sắt nặng trịch hai trăm năm tuổi. Có lẽ nàng còn nhớ đấy. Nắp hòm có bọc một tấm vàng kim loại được chạm khắc hoa văn gồm các lá thảo dược và một đoạn văn bằng tiếng Latin.”
Nàng lọc qua hồi tưởng của mình về những món vật ghê sợ trong bộ sưu tập của Hội mà mình đã chụp ảnh. Không khó để nhớ ra chiếc hòm sắt.
“Tôi nhớ ra rồi,” nàng nói. “Ngài bảo rằng chiếc hòm được cho là không có giá trị gì đặc biệt, thế còn tấm vàng lợp trên nắp hòm thì sao?”
Gabriel nhún vai. “Chỉ là một tấm mỏng tang thôi mà.”
Venetia hắng giọng. “Bỏ quá cho tôi nhé, ngài Jones, nhưng những thứ như thế có liên quan đấy. Dù sao thì vàng vẫn là vàng. Có lẽ với những kẻ trộm nghèo đói thì chiếc hòm ấy lại có giá trị nhiều hơn là đối với ngài hay những thành viên khác trong Hội.”
“Nếu dự định của tên trộm chỉ là kiếm thêm tiền thì hắn hẳn đã lấy những món cổ vật nhỏ hơn, có cẩn đá quý rồi, chứ chẳng phải là một chiếc hòm nặng đến mức phải cần đến hai người mới nhấc nổi.”
“Tôi hiểu ý ngài rồi,” nàng chậm rãi nói. “Như vậy thì, có lẽ tên trộm cho rằng bên trong chiếc hòm ấy lại có thứ gì mang giá trị to lớn.”
“Chiếc hòm ấy rỗng không, lại không khóa, bởi vì vật trước kia được chứa bên trong ấy đã bị đánh cắp từ nhiều tháng trước rồi.”
“Xin thứ lỗi, ngài Jones à, nhưng dường như là Hội đang gặp phải vấn đề nghiêm trọng trong việc canh giữ những món đồ cổ của mình đấy.”
“Phải thú thật là dạo gần đây bất cứ vụ nào ta dính vào thì đều như vậy.”
Nàng cố tình phớt lờ lời nhận xét kỳ lạ ấy. “Thế thì trước đây vật gì được cất trong chiếc hòm sắt ấy vậy?”
“Một cuốn sổ.”
“Chỉ có thế thôi ư?”
“Tin ta đi, ta cũng mù mờ như nàng vậy,” chàng đáp. “Để ta giải thích nào. Chiếc hòm và cuốn sổ được cất trong ấy là một phần trong những món cổ vật từ một phòng luyện kim bí mật được một nhà giả kim khét tiếng xây dựng vào nửa cuối thế kỷ. Nhà giả kim này qua đời ngay trong căn phòng bí mật của mình. Địa điểm của phòng luyện kim ấy bị thất lạc suốt hai trăm năm. Cuối cùng rồi phòng luyện kim ấy cũng được tìm ra và khai quật.”
“Nó được tìm ra như thế nào?” nàng hỏi.
“Hai thành viên trong Hội đã giải mã thành công vài lá thư được viết bẳng mật mã mà nhà giả kim ấy viết ngay trước khi ông ta biến mất vào trong phòng luyện kim của mình lần cuối. Trong các lá thư ấy có chứa những manh mối và gợi ý đã dần dà được khớp lại với nhau.”
“Hai thành viên của Hội mà ngài vừa nói đến ấy,” nàng bảo. “Phải họ là người đã khai quật phòng luyện kim ấy lên không?”
“Phải.”
“Một trong hai người đó là ngài, đúng không nào?” nàng dò đoán.
Chàng không lòng vòng đi quanh nữa mà nhìn nàng. “Phải. Người còn lại là em họ của ta. Bọn ta hào hứng tiến hành dự án này vì nhà giả kim ấy là tổ tiên của dòng họ. Tình cờ ông ta cũng chính là người sáng lập ra Hội Arcane.”
“Tôi hiểu rồi. Xin ngài cứ kể tiếp.”
“Nhà giả kim ấy tin rằng mình sở hữu vài khả năng tâm linh ngoại cảm. Ông ta mất rất nhiều năm để điều chế một phương thuốc nhằm nâng cao những khả năng ấy. Đúng ra là, ông ta mê muội với công cuộc nghiên cứu của mình. Trong vài lá thư cuối cùng ông ta còn ám chỉ rằng mình đã tiến gần đến việc hoàn tác phương thuốc của mình.” Gabriel khẽ động đậy một cánh tay. “Em họ của ta và ta đồ rằng đó chính là thứ được ghi chép trong cuốn sổ đã bị đánh cắp khỏi chiếc hòm kia.”
“Trời ạ, chỉ cần có chút hiểu biết thôi thì có ai lại điên rồ đến mức tin rằng một nhà giả kim từ hai trăm năm trước có thể thực sự phát minh ra được một phương thuốc để nâng cao các khả năng tâm linh ngoại cảm cơ chứ.”
“Ta không biết nữa,” Gabriel đáp. “Nhưng ta có thể nói cho nàng biết điều này. Dù hắn có là ai, thì hắn vẫn rất sẵn lòng giết người để có được cái phương thuốc khốn nạn ấy đấy.”
Thêm một cơn rùng mình làm buốt cóng sống lưng nàng. “Đã có người bị sát hại vì cuốn sổ cũ ấy rồi ư?”
“Một nhân công giúp đóng kiện các cổ vật của phòng luyện kim ấy rõ ràng đã bị mua chuộc để lấy cuốn sổ ra khỏi hòm và giao lại cho ai đấy. Xác của nhân công này sau đó đã được tìm thấy trong một con hẻm. Anh ta đã bị đâm chết.”
Venetia nuốt khan. “Kinh quá.”
“Ta cùng người em họ đã bỏ ra không ít thời gian cố tìm cho ra kẻ đã mua chuộc tay nhân công và giết hại anh ta nhưng đầu mối ngay lập tức bị cắt đứt,” Gabriel kể tiếp. “Thế rồi, ba tháng trước hai gã đàn ông đó lại đến trụ sở Hội Arcane cố đánh cắp cho được chiếc hòm sắt.”
“Tôi không hiểu. Nếu tên trộm đã sở hữu được cuốn sổ của nhà giả kim, tại sao hắn lại chấp nhận rủi ro phái người đến trụ sở Hội để đánh cắp chiếc hòm chứa nó làm gì nữa?”
“Đó, thưa phu nhân Jones, quả là một câu hỏi xuất chúng,” Gabriel đáp. “Là câu hỏi mà mãi đến nay ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.”
“Có vẻ như ở đây còn rất nhiều câu hỏi chưa có lời đáp đấy, thưa ngài.”
“Đúng là vậy thật. Và ta e rằng nếu ta không chóng tìm cho ra lời đáp, lại sẽ có kẻ khác bỏ mạng.”
Nàng đứng khựng lại, sững sờ.
Vùng thần khí ấy là độc nhất vô nhị và không thể của ai khác ngoài Gabriel Jones.
Tự chủ, mãnh liệt và mạnh mẽ, luồng năng lượng thâm trầm huyền bí lan tỏa quanh nàng.
“Là phu nhân Jones đây rồi, nhỉ,” Gabriel lên tiếng. Chàng đứng gần cửa sổ, mặt ẩn trong vùng bóng tối.
Âm giọng của chàng khiến Venetia vuột mất sức tập trung đang lơi dần của mình. Nàng chớp chớp mắt. Thế giới xung quanh đảo ngược trở về trạng thái hình bóng sắc màu bình thường.
“Ngài còn sống,” nàng thì thào.
“Phải, quả thật ta vẫn còn sống,” Gabriel đáp. “Có thể thấy tin này là một cú sốc khó chịu đối với nàng. Thứ lỗi cho ta nhé, nhưng thật lòng mà nói, ta phải thừa nhận rằng mình cảm thấy hơi chút nhẹ nhõm trước tình huống này đấy.”
Toàn bộ tâm trí nàng đang hối thúc nàng quăng mình vào vòng tay chàng, để vuốt ve và hít hà hương thân thể chàng; để đắm mình hân hoan vào nhận thức huy hoàng rằng thực sự chàng vẫn còn sống. Nhưng tầm cỡ vĩ đại của điều thảm họa đang lù lù ra đấy khiến nàng tê liệt.
Venetia nuốt khan. “Mẩu cáo phó trên báo…”
“Chứa đựng vài chi tiết sai lầm. Đừng bao giờ tin vào những gì mình đọc được trên báo nhé, phu nhân Jones.”
“Trời đất ôi.” Vận dụng hết sức mạnh ý chí để trấn tĩnh lại, Venetia cố gượng đến bên bàn giấy. Nàng ngồi phịch xuống ghế. Không thể cất mắt khỏi chàng. Chàng còn sống. “Tôi phải thưa với ngài rằng, tôi rất lấy làm vui mừng khi thấy ngài sức khỏe được dồi dào.”
“Đa tạ.” Chàng vẫn đứng ngay tại đấy, bóng hình chàng nổi bật trên nền cửa sổ. “Xin thứ lỗi, thưa phu nhân, nhưng ta nghĩ rằng, trong tình huống này, ta buộc phải hỏi rằng nàng có… ổn không?”
Nàng chớp mắt. “Dĩ nhiên, ổn chứ. Tôi cũng rất khỏe, cảm ơn.”
“Thế à.”
Liệu có phải nàng vừa nghe thấy vẻ thất vọng trong giọng chàng không thế?
“Ngài đang mong thấy tôi không ổn sao?” nàng bối rối hỏi lại.
“Ta đang lo là có thể có chút hệ lụy từ lần tác hợp trước kia giữa chúng ta,” chàng nghiêm túc nói.
Mãi đến lúc này nàng mới ngộ ra chắc chàng đang băn khoăn không biết có phải nàng đã có thai hay không. Venetia bỗng thấy người nóng bừng lên rồi lại chuyển sang lạnh toát.
“Tôi cứ tưởng ngài đang băn khoăn vì sao tôi lại mượn tên của ngài chứ,” nàng lẩm bẩm.
“Ta có thể hoàn toàn hiểu được vì sao nàng lại quyết định ra làm ăn dưới danh nghĩa một góa phụ. Đấy là một quyết định không ngoan, căn cứ vào thái độ của giới thượng lưu dành cho những người phụ nữ không chồng. Nhưng quả thật, ta thừa nhận là có chút tò mò liên quan chính xác đến việc sao nàng lại chọn dùng họ của ta. Có phải đấy chỉ do tiện thể chọn bừa hay chăng?”
“Không phải.”
“Có phải là do nàng nghĩ rằng Jones là một cái họ quá thông dụng nên sẽ chẳng ai để tâm đến mối liên hệ chăng?”
“Không hẳn là thế.” Nàng siết chặt cây bút trong tay phải. “Thật ra tôi lựa chọn theo cảm tính thôi.”
Hàng chân mày rậm đen của chàng nhướng lên. “Thật vậy sao? Nhưng ta tưởng nàng đã ám chỉ rằng không cần thiết phải che giấu bất cứ điều gì mang tính riêng tư cơ mà?”
“Chính do quyết định của ngài thuê tôi chụp lại bộ sưu tập tại trụ sở Hội Arcane. Món tiền công dư dả mà tôi nhận được từ dự án đó đã cho phép chúng tôi mở hiệu ảnh ngay tại Luân Đôn này. Vì thế tôi nghĩ rằng đặt theo tên ngài sẽ là một cách tưởng kính xác đáng.”
“Một cách tưởng kính.”
“Một cách tưởng kính rất chi là, rất chi là riêng tư,” nàng nhấn mạnh. “Ngoài những người trong gia đình thì không ai có thể biết được điều này.”
“Ta hiểu rồi. Thực tình ta không tài nào nhớ nổi trước giờ đã có ai thấy đáng phải tôn kính ta chỉ vì đã được nhận món tiền thanh toán trước hay chưa.”
Giọng nói thâm trầm, bí ẩn, rền vang của chàng làm dấy lên một luồng ý thức lạnh sống lưng nàng. Nghe ra chàng không được vui vẻ.
Nàng đã đặt bút xuống bàn thấm, ngồi rướn người tới trước và khoanh hai tay lại. “Thưa ngài Jones, xin hãy tin rằng tôi thực lòng lấy làm tiếc về toàn bộ chuyện này. Tôi hoàn toàn ý thức được rằng mình tuyệt đối không có quyền chiếm đoạt họ của ngài.”
“Trong hoàn cảnh này thì chiếm đoạt là một từ khá thú vị đấy.”
“Tuy nhiên,” nàng sấn số, “tôi phải nói rõ ra rằng vấn đề rắc rối này ngay từ đầu hẳn sẽ không bao giờ xảy ra nếu ngài biết kiềm chế không tham dự vào cuộc phỏng vấn có phần chi tiết ấy với tay phóng viên tờ Người đưa tin bay.”
“Tay Otford ấy à?”
“Cho phép tôi hỏi vì sao ngài lại đi nói chuyện với ông ta thế? Nếu ngài giữ im lặng, thì hẳn chúng ta đã có thể mạo nhận chuyện này mà chẳng ai biết đấy là đâu. Cả thế giới này có biết bao là Jones cơ chứ. Sẽ chẳng ai tìm được mối liên hệ nào giữa hai người chúng ta.”
“Thật không may ta e là không thể trông chờ vào sự giả tạo như thế được.”
“Đừng có nực cười như thế.” Nàng không khoanh tay nữa mà dang rộng hai tay. “Nếu ngài không trao đổi với cánh báo chí thì đã chẳng ai mảy may để ý đến sự trùng tên cả. Rủi thay, ngài đã quả quyết tuyên bố với tay phóng viên ấy rằng ngài đang nôn nóng với lòng hăm hở nhiệt thành được đoàn tụ với phu nhân của ngài, là một nhiếp ảnh gia cơ đấy.”
Gabriel gục gặc. “Phải, ta tin là mình đã nói như thế.”
“Nói khí không phải nhé, thưa ngài, nhưng tôi phải hỏi ngài rằng tại sao, nhân danh mọi điều tỉnh táo lẫn hợp tình hợp lý, mà ngài lại đi làm một chuyện ngu si, u mê và đần độn đến vậy? Thật tình, ngài đang suy nghĩ gì thế?”
Gabriel ngắm nàng một đỗi. Đoạn chàng băng qua căn phòng đến đứng ngay đối diện nàng, đứng choán bàn giấy theo cách khiến người khác thấy bất an.
“Ta đang suy nghĩ, thưa phu nhân Jones, rằng nàng đã khiến cho cuộc đời ta thêm vô vàn phức tạp, và trong quá trình ấy nàng cũng có khả năng bị đặt vào mối nguy hiểm chết người. Đấy là điều ta đang suy nghĩ.”
Venetia vội dựa người ra sau. “Tôi không hiểu.”
“Là từ phức tạp hay từ nguy hiểm đã khiến nàng đầu hàng thế?”
Hai má nàng đỏ bừng. “Tôi hoàn toàn hiểu được nghĩa của từ phức tạp, nhất là căn cứ vào ngữ cảnh này.”
“Tốt. Vậy là chúng ta đang có tiến triển rồi đây.”
Nàng cau mày. “Chuyện bản thân tôi đang trong vòng nguy hiểm là có ý gì thế?”
“Khía cạnh này cũng rất là phức tạp đấy.”
Venetia ép hai bàn tay run rẩy của mình xuống bàn thấm mực. “Có lẽ phiền ngài giải thích ý mình đi, thưa ngài.”
Gabriel thở phù, quay lưng bước trở lại về phía cửa sổ. “Ta sẽ cố, mặc dù chuyện này sẽ cần chút thời gian.”
“Theo tôi thì ngài nên nói thẳng vào trọng tâm vấn đề đi.”
Chàng dừng bước đưa mắt nhìn ra khu vườn bé nhỏ. “Nàng có nhớ cái đêm mà nàng phải rời khỏi trụ sở Hội Arcane qua đường hầm bí mật không?”
“Chắc hẳn tôi khó lòng mà quên được vụ việc ấy.” Một ý nghĩ lóe lên trong nàng. “Mà nhắc đến mới nhớ, vì giờ đây rõ ràng ngài đang còn sống, thế thì xác của ai đã được tìm thấy trong bảo tàng ấy vậy? Cái xác đã được bà quản gia và tay xà ích nhận diện là của Gabriel Jones ấy.”
“Hắn ta là một trong những kẻ đột nhập đã băng qua khu rừng mà nàng nhìn thấy đêm hôm đó. Đáng tiếc tên còn lại đã trốn thoát, mặc dù hắn cũng đã không thể chuồn đi cùng với món cổ vật mà hắn và tên tòng phạm định đến thó. Món cổ vật ấy rất nặng, nàng cũng biết rồi. Hẳn phải cần đến hai người mới mang đi được.”
“Mẩu tin trên báo có đề cập rằng trong bảo tàng đã xảy ra tai nạn,” nàng đánh bạo nói tiếp. “Liên quan gì đấy đến một món đồ cổ bằng đá nặng đã rơi xuống nạn nhân xấu số, theo tôi nhớ là thế.”
“Phải, ta tin rằng cái chết ấy đã được báo cáo là vậy.”
“Tôi thật không hiểu. Tại sao gia đình Willard lại nhận diện kẻ đột nhập đã thiệt mạng là ngài cơ chứ?”
“Những gia nhân trong trụ sở Hội Arcane được đào tạo rất kỹ,” Gabriel đáp mà chẳng tỏ vẻ gì. “Và cũng được trả công rất hậu nữa.”
Đám gia nhân ấy đã nói láo, nàng tự nhủ. Một cơn rùng mình buốt giá chạy rần rật dọc sống lưng nàng. Nàng cảm thấy như mình đang lội vào vùng nước rất sâu, rất nguy hiểm. Nàng thực sự không muốn biết thêm bất cứ bí mật nào của Hội Arcane nữa. Nhưng theo kinh nghiệm của bản thân nàng, việc vui vẻ làm ngơ trước một vấn đề có khả năng biến thành rắc rối cũng sẽ mang lại đủ loại hệ lụy không hay ho gì.
“Liệu tôi có thể kết luận rằng đã chẳng có vụ hỏa hoạn nào và cũng chẳng có món cổ vật nào bị tiêu hủy cả?” nàng hỏi.
“Không có ngọn lửa nào và các cổ vật đều trong tình trạng tốt đẹp, mặc dù nhiều món đã phải chuyển vào Hầm Lớn để bảm đảm an toàn.”
“Vậy ngài đã hy vọng sẽ đạt được gì khi phao tin cho báo chí biết rằng ngài là người bị thiệt mạng thế?” Venetia hỏi.
“Dự định là để câu chút thời gian và làm cho kẻ thủ ác đã sai hai người đến trụ sở Hội ấy phải rối trí. Đây là một chiến lược xưa như trái đất.”
“Còn tôi cứ tưởng truy tìm kẻ thủ ác là việc của cảnh sát chứ.”
Gabriel quay đầu lại nở nụ cười bí hiểm với nàng. “Chắc hẳn nàng đã biết khá rõ kiểu cách lập dị của Hội Arcane để hiểu rằng các hội viên chẳng hề muốn đám cảnh sát dính mũi vào chuyện của Hội. Truy tìm kẻ thủ ác là nhiệm vụ của ta.”
“Tại sao Hội lại chọn ngài để giúp họ tiến hành một cuộc điều tra như thế?” nàng tỏ vẻ nghi hoặc.
Khóe miệng chàng cong thành nụ cười vô cảm. “Nàng có thể nói là ta đã được thừa hưởng rắc rối ấy.”
“Tôi không hiểu.”
“Tin ta đi, phu nhân Jones, ta ý thức được rất rõ việc đó. Rủi thay, nhằm làm cho nàng nhận thức toàn diện về mối nguy mà nàng có thể phải đối mặt, ta sẽ phải kể cho nàng biết vài điều bí mật được phong kín nhất của Hội Arcane.”
“Thật lòng nhé, thưa ngài, thà là ngài đừng kể còn hơn.”
“Hai ta chẳng ai được phép lựa chọn cả. Nhất là giờ đây khi nàng đã tự chọn gọi mình là phu nhân Jones thì lại càng không.” Chàng quan sát nàng bằng cặp mắt của thầy phù thủy. “Dầu gì thì chúng ta cũng đã làm vợ chồng. Giữa chúng ta không nên có bất cứ điều bí mật nào.”
Venetia cảm thấy như thể toàn bộ không khí trong phổi mình bị ép hết ra ngoài. Nàng phải mất vài giây sau mới lấy lại bình tĩnh mà thốt nên lời.
“Đây không phải là lúc để ngài vận dụng tính khôi hài rõ ràng là không đúng chỗ của ngài đâu, thưa ngài. Tôi muốn nghe lời giải thích và muốn được nghe ngay lúc này. Tôi đáng được nghe.”
“Được thôi. Như đã nói, ta ít nhiều đã phải thừa hưởng lại rắc rối.”
“Sao lại như thế được?”
Chàng bắt đầu đi lòng vòng trong phòng, dừng lại trước một trong hai bức ảnh được đóng khung treo trên tường. Trước tiên chàng săm soi bức ảnh người phụ nữ tóc sẫm màu rồi quay sang tấm chân dung một người đàn ông vạm vỡ, bệ vệ.
“Cha nàng đây ư?” Gabriel hỏi.
“Vâng. Cha mẹ tôi đã mất trong một vụ tai nạn tàu hỏa cách đây một năm rưỡi. Tôi chụp mất bức ảnh này không lâu trước khi cả hai thiệt mạng.”
“Xin thành thật chia buồn.”
“Cảm ơn.” Nàng ngừng lại đầy ngụ ý. “Ngài đang nói gì ấy nhỉ?”
Gabriel bước tiếp. “Ta bảo với nàng rằng ta đang theo đuổi kẻ đã phái người đột nhập vào trụ sở Hội Arcane.”
“Vâng.”
“Ta lại không nói cho nàng biết những kẻ ấy đến đấy để đánh cắp món gì.”
“Chắc là một trong những món cổ vật giá trị thôi, tôi đoán vậy.”
Chàng dừng bước, quay người lại nhìn nàng. “Khía cạnh hết sức kỳ quặc của chuyện này là món đồ mà bọn chúng cố đánh cắp lại không được coi là có giá trị cả trong nghiên cứu khoa học lẫn tiền bạc của cải. Đấy là một chiếc hòm sắt nặng trịch hai trăm năm tuổi. Có lẽ nàng còn nhớ đấy. Nắp hòm có bọc một tấm vàng kim loại được chạm khắc hoa văn gồm các lá thảo dược và một đoạn văn bằng tiếng Latin.”
Nàng lọc qua hồi tưởng của mình về những món vật ghê sợ trong bộ sưu tập của Hội mà mình đã chụp ảnh. Không khó để nhớ ra chiếc hòm sắt.
“Tôi nhớ ra rồi,” nàng nói. “Ngài bảo rằng chiếc hòm được cho là không có giá trị gì đặc biệt, thế còn tấm vàng lợp trên nắp hòm thì sao?”
Gabriel nhún vai. “Chỉ là một tấm mỏng tang thôi mà.”
Venetia hắng giọng. “Bỏ quá cho tôi nhé, ngài Jones, nhưng những thứ như thế có liên quan đấy. Dù sao thì vàng vẫn là vàng. Có lẽ với những kẻ trộm nghèo đói thì chiếc hòm ấy lại có giá trị nhiều hơn là đối với ngài hay những thành viên khác trong Hội.”
“Nếu dự định của tên trộm chỉ là kiếm thêm tiền thì hắn hẳn đã lấy những món cổ vật nhỏ hơn, có cẩn đá quý rồi, chứ chẳng phải là một chiếc hòm nặng đến mức phải cần đến hai người mới nhấc nổi.”
“Tôi hiểu ý ngài rồi,” nàng chậm rãi nói. “Như vậy thì, có lẽ tên trộm cho rằng bên trong chiếc hòm ấy lại có thứ gì mang giá trị to lớn.”
“Chiếc hòm ấy rỗng không, lại không khóa, bởi vì vật trước kia được chứa bên trong ấy đã bị đánh cắp từ nhiều tháng trước rồi.”
“Xin thứ lỗi, ngài Jones à, nhưng dường như là Hội đang gặp phải vấn đề nghiêm trọng trong việc canh giữ những món đồ cổ của mình đấy.”
“Phải thú thật là dạo gần đây bất cứ vụ nào ta dính vào thì đều như vậy.”
Nàng cố tình phớt lờ lời nhận xét kỳ lạ ấy. “Thế thì trước đây vật gì được cất trong chiếc hòm sắt ấy vậy?”
“Một cuốn sổ.”
“Chỉ có thế thôi ư?”
“Tin ta đi, ta cũng mù mờ như nàng vậy,” chàng đáp. “Để ta giải thích nào. Chiếc hòm và cuốn sổ được cất trong ấy là một phần trong những món cổ vật từ một phòng luyện kim bí mật được một nhà giả kim khét tiếng xây dựng vào nửa cuối thế kỷ. Nhà giả kim này qua đời ngay trong căn phòng bí mật của mình. Địa điểm của phòng luyện kim ấy bị thất lạc suốt hai trăm năm. Cuối cùng rồi phòng luyện kim ấy cũng được tìm ra và khai quật.”
“Nó được tìm ra như thế nào?” nàng hỏi.
“Hai thành viên trong Hội đã giải mã thành công vài lá thư được viết bẳng mật mã mà nhà giả kim ấy viết ngay trước khi ông ta biến mất vào trong phòng luyện kim của mình lần cuối. Trong các lá thư ấy có chứa những manh mối và gợi ý đã dần dà được khớp lại với nhau.”
“Hai thành viên của Hội mà ngài vừa nói đến ấy,” nàng bảo. “Phải họ là người đã khai quật phòng luyện kim ấy lên không?”
“Phải.”
“Một trong hai người đó là ngài, đúng không nào?” nàng dò đoán.
Chàng không lòng vòng đi quanh nữa mà nhìn nàng. “Phải. Người còn lại là em họ của ta. Bọn ta hào hứng tiến hành dự án này vì nhà giả kim ấy là tổ tiên của dòng họ. Tình cờ ông ta cũng chính là người sáng lập ra Hội Arcane.”
“Tôi hiểu rồi. Xin ngài cứ kể tiếp.”
“Nhà giả kim ấy tin rằng mình sở hữu vài khả năng tâm linh ngoại cảm. Ông ta mất rất nhiều năm để điều chế một phương thuốc nhằm nâng cao những khả năng ấy. Đúng ra là, ông ta mê muội với công cuộc nghiên cứu của mình. Trong vài lá thư cuối cùng ông ta còn ám chỉ rằng mình đã tiến gần đến việc hoàn tác phương thuốc của mình.” Gabriel khẽ động đậy một cánh tay. “Em họ của ta và ta đồ rằng đó chính là thứ được ghi chép trong cuốn sổ đã bị đánh cắp khỏi chiếc hòm kia.”
“Trời ạ, chỉ cần có chút hiểu biết thôi thì có ai lại điên rồ đến mức tin rằng một nhà giả kim từ hai trăm năm trước có thể thực sự phát minh ra được một phương thuốc để nâng cao các khả năng tâm linh ngoại cảm cơ chứ.”
“Ta không biết nữa,” Gabriel đáp. “Nhưng ta có thể nói cho nàng biết điều này. Dù hắn có là ai, thì hắn vẫn rất sẵn lòng giết người để có được cái phương thuốc khốn nạn ấy đấy.”
Thêm một cơn rùng mình làm buốt cóng sống lưng nàng. “Đã có người bị sát hại vì cuốn sổ cũ ấy rồi ư?”
“Một nhân công giúp đóng kiện các cổ vật của phòng luyện kim ấy rõ ràng đã bị mua chuộc để lấy cuốn sổ ra khỏi hòm và giao lại cho ai đấy. Xác của nhân công này sau đó đã được tìm thấy trong một con hẻm. Anh ta đã bị đâm chết.”
Venetia nuốt khan. “Kinh quá.”
“Ta cùng người em họ đã bỏ ra không ít thời gian cố tìm cho ra kẻ đã mua chuộc tay nhân công và giết hại anh ta nhưng đầu mối ngay lập tức bị cắt đứt,” Gabriel kể tiếp. “Thế rồi, ba tháng trước hai gã đàn ông đó lại đến trụ sở Hội Arcane cố đánh cắp cho được chiếc hòm sắt.”
“Tôi không hiểu. Nếu tên trộm đã sở hữu được cuốn sổ của nhà giả kim, tại sao hắn lại chấp nhận rủi ro phái người đến trụ sở Hội để đánh cắp chiếc hòm chứa nó làm gì nữa?”
“Đó, thưa phu nhân Jones, quả là một câu hỏi xuất chúng,” Gabriel đáp. “Là câu hỏi mà mãi đến nay ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.”
“Có vẻ như ở đây còn rất nhiều câu hỏi chưa có lời đáp đấy, thưa ngài.”
“Đúng là vậy thật. Và ta e rằng nếu ta không chóng tìm cho ra lời đáp, lại sẽ có kẻ khác bỏ mạng.”
Bình luận truyện