Đại Phách Quan
Chương 15
Khoảnh khắc nhìn thấy Hạ Mẫn Chi không chút sinh lực nằm trên mặt đất, huyết dịch cả người Niếp Thập Tam tựa hồ cũng đông lại, đau đớn như có lớp băng phủ khắp kinh mạch huyết quản, sống không bằng chết.
——–
Hôm đó thẩm án xong, Dương Lục rời điện, thấy Hạ Mẫn Chi đã sớm thay một kiện áo choàng gấm Thiên Hương màu trắng đứng chờ, như thiên tiên giáng thế, khiến người nhìn đến quên cả trần tục.
Đến Tích Thúy lâu, chọn món, cua còn chưa lên bàn, Hạ Mẫn Chi đã gọi một vò Liên hoa bạch thật to, cùng hai chung rượu, mỗi lần ngửa cổ là một chung, uống liền ba chung, mới cười nói: “Dương đại nhân, rượu này đúng là rất nhạt.”
Dương Lục xuất thân thế gia, giỏi uống rượu thích đối ẩm, cười nói: “Rượu này không nhạt lắm đâu, bất quá hôm nay ăn cua, không nên uống bạch tửu. Cua tươi ngon, chính là phối hợp tuyệt vời với hoàng tửu, phải uống Huệ tuyền tửu của Thành Châu Giang Nam mới đúng.”
Hạ Mẫn Chi cao hứng bừng bừng, lập tức phất tay gọi tiểu nhị tới: “Cho thêm một vò Huệ tuyền tửu!”
Dương Lục từ lúc được đề bạt vào Đại Lý Tự, từ Ti trực thăng lên Thiếu khanh mất bảy năm, cũng xem như niên thiếu đầy hứa hẹn, hành sự thông minh cẩn thận không nói, cặp mắt còn như luyện trong lò bát quái mà ra, có khi thẩm án trên công đường không đợi dụng hình, chỉ nhìn nhãn thần của hắn, phạm nhân thường lập tức co rúm cả người không dám khai man, đúng là một nhân vật lợi hại đến cả con ruồi bay ngang qua cũng có thể phân rõ đực cái.
Lúc này đã sớm phát hiện Hạ Mẫn Chi có điểm khác thường, cũng không nói ra, chỉ đạm đạm một câu: “Trong lòng nếu khó chịu, uống say cũng tốt.”
Nói xong liền một chung tiếp một chung bồi Hạ Mẫn Chi.
Dương Lục trời sinh tửu lượng tốt, còn Hạ Mẫn Chi thâm tàng bất lộ, không tới một canh giờ, hai người đã uống sạch hai vò rượu.
Trên mặt Dương Lục đã nổi lên một tầng ửng hồng, nhưng thần sắc Hạ Mẫn Chi vẫn không chút nào thay đổi, Dương Lục luôn yêu quý nhân tài, lúc này đã ngà ngà say, còn mừng rỡ: “Thì ra tửu lượng của ngươi tốt như vậy! Cho hai vò nữa, hôm nay không say không về!”
Hạ Mẫn Chi chỉ cười không nói.
Càng uống về sau, hai người chê chung rượu không đủ hào sảng, chuyển sang dùng chén.
Mãi cho đến lúc trăng treo giữa trời, gia bộc của Dương Lục tìm tới dìu ai đó đã say khướt kia trở về.
Hạ Mẫn Chi vẫn cười im lặng, khuôn mặt trắng như ngọc, đôi mắt lại sáng đến dọa người, lấy một nén bạc đặt lên bàn, tự rời khỏi Tích Thúy lâu, đơn độc chậm rãi đi dọc theo phố Nạp Phúc về nhà.
Ánh trăng như sương, trên đường không có lấy một bóng người, chỉ nghe vang vang tiếng cước bộ của mình, từng bước từng bước như giẫm lên trái tim, đột nhiên lảo đảo, dựa vào tường, gập lưng nôn thốc nôn tháo, tựa hồ muốn nôn ra hết ngũ tạng lục phủ, nôn xong lại ngửa mặt nhìn trời cười to, dường như vui sướng vô hạn, ngã xuống nền đất rải đá xanh, ngủ mê đi.
Hôm sau tỉnh lại phát hiện cả người mình không còn mang mùi rượu, chỉ có hương thơm ngát sau khi tắm rửa, một thân y phục cũng sạch sẽ thoải mái, nheo mắt trông ra ngoài cửa sổ, chính là ngày thu trời quang.
Hạ bá bưng tới một chén cháo, nói đã thay hắn đến Đại Lý Tự xin nghỉ.
Hạ Mẫn Chi lưỡng lự hỏi: “Ai mang ta về?”
Hạ bá đáp: “Ngoài Thập Tam ra, còn ai vào đây?”
“Vậy hắn đâu?”
“Đi rồi, hắn bảo ngươi yên tâm, hắn sẽ không quay lại.” Hạ bá vuốt mái tóc đen dài của hắn: “Tiểu thiếu gia, tính cách này của ngươi, thật là hại người hại mình, nên sửa đổi thì hơn. Ta hy vọng cho dù ngươi chỉ còn sống được một ngày, cũng phải sống cho vui vẻ.”
Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Ta hiểu rồi, sẽ không để người phải lo lắng nữa.”
Hạ bá thấy hắn cuối cùng vẫn không nghe mình khuyên giải, thở dài bỏ đi.
Từ đó Hạ Mẫn Chi càng thêm cần cù, chỉ trong nửa năm đã xem hết tất cả quyển tông về những vụ án cũ suốt hai mươi năm nay của Đại Lý Tự, thủ pháp thẩm án càng thêm thần quỷ khó lường, nhìn hắn mỉm cười ngồi xuống trước điện, bộ dáng ngây thơ nửa tựa vào ghế rũ hai hàng mi, ngay cả Dương Lục trong lòng cũng có chút phát lãnh.
Thoáng chốc đã là mùa xuân Huyên Tĩnh năm thứ mười một, ba châu ở Giang Nam gặp lũ lụt, ruộng đồng bạt ngàn đều bị hủy, bá tính màn trời chiếu đất.
Văn Đế lệnh Thái tử đích thân vận chuyển lương thực vật tư xuôi nam cứu tế, lại lệnh trong cung cắt giảm chi tiêu, miễn giảm cho các châu ở Giang Nam ba năm thuế má.
Đối mặt với thiên tai, quân thần Trữ quốc đồng lòng hợp sức, tương trợ vạn dân.
Đất phong của Lâm Tương vương Đàn Khinh Trần chỉ cách Giang Nam một con sông, trước khi Thái tử đến, đã sớm phái hai châu Lâm Tương trưng thu lương thực lều vải đi cả đêm đưa tới Giang Nam, lại dùng ngân lượng tồn trong vương phủ, đồng thời mượn của phú hộ trong thành tổng cộng được hơn hai mươi vạn đem mua lương thực, một mặt bình chiếu (bán lương thực theo giá qui định trong những năm mất mùa), một mặt lập các điểm cung cấp cháo từ thiện cho dân đói, đồng thời lấy mình làm gương, đích thân đến nơi chịu lụt, ở trong Ngọc Châu phủ không chỗ nào không ẩm ướt, không tường nào không xiêu vẹo suốt mười ngày, thân tín trong phủ đều xuất động cứu tế nạn dân.
Niếp Thập Tam chỉ lấy sức lực của một người, giúp toàn bộ Mặc Lương trấn không ai vong mạng.
Xong chuyện liền phất áo bỏ đi, không hề để lại danh tính.
Đợi đến khi Thái tử tới, tình hình ba châu Giang Nam đã dịu đi, sau trận đại họa, người bị chết chìm cuốn trôi vô số, nhưng không ai chết đói cơ nhỡ ngoài đường, bá tính Giang Nam đều tung hô Lâm Tương vương là “Phật sống tái thế”.
Thái tử giận dữ trở về Tĩnh Phong, tấu rằng Lâm Tương vương tự tiện can thiệp Giang Nam chính sự, nên trị tội bất kính không hợp lễ nghi.
Mà tấu chương của Đàn Khinh Trần cũng gần như đồng thời trình lên bàn của Văn Đế, đồng thời thông báo cả lục bộ. Rằng:
Từ xưa có dạy, lụt hạn mất mùa, phải kịp thời cứu tế, lúc đó Giang Nam giá vật tăng vọt, mà không có tồn trữ, vì tránh bá tính đói khát, nên thần đệ phát gạo cấp cháo cứu nạn, cũng là vì con dân Đại Trữ mà suy nghĩ, khẩn cầu hoàng huynh thứ tội đi trước một bước, lại xin triều đình phát trăm vạn bạc, dốc lòng cứu tế, chấn chỉnh đường thủy của cả Âu giang lẫn Kim giang ở Giang Nam.
Một phen phân giải, vừa yêu dân, vừa trung quân, tuy thỉnh tội, nhưng khiến người vô pháp xuống tay định tội, mở miệng đòi ngân lượng không nói, còn mượn cơ hội muốn nhất cử thống trị quyền chi phối thủy vận Giang Nam, khôn khéo đường hoàng quang minh chính đại, Văn Đế siết chặt tấu sớ, trầm mặc thật lâu, mới từ kẽ răng rít ra một câu: “Khá lắm Đàn Khinh Trần! Khá lắm Thập tứ đệ!”
Trong mắt hiện lên ba phần thưởng thức ba phần cảnh giác ba phần tiếc hận cùng một phần mỏi mệt chìm nổi, đạm đạm ra lệnh: “Từ Diên, gọi Thái tử đến đây.”
Khi Phó Thiếu Dương tới thì đêm đã khuya, Văn Đế tay chống trán, đang tỉ mỉ xem phán quyết xử trí của Đại Lý Tự đối với đám quan lại giấu diếm tình hình, kháng thiên tai bất lực, bòn rút của công vào túi riêng, mức hình phạt đề nghị hơi nặng, nhưng hay ở chỗ công phu văn tự rất cao, rằng: có công không thưởng, có tội không phạt, dù là Nghiêu Thuấn cũng không thể trị vì, huống hồ là người khác? Thiên tai có thể bỏ qua, nhưng nhân họa phải dùng nghiêm pháp, vừa khiến quan lại không dám thất trách, lại càng không dám thừa cơ chiếm của công —— vừa nhìn liền biết là bút tích của Hạ Mẫn Chi.
Không khỏi gật đầu, lại thở dài: “Hài tử này, thế mà không sợ mang tiếng ác quan!”
Ngẩng đầu nhìn Thái tử, đợi hắn hành lễ xong, cầm tấu chương của hắn, ngữ khí vô cùng ôn hòa: “Ngươi muốn trị tội Thập tứ thúc ngươi?”
Thái tử khoanh tay nói: “Phải.” (láo thật =.=)
“Tại sao?”
Thái tử không đáp, hai người vừa là quân thần, vừa là phụ tử, câu trả lời này, cũng không cần phải nói ra miệng.
Văn Đế thở dài: “Đây gọi là đứng ngồi không yên có phải không? Đúng là hồ đồ! Thiên hạ này cho dù thuộc về họ Phó, Đàn Khinh Trần cứu tế kịp thời, vãn hồi vô số tánh mạng con dân, đối với thiên hạ, đối với Phó gia đều lập đại công, ngươi muốn tranh đoạt lòng dân, e ngại danh vọng của công thần, há là tâm tư nên có của một thái tử?”
“Ngay thời điểm này giáng tội hắn, trong triều bá quan oán thầm, thiên hạ bá tính phẫn hận, thanh danh triều đình bị ảnh hưởng không nói, thậm chí cả trẫm cũng cảm thấy đáng tiếc.”
“Hiện tại thiên hạ thái bình, trong tay Lâm Tương vương cũng không binh không quyền, chẳng lẽ còn có thể làm loạn? Ngươi nóng lòng diệt trừ hắn như thế, không khỏi rơi xuống bậc tiểu thừa, nào có nửa phần khí phách của thiên tử? Thật khiến trẫm thất vọng.”
Ném hai quyển sớ ngay dưới chân Thái tử: “Hảo hảo nhìn tấu chương của Thập tứ thúc ngươi, rồi tự nhìn lại mình, theo đó mà học hỏi!”
Trên mặt Thái tử thoáng hiện vẻ không phục cùng phẫn hận, nhặt tấu chương, lặng lẽ lui ra.
Hôm sau bá quan thượng triều, quả nhiên đều nói phen này cứu nạn dân Lâm Tương vương có công đầu, Văn Đế mỉm cười hạ chỉ: Lâm Tương vương Đàn Khinh Trần được quyền cai trị đường thủy Âu giang cùng Kim giang, ban hiệu “Duệ”, phong làm Duệ vương.
Tan triều lúc hậu cung dâng chè hạt sen, bởi vì quá ngọt, khiến long nhan giận dữ, hất đổ cả chén chè.
Đêm mồng năm tháng chín, Hạ Mẫn Chi đã sớm hầm canh gà, rửa sạch rau xanh và đậu cà vỏ, làm hai bát mỳ trường thọ thật to đặt trên mâm trúc.
Nhìn mặt trăng sắp ngả về tây, sắc trời dần sáng, Hạ Mẫn Chi châm thêm dầu, tựa hồ muốn dùng chút đốm lửa nhạt không tắt kia giữ lại đêm mồng năm, mở cửa, gió như quyến luyến ngọn đèn kia, xông thẳng vào trong nhà, nhưng Niếp Thập Tam thủy chung vẫn không tới.
Vừa lập đông, thương thế cũ của Hạ bá tái phát, chân khí phản phệ, tẩu hỏa nhập ma, một thân võ công phế sạch, nằm liệt trên giường.
Hạ Mẫn Chi xin nghỉ dài hạn, đêm ngày lao tâm, sớm hôm hầu hạ.
Có một buổi hoàng hôn, thành Tĩnh Phong gặp một trận tuyết.
Tinh thần Hạ bá đã khá hơn, hai mắt thần quang trầm tĩnh, hỏi: “Chi Mẫn, tuyết rơi rồi phải không?”
Hạ Mẫn Chi đứng dậy, từ song cửa nhìn ra, nói: “Phải a, tuyết rơi rất dày.” Ngồi lại bên giường, ngạc nhiên nói: “Sao Bạt Liệt bá bá biết?”
Hạ bá mỉm cười: “Ta có thể ngửi được mùi tuyết.” Lại nói: “Ngươi mở cửa sổ, cho ta xem xem có giống tuyết ở Tây Châu chúng ta không.”
Hạ Mẫn Chi thấy tình hình lão không qua khỏi đêm nay, nên không khuyên can, đỡ lão tựa vào thành giường, vén chăn thật kỹ, khẽ cười nói: “Xem ra người đã nhớ Tây Châu rồi, chờ người khỏe lại, ta dẫn người về thăm.”
Nói xong mở cửa sổ, chỉ thấy bông tuyết ngập tràn, trắng xóa dày đặc, từ khung trời ảm đạm lất phất rơi xuống.
Hạ bá ngắm nửa ngày, lắc đầu nói: “Không giống… tuyết ở Tây Châu bị gió bọc mạnh mẽ như đao phong, nào có mềm mại như vậy?”
Hạ Mẫn Chi cười nói: “Mềm mại đâu có gì không tốt, cứng quá dễ gãy, mạnh quá dễ hư.”
Hạ bá thở dài: “Đại ca ngươi cũng không khác gì một thanh đao, còn ngươi, thoạt nhìn giống như những bông tuyết này, nhưng xương cốt cả người đều là đao, đều là huyết mạch Mộ Dung thị.”
Hạ Mẫn Chi nghe tới hai chữ “đại ca”, thần sắc trong mắt vừa là căm hận vừa là sợ hãi, nói: “Để ta đút thuốc cho người.”
Hạ bá một phen níu hắn lại: “Không cần uống nữa.” Ngón tay khô gầy vuốt ve khuôn mặt băng lãnh của Hạ Mẫn Chi: “Bá bá đi rồi, ngươi một mình lẻ loi hiu quạnh, phải làm sao đây?”
Hạ Mẫn Chi nén lệ: “Đáng lẽ người phải được sống lâu trăm tuổi, đều tại năm ấy vì cứu ta…”
Hạ bá cười nói: “Tiểu tử ngươi rất thông minh, nhưng cũng rất cố chấp, Bạt Liệt Thiên Lý này sống thêm vài năm hay sống bớt vài năm có gì khác biệt? Đáng tiếc chuyện ta đáp ứng mẫu thân ngươi vẫn chưa hoàn thành, không thể lúc nào cũng ở bên ngươi.”
Trầm mặc một lát, nói: “Đại ca ngươi… Không biết có lại tìm đến ngươi nữa không…”
Hạ Mẫn Chi lạnh lùng nói: “Có, nhất định là có.” Nhìn về phía ngoài cửa sổ xa xa, tuyết phủ trắng xóa một vùng, trong thanh âm mơ hồ mang theo hàn ý khôn kể: “Mộ Dung Chi Khác chắc chắn không vô thanh vô tức chết đi như vậy, chỉ cần hắn còn sống, ắt sẽ tìm đến ta.”
Hạ bá nói: “Hắn từ nhỏ đã kiêu ngạo, mấy năm qua nhất định một lòng muốn phục quốc, đến chừng đó lại ép ngươi…”
Hạ Mẫn Chi trong mắt lộ vẻ lãnh khốc, ngắt lời: “Tên điên đó một khi trùng kiến Yên Diệc, e rằng ngàn dặm lãnh thổ Trung Nguyên, máu chảy thành sông, từ đó trở thành địa ngục A Tỳ, cũng may với thực lực hiện tại của Trữ quốc, hắn muốn điên đảo giang sơn không khác gì lấy trứng chọi đá, ta giờ đã là Hữu thừa Đại Lý Tự, không phải sợ hắn nữa, trái lại hắn chỉ còn nước rơi vào tay ta.”
Hạ bá ảm đạm thở dài, thanh âm thấp đi: “Đời này hắn nợ ngươi quá nhiều, nhưng dù sao cũng là huynh trưởng của ngươi, là cốt nhục của Yên Diệc quốc, năm xưa ngươi cũng đã từng lập thệ sẽ tận lực bảo trụ tính mạng hắn.”
Hạ Mẫn Chi mỉm cười, nhưng lại lạnh lùng thấu xương: “Ta còn sống ngày nào, sẽ không để hắn chết ngày đó, bất quá… Ta sẽ chặt đứt tham vọng, đập tan ý niệm của hắn, khiến hắn còn khổ sở hơn cả chết.”
Hạ bá trong lòng khẽ than, nhãn thần dần dần ảm đạm, lại cười nói: “Không nói chuyện này nữa… Chi Mẫn, sau khi ta chết, ngươi đừng quá thương tâm. Ngươi cũng biết, cả đời này của ta, thời khắc hạnh phúc nhất, ngoài những năm tuổi trẻ, một người một kiếm tung hoành khắp Trung Nguyên, còn lại chính là bảy năm này, được sống như một lão nhân bình thường, đánh cá nuôi chim, cùng ngươi nương tựa lẫn nhau.”
Hạ Mẫn Chi nắm chặt tay lão, im lặng lắng nghe, trên mặt mang ý cười, nhưng trong lòng tựa hồ có một thanh đao đang càn quấy, Bạt Liệt Thiên Lý là người bảy năm trước liều chết cứu mình, là người bảy năm qua luôn trung thành tận tâm không bỏ mặc mình. Như ngọn núi cả trong đời, tuy trầm mặc, nhưng đong đầy tình thương sâu nặng.
Bóng đêm thâm trầm, Hạ bá nhắm mắt, ngón tay đã lạnh lẽo cứng đờ.
Ngọn đèn trên bàn đột nhiên rực sáng, ánh lửa đỏ hồng, sau đó liền “phụt” một tiếng vang nhỏ, dầu cạn đèn tắt, chỉ còn tuyết quang ngoài cửa sổ.
Hạ Mẫn Chi vẫn nắm chặt tay Hạ bá, trái tim như bị vùi trong lớp tuyết sâu. Cuối cùng… chỉ còn lại mình ta đơn độc.
Niếp Thập Tam, Hạ bá, một sinh ly, một tử biệt, giữa đêm khuya tuyết ý thâm hàn, Hạ Mẫn Chi rốt cuộc vẫn cô đơn.
Đột nhiên một cỗ đau đớn hàn lãnh tà ác từ ngực dâng lên, nhanh chóng ập tới ngũ tạng, lan khắp tứ chi xương cốt, khiến máu thịt đều như đóng băng.
Hạ Mẫn Chi trong mắt lộ vẻ hoảng sợ, miễn cưỡng giơ tay lên, mu bàn tay đã trắng bệch, trong suốt đến quỷ dị, nhìn kỹ một hồi, nguyên lai đã ngưng đọng thành một tầng băng sương mỏng manh —— Hoàng Tuyền tam trọng tuyết! Sau năm năm do trong lòng lao lực bi thương quá độ mà lần thứ hai bộc phát.
Lần này bên cạnh đã không còn cao thủ như Hạ bá tương trợ, Mộ Dung Chi Mẫn cũng được, Hạ Mẫn Chi cũng được, có mặt trên thế gian mười chín năm, cứ như vậy biến mất cũng chưa hẳn là chuyện không tốt.
Mộ Dung Chi Khác, nguyện ngươi sống lâu trăm tuổi, phục quốc vô vọng.
Đàn Khinh Trần… Người khác nhìn không ra ngươi muốn gì, nhưng ngươi không hề giấu diếm ta, nguyện ngươi đạt được sở nguyện, độc chưởng càn khôn, đừng cô phụ giang sơn ngàn dặm như tranh này.
Niếp Thập Tam… Thập Tam, ta chỉ nguyện ngươi cả đời bình an hạnh phúc…
Nụ cười trên môi vẫn nguyên vẹn không đổi, Hạ Mẫn Chi lặng lẽ ngã xuống.
Sắc mặt Niếp Thập Tam có chút nhợt nhạt, nhưng thần tình lãnh tĩnh như đao phong.
Ba ngày ba đêm, bàn tay hắn gần như không hề rời khỏi huyệt Khí Hải của Hạ Mẫn Chi.
Niếp Thập Tam không biết Hạ Mẫn Chi trúng độc Hoàng Tuyền tam trọng tuyết, tự nhiên cũng không có thuốc giải cho loại độc này, nhưng hắn biết, hàn độc có lợi hại tới đâu đều có thể bị chân khí thuần hậu dương cương áp chế, tựa như mặt trời chói chang có thể đánh tan băng tuyết, đạo lý này nhất định không sai.
Về phần trên đỉnh Thiên Sơn tồn tại loại băng vĩnh viễn không tan, về phần chân khí của mình không được như ánh mặt trời mãi mãi không cạn kiệt —— hai chuyện này Niếp Thập Tam cũng chẳng buồn nghĩ nữa.
Khoảnh khắc nhìn thấy Hạ Mẫn Chi không chút sinh lực nằm trên mặt đất, huyết dịch cả người Niếp Thập Tam tựa hồ cũng đông lại, đau đớn như có lớp băng phủ khắp kinh mạch huyết quản, sống không bằng chết.
Sau cửa ải sinh tử, Niếp Thập Tam đã sớm học cách tuyệt không buông tay, cho nên, trước khi chân khí cạn kiệt, nếu có thể cứu được Hạ Mẫn Chi, hai người liền cùng nhau sống sót; còn không thì trước bình mình ngày mai, chỉ còn là hai cỗ thi thể băng lãnh.
Vô luận thế nào, dù sinh hay tử, đều là một đôi.
——–
Hôm đó thẩm án xong, Dương Lục rời điện, thấy Hạ Mẫn Chi đã sớm thay một kiện áo choàng gấm Thiên Hương màu trắng đứng chờ, như thiên tiên giáng thế, khiến người nhìn đến quên cả trần tục.
Đến Tích Thúy lâu, chọn món, cua còn chưa lên bàn, Hạ Mẫn Chi đã gọi một vò Liên hoa bạch thật to, cùng hai chung rượu, mỗi lần ngửa cổ là một chung, uống liền ba chung, mới cười nói: “Dương đại nhân, rượu này đúng là rất nhạt.”
Dương Lục xuất thân thế gia, giỏi uống rượu thích đối ẩm, cười nói: “Rượu này không nhạt lắm đâu, bất quá hôm nay ăn cua, không nên uống bạch tửu. Cua tươi ngon, chính là phối hợp tuyệt vời với hoàng tửu, phải uống Huệ tuyền tửu của Thành Châu Giang Nam mới đúng.”
Hạ Mẫn Chi cao hứng bừng bừng, lập tức phất tay gọi tiểu nhị tới: “Cho thêm một vò Huệ tuyền tửu!”
Dương Lục từ lúc được đề bạt vào Đại Lý Tự, từ Ti trực thăng lên Thiếu khanh mất bảy năm, cũng xem như niên thiếu đầy hứa hẹn, hành sự thông minh cẩn thận không nói, cặp mắt còn như luyện trong lò bát quái mà ra, có khi thẩm án trên công đường không đợi dụng hình, chỉ nhìn nhãn thần của hắn, phạm nhân thường lập tức co rúm cả người không dám khai man, đúng là một nhân vật lợi hại đến cả con ruồi bay ngang qua cũng có thể phân rõ đực cái.
Lúc này đã sớm phát hiện Hạ Mẫn Chi có điểm khác thường, cũng không nói ra, chỉ đạm đạm một câu: “Trong lòng nếu khó chịu, uống say cũng tốt.”
Nói xong liền một chung tiếp một chung bồi Hạ Mẫn Chi.
Dương Lục trời sinh tửu lượng tốt, còn Hạ Mẫn Chi thâm tàng bất lộ, không tới một canh giờ, hai người đã uống sạch hai vò rượu.
Trên mặt Dương Lục đã nổi lên một tầng ửng hồng, nhưng thần sắc Hạ Mẫn Chi vẫn không chút nào thay đổi, Dương Lục luôn yêu quý nhân tài, lúc này đã ngà ngà say, còn mừng rỡ: “Thì ra tửu lượng của ngươi tốt như vậy! Cho hai vò nữa, hôm nay không say không về!”
Hạ Mẫn Chi chỉ cười không nói.
Càng uống về sau, hai người chê chung rượu không đủ hào sảng, chuyển sang dùng chén.
Mãi cho đến lúc trăng treo giữa trời, gia bộc của Dương Lục tìm tới dìu ai đó đã say khướt kia trở về.
Hạ Mẫn Chi vẫn cười im lặng, khuôn mặt trắng như ngọc, đôi mắt lại sáng đến dọa người, lấy một nén bạc đặt lên bàn, tự rời khỏi Tích Thúy lâu, đơn độc chậm rãi đi dọc theo phố Nạp Phúc về nhà.
Ánh trăng như sương, trên đường không có lấy một bóng người, chỉ nghe vang vang tiếng cước bộ của mình, từng bước từng bước như giẫm lên trái tim, đột nhiên lảo đảo, dựa vào tường, gập lưng nôn thốc nôn tháo, tựa hồ muốn nôn ra hết ngũ tạng lục phủ, nôn xong lại ngửa mặt nhìn trời cười to, dường như vui sướng vô hạn, ngã xuống nền đất rải đá xanh, ngủ mê đi.
Hôm sau tỉnh lại phát hiện cả người mình không còn mang mùi rượu, chỉ có hương thơm ngát sau khi tắm rửa, một thân y phục cũng sạch sẽ thoải mái, nheo mắt trông ra ngoài cửa sổ, chính là ngày thu trời quang.
Hạ bá bưng tới một chén cháo, nói đã thay hắn đến Đại Lý Tự xin nghỉ.
Hạ Mẫn Chi lưỡng lự hỏi: “Ai mang ta về?”
Hạ bá đáp: “Ngoài Thập Tam ra, còn ai vào đây?”
“Vậy hắn đâu?”
“Đi rồi, hắn bảo ngươi yên tâm, hắn sẽ không quay lại.” Hạ bá vuốt mái tóc đen dài của hắn: “Tiểu thiếu gia, tính cách này của ngươi, thật là hại người hại mình, nên sửa đổi thì hơn. Ta hy vọng cho dù ngươi chỉ còn sống được một ngày, cũng phải sống cho vui vẻ.”
Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Ta hiểu rồi, sẽ không để người phải lo lắng nữa.”
Hạ bá thấy hắn cuối cùng vẫn không nghe mình khuyên giải, thở dài bỏ đi.
Từ đó Hạ Mẫn Chi càng thêm cần cù, chỉ trong nửa năm đã xem hết tất cả quyển tông về những vụ án cũ suốt hai mươi năm nay của Đại Lý Tự, thủ pháp thẩm án càng thêm thần quỷ khó lường, nhìn hắn mỉm cười ngồi xuống trước điện, bộ dáng ngây thơ nửa tựa vào ghế rũ hai hàng mi, ngay cả Dương Lục trong lòng cũng có chút phát lãnh.
Thoáng chốc đã là mùa xuân Huyên Tĩnh năm thứ mười một, ba châu ở Giang Nam gặp lũ lụt, ruộng đồng bạt ngàn đều bị hủy, bá tính màn trời chiếu đất.
Văn Đế lệnh Thái tử đích thân vận chuyển lương thực vật tư xuôi nam cứu tế, lại lệnh trong cung cắt giảm chi tiêu, miễn giảm cho các châu ở Giang Nam ba năm thuế má.
Đối mặt với thiên tai, quân thần Trữ quốc đồng lòng hợp sức, tương trợ vạn dân.
Đất phong của Lâm Tương vương Đàn Khinh Trần chỉ cách Giang Nam một con sông, trước khi Thái tử đến, đã sớm phái hai châu Lâm Tương trưng thu lương thực lều vải đi cả đêm đưa tới Giang Nam, lại dùng ngân lượng tồn trong vương phủ, đồng thời mượn của phú hộ trong thành tổng cộng được hơn hai mươi vạn đem mua lương thực, một mặt bình chiếu (bán lương thực theo giá qui định trong những năm mất mùa), một mặt lập các điểm cung cấp cháo từ thiện cho dân đói, đồng thời lấy mình làm gương, đích thân đến nơi chịu lụt, ở trong Ngọc Châu phủ không chỗ nào không ẩm ướt, không tường nào không xiêu vẹo suốt mười ngày, thân tín trong phủ đều xuất động cứu tế nạn dân.
Niếp Thập Tam chỉ lấy sức lực của một người, giúp toàn bộ Mặc Lương trấn không ai vong mạng.
Xong chuyện liền phất áo bỏ đi, không hề để lại danh tính.
Đợi đến khi Thái tử tới, tình hình ba châu Giang Nam đã dịu đi, sau trận đại họa, người bị chết chìm cuốn trôi vô số, nhưng không ai chết đói cơ nhỡ ngoài đường, bá tính Giang Nam đều tung hô Lâm Tương vương là “Phật sống tái thế”.
Thái tử giận dữ trở về Tĩnh Phong, tấu rằng Lâm Tương vương tự tiện can thiệp Giang Nam chính sự, nên trị tội bất kính không hợp lễ nghi.
Mà tấu chương của Đàn Khinh Trần cũng gần như đồng thời trình lên bàn của Văn Đế, đồng thời thông báo cả lục bộ. Rằng:
Từ xưa có dạy, lụt hạn mất mùa, phải kịp thời cứu tế, lúc đó Giang Nam giá vật tăng vọt, mà không có tồn trữ, vì tránh bá tính đói khát, nên thần đệ phát gạo cấp cháo cứu nạn, cũng là vì con dân Đại Trữ mà suy nghĩ, khẩn cầu hoàng huynh thứ tội đi trước một bước, lại xin triều đình phát trăm vạn bạc, dốc lòng cứu tế, chấn chỉnh đường thủy của cả Âu giang lẫn Kim giang ở Giang Nam.
Một phen phân giải, vừa yêu dân, vừa trung quân, tuy thỉnh tội, nhưng khiến người vô pháp xuống tay định tội, mở miệng đòi ngân lượng không nói, còn mượn cơ hội muốn nhất cử thống trị quyền chi phối thủy vận Giang Nam, khôn khéo đường hoàng quang minh chính đại, Văn Đế siết chặt tấu sớ, trầm mặc thật lâu, mới từ kẽ răng rít ra một câu: “Khá lắm Đàn Khinh Trần! Khá lắm Thập tứ đệ!”
Trong mắt hiện lên ba phần thưởng thức ba phần cảnh giác ba phần tiếc hận cùng một phần mỏi mệt chìm nổi, đạm đạm ra lệnh: “Từ Diên, gọi Thái tử đến đây.”
Khi Phó Thiếu Dương tới thì đêm đã khuya, Văn Đế tay chống trán, đang tỉ mỉ xem phán quyết xử trí của Đại Lý Tự đối với đám quan lại giấu diếm tình hình, kháng thiên tai bất lực, bòn rút của công vào túi riêng, mức hình phạt đề nghị hơi nặng, nhưng hay ở chỗ công phu văn tự rất cao, rằng: có công không thưởng, có tội không phạt, dù là Nghiêu Thuấn cũng không thể trị vì, huống hồ là người khác? Thiên tai có thể bỏ qua, nhưng nhân họa phải dùng nghiêm pháp, vừa khiến quan lại không dám thất trách, lại càng không dám thừa cơ chiếm của công —— vừa nhìn liền biết là bút tích của Hạ Mẫn Chi.
Không khỏi gật đầu, lại thở dài: “Hài tử này, thế mà không sợ mang tiếng ác quan!”
Ngẩng đầu nhìn Thái tử, đợi hắn hành lễ xong, cầm tấu chương của hắn, ngữ khí vô cùng ôn hòa: “Ngươi muốn trị tội Thập tứ thúc ngươi?”
Thái tử khoanh tay nói: “Phải.” (láo thật =.=)
“Tại sao?”
Thái tử không đáp, hai người vừa là quân thần, vừa là phụ tử, câu trả lời này, cũng không cần phải nói ra miệng.
Văn Đế thở dài: “Đây gọi là đứng ngồi không yên có phải không? Đúng là hồ đồ! Thiên hạ này cho dù thuộc về họ Phó, Đàn Khinh Trần cứu tế kịp thời, vãn hồi vô số tánh mạng con dân, đối với thiên hạ, đối với Phó gia đều lập đại công, ngươi muốn tranh đoạt lòng dân, e ngại danh vọng của công thần, há là tâm tư nên có của một thái tử?”
“Ngay thời điểm này giáng tội hắn, trong triều bá quan oán thầm, thiên hạ bá tính phẫn hận, thanh danh triều đình bị ảnh hưởng không nói, thậm chí cả trẫm cũng cảm thấy đáng tiếc.”
“Hiện tại thiên hạ thái bình, trong tay Lâm Tương vương cũng không binh không quyền, chẳng lẽ còn có thể làm loạn? Ngươi nóng lòng diệt trừ hắn như thế, không khỏi rơi xuống bậc tiểu thừa, nào có nửa phần khí phách của thiên tử? Thật khiến trẫm thất vọng.”
Ném hai quyển sớ ngay dưới chân Thái tử: “Hảo hảo nhìn tấu chương của Thập tứ thúc ngươi, rồi tự nhìn lại mình, theo đó mà học hỏi!”
Trên mặt Thái tử thoáng hiện vẻ không phục cùng phẫn hận, nhặt tấu chương, lặng lẽ lui ra.
Hôm sau bá quan thượng triều, quả nhiên đều nói phen này cứu nạn dân Lâm Tương vương có công đầu, Văn Đế mỉm cười hạ chỉ: Lâm Tương vương Đàn Khinh Trần được quyền cai trị đường thủy Âu giang cùng Kim giang, ban hiệu “Duệ”, phong làm Duệ vương.
Tan triều lúc hậu cung dâng chè hạt sen, bởi vì quá ngọt, khiến long nhan giận dữ, hất đổ cả chén chè.
Đêm mồng năm tháng chín, Hạ Mẫn Chi đã sớm hầm canh gà, rửa sạch rau xanh và đậu cà vỏ, làm hai bát mỳ trường thọ thật to đặt trên mâm trúc.
Nhìn mặt trăng sắp ngả về tây, sắc trời dần sáng, Hạ Mẫn Chi châm thêm dầu, tựa hồ muốn dùng chút đốm lửa nhạt không tắt kia giữ lại đêm mồng năm, mở cửa, gió như quyến luyến ngọn đèn kia, xông thẳng vào trong nhà, nhưng Niếp Thập Tam thủy chung vẫn không tới.
Vừa lập đông, thương thế cũ của Hạ bá tái phát, chân khí phản phệ, tẩu hỏa nhập ma, một thân võ công phế sạch, nằm liệt trên giường.
Hạ Mẫn Chi xin nghỉ dài hạn, đêm ngày lao tâm, sớm hôm hầu hạ.
Có một buổi hoàng hôn, thành Tĩnh Phong gặp một trận tuyết.
Tinh thần Hạ bá đã khá hơn, hai mắt thần quang trầm tĩnh, hỏi: “Chi Mẫn, tuyết rơi rồi phải không?”
Hạ Mẫn Chi đứng dậy, từ song cửa nhìn ra, nói: “Phải a, tuyết rơi rất dày.” Ngồi lại bên giường, ngạc nhiên nói: “Sao Bạt Liệt bá bá biết?”
Hạ bá mỉm cười: “Ta có thể ngửi được mùi tuyết.” Lại nói: “Ngươi mở cửa sổ, cho ta xem xem có giống tuyết ở Tây Châu chúng ta không.”
Hạ Mẫn Chi thấy tình hình lão không qua khỏi đêm nay, nên không khuyên can, đỡ lão tựa vào thành giường, vén chăn thật kỹ, khẽ cười nói: “Xem ra người đã nhớ Tây Châu rồi, chờ người khỏe lại, ta dẫn người về thăm.”
Nói xong mở cửa sổ, chỉ thấy bông tuyết ngập tràn, trắng xóa dày đặc, từ khung trời ảm đạm lất phất rơi xuống.
Hạ bá ngắm nửa ngày, lắc đầu nói: “Không giống… tuyết ở Tây Châu bị gió bọc mạnh mẽ như đao phong, nào có mềm mại như vậy?”
Hạ Mẫn Chi cười nói: “Mềm mại đâu có gì không tốt, cứng quá dễ gãy, mạnh quá dễ hư.”
Hạ bá thở dài: “Đại ca ngươi cũng không khác gì một thanh đao, còn ngươi, thoạt nhìn giống như những bông tuyết này, nhưng xương cốt cả người đều là đao, đều là huyết mạch Mộ Dung thị.”
Hạ Mẫn Chi nghe tới hai chữ “đại ca”, thần sắc trong mắt vừa là căm hận vừa là sợ hãi, nói: “Để ta đút thuốc cho người.”
Hạ bá một phen níu hắn lại: “Không cần uống nữa.” Ngón tay khô gầy vuốt ve khuôn mặt băng lãnh của Hạ Mẫn Chi: “Bá bá đi rồi, ngươi một mình lẻ loi hiu quạnh, phải làm sao đây?”
Hạ Mẫn Chi nén lệ: “Đáng lẽ người phải được sống lâu trăm tuổi, đều tại năm ấy vì cứu ta…”
Hạ bá cười nói: “Tiểu tử ngươi rất thông minh, nhưng cũng rất cố chấp, Bạt Liệt Thiên Lý này sống thêm vài năm hay sống bớt vài năm có gì khác biệt? Đáng tiếc chuyện ta đáp ứng mẫu thân ngươi vẫn chưa hoàn thành, không thể lúc nào cũng ở bên ngươi.”
Trầm mặc một lát, nói: “Đại ca ngươi… Không biết có lại tìm đến ngươi nữa không…”
Hạ Mẫn Chi lạnh lùng nói: “Có, nhất định là có.” Nhìn về phía ngoài cửa sổ xa xa, tuyết phủ trắng xóa một vùng, trong thanh âm mơ hồ mang theo hàn ý khôn kể: “Mộ Dung Chi Khác chắc chắn không vô thanh vô tức chết đi như vậy, chỉ cần hắn còn sống, ắt sẽ tìm đến ta.”
Hạ bá nói: “Hắn từ nhỏ đã kiêu ngạo, mấy năm qua nhất định một lòng muốn phục quốc, đến chừng đó lại ép ngươi…”
Hạ Mẫn Chi trong mắt lộ vẻ lãnh khốc, ngắt lời: “Tên điên đó một khi trùng kiến Yên Diệc, e rằng ngàn dặm lãnh thổ Trung Nguyên, máu chảy thành sông, từ đó trở thành địa ngục A Tỳ, cũng may với thực lực hiện tại của Trữ quốc, hắn muốn điên đảo giang sơn không khác gì lấy trứng chọi đá, ta giờ đã là Hữu thừa Đại Lý Tự, không phải sợ hắn nữa, trái lại hắn chỉ còn nước rơi vào tay ta.”
Hạ bá ảm đạm thở dài, thanh âm thấp đi: “Đời này hắn nợ ngươi quá nhiều, nhưng dù sao cũng là huynh trưởng của ngươi, là cốt nhục của Yên Diệc quốc, năm xưa ngươi cũng đã từng lập thệ sẽ tận lực bảo trụ tính mạng hắn.”
Hạ Mẫn Chi mỉm cười, nhưng lại lạnh lùng thấu xương: “Ta còn sống ngày nào, sẽ không để hắn chết ngày đó, bất quá… Ta sẽ chặt đứt tham vọng, đập tan ý niệm của hắn, khiến hắn còn khổ sở hơn cả chết.”
Hạ bá trong lòng khẽ than, nhãn thần dần dần ảm đạm, lại cười nói: “Không nói chuyện này nữa… Chi Mẫn, sau khi ta chết, ngươi đừng quá thương tâm. Ngươi cũng biết, cả đời này của ta, thời khắc hạnh phúc nhất, ngoài những năm tuổi trẻ, một người một kiếm tung hoành khắp Trung Nguyên, còn lại chính là bảy năm này, được sống như một lão nhân bình thường, đánh cá nuôi chim, cùng ngươi nương tựa lẫn nhau.”
Hạ Mẫn Chi nắm chặt tay lão, im lặng lắng nghe, trên mặt mang ý cười, nhưng trong lòng tựa hồ có một thanh đao đang càn quấy, Bạt Liệt Thiên Lý là người bảy năm trước liều chết cứu mình, là người bảy năm qua luôn trung thành tận tâm không bỏ mặc mình. Như ngọn núi cả trong đời, tuy trầm mặc, nhưng đong đầy tình thương sâu nặng.
Bóng đêm thâm trầm, Hạ bá nhắm mắt, ngón tay đã lạnh lẽo cứng đờ.
Ngọn đèn trên bàn đột nhiên rực sáng, ánh lửa đỏ hồng, sau đó liền “phụt” một tiếng vang nhỏ, dầu cạn đèn tắt, chỉ còn tuyết quang ngoài cửa sổ.
Hạ Mẫn Chi vẫn nắm chặt tay Hạ bá, trái tim như bị vùi trong lớp tuyết sâu. Cuối cùng… chỉ còn lại mình ta đơn độc.
Niếp Thập Tam, Hạ bá, một sinh ly, một tử biệt, giữa đêm khuya tuyết ý thâm hàn, Hạ Mẫn Chi rốt cuộc vẫn cô đơn.
Đột nhiên một cỗ đau đớn hàn lãnh tà ác từ ngực dâng lên, nhanh chóng ập tới ngũ tạng, lan khắp tứ chi xương cốt, khiến máu thịt đều như đóng băng.
Hạ Mẫn Chi trong mắt lộ vẻ hoảng sợ, miễn cưỡng giơ tay lên, mu bàn tay đã trắng bệch, trong suốt đến quỷ dị, nhìn kỹ một hồi, nguyên lai đã ngưng đọng thành một tầng băng sương mỏng manh —— Hoàng Tuyền tam trọng tuyết! Sau năm năm do trong lòng lao lực bi thương quá độ mà lần thứ hai bộc phát.
Lần này bên cạnh đã không còn cao thủ như Hạ bá tương trợ, Mộ Dung Chi Mẫn cũng được, Hạ Mẫn Chi cũng được, có mặt trên thế gian mười chín năm, cứ như vậy biến mất cũng chưa hẳn là chuyện không tốt.
Mộ Dung Chi Khác, nguyện ngươi sống lâu trăm tuổi, phục quốc vô vọng.
Đàn Khinh Trần… Người khác nhìn không ra ngươi muốn gì, nhưng ngươi không hề giấu diếm ta, nguyện ngươi đạt được sở nguyện, độc chưởng càn khôn, đừng cô phụ giang sơn ngàn dặm như tranh này.
Niếp Thập Tam… Thập Tam, ta chỉ nguyện ngươi cả đời bình an hạnh phúc…
Nụ cười trên môi vẫn nguyên vẹn không đổi, Hạ Mẫn Chi lặng lẽ ngã xuống.
Sắc mặt Niếp Thập Tam có chút nhợt nhạt, nhưng thần tình lãnh tĩnh như đao phong.
Ba ngày ba đêm, bàn tay hắn gần như không hề rời khỏi huyệt Khí Hải của Hạ Mẫn Chi.
Niếp Thập Tam không biết Hạ Mẫn Chi trúng độc Hoàng Tuyền tam trọng tuyết, tự nhiên cũng không có thuốc giải cho loại độc này, nhưng hắn biết, hàn độc có lợi hại tới đâu đều có thể bị chân khí thuần hậu dương cương áp chế, tựa như mặt trời chói chang có thể đánh tan băng tuyết, đạo lý này nhất định không sai.
Về phần trên đỉnh Thiên Sơn tồn tại loại băng vĩnh viễn không tan, về phần chân khí của mình không được như ánh mặt trời mãi mãi không cạn kiệt —— hai chuyện này Niếp Thập Tam cũng chẳng buồn nghĩ nữa.
Khoảnh khắc nhìn thấy Hạ Mẫn Chi không chút sinh lực nằm trên mặt đất, huyết dịch cả người Niếp Thập Tam tựa hồ cũng đông lại, đau đớn như có lớp băng phủ khắp kinh mạch huyết quản, sống không bằng chết.
Sau cửa ải sinh tử, Niếp Thập Tam đã sớm học cách tuyệt không buông tay, cho nên, trước khi chân khí cạn kiệt, nếu có thể cứu được Hạ Mẫn Chi, hai người liền cùng nhau sống sót; còn không thì trước bình mình ngày mai, chỉ còn là hai cỗ thi thể băng lãnh.
Vô luận thế nào, dù sinh hay tử, đều là một đôi.
Bình luận truyện