Cựu Nhân
Chương 2
Mùa thu ở huyện Nam An kỳ thực có rất nhiều cảnh sắc đáng để thưởng lãm, tỷ như cảnh núi non sông hồ tươi đẹp bên bờ Thạch Tháp, tỷ như cây phong lá đỏ trên ngôi chùa ngoại thành Nam An, hoặc cho dù không đi đến nơi nào, chỉ cần an an tĩnh tĩnh ngồi trong dịch quán ngắm lá vàng rụng rơi ngoài song sửa sổ, cũng có thể xem như một loại hưởng thụ thực phong nhã, khiến người ta bất giác nhớ tới mùi hương thoang thoảng của mực tàu trong thư viện phía Đông thành Nam An.
Không biết là do ý chỉ của Trương tri phủ hay được vị cao nhân nào chỉ điểm, Nghiêm huyện thừa bận trăm công nghìn việc đặc biệt phái người đến đưa thị lang đại nhân đi du ngoạn: “Mấy ngày này bên bờ Thạch Tháp đang có hội chùa, vô cùng náo nhiệt. Chùa Nam An tuy nhỏ, nhưng phương trượng là một vị cao tăng đắc đạo, có không ít tín đồ từ tám thôn xóm trong phạm vi mười dặm xung quanh, hương khói cũng rất đủ đầy, khi nhàn rỗi liền đi thăm viếng một chút, có thể tâm nguyện của mình sẽ được trở thành hiện thực. Dạo này đang là cuối thu, thời tiết mát mẻ bầu trời quang đãng, chính là thời điểm rất thích hợp để lên núi ngắm lá phong, nếu như bây giờ đại nhân khởi hành, còn có thể ở lại trong chùa dùng một bữa cơm chay…”
Cố Minh Cử ngồi bên cửa sổ hững hờ nghe tên thị tòng trần thuật liên miên không ngừng, Nghiêm Phượng Lâu thật chu đáo tỉ mỉ, chưa nói suốt dọc hành trình sắp xếp mọi việc hết sức chu toàn, còn rất mực tận tâm, mọi thứ đều được thiết trí chiếu theo sở thích của Cố Minh Cử. Đáng quý nhất chính là, thượng khách đi đến chỗ nào cũng có người ân cần phục vụ hướng dẫn, huyện thừa chẳng cần ra mặt chút nào. Huyện thừa đại nhân cần mẫn với công việc có thể yên tâm mà trốn trong huyện nha của y, mặc cho dịch quán bên này gió quật mưa rơi sấm vang chớp giật.
“Ngươi nói xem, có phải ta nên hết lòng khen ngợi hắn không?” Cố Minh Cử nhẹ nhàng bật cười, trong lời nói thậm chí còn mang theo một chút kiêu ngạo.
Thị tòng đứng bên cạnh bị hù cho một trận, lập tức ấp úng ngừng lại mấy lời còn đang thao thao bất tuyệt: “Đại nhân nói rất phải, rất phải…”
Cố Minh Cử cười cười chẳng hề lưu tâm, lại tiếp tục ngoảnh đầu nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ. Những người được Nghiêm Phượng Lâu phái tới để dẫn hắn đi du thành hiện đang đứng dưới gốc cây ngô đồng trong sân, ngoài mấy tên huyện lại của bản huyện, còn có đám hương thân của bản địa, mấy vị lão học già cả, thêm vài ba thư sinh trẻ tuổi đang đứng sau lưng bọn họ, hẳn là những học trò có thành tích xuất sắc nhất trong thư viện Nam An.
Cố Minh Cử nhận ra được người thư sinh đứng đầu trong đám trẻ tuổi kia, chính là người đã dìu Nghiêm Phượng Lâu đứng dậy ở ngoài cổng thành hôm đó. Tuy lúc ấy chỉ vội vàng liếc mắt lướt qua, nhưng ánh mắt sắc bén của thư sinh này lại khiến Cố Minh Cử có ấn tượng rất sâu sắc.
Đỗ Viễn Sơn, nghe nói là học trò có thành tích cao nhất của thư viện Nam An, từng nét chữ đều nắn nót ngay ngắn, rất được huyện thừa Nghiêm Phượng Lâu tán thưởng, là một trong số ít những người bạn tri giao của Nghiêm Phượng Lâu, thường xuyên ra vào huyện thừa phủ. Đỗ gia nhiều đời làm nghề kinh doanh lương thực, tới cha của Đỗ Viên Sơn đã là đời thứ tư, cũng xem như phú hộ trong thành.
Thói đời này, cho dù ngày sau lòng người không còn cổ hủ, nhưng sự phân chia sĩ nông công thương (1) cũ vẫn là có, gia đình làm nghề buôn bán mặc dù gia sản bạc triệu, nhưng luận về danh tiếng lại vẫn không thể nào so được với phần tử trí thức nghèo khổ thanh bạch. Vậy nên, Đỗ lão gia đối với đứa con trai có thiên tư không tồi này chắc hẳn gửi gắm rất nhiều kỳ vọng, tha thiết mong Đỗ Viễn Sơn có thể gặt hái được thành quả trong kỳ thi vào hai năm sau, cũng là để mang vinh quang về an ủi liệt tổ liệt tông.
“Quả đúng là một tiểu Nghiêm Phượng Lâu.”
Vừa hồi tưởng lại tin tức đám thị tòng mới trình lên, Cố Minh Cử vừa nhìn xuyên qua song cửa sổ, tỉ mỉ đánh giá Đỗ Viễn Sơn đang đứng trong sân. Đó là một thanh niên có vóc người khá cao, đứng trong một đám bạn cùng trang lứa cử chỉ cẩn trọng, nét mặt thong dong bình tĩnh rất có chút ý vị của hạc trong bầy gà (nổi bật giữa đám đông). Nhưng dù sao sự trải đời vẫn còn thấp, không biết tự thu liễm, trong lúc nhìn quanh vẫn khó tránh khỏi lộ ra mấy phần ngây ngô và thuần chân quen thuộc của một thư sinh.
Cố Minh Cử nheo mắt, cười cười chỉ về phía bên ngoài cửa sổ, nói với tên thị tòng: “Nghiêm huyện thừa năm đó cũng là một dáng vẻ như vậy đấy.”
Thị tòng tâm tư nhanh nhạy liền đáp phụ họa: “Vậy ạ? Không ngờ Nghiêm huyện thừa như hũ nút kia thời còn trẻ cũng anh tuấn như vậy.”
Cố Minh Cử không đáp, tiếp tục nhìn một lúc rồi mới chậm rãi thu hồi ánh mắt: “Phượng khanh khi đó so với hắn còn đẹp hơn nhiều.”
Tên thị tòng lập tức lại vội vàng gật đầu phụ họa không ngừng, nói Nghiêm Phượng Lâu không cao như thế, khuôn mặt cũng nhu hòa hơn một chút, nhưng ngàn tốt vạn tốt, trên đời này chung quy chỉ có Cố thị lang của chúng ta là tốt nhất, từ trong triều ra đến ngoài triều, ai ai cũng đều muôn miệng một lời nói ngài phong tư trác tuyệt.
Cố Minh Cử cười cười mặc cho gã ba hoa thiên địa. Đến khi tận hứng rồi mới phân phó: “Đi nói với những người trong sân, bản quan hôm nay cảm thấy mệt mỏi, sẽ không đi đến chùa Nam An. Còn hồ Thạch Tháp ngày mai, thì để ngày mai sẽ tính.”
Lập tức có tên thị tòng tay chân nhanh nhẹn đứng trong sân nói với đám huyện lại hương thân, đám người uổng công đứng chờ nửa ngày hiển nhiên là trong lòng không vui, nhưng ngoài mặt vẫn nhiệt tình nói mấy lời đại loại như “Đại nhân đường sá xa xôi tới đây chắc hẳn rất vất vả, đương nhiên cần phải tĩnh dưỡng rồi”.
Cố Minh Cử ngồi trong phòng lắng nghe, ánh mắt xuyên qua song cửa sổ lại rơi lên người Đỗ Viễn Sơn nọ. Thư sinh tuổi trẻ khí thịnh vẫn chưa học được công phu không để lộ sắc thái hỉ nộ, gương mặt trắng nõn sinh ra mấy phần đỏ bừng, sườn mặt vốn đã góc cạnh rõ ràng càng trở nên căng cứng.
Cố thị lang tự cao tự đại đã không phải lần đầu. Bất quá mới vào ngụ trong dịch quán ba ngày, đồ dùng vật dụng bày biện trong ngoài đều đã thay đổi không dưới năm lần. Lúc thì cảm thấy cái bàn bằng gỗ tử đàn có màu sắc quá trầm, lúc lại chán ghét hoa mẫu đơn thêu trên chăn gấm quá tầm thường, có đôi khi chỉ là nhìn không vừa mắt cái chân ghế mà thôi.
Còn việc đi du thành do Nghiêm huyện thừa sắp xếp, lại càng có vẻ như Cố Minh Cử đang tận lực gây khó dễ. Lần nào cũng đều đáp ứng ngay, chẳng nề hà mà phái người chạy đến huyện nha xác nhận lại hành trình tận ba bốn lần, rồi lần nào cũng để người ta đứng chờ trong sân cười khổ suốt hai canh giờ, sau đó nhẹ nhàng truyền ra một câu: “Cố đại nhân thân thể không khỏe, không đi nữa.”
Quá tam ba bận đùa giỡn như vậy, cho dù có là Bồ Tát trong miếu cũng phải tức giận.
Cố Minh Cử đứng lên dạo bước thong thả trong gian phòng rộng lớn, nghe thấy một tiếng ồn ào, đám người trong đình viện lại như mấy lần trước hậm hực tản đi. Bỗng nhiên, có người lớn giọng hỏi: “Xin hỏi Cố đại nhân bị bệnh gì?” Khẩu khí đầy khiêu khích.
Không cần đoán, nhất định là Đỗ Viễn Sơn kia. Điểm yếu nhất của người trẻ tuổi chính là không biết nhẫn nhịn, nhất là người trẻ tuổi có gia cảnh và sự đãi ngộ thuận buồm xuôi gió, chưa từng bị phật ý.
Thị tòng của Cố phủ lập tức xông tới, cao giọng quát hỏi: “Bệnh của Cố đại nhân là việc nhà ngươi có thể hỏi tới sao?” Quả thực hung hăng nạt người.
Cố Minh Cử âm thầm lắc đầu, rất rõ ràng, ngay cả đám hạ nhân cũng bị mình làm hư mất rồi.
“Nếu nhiễm bệnh, vậy có mời đại phu đến chữa trị chưa? Thứ cho học trò hỏi một câu, đã mời vị danh y nào trong thành?” Hắn hỏi rất chừng mực, chẳng hề vì sự khuyên can của mọi người mà ngừng lại.
Đang đứng ở ngoài cửa trả lời vừa đúng là tên thị tòng mới nãy ở trong phòng nói nói cười cười với Cố Minh Cử: “Ngươi hỏi như vậy là có ý gì? Không phải đang hoài nghi Cố đại nhân nhà chúng ta cố tình khi dễ cái Nam An huyện nhỏ bé của các người đấy chứ? Cố đại nhân của chúng ta đường đường là quan tứ phẩm đương triều, có biết bao nhiêu việc giang sơn xã tắc cần ngài phải bận tâm đến? Ngày nào cũng vừa mở mắt ra là bận bịu đến không còn sức để chớp mắt một cái, còn lòng dạ nào mà thong thả cùng các ngươi tán chuyện không đâu? Nói ra để người ngoài nghe thấy được, không sợ bị người ta cười cho rớt cả răng hay sao!”
Thế là tiếng khuyên giải của mọi người trong sân càng lớn hơn, có người cũng bắt đầu lớn tiếng quát mắng Đỗ Viễn Sơn: “Đây là chỗ để cho ngươi hồ nháo sao! Còn không mau xin lỗi vị tiểu ca này đi?”
Thanh niên nộ khí đùng đùng chỉ đứng thẳng lưng, gương mặt nín nhịn đến đỏ bừng, ánh mắt sáng ngời hữu thần không chịu từ bỏ ý định: “Nếu như Cố đại nhân thực sự ngã bệnh, bây giờ học trò liền đi mời đại phu đến chẩn mạch. Nhược bằng không phải, vậy học trò muốn hỏi Cố đại nhân một chút, nói mà không làm như vậy đến tột cùng là có ý gì.”
“Hừ, nói với ngươi vài câu, ngươi còn hung hăng hơn! Làm sao? Một tên thư sinh nhỏ bé như ngươi, đọc được mấy chữ liền không còn biết đến thiên vương lão tử là ai nữa có phải không?” Mắt của gã thị tòng cũng đã hồng lên, xắn xắn tay áo cố làm ra vẻ như muốn đánh nhau. Mấy vị lão học già cả gầy trơ xương kia cuống quýt can ngăn, đám huyện lại nhát gan vội vàng quỳ xuống cầu xin tha thứ, mấy thư sinh còn lại của thư viện thì sống chết ôm chặt lấy Đỗ Viên Sơn muốn kéo hắn đi.
Chỉ trong chốc lát, viện tử vốn thanh tĩnh đã bị nháo thành một đám hỗn loạn, có người đã chạy vội đi thông báo cho huyện nha, đám thị tòng của Cố phủ cũng nhao nhao rút đao kiếm ra bao vây đám người.
Chỉ có Đỗ Viễn Sơn tính khí quật cường là vẫn mang một vẻ chính khí đạm nhiên, đoan đoan chính chính: “Học trò muốn gặp Cố đại nhân!”
Nói còn chưa hết câu đã bị một vị lão học tát cho một bạt tai. Lão đầu gầy đét tức giận đến run cả người: “Còn không mau câm miệng! Ngươi, ngươi đây là gây ra đại họa động trời a!”
Nhốn nháo còn hơn cả mấy màn võ kịch trong yến tiệc tiếp đón kia. Cố Minh cử ở bên cửa sổ mỉm cười đứng xem, đám người của Nam An huyện đều nhất tề quỳ rạp xuống đất, chỉ có một mình Đỗ Viễn Sơn là vẫn trừng mắt đứng thẳng, búi tóc có chút hỗn loạn, một vài lọn đã rơi xuống đầu vai, một dấu tay đỏ hồng in rõ trên mặt.
Tiểu lão đầu nhìn như chẳng còn mấy sức, ấy thế mà khí lực thật lớn, đánh đến khóe miệng Đỗ Viễn Sơn cũng rỉ ra máu. Vốn là một thư sinh gọn gàng đoan trang, lúc này xem ra lại có mấy phần chật vật bất kham.
Hắn lại hoàn toàn không phát hiện, như bị đóng đinh trên mặt đất, thẳng thẳng sống lưng rồi lại cất cao giọng hô: “Cố đại nhân, học trò có chuyện muốn hỏi!”
Nếu khen ngợi, thì hẳn là nên nói hắn dũng khí can đảm. Còn nếu châm biếm, vậy hắn chính là ngu xuẩn vô cùng.
Vừa rồi ai nói hắn là một tiểu Nghiêm Phượng Lâu chứ? Một chút cũng không giống. Phượng khanh của Cố Minh Cử hắn chí ít không ngu xuẩn như vậy.
Viên thị lang cao ngạo khí định thần nhàn tựa người bên khung cửa sổ, ánh mắt nhẹ nhàng phiêu thổi xẹt qua gương mặt Đỗ Viễn Sơn, rơi xuống tàng cây ngô đồng sau lưng hắn, lá vàng phi vũ, rụng xuống trải dài một sắc vàng mênh mang: “Ta không nói chuyện với ngươi. Đi tìm Nghiêm Phượng Lâu đến đây, ta chỉ gặp y.”
Lúc Nghiêm Phượng Lâu tiến vào cửa, Cố Minh Cử vẫn đang nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ. Tựa như cây ngô đồng trong sân kia là một giai nhân đẹp đến không gì bì kịp, rất đáng để hắn ngắm nhìn miết mải, trầm mê như tình lang nghèo túng đứng dưới hoa lâu say đắm không thôi.
Dịch quán được xây dựng từ thời tiền triều, kiến trúc tổng thể có đến tám chín phần vẫn giống y như diện mạo năm đó. Nam An là một địa phương nhỏ, trăm năm hiếm có mấy lần tiếp đón khách quý, vậy nên dịch quán này tuy đã trải qua mấy lần tu sửa nhưng cũng chỉ là sửa sang lại chút đỉnh không đáng kể, thực sự khó có thể gọi là dịch quán thư thái hay thoải mái gì, bất quá chỉ là sạch sẽ hơn một chút so với khách điếm trong thành mà thôi.
Cũng khó trách bị thị lang đại nhân từ kinh thành xa xôi đến bắt bẻ từng chút. Trạch viện của vị đại nhân này ở kinh thành là do thánh thượng khâm ban, đình đài lầu các không chỗ nào là không tinh xảo, vật dụng bày biện không thứ nào là không xa xỉ hoa lệ, nhìn khắp thế gian, chỉ có tướng phủ của Cao tướng và cung điện của hoàng gia là có thể vượt trội hơn, đám quan lại bình thường khác không thể nào cùng sánh vai.
Nghiêm Phượng Lâu quỳ trên nền nhà lát đá, cáo lỗi nói: “Tệ huyện nghèo nàn, tiếp đãi không được chu toàn, xin đại nhân thứ tội.”
Y không ngẩng đầu lên, chỉ dốc lòng chuyên chú nhìn xuống nền đá dưới gối, hệt như đang nghiên cứu xem nó có được lau thật sạch sẽ hay không, cũng giống như Cố Minh Cử ngắm nhìn cây ngô đồng trong sân.
Ngoài phòng nổi lên một trận gió, ánh mắt Cố Minh Cử dõi theo một chiếc lá vàng đang chầm chậm rơi xuống từ trên cành: “Phượng khanh, ta tìm ngươi đến, không phải là để nghe ngươi nói những lời này.”
Đỗ Viên Sơn và đám thị tòng Cố phủ lúc trước ồn ào nháo loạn đều đã bị đưa ra khỏi sân, trong phòng ngoài phòng đều vắng vẻ, chỉ còn lại hai người bọn họ. Một phòng quang ảnh đan xen, bóng ảnh của chiếc ghế tựa và bộ kỷ trà bằng gỗ bị kéo ra thật dài trên mặt đất.
Huyện thừa trẻ tuổi mặc một thân quan phục màu xanh lục đang chống hai tay xuống đất, lại cúi thấp đầu nói: “Hạ quan biết tội.”
“Ngươi biết tội gì?” Hắn ngồi tĩnh lặng bên song cửa sổ, nhẹ nhàng hỏi lại, trong khẩu khí không nghe ra là vui hay giận.
Y không đáp lời, chỉ đem vầng trán trên gương mặt nghiêm túc như băng kề xuống thật sát nền đá lạnh lẽo.
Trong phòng lại là một hồi tĩnh lặng, Cố Minh Cử vẫn ngồi ở nơi đó không nhúc nhích, chẳng biết đang suy nghĩ những gì. Đúng lúc Nghiêm Phượng Lâu tưởng rằng sẽ phải tiếp tục giằng co như vậy, lại nghe được tiếng Cố Minh Cử nói: “Khung cửa sổ này quá cũ rồi, nước sơn đều đã rơi xuống. Cảm phiền Nghiêm huyện thừa đổi cho bản quan một khung cửa mới, thuận tiện đem tất cả cửa sổ trong dịch quán đều đổi lại đi. Mới cũ không đồng nhất, quả thực rất khó coi.”
Nghiêm Phượng Lâu lại khom người cúi lạy: “Là hạ quan sơ suất, thần sẽ lập tức sai người đến lo liệu.”
Y vội vàng đứng dậy rời đi, còn chưa bước được nửa bước đã bị Cố Minh Cử gọi lại.
Viên thị lang tân nhậm nghe đồn rất hay âm tình bất định kia chợt nhướng chân mày, quay mặt về từ phía khung cửa sổ: “Nghiêm đại nhân, bản quan biết ngươi sự vụ bộn bề, nhưng dịch quán tuy nhỏ cũng là nơi ngươi sở hạt, từng việc nhỏ như cái bàn hay chăn nệm sớm nên chỉnh sửa cho thỏa đáng, lẽ nào phải chờ bản quan nói cho ngươi biết từng việc từng việc, ngươi mới phát hiện ra hay sao?”
Nghiêm Phượng Lâu nhất thời lúng túng, đang định biện bạch. Cố Minh Cử lại không cho y nửa điểm cơ hội, chầm chậm cong khóe môi lên, dùng một đôi mắt sắc bén nhìn thẳng vào mắt y: “Hay là, đây là đạo làm quan của ngươi? Phượng khanh.”
“Hạ quan, hạ quan không kiểm tra kỹ càng, xin đại nhân khoan thứ.” Từ lúc bước vào phòng tới giờ, y lần thứ ba cúi đầu xin lỗi, âm điệu rất nhỏ, mơ hồ lộ ra một chút chua xót.
Nếu cẩn thận tính toán lại, sẽ thấy từ khi bước chân vào Nam An huyện đến giờ, mấy lời đối thoại ít ỏi, hơn một nửa đều là y xin tha thứ. “Hạ quan biết tội”, “Lỗi của hạ quan”, “Là hạ quan thất lễ”… Không lúc nào không thoái nhượng, không lúc nào không kéo xa khoảng cách.
Nụ cười của Cố Minh Cử không chống đỡ nổi nữa, từ đầu đến cuối y chỉ rũ mắt xuống không chịu nhìn thẳng vào mình: “Ngươi không muốn nói chuyện với ta?”
Là một câu hỏi, nhưng cả hai đều biết rõ đáp án trong lòng.
Huyện thừa có một gương mặt tuấn tú quay mặt đi chỗ khác mà hỏi: “Đại nhân còn có điều gì phân phó?”
Cố Minh Cử ngồi trên cao tọa giọng điệu càng lúc càng dịu dàng: “Ngoài những điều này, ngươi không còn gì muốn nói với ta sao?”
Nghiêm Phượng Lâu trầm mặc, ánh mắt gắt gao hướng xuống đầu gối của chính mình.
“Ví dụ như, vì sao ta không ngừng ồn ào đòi thay đổi gia cụ?”
“…”
“Hoặc là, vì sao ta phải khi dễ Đỗ Viễn Sơn?”
“…”
Hắn tự hỏi tự nói, Nghiêm Phượng Lâu vẫn một mực lắng nghe không đáp câu nào.
Mãi cho đến khi trong phòng lại khôi phục thành một mảnh tĩnh mịch, trong tiếng hô hấp khó xử, Nam An huyện thừa mới chậm rãi mở miệng, cất giọng trầm nhỏ hỏi: “Vì sao đến Nam An?”
Nghiêm Phượng Lâu so với trước kia gầy đi rất nhiều, không biết là vất vả vì chính vụ hay bởi vì nguyên nhân nào khác, thoạt nhìn so với mấy ngày trước lúc Cố Minh Cử mới vào thành lại càng gầy yếu tiều tụy hơn. Bộ quan phục y mặc là đồ cũ, sau nhiều lần giặt tẩy, màu sắc tiên diễm nguyên bản đã trở nên ảm đạm, bị vùi lấp trong âm ảnh chằng chịt đan xen của bàn ghế và những vật dụng khác, càng lộ ra cảm giác không thân thiết.
Cố Minh Cử nhìn thân ảnh gầy yếu của y, trên mặt bỗng nhiên tràn ra một loại thần tình kỳ lạ: “Nếu ta nói, ta tới là vì muốn ôm ngươi một lần, ngươi có tin không?”
Cho dù tự lặp lại rất nhiều lần với bản thân rằng phải trấn tĩnh, Nhưng sống lưng Nghiêm Phượng Lâu vẫn nhịn không được khẽ run lên. Phản ứng cực nhỏ ấy liền lọt vào trong mắt Cố Minh Cử, hắn gợi lên một mạt cười nhàn nhạt bên môi: “Nghiêm Phượng Lâu, ta xuất kinh không phải để hồi hương, dừng chân ở Thanh Châu cũng không phải nhất thời nổi hứng. Ta đến chính là để ôm ngươi.”
Quá thẳng thắn, thẳng thắn hệt như lại đang trêu ghẹo chọc đùa y. Lại một lần nữa, ở trước mặt Cố Minh Cử kinh nghiệm quan trường đầy mình, Nghiêm Phượng Lâu bị kích động đến phất tay áo giận dữ.
“Cố Minh Cử, ngươi đủ rồi đấy!” Y chẳng còn bận tâm đến cái gì tôn ti trật tự, buột miệng gọi thẳng tên họ của hắn, ánh mặt trời sau ngọ xuyên qua song cửa sổ chiếu lên mặt y, mơ hồ có thể nhìn thấy màu đỏ ửng nổi lên trên hai gò má.
Cố Minh Cử chớp chớp mắt, như một hài tử vô tội mà ngẩng đầu nhìn người nam tử trước mặt: “Ta nói rồi đấy, là ngươi không tin.”
Hắn có một đôi mắt trong veo như mặt gương sáng, nhìn vào liền thấy tận đáy, bên trong tràn đầy chân thành. Nghiêm Phượng Lâu lại biết rất rõ ràng, kỳ thực bên dưới vẻ chân thành ấy ẩn giấu đầy những ngươi lừa ta gạt. Y nhìn thẳng vào mắt hắn, nói gằn từng tiếng: “Cố Minh Cử, giữa ta và ngươi sớm đã không còn một chút tình nghĩa nào.”
Lời vừa nói ra, hệt như tấm thẻ bài phán quyết sinh tử bị ném xuống trên công đường. Trong khoảnh khắc, trên mặt Cố Minh Cử thoáng xẹt qua một tia gì đó, nhưng lướt qua quá nhanh khiến người ta không thể nắm bắt được.
Nghiêm Phượng Lâu không muốn tiếp tục dây dưa với hắn, xoay người cất bước rời đi.
Sau lưng, Cố Minh Cử đã khôi phục lại phong thái như thường, trong lời nói vẫn mang theo ý cười dịu dàng như trước: “Ít nhất vẫn còn tình nghĩa giữa đồng liêu, không phải sao Nghiêm đại nhân? Ha ha, đúng rồi, ngươi có thể từ quan. Như vậy, chúng ta liền thực sự… thực sự không còn lại một chút tình nghĩa nào. Nhưng mà, một khi làm vậy, lý tưởng chăm lo cho dân chúng một phương của ngươi cũng liền không thực hiện được nữa. Ta và bách tính, ở trong lòng ngươi phần nào nhẹ hơn phần nào nặng hơn đây? Phượng khanh.”
Từng kết giao rất thân thiết, hắn biết rất nhiều điều, toàn bộ những thứ có thể uy hiếp mình đều bị hắn nắm được rõ ràng trong lòng bàn tay.
Nghiêm Phượng Lâu nắm chặt hai tay thành quyền, hận không thể ngay lập tức quay trở về huyện nha của mình, lúc đi tới bên cửa bỗng nhiên lại nghe thấy hắn vô cớ đổi chủ đề: “Nghe nói gần đây Nghiêm đại nhân đang xét xử một vụ án mạng. Con cháu nhà giàu cường thưởng dân nữ, bức người ta phải tự vẫn đúng không? Chậc chậc, không ngờ Nam An huyện do Nghiêm huyện thừa cai quản cũng có lúc xảy ra thảm sự khiến người khác phải rơi lệ thế này.”
Nhịn không được bèn dừng bước lại, trả lời hắn một câu: “Cố đại nhân đã nhìn quen sóng gió, những thảm sự thê lương hơn nữa cũng từng chính mắt chứng kiến vô số lần. Sao lại vì một dân nữ bình thường yếu nhược mà ca thán thở dài?”
Như dự đoán, lại đổi lấy một hồi thở dài than ngắn của hắn: “Phượng khanh à, ở trong mắt ngươi, ta thực sự đáng ghét như vậy sao?”
Nghiêm Phượng Lâu không trả lời. Cố Minh Cử nhìn tấm bình phong họa tranh thủy mặc trước mặt, hi vọng có thể từ bên trên nhìn loáng thoáng được một chút bóng dáng của y: “Phượng khanh, hãy nghe ta khuyên một câu, án tử này ngươi đừng quá thành thật. Kẻ phạm tội là Tứ thiếu gia của nhà họ Tôn phải không? Nhà hắn có một người họ hàng xa, là Trần đại nhân của Hình bộ.”
Nghiêm Phượng Lâu cảm thấy tâm tình mình rất quái dị, tựa như trong lòng vừa vì một tiếng thở dài của hắn mà dấy lên một ngọn lửa nho nhỏ, rồi lại bị một câu nói ngắn ngủi của Cố Minh Cử vô tình tưới nước dập tắt đi: “A, không hổ là Cố đại nhân thông tuệ khôn khéo. Ngay cả một việc nhỏ nhặt cách xa kinh thành như vậy cũng khiến ngài phải hao tâm.”
Tiếng thở dài của Cố Minh Cử cách một tấm bình phong truyền vào trong tai Nghiêm Phượng Lâu: “Phượng khanh, ngươi đã làm quan được năm năm rồi. Trong năm năm đã từng lo liệu biết bao nhiêu việc trên khắp bốn phương, thiên hạ hiện giờ là thiên hạ như thế nào, ngươi lại càng rõ ràng hơn ta. Việc đã vô dụng, dựa vào sự kiên trì của một mình ngươi có thể thay đổi được gì sao? Phượng khanh, đừng quá gây khó dễ với mọi người, cũng đừng quá khó dễ với chính bản thân mình.”
Nghiêm Phượng Lâu cắn chặt môi dưới, mải miết đi ra khỏi viện tử của Cố Minh Cử.
Ngoài sân, đám huyện lại của huyện nha và Đỗ Viên Sơn vẫn đang đứng chờ y. Vừa thấy Nghiêm Phượng Lâu đi ra, Đỗ Viễn Sơn liền vội vàng tiến đến trước mặt y hỏi: “Thế nào? Có phải vị Cố thị lang kia gây khó dễ cho ngài không?”
Từ trong ánh mắt lo lắng của Đỗ Viễn Sơn, Nghiêm Phượng Lâu mới phát hiện ra sắc mặt của mình thực sự trắng đến khó coi, bèn giả dối xua xua tay nói: “Không có gì, có lẽ vì dạo này bận rộn với án tử của Tôn gia, có chút mệt mỏi thôi.”
Vì thế mọi người vội vàng mời y lên kiệu. Sau khi đã ngồi vào trong kiệu, không biết là bởi vì những câu nói của Cố Minh Cử, hay vì án tử không thể xét xử thành thật kia, Nghiêm Phượng Lâu thở ra một tiếng thật dài, cũng giống như vẻ bất đắc dĩ và sầu não của Cố Minh Cử ban nãy.
__Hết chương 2__
Chú thích:
(1) sĩ nông công thương: là bốn tầng lớp thời xưa, chỉ người học cao, người làm ruộng, người làm thợ, và người buôn bán. Sĩ nông công thương là cách sắp xếp theo trình tự từ lớn đến nhỏ trong việc cống hiến cho xã hội của người xưa.
Không biết là do ý chỉ của Trương tri phủ hay được vị cao nhân nào chỉ điểm, Nghiêm huyện thừa bận trăm công nghìn việc đặc biệt phái người đến đưa thị lang đại nhân đi du ngoạn: “Mấy ngày này bên bờ Thạch Tháp đang có hội chùa, vô cùng náo nhiệt. Chùa Nam An tuy nhỏ, nhưng phương trượng là một vị cao tăng đắc đạo, có không ít tín đồ từ tám thôn xóm trong phạm vi mười dặm xung quanh, hương khói cũng rất đủ đầy, khi nhàn rỗi liền đi thăm viếng một chút, có thể tâm nguyện của mình sẽ được trở thành hiện thực. Dạo này đang là cuối thu, thời tiết mát mẻ bầu trời quang đãng, chính là thời điểm rất thích hợp để lên núi ngắm lá phong, nếu như bây giờ đại nhân khởi hành, còn có thể ở lại trong chùa dùng một bữa cơm chay…”
Cố Minh Cử ngồi bên cửa sổ hững hờ nghe tên thị tòng trần thuật liên miên không ngừng, Nghiêm Phượng Lâu thật chu đáo tỉ mỉ, chưa nói suốt dọc hành trình sắp xếp mọi việc hết sức chu toàn, còn rất mực tận tâm, mọi thứ đều được thiết trí chiếu theo sở thích của Cố Minh Cử. Đáng quý nhất chính là, thượng khách đi đến chỗ nào cũng có người ân cần phục vụ hướng dẫn, huyện thừa chẳng cần ra mặt chút nào. Huyện thừa đại nhân cần mẫn với công việc có thể yên tâm mà trốn trong huyện nha của y, mặc cho dịch quán bên này gió quật mưa rơi sấm vang chớp giật.
“Ngươi nói xem, có phải ta nên hết lòng khen ngợi hắn không?” Cố Minh Cử nhẹ nhàng bật cười, trong lời nói thậm chí còn mang theo một chút kiêu ngạo.
Thị tòng đứng bên cạnh bị hù cho một trận, lập tức ấp úng ngừng lại mấy lời còn đang thao thao bất tuyệt: “Đại nhân nói rất phải, rất phải…”
Cố Minh Cử cười cười chẳng hề lưu tâm, lại tiếp tục ngoảnh đầu nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ. Những người được Nghiêm Phượng Lâu phái tới để dẫn hắn đi du thành hiện đang đứng dưới gốc cây ngô đồng trong sân, ngoài mấy tên huyện lại của bản huyện, còn có đám hương thân của bản địa, mấy vị lão học già cả, thêm vài ba thư sinh trẻ tuổi đang đứng sau lưng bọn họ, hẳn là những học trò có thành tích xuất sắc nhất trong thư viện Nam An.
Cố Minh Cử nhận ra được người thư sinh đứng đầu trong đám trẻ tuổi kia, chính là người đã dìu Nghiêm Phượng Lâu đứng dậy ở ngoài cổng thành hôm đó. Tuy lúc ấy chỉ vội vàng liếc mắt lướt qua, nhưng ánh mắt sắc bén của thư sinh này lại khiến Cố Minh Cử có ấn tượng rất sâu sắc.
Đỗ Viễn Sơn, nghe nói là học trò có thành tích cao nhất của thư viện Nam An, từng nét chữ đều nắn nót ngay ngắn, rất được huyện thừa Nghiêm Phượng Lâu tán thưởng, là một trong số ít những người bạn tri giao của Nghiêm Phượng Lâu, thường xuyên ra vào huyện thừa phủ. Đỗ gia nhiều đời làm nghề kinh doanh lương thực, tới cha của Đỗ Viên Sơn đã là đời thứ tư, cũng xem như phú hộ trong thành.
Thói đời này, cho dù ngày sau lòng người không còn cổ hủ, nhưng sự phân chia sĩ nông công thương (1) cũ vẫn là có, gia đình làm nghề buôn bán mặc dù gia sản bạc triệu, nhưng luận về danh tiếng lại vẫn không thể nào so được với phần tử trí thức nghèo khổ thanh bạch. Vậy nên, Đỗ lão gia đối với đứa con trai có thiên tư không tồi này chắc hẳn gửi gắm rất nhiều kỳ vọng, tha thiết mong Đỗ Viễn Sơn có thể gặt hái được thành quả trong kỳ thi vào hai năm sau, cũng là để mang vinh quang về an ủi liệt tổ liệt tông.
“Quả đúng là một tiểu Nghiêm Phượng Lâu.”
Vừa hồi tưởng lại tin tức đám thị tòng mới trình lên, Cố Minh Cử vừa nhìn xuyên qua song cửa sổ, tỉ mỉ đánh giá Đỗ Viễn Sơn đang đứng trong sân. Đó là một thanh niên có vóc người khá cao, đứng trong một đám bạn cùng trang lứa cử chỉ cẩn trọng, nét mặt thong dong bình tĩnh rất có chút ý vị của hạc trong bầy gà (nổi bật giữa đám đông). Nhưng dù sao sự trải đời vẫn còn thấp, không biết tự thu liễm, trong lúc nhìn quanh vẫn khó tránh khỏi lộ ra mấy phần ngây ngô và thuần chân quen thuộc của một thư sinh.
Cố Minh Cử nheo mắt, cười cười chỉ về phía bên ngoài cửa sổ, nói với tên thị tòng: “Nghiêm huyện thừa năm đó cũng là một dáng vẻ như vậy đấy.”
Thị tòng tâm tư nhanh nhạy liền đáp phụ họa: “Vậy ạ? Không ngờ Nghiêm huyện thừa như hũ nút kia thời còn trẻ cũng anh tuấn như vậy.”
Cố Minh Cử không đáp, tiếp tục nhìn một lúc rồi mới chậm rãi thu hồi ánh mắt: “Phượng khanh khi đó so với hắn còn đẹp hơn nhiều.”
Tên thị tòng lập tức lại vội vàng gật đầu phụ họa không ngừng, nói Nghiêm Phượng Lâu không cao như thế, khuôn mặt cũng nhu hòa hơn một chút, nhưng ngàn tốt vạn tốt, trên đời này chung quy chỉ có Cố thị lang của chúng ta là tốt nhất, từ trong triều ra đến ngoài triều, ai ai cũng đều muôn miệng một lời nói ngài phong tư trác tuyệt.
Cố Minh Cử cười cười mặc cho gã ba hoa thiên địa. Đến khi tận hứng rồi mới phân phó: “Đi nói với những người trong sân, bản quan hôm nay cảm thấy mệt mỏi, sẽ không đi đến chùa Nam An. Còn hồ Thạch Tháp ngày mai, thì để ngày mai sẽ tính.”
Lập tức có tên thị tòng tay chân nhanh nhẹn đứng trong sân nói với đám huyện lại hương thân, đám người uổng công đứng chờ nửa ngày hiển nhiên là trong lòng không vui, nhưng ngoài mặt vẫn nhiệt tình nói mấy lời đại loại như “Đại nhân đường sá xa xôi tới đây chắc hẳn rất vất vả, đương nhiên cần phải tĩnh dưỡng rồi”.
Cố Minh Cử ngồi trong phòng lắng nghe, ánh mắt xuyên qua song cửa sổ lại rơi lên người Đỗ Viễn Sơn nọ. Thư sinh tuổi trẻ khí thịnh vẫn chưa học được công phu không để lộ sắc thái hỉ nộ, gương mặt trắng nõn sinh ra mấy phần đỏ bừng, sườn mặt vốn đã góc cạnh rõ ràng càng trở nên căng cứng.
Cố thị lang tự cao tự đại đã không phải lần đầu. Bất quá mới vào ngụ trong dịch quán ba ngày, đồ dùng vật dụng bày biện trong ngoài đều đã thay đổi không dưới năm lần. Lúc thì cảm thấy cái bàn bằng gỗ tử đàn có màu sắc quá trầm, lúc lại chán ghét hoa mẫu đơn thêu trên chăn gấm quá tầm thường, có đôi khi chỉ là nhìn không vừa mắt cái chân ghế mà thôi.
Còn việc đi du thành do Nghiêm huyện thừa sắp xếp, lại càng có vẻ như Cố Minh Cử đang tận lực gây khó dễ. Lần nào cũng đều đáp ứng ngay, chẳng nề hà mà phái người chạy đến huyện nha xác nhận lại hành trình tận ba bốn lần, rồi lần nào cũng để người ta đứng chờ trong sân cười khổ suốt hai canh giờ, sau đó nhẹ nhàng truyền ra một câu: “Cố đại nhân thân thể không khỏe, không đi nữa.”
Quá tam ba bận đùa giỡn như vậy, cho dù có là Bồ Tát trong miếu cũng phải tức giận.
Cố Minh Cử đứng lên dạo bước thong thả trong gian phòng rộng lớn, nghe thấy một tiếng ồn ào, đám người trong đình viện lại như mấy lần trước hậm hực tản đi. Bỗng nhiên, có người lớn giọng hỏi: “Xin hỏi Cố đại nhân bị bệnh gì?” Khẩu khí đầy khiêu khích.
Không cần đoán, nhất định là Đỗ Viễn Sơn kia. Điểm yếu nhất của người trẻ tuổi chính là không biết nhẫn nhịn, nhất là người trẻ tuổi có gia cảnh và sự đãi ngộ thuận buồm xuôi gió, chưa từng bị phật ý.
Thị tòng của Cố phủ lập tức xông tới, cao giọng quát hỏi: “Bệnh của Cố đại nhân là việc nhà ngươi có thể hỏi tới sao?” Quả thực hung hăng nạt người.
Cố Minh Cử âm thầm lắc đầu, rất rõ ràng, ngay cả đám hạ nhân cũng bị mình làm hư mất rồi.
“Nếu nhiễm bệnh, vậy có mời đại phu đến chữa trị chưa? Thứ cho học trò hỏi một câu, đã mời vị danh y nào trong thành?” Hắn hỏi rất chừng mực, chẳng hề vì sự khuyên can của mọi người mà ngừng lại.
Đang đứng ở ngoài cửa trả lời vừa đúng là tên thị tòng mới nãy ở trong phòng nói nói cười cười với Cố Minh Cử: “Ngươi hỏi như vậy là có ý gì? Không phải đang hoài nghi Cố đại nhân nhà chúng ta cố tình khi dễ cái Nam An huyện nhỏ bé của các người đấy chứ? Cố đại nhân của chúng ta đường đường là quan tứ phẩm đương triều, có biết bao nhiêu việc giang sơn xã tắc cần ngài phải bận tâm đến? Ngày nào cũng vừa mở mắt ra là bận bịu đến không còn sức để chớp mắt một cái, còn lòng dạ nào mà thong thả cùng các ngươi tán chuyện không đâu? Nói ra để người ngoài nghe thấy được, không sợ bị người ta cười cho rớt cả răng hay sao!”
Thế là tiếng khuyên giải của mọi người trong sân càng lớn hơn, có người cũng bắt đầu lớn tiếng quát mắng Đỗ Viễn Sơn: “Đây là chỗ để cho ngươi hồ nháo sao! Còn không mau xin lỗi vị tiểu ca này đi?”
Thanh niên nộ khí đùng đùng chỉ đứng thẳng lưng, gương mặt nín nhịn đến đỏ bừng, ánh mắt sáng ngời hữu thần không chịu từ bỏ ý định: “Nếu như Cố đại nhân thực sự ngã bệnh, bây giờ học trò liền đi mời đại phu đến chẩn mạch. Nhược bằng không phải, vậy học trò muốn hỏi Cố đại nhân một chút, nói mà không làm như vậy đến tột cùng là có ý gì.”
“Hừ, nói với ngươi vài câu, ngươi còn hung hăng hơn! Làm sao? Một tên thư sinh nhỏ bé như ngươi, đọc được mấy chữ liền không còn biết đến thiên vương lão tử là ai nữa có phải không?” Mắt của gã thị tòng cũng đã hồng lên, xắn xắn tay áo cố làm ra vẻ như muốn đánh nhau. Mấy vị lão học già cả gầy trơ xương kia cuống quýt can ngăn, đám huyện lại nhát gan vội vàng quỳ xuống cầu xin tha thứ, mấy thư sinh còn lại của thư viện thì sống chết ôm chặt lấy Đỗ Viên Sơn muốn kéo hắn đi.
Chỉ trong chốc lát, viện tử vốn thanh tĩnh đã bị nháo thành một đám hỗn loạn, có người đã chạy vội đi thông báo cho huyện nha, đám thị tòng của Cố phủ cũng nhao nhao rút đao kiếm ra bao vây đám người.
Chỉ có Đỗ Viễn Sơn tính khí quật cường là vẫn mang một vẻ chính khí đạm nhiên, đoan đoan chính chính: “Học trò muốn gặp Cố đại nhân!”
Nói còn chưa hết câu đã bị một vị lão học tát cho một bạt tai. Lão đầu gầy đét tức giận đến run cả người: “Còn không mau câm miệng! Ngươi, ngươi đây là gây ra đại họa động trời a!”
Nhốn nháo còn hơn cả mấy màn võ kịch trong yến tiệc tiếp đón kia. Cố Minh cử ở bên cửa sổ mỉm cười đứng xem, đám người của Nam An huyện đều nhất tề quỳ rạp xuống đất, chỉ có một mình Đỗ Viễn Sơn là vẫn trừng mắt đứng thẳng, búi tóc có chút hỗn loạn, một vài lọn đã rơi xuống đầu vai, một dấu tay đỏ hồng in rõ trên mặt.
Tiểu lão đầu nhìn như chẳng còn mấy sức, ấy thế mà khí lực thật lớn, đánh đến khóe miệng Đỗ Viễn Sơn cũng rỉ ra máu. Vốn là một thư sinh gọn gàng đoan trang, lúc này xem ra lại có mấy phần chật vật bất kham.
Hắn lại hoàn toàn không phát hiện, như bị đóng đinh trên mặt đất, thẳng thẳng sống lưng rồi lại cất cao giọng hô: “Cố đại nhân, học trò có chuyện muốn hỏi!”
Nếu khen ngợi, thì hẳn là nên nói hắn dũng khí can đảm. Còn nếu châm biếm, vậy hắn chính là ngu xuẩn vô cùng.
Vừa rồi ai nói hắn là một tiểu Nghiêm Phượng Lâu chứ? Một chút cũng không giống. Phượng khanh của Cố Minh Cử hắn chí ít không ngu xuẩn như vậy.
Viên thị lang cao ngạo khí định thần nhàn tựa người bên khung cửa sổ, ánh mắt nhẹ nhàng phiêu thổi xẹt qua gương mặt Đỗ Viễn Sơn, rơi xuống tàng cây ngô đồng sau lưng hắn, lá vàng phi vũ, rụng xuống trải dài một sắc vàng mênh mang: “Ta không nói chuyện với ngươi. Đi tìm Nghiêm Phượng Lâu đến đây, ta chỉ gặp y.”
Lúc Nghiêm Phượng Lâu tiến vào cửa, Cố Minh Cử vẫn đang nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ. Tựa như cây ngô đồng trong sân kia là một giai nhân đẹp đến không gì bì kịp, rất đáng để hắn ngắm nhìn miết mải, trầm mê như tình lang nghèo túng đứng dưới hoa lâu say đắm không thôi.
Dịch quán được xây dựng từ thời tiền triều, kiến trúc tổng thể có đến tám chín phần vẫn giống y như diện mạo năm đó. Nam An là một địa phương nhỏ, trăm năm hiếm có mấy lần tiếp đón khách quý, vậy nên dịch quán này tuy đã trải qua mấy lần tu sửa nhưng cũng chỉ là sửa sang lại chút đỉnh không đáng kể, thực sự khó có thể gọi là dịch quán thư thái hay thoải mái gì, bất quá chỉ là sạch sẽ hơn một chút so với khách điếm trong thành mà thôi.
Cũng khó trách bị thị lang đại nhân từ kinh thành xa xôi đến bắt bẻ từng chút. Trạch viện của vị đại nhân này ở kinh thành là do thánh thượng khâm ban, đình đài lầu các không chỗ nào là không tinh xảo, vật dụng bày biện không thứ nào là không xa xỉ hoa lệ, nhìn khắp thế gian, chỉ có tướng phủ của Cao tướng và cung điện của hoàng gia là có thể vượt trội hơn, đám quan lại bình thường khác không thể nào cùng sánh vai.
Nghiêm Phượng Lâu quỳ trên nền nhà lát đá, cáo lỗi nói: “Tệ huyện nghèo nàn, tiếp đãi không được chu toàn, xin đại nhân thứ tội.”
Y không ngẩng đầu lên, chỉ dốc lòng chuyên chú nhìn xuống nền đá dưới gối, hệt như đang nghiên cứu xem nó có được lau thật sạch sẽ hay không, cũng giống như Cố Minh Cử ngắm nhìn cây ngô đồng trong sân.
Ngoài phòng nổi lên một trận gió, ánh mắt Cố Minh Cử dõi theo một chiếc lá vàng đang chầm chậm rơi xuống từ trên cành: “Phượng khanh, ta tìm ngươi đến, không phải là để nghe ngươi nói những lời này.”
Đỗ Viên Sơn và đám thị tòng Cố phủ lúc trước ồn ào nháo loạn đều đã bị đưa ra khỏi sân, trong phòng ngoài phòng đều vắng vẻ, chỉ còn lại hai người bọn họ. Một phòng quang ảnh đan xen, bóng ảnh của chiếc ghế tựa và bộ kỷ trà bằng gỗ bị kéo ra thật dài trên mặt đất.
Huyện thừa trẻ tuổi mặc một thân quan phục màu xanh lục đang chống hai tay xuống đất, lại cúi thấp đầu nói: “Hạ quan biết tội.”
“Ngươi biết tội gì?” Hắn ngồi tĩnh lặng bên song cửa sổ, nhẹ nhàng hỏi lại, trong khẩu khí không nghe ra là vui hay giận.
Y không đáp lời, chỉ đem vầng trán trên gương mặt nghiêm túc như băng kề xuống thật sát nền đá lạnh lẽo.
Trong phòng lại là một hồi tĩnh lặng, Cố Minh Cử vẫn ngồi ở nơi đó không nhúc nhích, chẳng biết đang suy nghĩ những gì. Đúng lúc Nghiêm Phượng Lâu tưởng rằng sẽ phải tiếp tục giằng co như vậy, lại nghe được tiếng Cố Minh Cử nói: “Khung cửa sổ này quá cũ rồi, nước sơn đều đã rơi xuống. Cảm phiền Nghiêm huyện thừa đổi cho bản quan một khung cửa mới, thuận tiện đem tất cả cửa sổ trong dịch quán đều đổi lại đi. Mới cũ không đồng nhất, quả thực rất khó coi.”
Nghiêm Phượng Lâu lại khom người cúi lạy: “Là hạ quan sơ suất, thần sẽ lập tức sai người đến lo liệu.”
Y vội vàng đứng dậy rời đi, còn chưa bước được nửa bước đã bị Cố Minh Cử gọi lại.
Viên thị lang tân nhậm nghe đồn rất hay âm tình bất định kia chợt nhướng chân mày, quay mặt về từ phía khung cửa sổ: “Nghiêm đại nhân, bản quan biết ngươi sự vụ bộn bề, nhưng dịch quán tuy nhỏ cũng là nơi ngươi sở hạt, từng việc nhỏ như cái bàn hay chăn nệm sớm nên chỉnh sửa cho thỏa đáng, lẽ nào phải chờ bản quan nói cho ngươi biết từng việc từng việc, ngươi mới phát hiện ra hay sao?”
Nghiêm Phượng Lâu nhất thời lúng túng, đang định biện bạch. Cố Minh Cử lại không cho y nửa điểm cơ hội, chầm chậm cong khóe môi lên, dùng một đôi mắt sắc bén nhìn thẳng vào mắt y: “Hay là, đây là đạo làm quan của ngươi? Phượng khanh.”
“Hạ quan, hạ quan không kiểm tra kỹ càng, xin đại nhân khoan thứ.” Từ lúc bước vào phòng tới giờ, y lần thứ ba cúi đầu xin lỗi, âm điệu rất nhỏ, mơ hồ lộ ra một chút chua xót.
Nếu cẩn thận tính toán lại, sẽ thấy từ khi bước chân vào Nam An huyện đến giờ, mấy lời đối thoại ít ỏi, hơn một nửa đều là y xin tha thứ. “Hạ quan biết tội”, “Lỗi của hạ quan”, “Là hạ quan thất lễ”… Không lúc nào không thoái nhượng, không lúc nào không kéo xa khoảng cách.
Nụ cười của Cố Minh Cử không chống đỡ nổi nữa, từ đầu đến cuối y chỉ rũ mắt xuống không chịu nhìn thẳng vào mình: “Ngươi không muốn nói chuyện với ta?”
Là một câu hỏi, nhưng cả hai đều biết rõ đáp án trong lòng.
Huyện thừa có một gương mặt tuấn tú quay mặt đi chỗ khác mà hỏi: “Đại nhân còn có điều gì phân phó?”
Cố Minh Cử ngồi trên cao tọa giọng điệu càng lúc càng dịu dàng: “Ngoài những điều này, ngươi không còn gì muốn nói với ta sao?”
Nghiêm Phượng Lâu trầm mặc, ánh mắt gắt gao hướng xuống đầu gối của chính mình.
“Ví dụ như, vì sao ta không ngừng ồn ào đòi thay đổi gia cụ?”
“…”
“Hoặc là, vì sao ta phải khi dễ Đỗ Viễn Sơn?”
“…”
Hắn tự hỏi tự nói, Nghiêm Phượng Lâu vẫn một mực lắng nghe không đáp câu nào.
Mãi cho đến khi trong phòng lại khôi phục thành một mảnh tĩnh mịch, trong tiếng hô hấp khó xử, Nam An huyện thừa mới chậm rãi mở miệng, cất giọng trầm nhỏ hỏi: “Vì sao đến Nam An?”
Nghiêm Phượng Lâu so với trước kia gầy đi rất nhiều, không biết là vất vả vì chính vụ hay bởi vì nguyên nhân nào khác, thoạt nhìn so với mấy ngày trước lúc Cố Minh Cử mới vào thành lại càng gầy yếu tiều tụy hơn. Bộ quan phục y mặc là đồ cũ, sau nhiều lần giặt tẩy, màu sắc tiên diễm nguyên bản đã trở nên ảm đạm, bị vùi lấp trong âm ảnh chằng chịt đan xen của bàn ghế và những vật dụng khác, càng lộ ra cảm giác không thân thiết.
Cố Minh Cử nhìn thân ảnh gầy yếu của y, trên mặt bỗng nhiên tràn ra một loại thần tình kỳ lạ: “Nếu ta nói, ta tới là vì muốn ôm ngươi một lần, ngươi có tin không?”
Cho dù tự lặp lại rất nhiều lần với bản thân rằng phải trấn tĩnh, Nhưng sống lưng Nghiêm Phượng Lâu vẫn nhịn không được khẽ run lên. Phản ứng cực nhỏ ấy liền lọt vào trong mắt Cố Minh Cử, hắn gợi lên một mạt cười nhàn nhạt bên môi: “Nghiêm Phượng Lâu, ta xuất kinh không phải để hồi hương, dừng chân ở Thanh Châu cũng không phải nhất thời nổi hứng. Ta đến chính là để ôm ngươi.”
Quá thẳng thắn, thẳng thắn hệt như lại đang trêu ghẹo chọc đùa y. Lại một lần nữa, ở trước mặt Cố Minh Cử kinh nghiệm quan trường đầy mình, Nghiêm Phượng Lâu bị kích động đến phất tay áo giận dữ.
“Cố Minh Cử, ngươi đủ rồi đấy!” Y chẳng còn bận tâm đến cái gì tôn ti trật tự, buột miệng gọi thẳng tên họ của hắn, ánh mặt trời sau ngọ xuyên qua song cửa sổ chiếu lên mặt y, mơ hồ có thể nhìn thấy màu đỏ ửng nổi lên trên hai gò má.
Cố Minh Cử chớp chớp mắt, như một hài tử vô tội mà ngẩng đầu nhìn người nam tử trước mặt: “Ta nói rồi đấy, là ngươi không tin.”
Hắn có một đôi mắt trong veo như mặt gương sáng, nhìn vào liền thấy tận đáy, bên trong tràn đầy chân thành. Nghiêm Phượng Lâu lại biết rất rõ ràng, kỳ thực bên dưới vẻ chân thành ấy ẩn giấu đầy những ngươi lừa ta gạt. Y nhìn thẳng vào mắt hắn, nói gằn từng tiếng: “Cố Minh Cử, giữa ta và ngươi sớm đã không còn một chút tình nghĩa nào.”
Lời vừa nói ra, hệt như tấm thẻ bài phán quyết sinh tử bị ném xuống trên công đường. Trong khoảnh khắc, trên mặt Cố Minh Cử thoáng xẹt qua một tia gì đó, nhưng lướt qua quá nhanh khiến người ta không thể nắm bắt được.
Nghiêm Phượng Lâu không muốn tiếp tục dây dưa với hắn, xoay người cất bước rời đi.
Sau lưng, Cố Minh Cử đã khôi phục lại phong thái như thường, trong lời nói vẫn mang theo ý cười dịu dàng như trước: “Ít nhất vẫn còn tình nghĩa giữa đồng liêu, không phải sao Nghiêm đại nhân? Ha ha, đúng rồi, ngươi có thể từ quan. Như vậy, chúng ta liền thực sự… thực sự không còn lại một chút tình nghĩa nào. Nhưng mà, một khi làm vậy, lý tưởng chăm lo cho dân chúng một phương của ngươi cũng liền không thực hiện được nữa. Ta và bách tính, ở trong lòng ngươi phần nào nhẹ hơn phần nào nặng hơn đây? Phượng khanh.”
Từng kết giao rất thân thiết, hắn biết rất nhiều điều, toàn bộ những thứ có thể uy hiếp mình đều bị hắn nắm được rõ ràng trong lòng bàn tay.
Nghiêm Phượng Lâu nắm chặt hai tay thành quyền, hận không thể ngay lập tức quay trở về huyện nha của mình, lúc đi tới bên cửa bỗng nhiên lại nghe thấy hắn vô cớ đổi chủ đề: “Nghe nói gần đây Nghiêm đại nhân đang xét xử một vụ án mạng. Con cháu nhà giàu cường thưởng dân nữ, bức người ta phải tự vẫn đúng không? Chậc chậc, không ngờ Nam An huyện do Nghiêm huyện thừa cai quản cũng có lúc xảy ra thảm sự khiến người khác phải rơi lệ thế này.”
Nhịn không được bèn dừng bước lại, trả lời hắn một câu: “Cố đại nhân đã nhìn quen sóng gió, những thảm sự thê lương hơn nữa cũng từng chính mắt chứng kiến vô số lần. Sao lại vì một dân nữ bình thường yếu nhược mà ca thán thở dài?”
Như dự đoán, lại đổi lấy một hồi thở dài than ngắn của hắn: “Phượng khanh à, ở trong mắt ngươi, ta thực sự đáng ghét như vậy sao?”
Nghiêm Phượng Lâu không trả lời. Cố Minh Cử nhìn tấm bình phong họa tranh thủy mặc trước mặt, hi vọng có thể từ bên trên nhìn loáng thoáng được một chút bóng dáng của y: “Phượng khanh, hãy nghe ta khuyên một câu, án tử này ngươi đừng quá thành thật. Kẻ phạm tội là Tứ thiếu gia của nhà họ Tôn phải không? Nhà hắn có một người họ hàng xa, là Trần đại nhân của Hình bộ.”
Nghiêm Phượng Lâu cảm thấy tâm tình mình rất quái dị, tựa như trong lòng vừa vì một tiếng thở dài của hắn mà dấy lên một ngọn lửa nho nhỏ, rồi lại bị một câu nói ngắn ngủi của Cố Minh Cử vô tình tưới nước dập tắt đi: “A, không hổ là Cố đại nhân thông tuệ khôn khéo. Ngay cả một việc nhỏ nhặt cách xa kinh thành như vậy cũng khiến ngài phải hao tâm.”
Tiếng thở dài của Cố Minh Cử cách một tấm bình phong truyền vào trong tai Nghiêm Phượng Lâu: “Phượng khanh, ngươi đã làm quan được năm năm rồi. Trong năm năm đã từng lo liệu biết bao nhiêu việc trên khắp bốn phương, thiên hạ hiện giờ là thiên hạ như thế nào, ngươi lại càng rõ ràng hơn ta. Việc đã vô dụng, dựa vào sự kiên trì của một mình ngươi có thể thay đổi được gì sao? Phượng khanh, đừng quá gây khó dễ với mọi người, cũng đừng quá khó dễ với chính bản thân mình.”
Nghiêm Phượng Lâu cắn chặt môi dưới, mải miết đi ra khỏi viện tử của Cố Minh Cử.
Ngoài sân, đám huyện lại của huyện nha và Đỗ Viên Sơn vẫn đang đứng chờ y. Vừa thấy Nghiêm Phượng Lâu đi ra, Đỗ Viễn Sơn liền vội vàng tiến đến trước mặt y hỏi: “Thế nào? Có phải vị Cố thị lang kia gây khó dễ cho ngài không?”
Từ trong ánh mắt lo lắng của Đỗ Viễn Sơn, Nghiêm Phượng Lâu mới phát hiện ra sắc mặt của mình thực sự trắng đến khó coi, bèn giả dối xua xua tay nói: “Không có gì, có lẽ vì dạo này bận rộn với án tử của Tôn gia, có chút mệt mỏi thôi.”
Vì thế mọi người vội vàng mời y lên kiệu. Sau khi đã ngồi vào trong kiệu, không biết là bởi vì những câu nói của Cố Minh Cử, hay vì án tử không thể xét xử thành thật kia, Nghiêm Phượng Lâu thở ra một tiếng thật dài, cũng giống như vẻ bất đắc dĩ và sầu não của Cố Minh Cử ban nãy.
__Hết chương 2__
Chú thích:
(1) sĩ nông công thương: là bốn tầng lớp thời xưa, chỉ người học cao, người làm ruộng, người làm thợ, và người buôn bán. Sĩ nông công thương là cách sắp xếp theo trình tự từ lớn đến nhỏ trong việc cống hiến cho xã hội của người xưa.
Bình luận truyện