Đêm Đầu Tiên
Chương 27
Kent
Chiếc Jaguar phóng hết tốc lực trên con đường nhỏ dẫn đến điền trang. Ngồi ghế sau, Sir Ashton đang đọc lướt một tài liệu dưới ánh sáng tỏa ra từ đèn áp trần xe. Ông khép hồ sơ lại, ngáp dài. Điện thoại trên xe đổ chuông, tài xế thông báo cuộc gọi từ Matxcova rồi chuyển máy cho ông.
-Chúng tôi không tóm được các bạn của ông tại nhà ga Irkoustk, tôi không hiểu họ làm thế nào, nhưng họ đã thoát khỏi vòng kiểm sóat của chúng tôi, MATXCOVA giải thích.
-Tin đáng chán thật! Ashton tức tối.
-Hiện họ đang ở hồ Baikal, trong nhà một tên buôn lậu cổ vật, MATXCOVA tiếp tục thông báo.
-Vậy anh còn chờ gì nữa mà chưa tóm chúng?
-Chờ họ rời khỏi đó, Egorov có hậu thuẫn trong vùng, biệt thự của hắn được một đội quân thu nhỏ canh gác, tôi không muốn một vụ bắt giữ đơn giản biến thành cuộc tắm máu.
-Tôi vẫn biết anh không cẩn trọng đến thế kia mà.
-Tôi biết ông không hài lòng, nhưng dẫu sao chúng tôi vẫn có luật pháp quốc gia. Nếu người của chúng tôi can thiệp và người của Egorov chống trả thì sẽ rất khó giải thích với các nhà chức trách liên bang nguyên nhân một cuộc tấn công như vậy giữa lúc đêm hôm, nhất là không xin lệnh trước. Nói cho cùng, nhìn từ góc độ luật pháp, chúng tôi không có gì đề chê trách hai nhà khoa học đó.
-Lấy lý do chúng xuất hiện trong nhà một tên buôn lậu cổ vật chưa đủ sao?
-Không, chuyện đó không phạm pháp. Hãy kiên nhẫn. Ngay khi họ rời hang ổ, chúng tôi sẽ đón lõng mà không làm lớn chuyện. Tôi hứa với ông tối mai sẽ trục xuất họ ra khỏi Nga qua đường hàng không.
Chiếc Jaguar chệch hướng, Ashton trượt trên ghế sau, suýt nữa thì phải buông cả điện thoại. Ông kịp tóm lấy thành ghế, ngồi thẳng dậy và gõ vào lớp kính ngăn để thể hiện thái độ bât bình với tài xế.
-Tôi có một câu hỏi, MATXCOVA tiếp: ông có tình cờ mưu toan chuyện gì đó mà quên không báo cho tôi biết trước không?
-Anh ám chỉ chuyện gì thế?
-Một sự cố nhỏ đã xảy ra trên chuyến tàu xuyên Xibia. Một nhân viên nhà tàu bị tấn công gây ra vết thương rất nặng ở đầu. Cô ta hiện vẫn phải nằm viện, sọ não bị chấn thương nghiêm trọng.
-Rất tiếc khi biết tin này, bạn thân mến. Tấn công phụ nư là hành động rất xấu xa.
-Nếu nhà khảo cổ và bạn cô ta không có mặt trên chuyến tàu đó thì tôi sẽ không nghi ngờ gì về độ thành thật của ông đâu, nhưng vụ tấn công bỉ ổi đó lại diễn ra đúng ở toa tàu của họ. Tôi nghĩ mình phải đi đến kết luận về một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ngoài ra không có gì khác? Ông sẽ không bao giò mạo mụi hành động mà không cho tôi biết trước, và lại càng không làm vậy trên lãnh thổ của tôi, phải không?
-Dĩ nhiên là không rồi, Ashton đáp, chỉ riêng việc anh ám chỉ như thế đã xúc phạm đến tôi rồi.
Chiếc xe lắc mạnh một lần nữa. Ashton chỉ lại nơ bướm và gõ lần nữa lên ô kính đối diện. Khi ông cầm lại điện thoại, MATXCOVA đã gác máy.
Ashton nhấn nút, vách ngăn kính hạ xuống sau ghế tài xế.
-Anh đã tho6ii run lắc kiểu đó chưa đấy? Sao lại lái nhanh như thế? Theo toi6i biết thì chúng ta đâu có phải đang trên đường đua!
-Không thưa ngài, nhưng chúng ta đang đổ đèo khá dốc, mà phanh xe thì không ăn tí nào! Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng xin ngài thắt dây an toàn vào, tôi e sẽ phải tìm một chổ trũng để dừng chiếc xe tệ hại này lại ngay khi có thể.
Ashton ngước mắt nhìn vẻ ngán ngẩm rồi làm theo những gì tài xế bảo. Tài xế rẽ thành công ở chổ ngoặc tiếp theo, nhưng anh ta không còn cách nào khác là rời đường cái và tiến vào cánh đồng để tránh chiêc xe tải đi ngược chiều.
Chiếc xe bất động, tài xế mở cửa cho Ashton và xin lỗi về sự cố không mong muốn. Anh ta không hiểu nổi, chiêc xe vừa được bảo dưỡng xong, anh ta vừa đánh xe vê từ gara ngay trước khi lên đường. Ashton hỏi anh ta có chiếc đèn pin nào trên xe không, tài xế mở túi đựng dụng cụ rồi đưa cho Sir Ashton một chiếc đèn pin.
-Sao hả, có đèn thì đi mà xem xem gầm xe có bị làm sao không chứ, khốn thật! Ashton ra lệnh.
Tài xế cởi áo khoác rồi chui xuống gầm xe. Chui xuống đó không phải là chuyện dễ dàng gì nhưng anh ta chui được từ đằng sau. Lác sau anh ta chui ra, từ đầu đến chân lấm bùn, rồi thông báo với vẻ vô cùng lúng túng, rằng các te mạch phanh bị thủng.
Ashton thoáng vẻ ngờ vực, không thể tưởng tượng nỗi có kẻ nào đó muốn ám hại ông một cách kỹ lưỡng và bạo liệt như vậy. Rồi ông nhớ tới bức ảnh mà trưởng bộ phận an ninh đã đưa cho ông xem. Ngồi trên băng ghế, dường như Inovy đang nhìn thẳng vào ống kính, và lại còn mỉm cười nữa chứ.
Paris
Inovy tra cứu không biết đến lần thứ bao nhiêu cuốn sách người bạn chơi cờ quá cố tặng. Ông lại giở trang lót ra và đọc thêm lần nữa lời đề tặng:
Tôi biết anh sẽ thích cuốn sách này, không thiếu một thứ gì vì mọi thứ đều có trong này, kể cả bằng chứng về tình bạn của chúng ta cũng vậy.
Bạn chơi cờ tận tụy của anh,
Vackeers
Ông không hiểu gì cả, ông tra giờ trên đồng hồ đeo tay rồi mỉm cười. Ông mặc thêm áo khoác, quàng khăn qunh cổ rồi đi dạo dọc bờ sông Seine buổi tối.
Khi tới cầu Marie, ông gọi cho Walter.
-Cậu vừa gọi cho tôi à?
-Tôi gọi mấy lần mà không được, tôi mất cả hy vọng liên lạc với ông. Adrian đã gọi cho tôi từ Irkoustk, hình như dọc đường họ gặp phiền toái thì phải.
-Phiền toái kiểu gì?
-Ngày càng tai hại hơn, chúng cố mưu sát họ.
Inovy nhìn dòng sông, hết sức cố gắng để giữ bình tĩnh.
-Phải gọi họ về thôi, Walter nói tiếp. Cứ thế này rồi họ sẽ phải gặp chuyện gì đó, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân mình.
-Tôi cũng không, Walter ạ, tôi sẽ không tha thứ cho bản thân mình nếu xảy ra chuyện gì đó. Cậu có biết họ đã gặp Egorov hay chưa không?
-Tôi đoán đã gặp rồi, lúc gác máy thì họ đang đi gặp ông ta. Adrian có vẻ lo lắng ghê gớm. Nếu Keira không quyết tâm đến thế, anh ấy hẳn đã quay trờ về rồi.
-Cậu ấy nói cậu biết ý định đó à?
-Vâng, anh ấy còn nhắc đi nhắc lại nhiều lần ấy chứ, khó khăn lắm tôi mới không khuyến khích anh ấy làm vậy.
-Walter, đây không còn là vấn đê ngày tháng nữa, nhiều nhất là vài tuần nữa thôi, chúng ta sẽ không thê thoát lui, không phải lúc này.
-Ông không có cách nào bảo vệ họ sao?
-Ngay ngày mai tôi sẽ liên lạc với MADRID, chỉ cô ấy mới có thể tác động tới Ashton. Tôi không nghi ngờ lấy một giây rằng chính lão ta đứng sau hành động tàn bạo lần này. Tôi đã thu xếp để gửi tối lão một thông điệp nhỏ vào tối nay, nhưng tôi không nghĩ như vậy là đủ.
-Vậy hãy để tôi bảo Adrian quay về Anh, chúng ta đừng đợi tới khi quá muộn.
-Đã quá muộn mất rồi, Walter, tôi nói với cậu ấy rồi đấy thôi, chúng ta không còn đường lui nữa.
Inovy gác máy. Mãi ngẫm nghĩ, ông cất điện thoại vào túi áo khoác rồi quay về nhà.
Nga
Một viên quản gia bước vào phòng chúng tôi kéo rèm, bên ngoải trời quang đãng, ánh ngày rực rỡ khiến chúng tôi lóa mắt.
Keira vùi đầu vào chăn. Viên quản gia bê khay đựng đồ ăn sáng để ở cuối giường, báo cho chúng tôi biết đã gần mười một giờ; chúng tôi hãy chuẩn bị hành lý sẵn sàng để gặp chủ nhân của ông ta trong đại sảnh vào lúc mười hai giờ. Rồi ông ta lui ra.
Tôi nhìn thây vần trán Keira xuất hiện trở lại và đôi mắt cô ầy liếc nhìn giỏ đựng bánh ngọt; cô ấy với tay nhót một chiếc bánh sừng bò rồi ngoạm ba miếng là hết chiếc bánh.
-Ta không thể ở lại đây một hai ngày sao? Cô ấy rên rỉ rồi uống một hơi cạn tách trả tôi vừa rót cho.
-Ta quay trở lại Luân Đôn đi, anh sẽ mời em tới khách sạn thật sang trọng nào đó nghỉ một tuần… và chúng ta sẽ không rời khỏi phòng trong suốt thời gian đó.
-Anh không muốn tiếp tục đúng không? Chúng ta sẽ được an toàn với Egorov, cô ấy vừa nói vừa đánh chén một miếng bánh xốp.
-Anh thấy em đặt lòng tin vào người này quá nhanh. Mới ngày hôm qua, chúng ta còn chưa quen biết ông ta, vậy mà hôm nay đã cộng tác với ông ta, anh không biết chúng ta đang đi đâu, cũng kho6gn biết chuyện gì đang chờ phía trước.
-Em cũng đâu có biết, nhưng em cảm thấy chúng ta đang tiến gần tới đích.
-Đích nào hả Keira? Những ngôi mộ của Xume hay mộ của chính chúng ta?
-OK, cô ấy vừa nói vừa hất tung chăn ra, đứng vụt dậy. Ta quay về! Em sẽ giải thích với Egorov rằng chúng ta bỏ cuộc, và nếu các vệ sĩ của ông ta để cho chúng ta đi, chúng ta sẽ lên một chiếc taxi chạy thẳng ra sân bay, rồi đáp chuyến bay đầu tiên về Luân Đôn. Em sẽ đảo qua Paris để đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp. À mà… anh cũng được hưởng trợ cấp thất nghiệp chứ nhỉ?
-Em không cần mỉa mai như thế! Đồng ý, chúng ta tiếp tục, nhưng trước tiên phải hứa với anh một chuyện: nếu lại gặp nguy hiểm lần nữa, chúng ta sẽ dừng mọi chuyện.
-Định nghĩa cái anh gọi là nguy hiểm đi, cô ấy vừa nói vừa ngồi xuống giường.
Tôi đưa hai tay ôm trọn khuôn mặt cô ấy, đáp:
-Khi kẻ nào đó cố ám sát em thì là nguy hiểm chứ sao! Anh biết khao khát khám phá của em mạnh hơn tất thảy, nhưng em cần phải ý thức về những nguy cơ chúng ta đang phải đối mặt trước khi quá muộn.
Egorov đang đợi chúng tôi trong đại sảnh của biệt thự. Ông ta mặc một chiếc áo choàng lông thú dài màu trắng, đầu đội mũ chapka. Nếu hằng mơ ước được gặp Michel Strogoff thì ước mong của tôi đã thành hiện thực. Ông ta đưa cho tôi mũ trùm, găng tay, mũ và hai chiếc áo khoác ngắn lót lông thú ấm hơn hẳn so với áo khoác chúng tôi đang mặc.
-Nơi chúng ta đến thực sự rất lạnh, cô cậu nên mặc đủ ấm, mười phút nữa chúng ta sẽ khởi hành, người của tô sẽ lo vận chuyển hành lý cho cô cậu. giờ thì theo tôi, chúng ta xuống bãi đổ xe.
Thang máy dừng lại tại tầng hai, một bộ sưu tập ô tô từ xe thể thao hai chổ đến limousine tổng thống được đổ thành hàng ngay ngắn.
-Có thể thấy ông không chỉ tham gia buôn bán đồ cổ, tôi nói với Egorov.
-Qủa nhiên không, ông ta vừa đáp vừa mở cửa xe.
Hia chiếc ô tô hòm đi trước xe chở chúng tôi, đằng sau là hai chiếc khác chặn hậu. Chúng tôi lao ra phố và đoàn xe chạy trên con đường ven hồ.
-Nếu tôi không nhầm, lát sau tôi lên tiếng, thì phần phía Tây Xibia cách đâyba nghìn cây số, ông có định dừng lại đi vệ sinh không hay chúng ta sẽ chạy xe một mạch tới đó?
Egorov ra hiệu cho tài xế, chiếc xe phanh khựng lại. Ông ta quay sang tôi.
-Cậu quyết tâm khiến tôi phát bực lên hả? Nếu không muốn tham gia chuyến đi này thì cậu có thể xuống xe.
Keira liếc tôi, ánh mắt còn tối hơn cả nước hồ, tôi xin lỗi Egorov, ông ta chìa tay ra cho tôi bắt. Làm sao có thể từ chối một cái bắt tay giữa hai người đàn ông đây? Xe lại lăn bánh, suốt nửa giờ tiếp theo không ai nói câu nào. Con đường dẫn sâu vào một khu rừng tuyết phủ trắng xóa. Lát sau chúng tôi tới Koty, một ngôi làng nhỏ xinh. Đoàn xe giảm tốc độ men theo một đường tắt, đến cuối đường chúng tôi nhìn thấy hai nhà kho lớn, từ đường cái không thể nhìn ra. Đoàn xe dừng lại, Egorov mời chúng tôi đi theo ông ta. Bên trong mỗi nhà kho là một chiếc trực thăng loại lớn được quân đội Nga dùng để chuyên chở quân và quân dụng. Tôi đã từng thấy những chiếc tương tự trong loạt phóng sự về cuộc chiến Nga phát động tại Afghanistan, nhưng chưa bao giờ được nhìn chúng từ khoảng cách gần thế này.
-Cô cậu sẽ không tin tôi đâu, Egorov vừa nói vừa tiên lại gần chiếc thứ nhất, nhưng tôi đã có chúng nhờ thắng cược đấy.
Keira nhìn tôi với vẻ phấn khích, rồi bước lên thang dẫn tới buồn lái.
-Thật ra ông là loại người nào vậy? Tôi hỏi Egorov.
-Một đồng minh, ông ta vừa nói vừa vỗ vai tôi, và tôi vẫn nuôi hy vọng thuyết phục cậu tin vào điều đó. Cậu có lên không hay muốn ở lại trong nhà kho này?
Khoang lái rộng rĩa không khác gì khoang lái của một chiếc máy bay chở khách thông thường. Các xe cút kít có cần nâng di chuyển lên máy bay theo đường cửa lật phía sau, đưa vào khoang hầm những thùng lớn được người của Egorov xếp gọn gàng. Khoang hành khách được trang bị hai mươi lăm ghế. Chiếc Mil Mi-26 gắn động cơ mười một nghìn hai trăm bốn mươi mã lực và điều này khiến chủ sở hữu của nó hãnh diện không khác gì việc nuôi một con chiến mã màu hồng. Chúng tôi có bốn chặn dừng chân để tiếp nhiên liệu. Với trọng tải hiện nay, máy bay có thể bay liền một mạch sáu trăm cây số, chúng tôi sẽ phải mất mười một tiếng để vượt ba nghìn cây số tới Man-Pupu-Nyor. Các máy nâng đã rời khỏi khoang hầm, người của Egorov kiểm tra lại lần cuối dây đai buộc các thùng dụng cụ, rồi cửa khoang hầm lật lên và máy bay được kéo ra bên ngoài nhà kho.
Tua bin bắt đầu rít lên, âm thanh trở nên đinh tai nhức ốc trong buồng lái khi tám cánh quạt bắt đầu quay tít.
-Rồi sẽ quen thôi, Egorov hét lên, hãy tranh thủ ngắm cảnh vật bên dưới, cô cậu sẽ khám phá nước Nga theo cách hiếm người biết đến đấy.
Phi công quay lại ra hiệu cho chúng tôi và cổ máy nặng nề bắt đầu tăng độ cao. Cách mặt đất năm mươi mét, mũi máy bay chúc xuống và Keira áp mặt vào ô cửa kính.
Sau một giờ bay, Egorov chỉ cho chúng tôi thành phố Ilanski, đằng xa bên trái chúng tôi, rồi đến Kansk và Krasnoiarsk mà chúng tôi không dám bay gần để tránh tầm quét rada của bộ phận kiểm soát không lưu. Viên phi công điều khiển máy bay có vẻ hiểu rõ công việc mình đang làm, chúng tôi chỉ bay trên những khoảng trằng trãi dài tưởng chừng bất tận. Thỉnh thoảng, một dòng sông băng lại vắt ngang qua mặt đất một đường mảnh ánh bạc như một vệt chì than trên mặt giấy.
Chặng dừng đầu tiên trên bờ sông Uda; thành phố Aragay cách chổ đổ của chiếc trực thăng chở chúng tôi vài cây số. Hai chiếc xe tải chở xăng tiếp nhiên liệu cho chúng tôi xuất phát từ thành phố.
-Tất cả là vấn đề tổ chức, Egorov nói với chúng tôi khi nhìn người của mình hối hả quanh chiếc trực thăng. Không có chổ để ứng tác khi nhiệt độ bên ngoài là âm hai mươi. Nếu xe tiếp nhiên liệu không đúng hẹn và chúng ta cứ chôn chân tại chổ như thế này thì chỉ vài giờ nữa là chúng ta toi đời.
Chúng tôi tranh thủ chặn nghỉ để đi lại cho đỡ tê chân, Egorov nói đúng, cái lạnh khó mà chịu đựng nổi.
Chúng tôi lên máy bay, hai chiếc xe tải chở xăng đi xa dần trên con đường mòn dẫn về phía rừng. Tua bin lại rít lên và máy bay lấy lại cao độ, để lại bên dưới những dâu vết cho thấy chúng tôi đã ghé qua, rồi gió sẽ nhanh chóng quét sạch.
Tôi đã từng biết những cơn run lắc khi ngồi trên máy bay nhưng chưa từng biết cảm giác đó khi ngồi trên trực thăng. Tuy đây không phải là lần đầu tiên tôi ngồi lên loại máy bay này; hồi ở Atacama, tôi đã nhiều lần ngồi trực thăng để quay lại thung lũng, nhưng không phải trong nhưng điều kiện thời tiết như thế này. Một cơn bão tuyết đang tiến về phía chúng tôi. Chúng tôi bị run lắc hồi lâu, máy bay đảo tứ phía, nhưng tôi không đọc thấy bất kỳ nổi lo lắng nào trên gương mặt Egorov, tôi đi đến kết luận rằng chúng tôi không gặp phải nguy hiểm nào. Vả lại, một lúc sau, trong khi máy bay run bần bậc hơn nữa, tôi tự hỏi rằng liệu khi đối diện với cái chết, Egorov có chịu bọc lộ nỗi sợi hay không. Khi bão tan, sau chặn dừng tiếp nhiên liệu thứ hai, Keira tựa đầu vào vai tôi ngủ thiếp đi.
Tôi vòng tay ôm cô ấy để cô ấy có tư thê thoải mái hơn, đúng lúc ấy tô bắt gặp ánh mắt Egorov nhìn chúng tôi có chút gì đó dịu dàng, âu yếm, một ánh mắt khoang dung khiến tôi ngạc nhiên. Tôi mỉm cười đáp lại nhưng ông ta đã quay ra phía cửa kính, vờ như không nhìn thấy tôi.
Lần hạ cánh thứ ba. Lần này thì không được rời khỏi máy bay, cơn bão lại nổi lên và chúng tôi không thể nhìn thấy cảnh vật bên ngoài. Đi xa khỏi trực thăng, dù chỉ cách vài mét, cũng là việc quá mạo hiểm. Egorov lo ra mặt, ông ta đứng dậy, vào khoang lái. Ông cúi nhìn qua lớp kính của buồng lái rồi trao đổi với phi công bằng tiếng Nga, tôi không hiểu họ đang nói gì với nhau. Vài phút sau ông ta quay lại ngồi đối diện với chúng tôi.
-Có vấn đề gì sao? Keira lo lắng hỏi.
-Nếu các xe tải chở xăng không tìm ra chúng ta trong thứ cháo trắng này thì đúng là chúng ta đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng.
Đến lượt tôi nghiêng người nhìn qua cửa kính, tầm nhìn hết sức hạn chế. gió quất ràn rạt, mỗi đợt lốc lại cuốn tung từng mảng tuyết.
-Chiếc trực thăng này không bị phủ giá sao? Tôi hỏi.
-Không, Egorov đáp, cửa thông khí của động cơ được trang bị bộ tra nhiệt để đảm bảo tan giá khi đi thực hiện nhiệm vụ ở những nơi có nhiệt độ cực thấp.
Một luồn sáng màu vàng quét qua khoang lái, Egorov đứng dậy và nhẹ nhỏm hẳn khi nhận ra đó là ánh đèn pha công suất lớn của những chiếc xe tải chở nhiên liệu. Đổ đầy bình xăng đòi hỏi huy động tất cả mọi người. Ngay khi bình nhiên liệu đầy, viên phi công khởi động máy bay, nhưng phải chờ cho nhiệt độ tăng lên trước khi cất cánh. Cơn bão còn kéo dài hai tiếng nữa. Keira cảm thấy không được khỏe, tôi cố gắng trấn an cô ấy, nhưng chúng tôi đang là tù nhân của cái hộp cá xạc đin này, và độ run lắc còn khủng khiếp hơn trên một con tàu đánh cá ngày biển động. Rốt cuộc thì trời cũng sáng.
-Đây là cảnh thường thấy khi bay trên bầu trời Xibia vào mùa này, Egorov nói với chúng tôi. Điều tệ hại nhất đã ở đằng sau chúng ta rồi. Cô cậu nghỉ ngơi đi, chúng ta chỉ còn bốn giờ bay nữa thôi, tới nơi rồi thì chúng ta cần nhiều quyết tâm để dựng trại.
Egorov bảo chúng tôi ăn lót dạ, nhưng dạ dày của chúng tôi đã bị tra tấn quá sức để nạp năng lượng vako2 lúc này. Keira lại gục trên đầu gối tôi ngủ thiếp đi. Đó là cách tốt nhất để giết thời gian. Tôi lại nghiêng người nhìn qua cửa kính.
-Chúng ta chỉ còn cách biển Kara sáu trăm km, Egorov vừa nói vừa chỉ về phương Bắc. Nhưng tin tôi đi, người Xuma đã mất nhiều thời gian hơn chúng ta mới tới được đó.
Keira ngồi dậy và tớ lượt mình cũng tìm cách nhận ra thứ gì đó. Egorov mời cô ấy vào khoang lái. Viên lái phụ nhường chổ cho cô ấy. Tôi đi theo và đứng ngay sau cô ấy. Keira ngây ngất, choáng váng và hạnh phúc, thấy cô ấy như vậy tôi cảm thấy những mắc mớ khi tiếp tục chuyến đi này vụt tan biến. Chuyến phiêu lưu mà chúng tôi cùng nhau trãi nghiệm này sẽ để lại cho chúng tôi nhiều kỷ niệm phi thường và cuối cùng tôi tự nhủ rằng, để có được điều đó thì cũng bỏ công đối mặt với hiểm nguy.
-Nếu một ngày nào đó em kể chuyện này với con em, chúng sẽ không tin lời em đâu! tôi hét to để Keira nghe thấy.
Cô ấy không quay lại mà trả lời tôi với cái giọng nhỏ nhẹ rất thân thuộc với tôi.
-Đó là cách anh nói với em rằng anh muốn có con chứ gì?
Chiếc Jaguar phóng hết tốc lực trên con đường nhỏ dẫn đến điền trang. Ngồi ghế sau, Sir Ashton đang đọc lướt một tài liệu dưới ánh sáng tỏa ra từ đèn áp trần xe. Ông khép hồ sơ lại, ngáp dài. Điện thoại trên xe đổ chuông, tài xế thông báo cuộc gọi từ Matxcova rồi chuyển máy cho ông.
-Chúng tôi không tóm được các bạn của ông tại nhà ga Irkoustk, tôi không hiểu họ làm thế nào, nhưng họ đã thoát khỏi vòng kiểm sóat của chúng tôi, MATXCOVA giải thích.
-Tin đáng chán thật! Ashton tức tối.
-Hiện họ đang ở hồ Baikal, trong nhà một tên buôn lậu cổ vật, MATXCOVA tiếp tục thông báo.
-Vậy anh còn chờ gì nữa mà chưa tóm chúng?
-Chờ họ rời khỏi đó, Egorov có hậu thuẫn trong vùng, biệt thự của hắn được một đội quân thu nhỏ canh gác, tôi không muốn một vụ bắt giữ đơn giản biến thành cuộc tắm máu.
-Tôi vẫn biết anh không cẩn trọng đến thế kia mà.
-Tôi biết ông không hài lòng, nhưng dẫu sao chúng tôi vẫn có luật pháp quốc gia. Nếu người của chúng tôi can thiệp và người của Egorov chống trả thì sẽ rất khó giải thích với các nhà chức trách liên bang nguyên nhân một cuộc tấn công như vậy giữa lúc đêm hôm, nhất là không xin lệnh trước. Nói cho cùng, nhìn từ góc độ luật pháp, chúng tôi không có gì đề chê trách hai nhà khoa học đó.
-Lấy lý do chúng xuất hiện trong nhà một tên buôn lậu cổ vật chưa đủ sao?
-Không, chuyện đó không phạm pháp. Hãy kiên nhẫn. Ngay khi họ rời hang ổ, chúng tôi sẽ đón lõng mà không làm lớn chuyện. Tôi hứa với ông tối mai sẽ trục xuất họ ra khỏi Nga qua đường hàng không.
Chiếc Jaguar chệch hướng, Ashton trượt trên ghế sau, suýt nữa thì phải buông cả điện thoại. Ông kịp tóm lấy thành ghế, ngồi thẳng dậy và gõ vào lớp kính ngăn để thể hiện thái độ bât bình với tài xế.
-Tôi có một câu hỏi, MATXCOVA tiếp: ông có tình cờ mưu toan chuyện gì đó mà quên không báo cho tôi biết trước không?
-Anh ám chỉ chuyện gì thế?
-Một sự cố nhỏ đã xảy ra trên chuyến tàu xuyên Xibia. Một nhân viên nhà tàu bị tấn công gây ra vết thương rất nặng ở đầu. Cô ta hiện vẫn phải nằm viện, sọ não bị chấn thương nghiêm trọng.
-Rất tiếc khi biết tin này, bạn thân mến. Tấn công phụ nư là hành động rất xấu xa.
-Nếu nhà khảo cổ và bạn cô ta không có mặt trên chuyến tàu đó thì tôi sẽ không nghi ngờ gì về độ thành thật của ông đâu, nhưng vụ tấn công bỉ ổi đó lại diễn ra đúng ở toa tàu của họ. Tôi nghĩ mình phải đi đến kết luận về một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ngoài ra không có gì khác? Ông sẽ không bao giò mạo mụi hành động mà không cho tôi biết trước, và lại càng không làm vậy trên lãnh thổ của tôi, phải không?
-Dĩ nhiên là không rồi, Ashton đáp, chỉ riêng việc anh ám chỉ như thế đã xúc phạm đến tôi rồi.
Chiếc xe lắc mạnh một lần nữa. Ashton chỉ lại nơ bướm và gõ lần nữa lên ô kính đối diện. Khi ông cầm lại điện thoại, MATXCOVA đã gác máy.
Ashton nhấn nút, vách ngăn kính hạ xuống sau ghế tài xế.
-Anh đã tho6ii run lắc kiểu đó chưa đấy? Sao lại lái nhanh như thế? Theo toi6i biết thì chúng ta đâu có phải đang trên đường đua!
-Không thưa ngài, nhưng chúng ta đang đổ đèo khá dốc, mà phanh xe thì không ăn tí nào! Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng xin ngài thắt dây an toàn vào, tôi e sẽ phải tìm một chổ trũng để dừng chiếc xe tệ hại này lại ngay khi có thể.
Ashton ngước mắt nhìn vẻ ngán ngẩm rồi làm theo những gì tài xế bảo. Tài xế rẽ thành công ở chổ ngoặc tiếp theo, nhưng anh ta không còn cách nào khác là rời đường cái và tiến vào cánh đồng để tránh chiêc xe tải đi ngược chiều.
Chiếc xe bất động, tài xế mở cửa cho Ashton và xin lỗi về sự cố không mong muốn. Anh ta không hiểu nổi, chiêc xe vừa được bảo dưỡng xong, anh ta vừa đánh xe vê từ gara ngay trước khi lên đường. Ashton hỏi anh ta có chiếc đèn pin nào trên xe không, tài xế mở túi đựng dụng cụ rồi đưa cho Sir Ashton một chiếc đèn pin.
-Sao hả, có đèn thì đi mà xem xem gầm xe có bị làm sao không chứ, khốn thật! Ashton ra lệnh.
Tài xế cởi áo khoác rồi chui xuống gầm xe. Chui xuống đó không phải là chuyện dễ dàng gì nhưng anh ta chui được từ đằng sau. Lác sau anh ta chui ra, từ đầu đến chân lấm bùn, rồi thông báo với vẻ vô cùng lúng túng, rằng các te mạch phanh bị thủng.
Ashton thoáng vẻ ngờ vực, không thể tưởng tượng nỗi có kẻ nào đó muốn ám hại ông một cách kỹ lưỡng và bạo liệt như vậy. Rồi ông nhớ tới bức ảnh mà trưởng bộ phận an ninh đã đưa cho ông xem. Ngồi trên băng ghế, dường như Inovy đang nhìn thẳng vào ống kính, và lại còn mỉm cười nữa chứ.
Paris
Inovy tra cứu không biết đến lần thứ bao nhiêu cuốn sách người bạn chơi cờ quá cố tặng. Ông lại giở trang lót ra và đọc thêm lần nữa lời đề tặng:
Tôi biết anh sẽ thích cuốn sách này, không thiếu một thứ gì vì mọi thứ đều có trong này, kể cả bằng chứng về tình bạn của chúng ta cũng vậy.
Bạn chơi cờ tận tụy của anh,
Vackeers
Ông không hiểu gì cả, ông tra giờ trên đồng hồ đeo tay rồi mỉm cười. Ông mặc thêm áo khoác, quàng khăn qunh cổ rồi đi dạo dọc bờ sông Seine buổi tối.
Khi tới cầu Marie, ông gọi cho Walter.
-Cậu vừa gọi cho tôi à?
-Tôi gọi mấy lần mà không được, tôi mất cả hy vọng liên lạc với ông. Adrian đã gọi cho tôi từ Irkoustk, hình như dọc đường họ gặp phiền toái thì phải.
-Phiền toái kiểu gì?
-Ngày càng tai hại hơn, chúng cố mưu sát họ.
Inovy nhìn dòng sông, hết sức cố gắng để giữ bình tĩnh.
-Phải gọi họ về thôi, Walter nói tiếp. Cứ thế này rồi họ sẽ phải gặp chuyện gì đó, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân mình.
-Tôi cũng không, Walter ạ, tôi sẽ không tha thứ cho bản thân mình nếu xảy ra chuyện gì đó. Cậu có biết họ đã gặp Egorov hay chưa không?
-Tôi đoán đã gặp rồi, lúc gác máy thì họ đang đi gặp ông ta. Adrian có vẻ lo lắng ghê gớm. Nếu Keira không quyết tâm đến thế, anh ấy hẳn đã quay trờ về rồi.
-Cậu ấy nói cậu biết ý định đó à?
-Vâng, anh ấy còn nhắc đi nhắc lại nhiều lần ấy chứ, khó khăn lắm tôi mới không khuyến khích anh ấy làm vậy.
-Walter, đây không còn là vấn đê ngày tháng nữa, nhiều nhất là vài tuần nữa thôi, chúng ta sẽ không thê thoát lui, không phải lúc này.
-Ông không có cách nào bảo vệ họ sao?
-Ngay ngày mai tôi sẽ liên lạc với MADRID, chỉ cô ấy mới có thể tác động tới Ashton. Tôi không nghi ngờ lấy một giây rằng chính lão ta đứng sau hành động tàn bạo lần này. Tôi đã thu xếp để gửi tối lão một thông điệp nhỏ vào tối nay, nhưng tôi không nghĩ như vậy là đủ.
-Vậy hãy để tôi bảo Adrian quay về Anh, chúng ta đừng đợi tới khi quá muộn.
-Đã quá muộn mất rồi, Walter, tôi nói với cậu ấy rồi đấy thôi, chúng ta không còn đường lui nữa.
Inovy gác máy. Mãi ngẫm nghĩ, ông cất điện thoại vào túi áo khoác rồi quay về nhà.
Nga
Một viên quản gia bước vào phòng chúng tôi kéo rèm, bên ngoải trời quang đãng, ánh ngày rực rỡ khiến chúng tôi lóa mắt.
Keira vùi đầu vào chăn. Viên quản gia bê khay đựng đồ ăn sáng để ở cuối giường, báo cho chúng tôi biết đã gần mười một giờ; chúng tôi hãy chuẩn bị hành lý sẵn sàng để gặp chủ nhân của ông ta trong đại sảnh vào lúc mười hai giờ. Rồi ông ta lui ra.
Tôi nhìn thây vần trán Keira xuất hiện trở lại và đôi mắt cô ầy liếc nhìn giỏ đựng bánh ngọt; cô ấy với tay nhót một chiếc bánh sừng bò rồi ngoạm ba miếng là hết chiếc bánh.
-Ta không thể ở lại đây một hai ngày sao? Cô ấy rên rỉ rồi uống một hơi cạn tách trả tôi vừa rót cho.
-Ta quay trở lại Luân Đôn đi, anh sẽ mời em tới khách sạn thật sang trọng nào đó nghỉ một tuần… và chúng ta sẽ không rời khỏi phòng trong suốt thời gian đó.
-Anh không muốn tiếp tục đúng không? Chúng ta sẽ được an toàn với Egorov, cô ấy vừa nói vừa đánh chén một miếng bánh xốp.
-Anh thấy em đặt lòng tin vào người này quá nhanh. Mới ngày hôm qua, chúng ta còn chưa quen biết ông ta, vậy mà hôm nay đã cộng tác với ông ta, anh không biết chúng ta đang đi đâu, cũng kho6gn biết chuyện gì đang chờ phía trước.
-Em cũng đâu có biết, nhưng em cảm thấy chúng ta đang tiến gần tới đích.
-Đích nào hả Keira? Những ngôi mộ của Xume hay mộ của chính chúng ta?
-OK, cô ấy vừa nói vừa hất tung chăn ra, đứng vụt dậy. Ta quay về! Em sẽ giải thích với Egorov rằng chúng ta bỏ cuộc, và nếu các vệ sĩ của ông ta để cho chúng ta đi, chúng ta sẽ lên một chiếc taxi chạy thẳng ra sân bay, rồi đáp chuyến bay đầu tiên về Luân Đôn. Em sẽ đảo qua Paris để đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp. À mà… anh cũng được hưởng trợ cấp thất nghiệp chứ nhỉ?
-Em không cần mỉa mai như thế! Đồng ý, chúng ta tiếp tục, nhưng trước tiên phải hứa với anh một chuyện: nếu lại gặp nguy hiểm lần nữa, chúng ta sẽ dừng mọi chuyện.
-Định nghĩa cái anh gọi là nguy hiểm đi, cô ấy vừa nói vừa ngồi xuống giường.
Tôi đưa hai tay ôm trọn khuôn mặt cô ấy, đáp:
-Khi kẻ nào đó cố ám sát em thì là nguy hiểm chứ sao! Anh biết khao khát khám phá của em mạnh hơn tất thảy, nhưng em cần phải ý thức về những nguy cơ chúng ta đang phải đối mặt trước khi quá muộn.
Egorov đang đợi chúng tôi trong đại sảnh của biệt thự. Ông ta mặc một chiếc áo choàng lông thú dài màu trắng, đầu đội mũ chapka. Nếu hằng mơ ước được gặp Michel Strogoff thì ước mong của tôi đã thành hiện thực. Ông ta đưa cho tôi mũ trùm, găng tay, mũ và hai chiếc áo khoác ngắn lót lông thú ấm hơn hẳn so với áo khoác chúng tôi đang mặc.
-Nơi chúng ta đến thực sự rất lạnh, cô cậu nên mặc đủ ấm, mười phút nữa chúng ta sẽ khởi hành, người của tô sẽ lo vận chuyển hành lý cho cô cậu. giờ thì theo tôi, chúng ta xuống bãi đổ xe.
Thang máy dừng lại tại tầng hai, một bộ sưu tập ô tô từ xe thể thao hai chổ đến limousine tổng thống được đổ thành hàng ngay ngắn.
-Có thể thấy ông không chỉ tham gia buôn bán đồ cổ, tôi nói với Egorov.
-Qủa nhiên không, ông ta vừa đáp vừa mở cửa xe.
Hia chiếc ô tô hòm đi trước xe chở chúng tôi, đằng sau là hai chiếc khác chặn hậu. Chúng tôi lao ra phố và đoàn xe chạy trên con đường ven hồ.
-Nếu tôi không nhầm, lát sau tôi lên tiếng, thì phần phía Tây Xibia cách đâyba nghìn cây số, ông có định dừng lại đi vệ sinh không hay chúng ta sẽ chạy xe một mạch tới đó?
Egorov ra hiệu cho tài xế, chiếc xe phanh khựng lại. Ông ta quay sang tôi.
-Cậu quyết tâm khiến tôi phát bực lên hả? Nếu không muốn tham gia chuyến đi này thì cậu có thể xuống xe.
Keira liếc tôi, ánh mắt còn tối hơn cả nước hồ, tôi xin lỗi Egorov, ông ta chìa tay ra cho tôi bắt. Làm sao có thể từ chối một cái bắt tay giữa hai người đàn ông đây? Xe lại lăn bánh, suốt nửa giờ tiếp theo không ai nói câu nào. Con đường dẫn sâu vào một khu rừng tuyết phủ trắng xóa. Lát sau chúng tôi tới Koty, một ngôi làng nhỏ xinh. Đoàn xe giảm tốc độ men theo một đường tắt, đến cuối đường chúng tôi nhìn thấy hai nhà kho lớn, từ đường cái không thể nhìn ra. Đoàn xe dừng lại, Egorov mời chúng tôi đi theo ông ta. Bên trong mỗi nhà kho là một chiếc trực thăng loại lớn được quân đội Nga dùng để chuyên chở quân và quân dụng. Tôi đã từng thấy những chiếc tương tự trong loạt phóng sự về cuộc chiến Nga phát động tại Afghanistan, nhưng chưa bao giờ được nhìn chúng từ khoảng cách gần thế này.
-Cô cậu sẽ không tin tôi đâu, Egorov vừa nói vừa tiên lại gần chiếc thứ nhất, nhưng tôi đã có chúng nhờ thắng cược đấy.
Keira nhìn tôi với vẻ phấn khích, rồi bước lên thang dẫn tới buồn lái.
-Thật ra ông là loại người nào vậy? Tôi hỏi Egorov.
-Một đồng minh, ông ta vừa nói vừa vỗ vai tôi, và tôi vẫn nuôi hy vọng thuyết phục cậu tin vào điều đó. Cậu có lên không hay muốn ở lại trong nhà kho này?
Khoang lái rộng rĩa không khác gì khoang lái của một chiếc máy bay chở khách thông thường. Các xe cút kít có cần nâng di chuyển lên máy bay theo đường cửa lật phía sau, đưa vào khoang hầm những thùng lớn được người của Egorov xếp gọn gàng. Khoang hành khách được trang bị hai mươi lăm ghế. Chiếc Mil Mi-26 gắn động cơ mười một nghìn hai trăm bốn mươi mã lực và điều này khiến chủ sở hữu của nó hãnh diện không khác gì việc nuôi một con chiến mã màu hồng. Chúng tôi có bốn chặn dừng chân để tiếp nhiên liệu. Với trọng tải hiện nay, máy bay có thể bay liền một mạch sáu trăm cây số, chúng tôi sẽ phải mất mười một tiếng để vượt ba nghìn cây số tới Man-Pupu-Nyor. Các máy nâng đã rời khỏi khoang hầm, người của Egorov kiểm tra lại lần cuối dây đai buộc các thùng dụng cụ, rồi cửa khoang hầm lật lên và máy bay được kéo ra bên ngoài nhà kho.
Tua bin bắt đầu rít lên, âm thanh trở nên đinh tai nhức ốc trong buồng lái khi tám cánh quạt bắt đầu quay tít.
-Rồi sẽ quen thôi, Egorov hét lên, hãy tranh thủ ngắm cảnh vật bên dưới, cô cậu sẽ khám phá nước Nga theo cách hiếm người biết đến đấy.
Phi công quay lại ra hiệu cho chúng tôi và cổ máy nặng nề bắt đầu tăng độ cao. Cách mặt đất năm mươi mét, mũi máy bay chúc xuống và Keira áp mặt vào ô cửa kính.
Sau một giờ bay, Egorov chỉ cho chúng tôi thành phố Ilanski, đằng xa bên trái chúng tôi, rồi đến Kansk và Krasnoiarsk mà chúng tôi không dám bay gần để tránh tầm quét rada của bộ phận kiểm soát không lưu. Viên phi công điều khiển máy bay có vẻ hiểu rõ công việc mình đang làm, chúng tôi chỉ bay trên những khoảng trằng trãi dài tưởng chừng bất tận. Thỉnh thoảng, một dòng sông băng lại vắt ngang qua mặt đất một đường mảnh ánh bạc như một vệt chì than trên mặt giấy.
Chặng dừng đầu tiên trên bờ sông Uda; thành phố Aragay cách chổ đổ của chiếc trực thăng chở chúng tôi vài cây số. Hai chiếc xe tải chở xăng tiếp nhiên liệu cho chúng tôi xuất phát từ thành phố.
-Tất cả là vấn đề tổ chức, Egorov nói với chúng tôi khi nhìn người của mình hối hả quanh chiếc trực thăng. Không có chổ để ứng tác khi nhiệt độ bên ngoài là âm hai mươi. Nếu xe tiếp nhiên liệu không đúng hẹn và chúng ta cứ chôn chân tại chổ như thế này thì chỉ vài giờ nữa là chúng ta toi đời.
Chúng tôi tranh thủ chặn nghỉ để đi lại cho đỡ tê chân, Egorov nói đúng, cái lạnh khó mà chịu đựng nổi.
Chúng tôi lên máy bay, hai chiếc xe tải chở xăng đi xa dần trên con đường mòn dẫn về phía rừng. Tua bin lại rít lên và máy bay lấy lại cao độ, để lại bên dưới những dâu vết cho thấy chúng tôi đã ghé qua, rồi gió sẽ nhanh chóng quét sạch.
Tôi đã từng biết những cơn run lắc khi ngồi trên máy bay nhưng chưa từng biết cảm giác đó khi ngồi trên trực thăng. Tuy đây không phải là lần đầu tiên tôi ngồi lên loại máy bay này; hồi ở Atacama, tôi đã nhiều lần ngồi trực thăng để quay lại thung lũng, nhưng không phải trong nhưng điều kiện thời tiết như thế này. Một cơn bão tuyết đang tiến về phía chúng tôi. Chúng tôi bị run lắc hồi lâu, máy bay đảo tứ phía, nhưng tôi không đọc thấy bất kỳ nổi lo lắng nào trên gương mặt Egorov, tôi đi đến kết luận rằng chúng tôi không gặp phải nguy hiểm nào. Vả lại, một lúc sau, trong khi máy bay run bần bậc hơn nữa, tôi tự hỏi rằng liệu khi đối diện với cái chết, Egorov có chịu bọc lộ nỗi sợi hay không. Khi bão tan, sau chặn dừng tiếp nhiên liệu thứ hai, Keira tựa đầu vào vai tôi ngủ thiếp đi.
Tôi vòng tay ôm cô ấy để cô ấy có tư thê thoải mái hơn, đúng lúc ấy tô bắt gặp ánh mắt Egorov nhìn chúng tôi có chút gì đó dịu dàng, âu yếm, một ánh mắt khoang dung khiến tôi ngạc nhiên. Tôi mỉm cười đáp lại nhưng ông ta đã quay ra phía cửa kính, vờ như không nhìn thấy tôi.
Lần hạ cánh thứ ba. Lần này thì không được rời khỏi máy bay, cơn bão lại nổi lên và chúng tôi không thể nhìn thấy cảnh vật bên ngoài. Đi xa khỏi trực thăng, dù chỉ cách vài mét, cũng là việc quá mạo hiểm. Egorov lo ra mặt, ông ta đứng dậy, vào khoang lái. Ông cúi nhìn qua lớp kính của buồng lái rồi trao đổi với phi công bằng tiếng Nga, tôi không hiểu họ đang nói gì với nhau. Vài phút sau ông ta quay lại ngồi đối diện với chúng tôi.
-Có vấn đề gì sao? Keira lo lắng hỏi.
-Nếu các xe tải chở xăng không tìm ra chúng ta trong thứ cháo trắng này thì đúng là chúng ta đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng.
Đến lượt tôi nghiêng người nhìn qua cửa kính, tầm nhìn hết sức hạn chế. gió quất ràn rạt, mỗi đợt lốc lại cuốn tung từng mảng tuyết.
-Chiếc trực thăng này không bị phủ giá sao? Tôi hỏi.
-Không, Egorov đáp, cửa thông khí của động cơ được trang bị bộ tra nhiệt để đảm bảo tan giá khi đi thực hiện nhiệm vụ ở những nơi có nhiệt độ cực thấp.
Một luồn sáng màu vàng quét qua khoang lái, Egorov đứng dậy và nhẹ nhỏm hẳn khi nhận ra đó là ánh đèn pha công suất lớn của những chiếc xe tải chở nhiên liệu. Đổ đầy bình xăng đòi hỏi huy động tất cả mọi người. Ngay khi bình nhiên liệu đầy, viên phi công khởi động máy bay, nhưng phải chờ cho nhiệt độ tăng lên trước khi cất cánh. Cơn bão còn kéo dài hai tiếng nữa. Keira cảm thấy không được khỏe, tôi cố gắng trấn an cô ấy, nhưng chúng tôi đang là tù nhân của cái hộp cá xạc đin này, và độ run lắc còn khủng khiếp hơn trên một con tàu đánh cá ngày biển động. Rốt cuộc thì trời cũng sáng.
-Đây là cảnh thường thấy khi bay trên bầu trời Xibia vào mùa này, Egorov nói với chúng tôi. Điều tệ hại nhất đã ở đằng sau chúng ta rồi. Cô cậu nghỉ ngơi đi, chúng ta chỉ còn bốn giờ bay nữa thôi, tới nơi rồi thì chúng ta cần nhiều quyết tâm để dựng trại.
Egorov bảo chúng tôi ăn lót dạ, nhưng dạ dày của chúng tôi đã bị tra tấn quá sức để nạp năng lượng vako2 lúc này. Keira lại gục trên đầu gối tôi ngủ thiếp đi. Đó là cách tốt nhất để giết thời gian. Tôi lại nghiêng người nhìn qua cửa kính.
-Chúng ta chỉ còn cách biển Kara sáu trăm km, Egorov vừa nói vừa chỉ về phương Bắc. Nhưng tin tôi đi, người Xuma đã mất nhiều thời gian hơn chúng ta mới tới được đó.
Keira ngồi dậy và tớ lượt mình cũng tìm cách nhận ra thứ gì đó. Egorov mời cô ấy vào khoang lái. Viên lái phụ nhường chổ cho cô ấy. Tôi đi theo và đứng ngay sau cô ấy. Keira ngây ngất, choáng váng và hạnh phúc, thấy cô ấy như vậy tôi cảm thấy những mắc mớ khi tiếp tục chuyến đi này vụt tan biến. Chuyến phiêu lưu mà chúng tôi cùng nhau trãi nghiệm này sẽ để lại cho chúng tôi nhiều kỷ niệm phi thường và cuối cùng tôi tự nhủ rằng, để có được điều đó thì cũng bỏ công đối mặt với hiểm nguy.
-Nếu một ngày nào đó em kể chuyện này với con em, chúng sẽ không tin lời em đâu! tôi hét to để Keira nghe thấy.
Cô ấy không quay lại mà trả lời tôi với cái giọng nhỏ nhẹ rất thân thuộc với tôi.
-Đó là cách anh nói với em rằng anh muốn có con chứ gì?
Bình luận truyện