Đến Phủ Khai Phong Làm Nhân Viên Công Vụ
Quyển 1 - Chương 17
Trấn Lưu Gia đoàn tụ người nhà,
Tĩnh tâm tự đầu mối lại về
Thành Đông Đô, cửa phía đông nam gọi là Trần Châu môn, cách đó mười dặm là núi Nam Hoa. Cửa chính nam gọi là Nam Huân môn, xa xa cách cửa thành mười dặm là trấn Thảo Thị, bởi các gia đình trong trấn phần lớn đều mang họ Lưu nên nơi đây còn được gọi là trấn Lưu Gia.
Trấn Lưu Gia này tuy chỉ là trấn nhỏ nhưng vì nằm trên trục đường trọng yếu dẫn đến kinh thành Biện Lương nên mới phát triển thịnh vượng như vậy, hàng hóa từ khắp nơi đổ về tràn ngập trên phố, người mua kẻ bán tấp nập, vô cùng náo nhiệt và sầm uất. Dân cư nơi đây hơn năm trăm hộ, đều lấy việc kinh thương làm kế sinh nhai.
Theo lý mà nói, trấn Lưu Gia này là nơi giao thương trọng yếu, khách vãng lai, lái buôn qua lại vô số, từ nam ra bắc đủ mọi loại người, người trong trấn đã gặp rất nhiều, không còn cảm thấy kỳ lạ từ lâu. Nhưng trưa hôm nay, có ba người tới đây lại khiến cho mọi người trong trấn bát giác đều dừng chân, ngoái đầu mà quan sát họ.
Trong ba người ấy, đi đằng trước là một thanh niên áo lam.
Chàng thanh niên này, mặc áo tuyền một sắc lam, thắt lưng màu trắng, tay cầm một thanh kiếm cổ kiếm vỏ trắng, toàn thân trên dưới chẳng mang theo vật tùy thân xa hoa nào, nhưng dáng người thẳng như thân tùng, khí chất nho nhã, lại khiến cho những viên ngọc long lanh trên phố cũng mất đi vẻ quyến rũ; lại nhìn tướng mạo của người thanh niên ấy, dung nhan tuấn tú văn nhã, đôi mắt đen huyền sáng lấp lánh, lông mày lưỡi mác, phong thái cùng khí độ hiệp nghĩa của chàng thật không bút nào tả cho xiết, khiến người ta cứ phải tấm tắc mãi không thôi.
Nhưng hai người thanh niên phía sau lại khiến cho người ta chẳng thể nào khen được nửa chữ.
Một người mặc áo vải màu xám tro, thân hình gầy nhẳng như cây sậy, hai mắt lấp lánh, tuổi cũng chỉ khoảng trên dưới mười bảy, nhưng lại trưng ra bộ dạng trưởng thành dày dặn kinh nghiệm, tò tò đi theo sau chàng thanh niên áo lam một tấc cũng không rời, tựa như miếng cẩu bỉ cao[1] mà mấy tay giang hồ vẫn bán.
[1] Cẩu bỉ cao: dịch nôm na là “cao da chó”, một loại cao dán của Trung Quốc, có công dụng như thuốc giảm đau tạm thời, đau đâu dán đó.
Người kia lại càng kỳ quái hơn, thân hình lùn xủn mặc một chiếc áo màu đen, eo thì bé tí tị, lưng mỏng dính thẳng đuỗn, da dẻ trắng bóc, hai mắt nhỏ dài, khuôn mặt non nớt tựa hồ chưa qua tuổi thiếu niên nhưng lại có dáng đi khom khom như bà còng, chân đi bước thấp bước cao. Nếu như không nhìn mặt thì dù nói đó là ông lão bảy, tám mươi tuổi cũng có người tin. Nhưng quan sát kỹ thì thấy thiếu niên này không phải bị cong bẩm sinh, mà bởi đang cõng một cái bọc màu đen như cái mai rùa trên lưng.
Ba người này, hình dáng tư thái khác nhau một trời một vực, nhưng lại đi cùng nhau đương nhiên là rất kỳ lạ rồi. Mà càng quái lạ hơn là, họ đến nơi phố chợ buôn bán sầm uất tấp nập này mà lại chẳng xem hàng hóa, cũng chẳng ngắm cửa hiệu, hàng buôn, cứ chuyên chú quan sát nhà cửa, tiểu viện. Nếu nói là tìm người thì lại chẳng thấy họ hỏi ai, đi qua phố lớn vòng vào ngõ nhỏ hồi lâu, họ cứ chậm rãi bước mà không ngừng lại, chỉ là thần sắc càng lúc càng trở nên nghiêm trọng, không khỏi khiến người khác thầm phỏng đoán.
Mọi người thì khó hiểu trong lòng còn ba người này cũng chẳng khá hơn gì. Hành vi của họ kỳ quái như vậy không vì nguyên nhân gì khác mà chính là do người dẫn đường, trí nhớ suy giảm thì không nói làm gì, lại còn là một cái ô bồn mắt kém nữa chứ.
Ba người này chính là đoàn Triển Chiêu phụng mệnh xuất hành. Rời khỏi phủ từ sáng sớm, đi liên tục hai canh giờ mới đến được trấn Lưu Gia. Nhưng vì ô bồn trí nhớ không tốt, lại bị bọc trong vải đen, tầm nhìn hạn chế, thế nên họ tìm mãi vẫn không ra nhà của Lưu Thế Xương.
Đi lòng vòng trong trấn gần một canh giờ, cuối cùng đoàn người cũng dừng chân trước cổng một căn nhà ba gian bao bọc bởi sân vườn, nghỉ ngơi quan sát.
Kim Kiền thấp giọng hỏi: “Lưu ô bồn, ngươi ngàn vạn lần đừng có chậu rửa mặt không muốn lại thích làm chậu rửa chân, nhìn cho kỹ đi, đây có đúng là nhà ngươi không?”.
“Tuyệt đối không thể sai được”, ô bồn phía sau lưng Kim Kiền đáp.
Ba người nghe vậy mới thở phào nhẹ nhõm.
Triển Chiêu tiến lên trước một bước, khẽ gõ cửa, giọng nói sang sảng vang lên: “Xin hỏi có ai ở nhà không?”.
Chợt nghe một giọng nữ trong trẻo từ trong sân truyền ra, đáp lại: “Ai đó?”.
“Xin hỏi đây có phải là quý phủ của Lưu huynh, Lưu Thế Xương không?”
Rồi có tiếng bước chân hối hả từ xa bước đến gần, kẹt một tiếng cánh cửa gỗ mở ra, một người phụ nữ xuất hiện ở cửa.
Người phụ nữ này mặc một chiếc áo dài hoa màu xanh nhạt, phần tay áo lại có màu xanh lơ, quần lụa màu tím, tóc bới cao hình trôn ốc, trâm bạc cài lệch một bên, dung nhan yêu kiều, dáng hình yểu điệu. Nhìn thấy ba người trước cửa nàng không khỏi có phần kinh ngạc, nhưng ngay lập tức khôi phục dáng vẻ bình thường, nhẹ giọng nói: “Ba vị biết tướng công tôi?”.
Kim Kiền cảm thấy ô bồn sau lưng đột nhiên rung lắc không ngừng, thiếu chút nữa thì rớt ra khỏi túi rơi xuống đất, liền vội vàng nắm thật chặt cái túi, len lén đưa tay ra sau lưng gõ hai cái, ô bồn kia mới dần yên ắng trở lại.
Triển Chiêu chắp tay thi lễ nói: “Chúng tôi đích thực là quen biết Lưu huynh, lần này đến đây chính là để thay Lưu huynh chuyển đến quý phủ một món đồ”.
Lưu thị nghe xong vội hỏi tiếp: “Đưa đồ? Không biết mấy vị gặp tướng công tôi khi nào?”.
Triển Chiêu hơi sững lại, đáp: “Là nửa năm trước”.
“Nửa năm trước…”, Lưu thị khẽ cúi đầu, miệng lẩm bẩm, im lặng hồi lâu mới hỏi: “Không biết tướng công tôi ủy thác cho các vị đưa món đồ gì?”.
“Là một cái ô bồn.”
“Ô bồn?”, Lưu thị nghe xong, khuôn mặt mang theo vẻ kinh ngạc, mắt ánh lên tia nhìn nghi hoặc, cẩn thận đánh giá ba người đối diện. Nhưng thấy người thanh niên áo lam ánh mắt chính trực, thần sắc đĩnh đạc, khí chất nho nhã, không giống phường gian ác hại người; lại nhìn sang hai người bên cạnh, tuổi còn chưa qua thiếu niên, mới an tâm phần nào, nép mình sang bên để mấy người họ tiến vào, sau đó mời họ vào nhà ngồi.
Đợi mấy người họ an tọa xong, Lưu thị mới mở miệng hỏi: “Chẳng hay cái ô bồn đó đâu?”.
Triển Chiêu không đáp mà hỏi ngược lại: “Xin hỏi Lưu đại tẩu, chúng tôi mang ô bồn đến đây, nhưng vì sao không thấy Lưu huynh?”.
Câu hỏi này rất kỳ lạ, hai người Trịnh Tiểu Liễu và Kim Kiền nghe xong cũng sửng sốt.
Kim Kiền nghĩ bụng: Con mèo này bị ngố à? Nửa năm trước Lưu Thế Xương đã bị người ta sát hại, ngay cả xác còn bị nung thành ô bồn, mà cái ô bồn ấy đang ở trên lưng mình đây, giờ lại hỏi thê tử người ta rằng Lưu Thế Xương ở đâu, thật chẳng hiểu ra làm sao nữa!
Lưu thị nghe xong không cảm thấy kỳ lạ, sắc mặt trầm xuống, thấp giọng đáp: “Mấy vị không biết đấy thôi, nửa năm trước tướng công đi ra ngoài nhập vải, ai ngờ đi liền một mạch không có tung tích, đã nửa năm rồi mà vẫn chưa quay về nhà”.
Triển Chiêu hơi nhướng mắt, lại hỏi: “Vậy có thư từ gì gửi về không?”.
Lưu thị lắc đầu nói: “Đầu tháng Giêng có nhận được một bức thư, trong thư tướng công nói tết Nguyên Tiêu nhất định sẽ về nhà sum họp. Nhưng tết Nguyên Tiêu hôm ấy tôi và Bách Nhi đợi cả đêm cũng vẫn không thấy bóng dáng tướng công, từ đó đến nay bặt vô âm tín… cũng không biết hiện giờ tướng công ở đâu, còn sống hay đã chết…”.
Giọng Triển Chiêu hơi cao, nói: “Bách Nhi không đợi được cha, nhất định sẽ thất vọng”.
“Điều đó là đương nhiên rồi, Bách Nhi còn giận tưởng tướng công không giữ lời hứa, vì chuyện đó mà ấm ức mấy ngày liền.” Lúc này những cảm xúc lo lắng trong lòng bộc phát nên Lưu thị không chú ý nhiều, chẳng hề cảm thấy câu hỏi của người đối diện đều mang vẻ thăm dò.
Nhưng Kim Kiền khi nghe đến đây lập tức hiểu ra, không khỏi kinh ngạc, thầm lẩm bẩm trong lòng: Ai da, con mèo này cẩn thận quá! Mặc dù chính miệng ô bồn kêu oan, lại đích thân dẫn đường tới được nơi này, nhưng Tiểu Miêu vẫn đối chứng lại lời của vợ Lưu Thế Xương và y, thăm dò từng câu để kiểm chứng toàn bộ lời khai của Lưu Thế Xương, ngay cả tên con trai y cũng kiểm tra cẩn thận. Chậc chậc, Tiểu Miêu quả là con mèo thượng đẳng của nhà lão Bao, mức độ chuyên nghiệp quả nhiên là hơn hẳn mình!
Triển Chiêu nghe xong, thần sắc mới bình thường trở lại, sau đó quay sang nói với Kim Kiền: “Kim Kiền, đem ô bồn ra”.
Kim Kiền vội tháo cái bọc trên lưng xuống, đặt ra giữa bàn, nói với Lưu thị: “Lưu đại tẩu, ô bồn ở trong cái bọc này”.
Lưu thị nghe vậy mới lấy lại tinh thần, đứng dậy định mở bọc ra thì bị Kim Kiền ngăn lại: “Lưu đại tẩu, ô bồn này không giống như những vật bình thường khác, không thể bị ánh sáng chiếu vào, có thể phiền Lưu đại tẩu đóng cửa sổ, cửa chính, che ánh mặt trời đi rồi mới mở ra được không?”.
Nghe những lời này Lưu thị vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ: Xem ô bồn mà phải đóng cửa sổ, cửa chính, như thế là đạo lý gì? Bất giác Lưu thị nhìn sang hai người còn lại.
Chỉ thấy người thanh niên áo lam cùng cậu thiếu niên áo màu tro xám đều gật đầu tán đồng, Lưu thị thấy vậy cũng không phản đối, đứng dậy đóng cửa chính và cửa sổ lại.
Kim Kiền không biết, đêm qua nghe Công Tôn tiên sinh quyền uy của Khai Phong phủ phỏng đoán lung tung một phen, kẻ trên người dưới khắp Khai Phong phủ đều cho Kim Kiền là người có “thiên phú dị bẩm”, giờ lại nghe lời nói có ẩn giấu huyền cơ này, Triển, Trịnh hai người lại càng cảm thấy lời của Công Tôn tiên sinh có lý, rất tự nhiên liền tán đồng theo. Kỳ thực lời của Kim Kiền vốn chẳng có căn cứ gì cả, chỉ là dựa trên những bộ phim truyền hình cũ rích thời hiện đại mà phòng ngừa chuyện bất trắc xảy ra mà thôi, nhưng lại vô tình càng tăng thêm độ tin cậy thân phận “thiên phú dị bẩm” của mình, sau này khi Kim Kiền hồi tưởng lại thật sự là có hối hận cũng không kịp nữa.
Đợi đến khi Lưu thị đóng tất cả các cửa rồi quay lại chỗ ngồi, Kim Kiền mới từ từ mở bọc đồ, lấy ô bồn ra đặt xuống trước mặt Lưu thị, nói: “Lưu ô bồn, thê tử của ngươi đang ở trước mặt, còn không mau ra nhận?”.
Ô bồn khẽ rung động, nghẹn ngào nói: “Nương tử, vi phu cuối cùng cũng gặp được nàng rồi…”.
Lưu thị vừa nghe sắc mặt liền biến đổi, đôi môi trắng bệch như tờ giấy, run lẩy bẩy nhưng lại không phát ra nổi tiếng nào. Đôi mắt cứ nhìn chằm chằm vào ô bồn, rất lâu sau mới run run hỏi: “Ông… ông… ông… cái ô… ô bồn này… vì… vì sao…”.
Ô bồn nghe thế liền khoc lóc thảm thiết, nói: “Nương tử, vì sao nàng ngay cả giọng nói của vi phu cũng không nhận ra?”.
Thần sắc Lưu thị đình trệ, chầm chậm ngẩng đầu lên nhìn khắp lượt mọi người trong phòng, nhưng thấy vẻ mặt nghiêm túc, cúi đầu không nói lời nào của họ, cả người Lưu thị run rẩy dữ dội, lập tức gục xuống bàn, hai tay ôm chặt lấy ô bồn, nước mắt lã chã như chuỗi trân châu bị đứt dây rơi xuống ô bồn, tí tách từng giọt, nức nở thê lương: “Tướng công, tướng công… chàng… vì sao chàng lại thành thế này?”.
“Nương tử, vi phu chết oan uổng lắm…”, ô bồn vừa khóc vừa nói, đem cảnh ngộ mình bị sát hại như thế nào, rồi bị nung thành ô bồn ra sao, sau đó đến được Khai Phong phủ kêu oan thế nào, tra được nơi ở của huynh đệ họ Ngô kia ra làm sao,… Nói hai câu lại khóc một cậu, cứ ngắt quãng như thế mà kể lại mọi chuyện cho thê tử mình nghe. Lưu thị càng nghe càng đau lòng, càng nghe càng sầu muộn, nghe đến cuối cùng, một người, một bồn ôm nhau khóc lóc thảm thiết, nức nở không nên lời.
Không biết hai người đã khóc được bao lâu rồi, Kim Kiền chỉ cảm thấy trời đất gió mây đều như biến sắc, cổ lưng, cơ bắp toàn thân đều cứng đờ, khi ấy một người một bồn bên kia mới có dấu hiệu dừng lại.
Tiếng khóc vừa mới ngừng liền thấy Lưu thị ôm ô bồn quỳ sụp xuống đất, khấu đầu nức nở: “Ba vị quan gia, xin hãy thay tướng công làm chủ, bắt đôi huynh đệ sát nhân kia, báo thù cho tướng công dân phụ!”.
Triển Chiêu vội tiến lên, khẽ đưa tay ra, nhẹ nhàng nói: “Lưu đại tẩu không cần phải như thế. Bao đại nhân đã thụ lý vụ án này, tất sẽ bắt hung thủ về chịu tôi trước pháp luật”.
Lưu thị nghe vậy mới từ từ đứng dậy, gạt nước mắt nói: “Dân phụ đa tạ quan gia”.
Lại nghe ô bồn nói: “Nương tử, lần này vi phu có thể giải oan được đều may nhờ có vị tiểu quan gia Kim Kiền này đây”.
Lưu thị nghe xong, vội khom người quỳ xuống nói: “Lưu thị đa tạ tiểu quan gia giúp đỡ”.
Kim Kiền bị hành động quỳ gối của Lưu thị dọa khiến cho da đầu tê dại, thầm nghĩ: Thật là bái phục mấy vị tổ tiên cổ đại, ba bước một quỳ, năm bước một lạy. Chưa bàn đến vấn đề dương thọ của mình bị hao tổn đi bao nhiêu, hãy nói đến chuyện thời gian dành cho việc quỳ với lạy này lãng phí đi thế nào, nếu cứ vậy thì làm gì còn thời gian mà tra án nữa, mà không tra án thì chuyện này sao có thể điều tra rõ ràng được, vậy mình lại phải tiếp tục làm rùa ô bồn à? Hừ hừ, xem ra mình mà không ra tay đốc thúc để tăng hiệu suất phá án thì không được.
Nghĩ đến đây, Kim Kiền bước hai bước lên phía trước, đỡ Lưu thị dậy rồi nói: “Đại tẩu không cần phải tạ ơn, lần này chúng tôi đến đây, ngoài việc hộ tống Lưu huynh trở về quê nhà, còn là mong đại tẩu hỗ trợ tra án”.
Lưu thị nghe xong chẳng những không an tâm, ngược lại nước mắt tiếp tục tuôn như mưa, nói: “Nhưng tướng công nói, manh mối nay đã không còn, hung thủ cũng chẳng biết tung tích, làm sao phá án được? Dân phụ, dân phụ chỉ xin các quan gia hãy làm chủ cho dân phụ và tướng công!”, dứt lời, tâm tình kích động khó đè nén được, Lưu thị lại khom người, gập gối, dáng vẻ như muốn quỳ xuống tiếp.
Kim Kiền nhanh tay lẹ mắt, lại đưa tay ra đỡ Lưu thị, thốt lên: “Đại tẩu không cần lo lắng, có Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ, Ngự Miêu do đích thân hoàng thượng ngự phong, Triển đại nhân ở đây, cho dù lũ tội phạm kia có đào hang trốn, chúng tôi cũng có thể quật ba thước đất lên bắt bằng được”.
Những lời này quả nhiên có tác dụng, Lưu thị lập tức ngừng khóc, nhìn Kim Kiền hỏi: “Ngự Miêu? Triển đại nhân?”.
“Không sai, không sai”, Kim Kiền vội túm ống tay áo Triển Chiêu kéo lại, đẩy đến trước mặt Lưu thị, tiếp tục nói: “Đây chính là Triển đại nhân của Khai Phong phủ chúng tôi, công phu đệ nhất thiên hạ, bản lĩnh điều tra thuộc hàng thượng thừa, khả năng bắt chuột… khụ, à bắt tội phạm lại càng không phải bàn”.
“Kim Kiền”, giọng Triển Chiêu hơi cao, vẻ bất đắc dĩ.
Kim Kiền liếc mắt một cái, chỉ thấy sắc mặt Triển Chiêu không vui, thầm nghĩ không hay rồi, liền vội vàng trưng bộ mặt tươi cười ra hỏi: “Triển đại nhân, ngài có gì cần sai bảo?”.
Triển Chiêu khẽ cử động cánh tay, kín đáo thu ống tay áo về, liếc Kim Kiền một cái.
Cái liếc mắt này mang theo ánh nhìn sắc nhọn khiến Kim Kiền gai gai sống lưng, vội vàng giơ hai tay lên, cười khan hai tiếng, lui sang một bên, nghĩ bụng: Con mèo này xấu tính quá, mà hình như còn có bệnh cuồng sạch sẽ nữa, sau này ít đụng chạm đến là hơn.
Triển Chiêu lúc này mới thong thả cất tiếng hỏi Lưu thị: “Lưu đại tẩu, Triển mỗ có mấy câu hỏi, mong đại tẩu có thể giải đáp cho Triển mỗ”.
Lưu thị vội trả lời: “Triển đại nhân cứ hỏi”.
Triển Chiêu gật đầu hỏi: “Lưu Thế Xương thường đến chỗ nào nhập vải vóc?”.
“Mỗi lần tướng công đều đến Tô Châu mua hàng.”
“Vậy mỗi lần nhập hàng phải chăng đều là cùng một tiệm?”
Lưu thị lắc lắc đầu nói: “Nhà dân phụ vốn chỉ kinh doanh buôn bán nhỏ, mỗi lần nhập hàng đều không cố định ở một tiệm nào cả. Triển đại nhân vì sao lại hỏi vậy?”.
Triển Chiêu nghe xong lại chau mày trầm tư, im lặng không đáp.
Lưu thị không khỏi có chút lo lắng, vội ngước mắt nhìn sang Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu.
Kim Kiền thấy Trịnh Tiểu Liễu bên cạnh nhấp nhổm muốn nói, liền thì thầm gợi ý: “Tiểu Lục ca, sao còn không tiến lên trợ giúp Triển đại nhân?”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe vậy mừng rỡ, vội tiến lên hai bước, ưỡn ngực nói: “Lưu đại tẩu, bởi đôi huynh đệ Ngô thị kia giết người cướp của, sau này tất sẽ phải đem số hàng đoạt được ra bán. Nếu mỗi lần tướng công tẩu nhập hàng ở cùng một cửa hiệu, như vậy trên vải đều có kí hiệu của cửa hàng ấy, chúng tôi bắt tay vào điều tra từ đó, vụ án mới có phương hướng giải quyết”.
Lưu thị lúc này mới hiểu ra, nhưng sắc mặt tối sầm xuống, cúi đầu suy nghĩ.
Ô bồn buồn bã nói: “Đều tại vi phu không tốt, rất nhiều việc quan trọng lại hoàn toàn không nhớ gì, nếu không…”.
Lưu thị nghe vậy lại như nhớ ra điều gì, đột nhiên reo lên: “Triển đại nhân, dân phụ nhớ ra rồi, trước khi xuất môn tướng công có nói, lần này đến Tô Châu nhập hàng, sẽ chọn mua lụa Vân Cẩm”.
“Lụa Vân Cẩm?”, Triển Chiêu ngước lên hỏi: “Lụa Vân Cẩm này là loại lụa gì?”.
Lưu thị đáp: “Triển đại nhân không biết đấy thôi, Vân Cẩm là tơ lụa đặc chế hàng đầu ở Tô Châu, chất lụa mềm như nước, màu sắc đẹp mà quý phái, giá thành đắt vô cùng. Trước đây đã nhiều lần tướng công muốn nhập về bán, nhưng ngặt nỗi vốn chẳng đủ. Đến năm nay mới tích đủ ngân lượng, dự định chuyến này đi nhập hàng sẽ mua về một cuộn để làm phong phú thêm cho cửa tiệm. Chẳng ngờ, một đi không trở lại…”, nói rồi lệ lại tuôn chảy như mưa.
Triển Chiêu trầm ngâm giây lát, rồi nói: “Theo lời đại tẩu thì lụa Vân Cẩm này rất hiếm?”.
Lưu thị gật gật đầu.
Trịnh Tiểu Liễu nghe xong nhất thời hiểu ra, bước lên một bước nói: “Triển đại nhân, nếu thế thì chúng ta có thể bắt đầu điều tra từ lụa Vân Cẩm”.
Triển Chiêu nhìn Trịnh Tiểu Liễu, gật đầu, suy nghĩ một lát rồi thuận miệng hỏi: “Vậy theo ý của ngươi, nên điều tra như thế nào?”.
“Việc này… thuộc hạ… thuộc hạ…”, Trịnh Tiểu Liễu bỗng ngắc ngứ, vò đầu bứt tai, mắt đảo mấy vòng nhưng cũng không biết nên trả lời như thế nào. Liếc sang bên cạnh, thấy Kim Kiền đang lén ngáp một cái, Trịnh Tiểu Liễu không khỏi chấn động, thầm nghĩ: Kim Kiền hành động như thế ắt đã có dự liệu rồi, chi bằng hỏi cậu ta xem sao.
Nghĩ vậy, Trịnh Tiểu Liễu liền cao giọng nói: “Triển đại nhân, thuộc hạ cảm thấy Kim Kiền đã có chủ ý”.
Về phần Kim Kiền, cõng oan hồn ô bồn trên lưng cả hai ngày trời, tất nhiên mệt mỏi vô cùng, đang định trang thủ ngủ gật một chút thì đột nhiên nghe thấy Trịnh Tiểu Liễu đá vấn đề sang cho mình, không khỏi thầm kêu khổ trong lòng.
Triển Chiêu, giọng gấp gáp, hỏi: “Kim Kiền, ngươi có chủ ý gì?”.
Kim Kiền ngước lên, chỉ thấy ánh mắt Triển Chiêu bừng sáng như sao, còn Trịnh Tiểu Liễu gương mặt mang theo vẻ chờ đợi, lại thêm Lưu thị vẻ mặt vạn phần kỳ vọng, nếu ô bồn mà cũng biết thể hiện nét mặt chắc cũng chỉ như thế mà thôi.
“Việc này…”, da đầu Kim Kiền ngứa râm ran, miệng ngắc ngứ không nói thành lời, thầm nghĩ: Bà nó, vấn đề có độ khó cao thế này mình làm sao giải đáp nổi! Đám người này đang làm cái quỷ gì thế, coi mình là Conan, Kindaichi hay Sherlock Holmes à? Cho dù tế bào não của mình tiến hóa hơn mấy trăm năm cũng không có công năng phá án! Haizzz… thứ tình huống tiến thoái lưỡng nan này, mình đành phải phát huy tuyệt học của lão Trương, tổ sư khai sáng phái Võ Đang – đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau.
Nghĩ vậy, Kim Kiền lập tức bày ra vẻ mặt khiêm tốn muốn thụ giáo, hướng Triển Chiêu hỏi: “Theo cao kiến của Triển đại nhân thì nên làm thế nào?”, còn bụng thì nghĩ: Trước tiên cứ đem vứt “củ khoai nóng bỏng tay” này đã rồi tính sau.
Triển Chiêu trầm ngâm một lát mới nói: “Nếu lụa Vân Cẩm này giá thành đắt đỏ như vậy thì sẽ có rất ít cửa hàng bán, chúng ta điều tra các cửa hàng bán loại lụa này có lẽ sẽ tìm được manh mối gì đó”.
Kim Kiền nghe xong nhất thời hoan hỉ, nghĩ thầm: Mình biết ngay mà, kinh nghiệm của Tiểu Miêu phong phú, nhất định sẽ có biện pháp.
Nhưng lại thấy Triển Chiêu nói: “Chỉ là những cửa hàng bán vải ở Khai Phong có rất nhiều, cứ dò hỏi như thế thì không biết đến khi nào mới có kết quả”.
Lưu thị nghe xong nhất thời nóng lòng như lửa đốt, lại ôm ô bồn khóc lóc: “Tướng công ơi, phải làm gì bây giờ? Nay oan hồn chàng bị phong bế trong ô bồn, bị người ta đem ra mua bán đổi chác, trong khi đó kẻ sát nhân lại nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, tướng công ơi… Thiên lý ở đâu?”.
Ô bồn cũng gào khóc theo, hai vợ chồng kẻ khóc người than, bằng trắc hợp vận, thực như ma âm xuyên thủng lỗ tai, uy lực vô cùng.
Kim Kiền chỉ thấy đầu óc bỗng như to ra, tế bào não đều lao nhao phản đối, chức năng phòng vệ tự khởi động, đột nhiên trong óc lóe lên cái gì đó, bất giác Kim Kiền buột miệng quát: “Im lặng!”.
Phu phụ lưu thị liền ngưng khóc, cùng Triển Chiêu, Trịnh Tiểu Liễu nhìn chăm chăm về phía Kim Kiền.
Kim Kiền khẽ thở ra một hơi, rùng mình mấy cái liền, sau đó hạ giọng hỏi: “Đại tẩu, núi Nam Hoa cách trấn này bao xa?”.
Lưu thị ngẩn ra, nghĩ một lúc mới trả lời: “Không quá hai mươi dặm”.
“Vậy thành trấn nào gần núi Nam Hoa nhất?”
Lưu thị đáp: “Trong khoảng năm mươi dặm quanh núi Nam Hoa, chỉ có trấn này”.
Triển Chiêu nghe đến đây, trong lòng đã có chút sáng tỏ, tiếp lời hỏi: “Theo ý Kim Kiền thì nơi mà hai huynh đệ hộ Ngô có khả năng mang hàng đến tẩu tán nhất chính là… trấn này?”.
Kim Kiền gật đầu.
Trịnh Tiểu Liễu không hiểu, cũng hỏi: “Kim Kiền, hiệu bán vải vóc trong thành Đông Kinh Biện Lương rất nhiều, vì sao hai huynh đệ chúng lại phải mang hàng đến trấn này tẩu tán?”.
Kim Kiền nghe xong nhất thời đắc ý, khoanh tay trước ngực nói: “Tiểu Lục ca, anh còn nhớ cái ô bồn kia mua ở đâu không?”.
Trịnh Tiểu Liễu nhíu mày đáp: “Đương nhiên là trong thành Biện Lương”.
Kim Kiền giơ một ngón tay lên nói: “Đúng vậy! Huynh đệ họ Ngô năm nào cũng tạo tác nung ô bồn mang đến thành Biện Lương bán, trong thành tất có người quen biết, nếu đột nhiên chúng vận chuyển tơ lụa vào thành bán, há chẳng khiến cho người ta sinh nghi sao? Hai huynh đệ chúng ngay cả chuyện đốt xác tiêu hủy dấu vết còn nghĩ đến thì chắc chắn sẽ không phạm sai lầm ngớ ngẩn như thế. Tuy nhiên bọn chúng lại không thể vận chuyển hàng hóa đi xa, thế nên địa điểm tốt nhất để tẩu tán tang vật chính là thành trấn lân cận gần núi Nam Hoa, mà trấn này lại là nơi có khả năng nhất”.
Mọi người nghe xong mới hiểu rõ, liền phục lăn, lập tức nhìn Kim Kiền bằng con mắt khác. Trịnh Tiểu Liễu và Lưu thị tất nhiên không cần phải nhiều lời, ngay cả Triển Chiêu khuôn mặt cũng mang vẻ tán thưởng.
Kim Kiền thầm thở phào một hơi, nghĩ bụng: Nếu không phải bà chị kia kêu khóc rằng “ô bồn bị người ta đem ra mua bán đổi chác”, nháo nhào hết lên làm cho đầu mình cơ hồ muốn nứt, cũng sẽ không thể trong cái khó ló cái khôn mà nghĩ ra được điều này. Xem ra câu tục ngữ “bí quá hóa liều” cũng có vài phần đạo lý.
Mọi người tìm được manh mối tự nhiên đều mừng rỡ. Kim Kiền lại càng xúc động hơn, bởi lần này đi tra án sẽ không còn phải tha cái ôn bồn kia theo nữa, cuối cùng nàng cũng có thể vất bỏ cái mai rùa oan hồn đó rồi. Triển Chiêu lại hỏi Lưu thị một hồi về những cửa hàng vải vóc trong trấn, chuẩn bị cáo từ rời đi.
Ba người vừa mới đứng dậy liền nghe thấy tiếng trẻ con từ ngoài cửa truyền vào: “Mẹ, con về rồi”.
Lưu thị vừa nghe nhất thời biến sắc, vội vàng dùng vải đen bọc kín cái ô bồn lại, nói với ba người bọn Triển Chiêu rằng: “Các vị đại nhân, Bách Nhi, con trai dân phụ, đi học về rồi, chuyện tướng công đã chết, xin các vị đại nhân khoan hãy lộ ra”.
Ba người hiểu rõ, cùng gật đầu đồng ý.
Cửa chính bị đẩy ra, một bé trai khoảng mười một, mười hai tuổi tiến vào, nói: “Mẹ, đang là ban ngày, vì sao lại đóng cả cửa sổ lẫn cửa chính thế?”.
Lưu thị vội vàng bước đến, đỡ lấy cậu bé nói: “Bách Nhi, mau qua chào các ca ca đi. Các huynh ấy đều là bằng hữu của cha con đấy”.
Cậu bé lễ phép, khẽ chắp tay, lanh lảnh nói: “Bách Nhi bái kiến các ca ca”.
Mọi người định thần nhìn kỹ, chỉ thấy cậu bé này mặc áo vải, đeo túi chéo, mày mắt rõ ràng, khuôn mặt sáng láng như ngọc. Tuổi tuy còn nhỏ nhưng ánh mắt lại có vẻ điềm tĩnh, chín chắn.
Triển Chiêu và Trịnh Tiểu Liễu vừa gặp Bách Nhi không khỏi tấm tắc khen, gật đầu đáp lễ. Chỉ có Kim Kiền là nhăn mặt, thầm nghĩ: Ca ca… từ này ngày càng thích hợp với mình hay sao ấy.
Bách Nhi khẽ ngẩng đầu lên nhìn mẹ hỏi: “Mẹ, có phải đã có tin tức của cha không?”.
“Cái này…”, Lưu thị miễn cưỡng cười: “Ừ, có tin rồi”.
“Vậy khi nào thì cha con trở về?”
“Ừm… À, Bách Nhi, con vừa đi học về chắc khát lắm rồi, để mẹ đi lấy nước cho con.” Trong mắt Lưu thị lệ đã dâng đầy, đành phải tìm cớ chạy vào phòng trong, để lại Bách Nhi và ba người lạ mắt to mắt nhỏ nhìn nhau.
Bách Nhi cởi túi vải ra đặt lên bàn, nhìn một lượt những người lạ trong phòng rồi từ từ đi đến trước mặt Triển Chiêu, khom người thi lễ nói: “Ca ca, Bách Nhi mạo muội hỏi một câu, cha của Bách Nhi có phải đã tạ thế rồi không?”.
Những lời này vừa nói ra, đừng nói Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu giật mình nhảy dựng lên. Mà ngay cả Triển Chiêu khuôn mặt trước nay chưa từng để lộ điều gì cũng không khỏi biến sắc, qua một lúc lâu, Triển Chiêu mới từ tốn cất lời: “Vì sao đệ lại hỏi vậy?”.
Bách Nhi nhìn sắc mặt của ba người trong phòng, rũ mắt xuống đáp: “Xem ra Bách Nhi đoán không sai rồi, quả nhiên cha đã tạ thế”.
“Bách Nhi!”, một tiếng kêu kinh hãi từ trong phòng trong truyền ra, Lưu thị hai mắt rưng rưng, đưa tay che miệng, hối hả đi đến trước mặt Bách Nhi, run run hỏi: “Con nói lung tung cái gì đấy, con sao lại có thể nói rằng cha mình đã chết chứ?”.
“Mẹ!”, Bách Nhi kéo mẫu thân, để Lưu thị ngồi xuống ghế tựa, sau đó mới chậm rãi nói: “Mẹ, cha trước nay vốn rất trọng chữ tín, vậy mà tết Nguyên Tiêu vừa rồi lại vô cớ lỡ hẹn. Sau đó nửa năm nay bặt vô âm tín. Nếu không có láng giềng cung họ hàng thân thích quan tâm chăm sóc, chỉ sợ Bách Nhi và mẫu thân đã sớm chết đói ngoài đường rồi, đây đâu phải tính cách của phụ thân? Hôm nay bỗng nhiên có ba người tới, nói là có tin tức của cha, hai mắt mẹ lại đỏ hoe, không dám nhìn thẳng vào Bách Nhi, những biểu hiện như thế không đủ nói lên rằng cha đã tạ thế rồi sao?”.
Dứt lời, tất cả đều kinh ngạc cảm thán. Kinh ngạc bởi, cậu bé này tuy còn nhỏ tuổi nhưng tư duy đã nhạy bén sắc sảo, cảm thán vì một đứa trẻ thông minh lanh lợi như vậy mà đã sớm mất cha.
Lưu thị lại càng thương tâm vạn phần, ôm chặt lấy hai vai con trai, khóc nấc lên. Qua một lúc lâu, Lưu thị mới buông Bách Nhi ra, đi đến trước bàn mở chiếc khăn màu đên bọc ô bồn ra, nức nở nói: “Tướng công, Bách Nhi vô cùng thông minh, chàng có thể yên lòng rồi”.
Bách Nhi thấy thế không khỏi kinh ngạc, vội tiến lên gọi: “Mẹ, mẹ làm sao thế? Vì sao lại ôm cái ô bồn nói năng hồ đồ vậy?”.
Lại nghe tiếng khóc của ô bồn vang lên, nức nở nói: “Bách Nhi, phụ thân chết oan uổng lắm!”.
Bách Nhi kinh hoàng thất sắc, chân tay mềm nhũn, quỳ sụp xuống đất, nhìn chăm chăm vào ô bồn.
Lưu thị đặt ô bồn xuống trước mặt Bách Nhi, nức nở nói: “Bách Nhi, đây là cha con…”, sau đó liền đem mọi chuyên nhất nhất kể lại cho con nghe.
Bách Nhi nghe xong, nhắm mắt không nói lên tiếng nào, hai hàng nước mắt trong suốt từ từ chảy xuống, cả người run rẩy không ngừng. Hồi lâu sau, Bách Nhi bỗng mở mắt ra, dập đầu ba cái trước ô bồn, kiên định nói: “Cha, người yên tâm, Bách Nhi nhất định sẽ đòi lại công bằng cho cha”.
Dứt lời, Bách Nhi đứng thẳng lên quay lại, đi đến trước mặt ba người Triển Chiêu, ngẩng đầu nói: “Ba vị đại nhân, Bách Nhi biết cửa hàng nào trong trấn nửa năm nay bán lụa Vân Cẩm!”.
“Cái gì?”, Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu, Lưu thị cùng kêu lên.
Triển Chiêu liền hỏi: “Bách Nhi biết được từ đâu?”.
Bách Nhi lau nước mắt nói: “Đại nhân, từ sau tết Nguyên Tiêu khi cha thất hẹn, Bách Nhi đều đặc biệt lưu ý những tin tức có liên quan đến cha. Bách Nhi từng nghe phụ thân nhắc đến tên loại lụa Vân Cẩm, cho nên vừa nghe nói có người bán thứ lụa này Bách Nhi liền chạy qua đó thăm dò”.
Triển Chiêu lại hỏi: “Vậy người nào bán loại lụa này?”.
Bách Nhi đáp: “Là cửa hàng vải Thiên Chức ở đầu phố Nam, nửa năm nay chỉ có chỗ đó bán lụa Vân Cẩm”.
Triển Chiêu nghe xong liền gật đầu, quay sang ra lệnh cho hai người Kim, Trịnh: “Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu, mau theo ta đến cửa hàng vải Thiên Chức điều tra”.
“Tuân lệnh!”, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu chắp tay đồng thanh đáp.
Kim Kiền vừa nhấc chân bước qua ngưỡng cửa, Triển Chiêu đang đi phía trước bỗng dừng lại, quay đầu nói: “Kim Kiền, ngươi hãy mang ô bồn theo, phòng khi cần đến”.
“… Khụ khụ… Tuân lệnh…”
Tĩnh tâm tự đầu mối lại về
Thành Đông Đô, cửa phía đông nam gọi là Trần Châu môn, cách đó mười dặm là núi Nam Hoa. Cửa chính nam gọi là Nam Huân môn, xa xa cách cửa thành mười dặm là trấn Thảo Thị, bởi các gia đình trong trấn phần lớn đều mang họ Lưu nên nơi đây còn được gọi là trấn Lưu Gia.
Trấn Lưu Gia này tuy chỉ là trấn nhỏ nhưng vì nằm trên trục đường trọng yếu dẫn đến kinh thành Biện Lương nên mới phát triển thịnh vượng như vậy, hàng hóa từ khắp nơi đổ về tràn ngập trên phố, người mua kẻ bán tấp nập, vô cùng náo nhiệt và sầm uất. Dân cư nơi đây hơn năm trăm hộ, đều lấy việc kinh thương làm kế sinh nhai.
Theo lý mà nói, trấn Lưu Gia này là nơi giao thương trọng yếu, khách vãng lai, lái buôn qua lại vô số, từ nam ra bắc đủ mọi loại người, người trong trấn đã gặp rất nhiều, không còn cảm thấy kỳ lạ từ lâu. Nhưng trưa hôm nay, có ba người tới đây lại khiến cho mọi người trong trấn bát giác đều dừng chân, ngoái đầu mà quan sát họ.
Trong ba người ấy, đi đằng trước là một thanh niên áo lam.
Chàng thanh niên này, mặc áo tuyền một sắc lam, thắt lưng màu trắng, tay cầm một thanh kiếm cổ kiếm vỏ trắng, toàn thân trên dưới chẳng mang theo vật tùy thân xa hoa nào, nhưng dáng người thẳng như thân tùng, khí chất nho nhã, lại khiến cho những viên ngọc long lanh trên phố cũng mất đi vẻ quyến rũ; lại nhìn tướng mạo của người thanh niên ấy, dung nhan tuấn tú văn nhã, đôi mắt đen huyền sáng lấp lánh, lông mày lưỡi mác, phong thái cùng khí độ hiệp nghĩa của chàng thật không bút nào tả cho xiết, khiến người ta cứ phải tấm tắc mãi không thôi.
Nhưng hai người thanh niên phía sau lại khiến cho người ta chẳng thể nào khen được nửa chữ.
Một người mặc áo vải màu xám tro, thân hình gầy nhẳng như cây sậy, hai mắt lấp lánh, tuổi cũng chỉ khoảng trên dưới mười bảy, nhưng lại trưng ra bộ dạng trưởng thành dày dặn kinh nghiệm, tò tò đi theo sau chàng thanh niên áo lam một tấc cũng không rời, tựa như miếng cẩu bỉ cao[1] mà mấy tay giang hồ vẫn bán.
[1] Cẩu bỉ cao: dịch nôm na là “cao da chó”, một loại cao dán của Trung Quốc, có công dụng như thuốc giảm đau tạm thời, đau đâu dán đó.
Người kia lại càng kỳ quái hơn, thân hình lùn xủn mặc một chiếc áo màu đen, eo thì bé tí tị, lưng mỏng dính thẳng đuỗn, da dẻ trắng bóc, hai mắt nhỏ dài, khuôn mặt non nớt tựa hồ chưa qua tuổi thiếu niên nhưng lại có dáng đi khom khom như bà còng, chân đi bước thấp bước cao. Nếu như không nhìn mặt thì dù nói đó là ông lão bảy, tám mươi tuổi cũng có người tin. Nhưng quan sát kỹ thì thấy thiếu niên này không phải bị cong bẩm sinh, mà bởi đang cõng một cái bọc màu đen như cái mai rùa trên lưng.
Ba người này, hình dáng tư thái khác nhau một trời một vực, nhưng lại đi cùng nhau đương nhiên là rất kỳ lạ rồi. Mà càng quái lạ hơn là, họ đến nơi phố chợ buôn bán sầm uất tấp nập này mà lại chẳng xem hàng hóa, cũng chẳng ngắm cửa hiệu, hàng buôn, cứ chuyên chú quan sát nhà cửa, tiểu viện. Nếu nói là tìm người thì lại chẳng thấy họ hỏi ai, đi qua phố lớn vòng vào ngõ nhỏ hồi lâu, họ cứ chậm rãi bước mà không ngừng lại, chỉ là thần sắc càng lúc càng trở nên nghiêm trọng, không khỏi khiến người khác thầm phỏng đoán.
Mọi người thì khó hiểu trong lòng còn ba người này cũng chẳng khá hơn gì. Hành vi của họ kỳ quái như vậy không vì nguyên nhân gì khác mà chính là do người dẫn đường, trí nhớ suy giảm thì không nói làm gì, lại còn là một cái ô bồn mắt kém nữa chứ.
Ba người này chính là đoàn Triển Chiêu phụng mệnh xuất hành. Rời khỏi phủ từ sáng sớm, đi liên tục hai canh giờ mới đến được trấn Lưu Gia. Nhưng vì ô bồn trí nhớ không tốt, lại bị bọc trong vải đen, tầm nhìn hạn chế, thế nên họ tìm mãi vẫn không ra nhà của Lưu Thế Xương.
Đi lòng vòng trong trấn gần một canh giờ, cuối cùng đoàn người cũng dừng chân trước cổng một căn nhà ba gian bao bọc bởi sân vườn, nghỉ ngơi quan sát.
Kim Kiền thấp giọng hỏi: “Lưu ô bồn, ngươi ngàn vạn lần đừng có chậu rửa mặt không muốn lại thích làm chậu rửa chân, nhìn cho kỹ đi, đây có đúng là nhà ngươi không?”.
“Tuyệt đối không thể sai được”, ô bồn phía sau lưng Kim Kiền đáp.
Ba người nghe vậy mới thở phào nhẹ nhõm.
Triển Chiêu tiến lên trước một bước, khẽ gõ cửa, giọng nói sang sảng vang lên: “Xin hỏi có ai ở nhà không?”.
Chợt nghe một giọng nữ trong trẻo từ trong sân truyền ra, đáp lại: “Ai đó?”.
“Xin hỏi đây có phải là quý phủ của Lưu huynh, Lưu Thế Xương không?”
Rồi có tiếng bước chân hối hả từ xa bước đến gần, kẹt một tiếng cánh cửa gỗ mở ra, một người phụ nữ xuất hiện ở cửa.
Người phụ nữ này mặc một chiếc áo dài hoa màu xanh nhạt, phần tay áo lại có màu xanh lơ, quần lụa màu tím, tóc bới cao hình trôn ốc, trâm bạc cài lệch một bên, dung nhan yêu kiều, dáng hình yểu điệu. Nhìn thấy ba người trước cửa nàng không khỏi có phần kinh ngạc, nhưng ngay lập tức khôi phục dáng vẻ bình thường, nhẹ giọng nói: “Ba vị biết tướng công tôi?”.
Kim Kiền cảm thấy ô bồn sau lưng đột nhiên rung lắc không ngừng, thiếu chút nữa thì rớt ra khỏi túi rơi xuống đất, liền vội vàng nắm thật chặt cái túi, len lén đưa tay ra sau lưng gõ hai cái, ô bồn kia mới dần yên ắng trở lại.
Triển Chiêu chắp tay thi lễ nói: “Chúng tôi đích thực là quen biết Lưu huynh, lần này đến đây chính là để thay Lưu huynh chuyển đến quý phủ một món đồ”.
Lưu thị nghe xong vội hỏi tiếp: “Đưa đồ? Không biết mấy vị gặp tướng công tôi khi nào?”.
Triển Chiêu hơi sững lại, đáp: “Là nửa năm trước”.
“Nửa năm trước…”, Lưu thị khẽ cúi đầu, miệng lẩm bẩm, im lặng hồi lâu mới hỏi: “Không biết tướng công tôi ủy thác cho các vị đưa món đồ gì?”.
“Là một cái ô bồn.”
“Ô bồn?”, Lưu thị nghe xong, khuôn mặt mang theo vẻ kinh ngạc, mắt ánh lên tia nhìn nghi hoặc, cẩn thận đánh giá ba người đối diện. Nhưng thấy người thanh niên áo lam ánh mắt chính trực, thần sắc đĩnh đạc, khí chất nho nhã, không giống phường gian ác hại người; lại nhìn sang hai người bên cạnh, tuổi còn chưa qua thiếu niên, mới an tâm phần nào, nép mình sang bên để mấy người họ tiến vào, sau đó mời họ vào nhà ngồi.
Đợi mấy người họ an tọa xong, Lưu thị mới mở miệng hỏi: “Chẳng hay cái ô bồn đó đâu?”.
Triển Chiêu không đáp mà hỏi ngược lại: “Xin hỏi Lưu đại tẩu, chúng tôi mang ô bồn đến đây, nhưng vì sao không thấy Lưu huynh?”.
Câu hỏi này rất kỳ lạ, hai người Trịnh Tiểu Liễu và Kim Kiền nghe xong cũng sửng sốt.
Kim Kiền nghĩ bụng: Con mèo này bị ngố à? Nửa năm trước Lưu Thế Xương đã bị người ta sát hại, ngay cả xác còn bị nung thành ô bồn, mà cái ô bồn ấy đang ở trên lưng mình đây, giờ lại hỏi thê tử người ta rằng Lưu Thế Xương ở đâu, thật chẳng hiểu ra làm sao nữa!
Lưu thị nghe xong không cảm thấy kỳ lạ, sắc mặt trầm xuống, thấp giọng đáp: “Mấy vị không biết đấy thôi, nửa năm trước tướng công đi ra ngoài nhập vải, ai ngờ đi liền một mạch không có tung tích, đã nửa năm rồi mà vẫn chưa quay về nhà”.
Triển Chiêu hơi nhướng mắt, lại hỏi: “Vậy có thư từ gì gửi về không?”.
Lưu thị lắc đầu nói: “Đầu tháng Giêng có nhận được một bức thư, trong thư tướng công nói tết Nguyên Tiêu nhất định sẽ về nhà sum họp. Nhưng tết Nguyên Tiêu hôm ấy tôi và Bách Nhi đợi cả đêm cũng vẫn không thấy bóng dáng tướng công, từ đó đến nay bặt vô âm tín… cũng không biết hiện giờ tướng công ở đâu, còn sống hay đã chết…”.
Giọng Triển Chiêu hơi cao, nói: “Bách Nhi không đợi được cha, nhất định sẽ thất vọng”.
“Điều đó là đương nhiên rồi, Bách Nhi còn giận tưởng tướng công không giữ lời hứa, vì chuyện đó mà ấm ức mấy ngày liền.” Lúc này những cảm xúc lo lắng trong lòng bộc phát nên Lưu thị không chú ý nhiều, chẳng hề cảm thấy câu hỏi của người đối diện đều mang vẻ thăm dò.
Nhưng Kim Kiền khi nghe đến đây lập tức hiểu ra, không khỏi kinh ngạc, thầm lẩm bẩm trong lòng: Ai da, con mèo này cẩn thận quá! Mặc dù chính miệng ô bồn kêu oan, lại đích thân dẫn đường tới được nơi này, nhưng Tiểu Miêu vẫn đối chứng lại lời của vợ Lưu Thế Xương và y, thăm dò từng câu để kiểm chứng toàn bộ lời khai của Lưu Thế Xương, ngay cả tên con trai y cũng kiểm tra cẩn thận. Chậc chậc, Tiểu Miêu quả là con mèo thượng đẳng của nhà lão Bao, mức độ chuyên nghiệp quả nhiên là hơn hẳn mình!
Triển Chiêu nghe xong, thần sắc mới bình thường trở lại, sau đó quay sang nói với Kim Kiền: “Kim Kiền, đem ô bồn ra”.
Kim Kiền vội tháo cái bọc trên lưng xuống, đặt ra giữa bàn, nói với Lưu thị: “Lưu đại tẩu, ô bồn ở trong cái bọc này”.
Lưu thị nghe vậy mới lấy lại tinh thần, đứng dậy định mở bọc ra thì bị Kim Kiền ngăn lại: “Lưu đại tẩu, ô bồn này không giống như những vật bình thường khác, không thể bị ánh sáng chiếu vào, có thể phiền Lưu đại tẩu đóng cửa sổ, cửa chính, che ánh mặt trời đi rồi mới mở ra được không?”.
Nghe những lời này Lưu thị vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ: Xem ô bồn mà phải đóng cửa sổ, cửa chính, như thế là đạo lý gì? Bất giác Lưu thị nhìn sang hai người còn lại.
Chỉ thấy người thanh niên áo lam cùng cậu thiếu niên áo màu tro xám đều gật đầu tán đồng, Lưu thị thấy vậy cũng không phản đối, đứng dậy đóng cửa chính và cửa sổ lại.
Kim Kiền không biết, đêm qua nghe Công Tôn tiên sinh quyền uy của Khai Phong phủ phỏng đoán lung tung một phen, kẻ trên người dưới khắp Khai Phong phủ đều cho Kim Kiền là người có “thiên phú dị bẩm”, giờ lại nghe lời nói có ẩn giấu huyền cơ này, Triển, Trịnh hai người lại càng cảm thấy lời của Công Tôn tiên sinh có lý, rất tự nhiên liền tán đồng theo. Kỳ thực lời của Kim Kiền vốn chẳng có căn cứ gì cả, chỉ là dựa trên những bộ phim truyền hình cũ rích thời hiện đại mà phòng ngừa chuyện bất trắc xảy ra mà thôi, nhưng lại vô tình càng tăng thêm độ tin cậy thân phận “thiên phú dị bẩm” của mình, sau này khi Kim Kiền hồi tưởng lại thật sự là có hối hận cũng không kịp nữa.
Đợi đến khi Lưu thị đóng tất cả các cửa rồi quay lại chỗ ngồi, Kim Kiền mới từ từ mở bọc đồ, lấy ô bồn ra đặt xuống trước mặt Lưu thị, nói: “Lưu ô bồn, thê tử của ngươi đang ở trước mặt, còn không mau ra nhận?”.
Ô bồn khẽ rung động, nghẹn ngào nói: “Nương tử, vi phu cuối cùng cũng gặp được nàng rồi…”.
Lưu thị vừa nghe sắc mặt liền biến đổi, đôi môi trắng bệch như tờ giấy, run lẩy bẩy nhưng lại không phát ra nổi tiếng nào. Đôi mắt cứ nhìn chằm chằm vào ô bồn, rất lâu sau mới run run hỏi: “Ông… ông… ông… cái ô… ô bồn này… vì… vì sao…”.
Ô bồn nghe thế liền khoc lóc thảm thiết, nói: “Nương tử, vì sao nàng ngay cả giọng nói của vi phu cũng không nhận ra?”.
Thần sắc Lưu thị đình trệ, chầm chậm ngẩng đầu lên nhìn khắp lượt mọi người trong phòng, nhưng thấy vẻ mặt nghiêm túc, cúi đầu không nói lời nào của họ, cả người Lưu thị run rẩy dữ dội, lập tức gục xuống bàn, hai tay ôm chặt lấy ô bồn, nước mắt lã chã như chuỗi trân châu bị đứt dây rơi xuống ô bồn, tí tách từng giọt, nức nở thê lương: “Tướng công, tướng công… chàng… vì sao chàng lại thành thế này?”.
“Nương tử, vi phu chết oan uổng lắm…”, ô bồn vừa khóc vừa nói, đem cảnh ngộ mình bị sát hại như thế nào, rồi bị nung thành ô bồn ra sao, sau đó đến được Khai Phong phủ kêu oan thế nào, tra được nơi ở của huynh đệ họ Ngô kia ra làm sao,… Nói hai câu lại khóc một cậu, cứ ngắt quãng như thế mà kể lại mọi chuyện cho thê tử mình nghe. Lưu thị càng nghe càng đau lòng, càng nghe càng sầu muộn, nghe đến cuối cùng, một người, một bồn ôm nhau khóc lóc thảm thiết, nức nở không nên lời.
Không biết hai người đã khóc được bao lâu rồi, Kim Kiền chỉ cảm thấy trời đất gió mây đều như biến sắc, cổ lưng, cơ bắp toàn thân đều cứng đờ, khi ấy một người một bồn bên kia mới có dấu hiệu dừng lại.
Tiếng khóc vừa mới ngừng liền thấy Lưu thị ôm ô bồn quỳ sụp xuống đất, khấu đầu nức nở: “Ba vị quan gia, xin hãy thay tướng công làm chủ, bắt đôi huynh đệ sát nhân kia, báo thù cho tướng công dân phụ!”.
Triển Chiêu vội tiến lên, khẽ đưa tay ra, nhẹ nhàng nói: “Lưu đại tẩu không cần phải như thế. Bao đại nhân đã thụ lý vụ án này, tất sẽ bắt hung thủ về chịu tôi trước pháp luật”.
Lưu thị nghe vậy mới từ từ đứng dậy, gạt nước mắt nói: “Dân phụ đa tạ quan gia”.
Lại nghe ô bồn nói: “Nương tử, lần này vi phu có thể giải oan được đều may nhờ có vị tiểu quan gia Kim Kiền này đây”.
Lưu thị nghe xong, vội khom người quỳ xuống nói: “Lưu thị đa tạ tiểu quan gia giúp đỡ”.
Kim Kiền bị hành động quỳ gối của Lưu thị dọa khiến cho da đầu tê dại, thầm nghĩ: Thật là bái phục mấy vị tổ tiên cổ đại, ba bước một quỳ, năm bước một lạy. Chưa bàn đến vấn đề dương thọ của mình bị hao tổn đi bao nhiêu, hãy nói đến chuyện thời gian dành cho việc quỳ với lạy này lãng phí đi thế nào, nếu cứ vậy thì làm gì còn thời gian mà tra án nữa, mà không tra án thì chuyện này sao có thể điều tra rõ ràng được, vậy mình lại phải tiếp tục làm rùa ô bồn à? Hừ hừ, xem ra mình mà không ra tay đốc thúc để tăng hiệu suất phá án thì không được.
Nghĩ đến đây, Kim Kiền bước hai bước lên phía trước, đỡ Lưu thị dậy rồi nói: “Đại tẩu không cần phải tạ ơn, lần này chúng tôi đến đây, ngoài việc hộ tống Lưu huynh trở về quê nhà, còn là mong đại tẩu hỗ trợ tra án”.
Lưu thị nghe xong chẳng những không an tâm, ngược lại nước mắt tiếp tục tuôn như mưa, nói: “Nhưng tướng công nói, manh mối nay đã không còn, hung thủ cũng chẳng biết tung tích, làm sao phá án được? Dân phụ, dân phụ chỉ xin các quan gia hãy làm chủ cho dân phụ và tướng công!”, dứt lời, tâm tình kích động khó đè nén được, Lưu thị lại khom người, gập gối, dáng vẻ như muốn quỳ xuống tiếp.
Kim Kiền nhanh tay lẹ mắt, lại đưa tay ra đỡ Lưu thị, thốt lên: “Đại tẩu không cần lo lắng, có Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ vệ, Ngự Miêu do đích thân hoàng thượng ngự phong, Triển đại nhân ở đây, cho dù lũ tội phạm kia có đào hang trốn, chúng tôi cũng có thể quật ba thước đất lên bắt bằng được”.
Những lời này quả nhiên có tác dụng, Lưu thị lập tức ngừng khóc, nhìn Kim Kiền hỏi: “Ngự Miêu? Triển đại nhân?”.
“Không sai, không sai”, Kim Kiền vội túm ống tay áo Triển Chiêu kéo lại, đẩy đến trước mặt Lưu thị, tiếp tục nói: “Đây chính là Triển đại nhân của Khai Phong phủ chúng tôi, công phu đệ nhất thiên hạ, bản lĩnh điều tra thuộc hàng thượng thừa, khả năng bắt chuột… khụ, à bắt tội phạm lại càng không phải bàn”.
“Kim Kiền”, giọng Triển Chiêu hơi cao, vẻ bất đắc dĩ.
Kim Kiền liếc mắt một cái, chỉ thấy sắc mặt Triển Chiêu không vui, thầm nghĩ không hay rồi, liền vội vàng trưng bộ mặt tươi cười ra hỏi: “Triển đại nhân, ngài có gì cần sai bảo?”.
Triển Chiêu khẽ cử động cánh tay, kín đáo thu ống tay áo về, liếc Kim Kiền một cái.
Cái liếc mắt này mang theo ánh nhìn sắc nhọn khiến Kim Kiền gai gai sống lưng, vội vàng giơ hai tay lên, cười khan hai tiếng, lui sang một bên, nghĩ bụng: Con mèo này xấu tính quá, mà hình như còn có bệnh cuồng sạch sẽ nữa, sau này ít đụng chạm đến là hơn.
Triển Chiêu lúc này mới thong thả cất tiếng hỏi Lưu thị: “Lưu đại tẩu, Triển mỗ có mấy câu hỏi, mong đại tẩu có thể giải đáp cho Triển mỗ”.
Lưu thị vội trả lời: “Triển đại nhân cứ hỏi”.
Triển Chiêu gật đầu hỏi: “Lưu Thế Xương thường đến chỗ nào nhập vải vóc?”.
“Mỗi lần tướng công đều đến Tô Châu mua hàng.”
“Vậy mỗi lần nhập hàng phải chăng đều là cùng một tiệm?”
Lưu thị lắc lắc đầu nói: “Nhà dân phụ vốn chỉ kinh doanh buôn bán nhỏ, mỗi lần nhập hàng đều không cố định ở một tiệm nào cả. Triển đại nhân vì sao lại hỏi vậy?”.
Triển Chiêu nghe xong lại chau mày trầm tư, im lặng không đáp.
Lưu thị không khỏi có chút lo lắng, vội ngước mắt nhìn sang Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu.
Kim Kiền thấy Trịnh Tiểu Liễu bên cạnh nhấp nhổm muốn nói, liền thì thầm gợi ý: “Tiểu Lục ca, sao còn không tiến lên trợ giúp Triển đại nhân?”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe vậy mừng rỡ, vội tiến lên hai bước, ưỡn ngực nói: “Lưu đại tẩu, bởi đôi huynh đệ Ngô thị kia giết người cướp của, sau này tất sẽ phải đem số hàng đoạt được ra bán. Nếu mỗi lần tướng công tẩu nhập hàng ở cùng một cửa hiệu, như vậy trên vải đều có kí hiệu của cửa hàng ấy, chúng tôi bắt tay vào điều tra từ đó, vụ án mới có phương hướng giải quyết”.
Lưu thị lúc này mới hiểu ra, nhưng sắc mặt tối sầm xuống, cúi đầu suy nghĩ.
Ô bồn buồn bã nói: “Đều tại vi phu không tốt, rất nhiều việc quan trọng lại hoàn toàn không nhớ gì, nếu không…”.
Lưu thị nghe vậy lại như nhớ ra điều gì, đột nhiên reo lên: “Triển đại nhân, dân phụ nhớ ra rồi, trước khi xuất môn tướng công có nói, lần này đến Tô Châu nhập hàng, sẽ chọn mua lụa Vân Cẩm”.
“Lụa Vân Cẩm?”, Triển Chiêu ngước lên hỏi: “Lụa Vân Cẩm này là loại lụa gì?”.
Lưu thị đáp: “Triển đại nhân không biết đấy thôi, Vân Cẩm là tơ lụa đặc chế hàng đầu ở Tô Châu, chất lụa mềm như nước, màu sắc đẹp mà quý phái, giá thành đắt vô cùng. Trước đây đã nhiều lần tướng công muốn nhập về bán, nhưng ngặt nỗi vốn chẳng đủ. Đến năm nay mới tích đủ ngân lượng, dự định chuyến này đi nhập hàng sẽ mua về một cuộn để làm phong phú thêm cho cửa tiệm. Chẳng ngờ, một đi không trở lại…”, nói rồi lệ lại tuôn chảy như mưa.
Triển Chiêu trầm ngâm giây lát, rồi nói: “Theo lời đại tẩu thì lụa Vân Cẩm này rất hiếm?”.
Lưu thị gật gật đầu.
Trịnh Tiểu Liễu nghe xong nhất thời hiểu ra, bước lên một bước nói: “Triển đại nhân, nếu thế thì chúng ta có thể bắt đầu điều tra từ lụa Vân Cẩm”.
Triển Chiêu nhìn Trịnh Tiểu Liễu, gật đầu, suy nghĩ một lát rồi thuận miệng hỏi: “Vậy theo ý của ngươi, nên điều tra như thế nào?”.
“Việc này… thuộc hạ… thuộc hạ…”, Trịnh Tiểu Liễu bỗng ngắc ngứ, vò đầu bứt tai, mắt đảo mấy vòng nhưng cũng không biết nên trả lời như thế nào. Liếc sang bên cạnh, thấy Kim Kiền đang lén ngáp một cái, Trịnh Tiểu Liễu không khỏi chấn động, thầm nghĩ: Kim Kiền hành động như thế ắt đã có dự liệu rồi, chi bằng hỏi cậu ta xem sao.
Nghĩ vậy, Trịnh Tiểu Liễu liền cao giọng nói: “Triển đại nhân, thuộc hạ cảm thấy Kim Kiền đã có chủ ý”.
Về phần Kim Kiền, cõng oan hồn ô bồn trên lưng cả hai ngày trời, tất nhiên mệt mỏi vô cùng, đang định trang thủ ngủ gật một chút thì đột nhiên nghe thấy Trịnh Tiểu Liễu đá vấn đề sang cho mình, không khỏi thầm kêu khổ trong lòng.
Triển Chiêu, giọng gấp gáp, hỏi: “Kim Kiền, ngươi có chủ ý gì?”.
Kim Kiền ngước lên, chỉ thấy ánh mắt Triển Chiêu bừng sáng như sao, còn Trịnh Tiểu Liễu gương mặt mang theo vẻ chờ đợi, lại thêm Lưu thị vẻ mặt vạn phần kỳ vọng, nếu ô bồn mà cũng biết thể hiện nét mặt chắc cũng chỉ như thế mà thôi.
“Việc này…”, da đầu Kim Kiền ngứa râm ran, miệng ngắc ngứ không nói thành lời, thầm nghĩ: Bà nó, vấn đề có độ khó cao thế này mình làm sao giải đáp nổi! Đám người này đang làm cái quỷ gì thế, coi mình là Conan, Kindaichi hay Sherlock Holmes à? Cho dù tế bào não của mình tiến hóa hơn mấy trăm năm cũng không có công năng phá án! Haizzz… thứ tình huống tiến thoái lưỡng nan này, mình đành phải phát huy tuyệt học của lão Trương, tổ sư khai sáng phái Võ Đang – đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau.
Nghĩ vậy, Kim Kiền lập tức bày ra vẻ mặt khiêm tốn muốn thụ giáo, hướng Triển Chiêu hỏi: “Theo cao kiến của Triển đại nhân thì nên làm thế nào?”, còn bụng thì nghĩ: Trước tiên cứ đem vứt “củ khoai nóng bỏng tay” này đã rồi tính sau.
Triển Chiêu trầm ngâm một lát mới nói: “Nếu lụa Vân Cẩm này giá thành đắt đỏ như vậy thì sẽ có rất ít cửa hàng bán, chúng ta điều tra các cửa hàng bán loại lụa này có lẽ sẽ tìm được manh mối gì đó”.
Kim Kiền nghe xong nhất thời hoan hỉ, nghĩ thầm: Mình biết ngay mà, kinh nghiệm của Tiểu Miêu phong phú, nhất định sẽ có biện pháp.
Nhưng lại thấy Triển Chiêu nói: “Chỉ là những cửa hàng bán vải ở Khai Phong có rất nhiều, cứ dò hỏi như thế thì không biết đến khi nào mới có kết quả”.
Lưu thị nghe xong nhất thời nóng lòng như lửa đốt, lại ôm ô bồn khóc lóc: “Tướng công ơi, phải làm gì bây giờ? Nay oan hồn chàng bị phong bế trong ô bồn, bị người ta đem ra mua bán đổi chác, trong khi đó kẻ sát nhân lại nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, tướng công ơi… Thiên lý ở đâu?”.
Ô bồn cũng gào khóc theo, hai vợ chồng kẻ khóc người than, bằng trắc hợp vận, thực như ma âm xuyên thủng lỗ tai, uy lực vô cùng.
Kim Kiền chỉ thấy đầu óc bỗng như to ra, tế bào não đều lao nhao phản đối, chức năng phòng vệ tự khởi động, đột nhiên trong óc lóe lên cái gì đó, bất giác Kim Kiền buột miệng quát: “Im lặng!”.
Phu phụ lưu thị liền ngưng khóc, cùng Triển Chiêu, Trịnh Tiểu Liễu nhìn chăm chăm về phía Kim Kiền.
Kim Kiền khẽ thở ra một hơi, rùng mình mấy cái liền, sau đó hạ giọng hỏi: “Đại tẩu, núi Nam Hoa cách trấn này bao xa?”.
Lưu thị ngẩn ra, nghĩ một lúc mới trả lời: “Không quá hai mươi dặm”.
“Vậy thành trấn nào gần núi Nam Hoa nhất?”
Lưu thị đáp: “Trong khoảng năm mươi dặm quanh núi Nam Hoa, chỉ có trấn này”.
Triển Chiêu nghe đến đây, trong lòng đã có chút sáng tỏ, tiếp lời hỏi: “Theo ý Kim Kiền thì nơi mà hai huynh đệ hộ Ngô có khả năng mang hàng đến tẩu tán nhất chính là… trấn này?”.
Kim Kiền gật đầu.
Trịnh Tiểu Liễu không hiểu, cũng hỏi: “Kim Kiền, hiệu bán vải vóc trong thành Đông Kinh Biện Lương rất nhiều, vì sao hai huynh đệ chúng lại phải mang hàng đến trấn này tẩu tán?”.
Kim Kiền nghe xong nhất thời đắc ý, khoanh tay trước ngực nói: “Tiểu Lục ca, anh còn nhớ cái ô bồn kia mua ở đâu không?”.
Trịnh Tiểu Liễu nhíu mày đáp: “Đương nhiên là trong thành Biện Lương”.
Kim Kiền giơ một ngón tay lên nói: “Đúng vậy! Huynh đệ họ Ngô năm nào cũng tạo tác nung ô bồn mang đến thành Biện Lương bán, trong thành tất có người quen biết, nếu đột nhiên chúng vận chuyển tơ lụa vào thành bán, há chẳng khiến cho người ta sinh nghi sao? Hai huynh đệ chúng ngay cả chuyện đốt xác tiêu hủy dấu vết còn nghĩ đến thì chắc chắn sẽ không phạm sai lầm ngớ ngẩn như thế. Tuy nhiên bọn chúng lại không thể vận chuyển hàng hóa đi xa, thế nên địa điểm tốt nhất để tẩu tán tang vật chính là thành trấn lân cận gần núi Nam Hoa, mà trấn này lại là nơi có khả năng nhất”.
Mọi người nghe xong mới hiểu rõ, liền phục lăn, lập tức nhìn Kim Kiền bằng con mắt khác. Trịnh Tiểu Liễu và Lưu thị tất nhiên không cần phải nhiều lời, ngay cả Triển Chiêu khuôn mặt cũng mang vẻ tán thưởng.
Kim Kiền thầm thở phào một hơi, nghĩ bụng: Nếu không phải bà chị kia kêu khóc rằng “ô bồn bị người ta đem ra mua bán đổi chác”, nháo nhào hết lên làm cho đầu mình cơ hồ muốn nứt, cũng sẽ không thể trong cái khó ló cái khôn mà nghĩ ra được điều này. Xem ra câu tục ngữ “bí quá hóa liều” cũng có vài phần đạo lý.
Mọi người tìm được manh mối tự nhiên đều mừng rỡ. Kim Kiền lại càng xúc động hơn, bởi lần này đi tra án sẽ không còn phải tha cái ôn bồn kia theo nữa, cuối cùng nàng cũng có thể vất bỏ cái mai rùa oan hồn đó rồi. Triển Chiêu lại hỏi Lưu thị một hồi về những cửa hàng vải vóc trong trấn, chuẩn bị cáo từ rời đi.
Ba người vừa mới đứng dậy liền nghe thấy tiếng trẻ con từ ngoài cửa truyền vào: “Mẹ, con về rồi”.
Lưu thị vừa nghe nhất thời biến sắc, vội vàng dùng vải đen bọc kín cái ô bồn lại, nói với ba người bọn Triển Chiêu rằng: “Các vị đại nhân, Bách Nhi, con trai dân phụ, đi học về rồi, chuyện tướng công đã chết, xin các vị đại nhân khoan hãy lộ ra”.
Ba người hiểu rõ, cùng gật đầu đồng ý.
Cửa chính bị đẩy ra, một bé trai khoảng mười một, mười hai tuổi tiến vào, nói: “Mẹ, đang là ban ngày, vì sao lại đóng cả cửa sổ lẫn cửa chính thế?”.
Lưu thị vội vàng bước đến, đỡ lấy cậu bé nói: “Bách Nhi, mau qua chào các ca ca đi. Các huynh ấy đều là bằng hữu của cha con đấy”.
Cậu bé lễ phép, khẽ chắp tay, lanh lảnh nói: “Bách Nhi bái kiến các ca ca”.
Mọi người định thần nhìn kỹ, chỉ thấy cậu bé này mặc áo vải, đeo túi chéo, mày mắt rõ ràng, khuôn mặt sáng láng như ngọc. Tuổi tuy còn nhỏ nhưng ánh mắt lại có vẻ điềm tĩnh, chín chắn.
Triển Chiêu và Trịnh Tiểu Liễu vừa gặp Bách Nhi không khỏi tấm tắc khen, gật đầu đáp lễ. Chỉ có Kim Kiền là nhăn mặt, thầm nghĩ: Ca ca… từ này ngày càng thích hợp với mình hay sao ấy.
Bách Nhi khẽ ngẩng đầu lên nhìn mẹ hỏi: “Mẹ, có phải đã có tin tức của cha không?”.
“Cái này…”, Lưu thị miễn cưỡng cười: “Ừ, có tin rồi”.
“Vậy khi nào thì cha con trở về?”
“Ừm… À, Bách Nhi, con vừa đi học về chắc khát lắm rồi, để mẹ đi lấy nước cho con.” Trong mắt Lưu thị lệ đã dâng đầy, đành phải tìm cớ chạy vào phòng trong, để lại Bách Nhi và ba người lạ mắt to mắt nhỏ nhìn nhau.
Bách Nhi cởi túi vải ra đặt lên bàn, nhìn một lượt những người lạ trong phòng rồi từ từ đi đến trước mặt Triển Chiêu, khom người thi lễ nói: “Ca ca, Bách Nhi mạo muội hỏi một câu, cha của Bách Nhi có phải đã tạ thế rồi không?”.
Những lời này vừa nói ra, đừng nói Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu giật mình nhảy dựng lên. Mà ngay cả Triển Chiêu khuôn mặt trước nay chưa từng để lộ điều gì cũng không khỏi biến sắc, qua một lúc lâu, Triển Chiêu mới từ tốn cất lời: “Vì sao đệ lại hỏi vậy?”.
Bách Nhi nhìn sắc mặt của ba người trong phòng, rũ mắt xuống đáp: “Xem ra Bách Nhi đoán không sai rồi, quả nhiên cha đã tạ thế”.
“Bách Nhi!”, một tiếng kêu kinh hãi từ trong phòng trong truyền ra, Lưu thị hai mắt rưng rưng, đưa tay che miệng, hối hả đi đến trước mặt Bách Nhi, run run hỏi: “Con nói lung tung cái gì đấy, con sao lại có thể nói rằng cha mình đã chết chứ?”.
“Mẹ!”, Bách Nhi kéo mẫu thân, để Lưu thị ngồi xuống ghế tựa, sau đó mới chậm rãi nói: “Mẹ, cha trước nay vốn rất trọng chữ tín, vậy mà tết Nguyên Tiêu vừa rồi lại vô cớ lỡ hẹn. Sau đó nửa năm nay bặt vô âm tín. Nếu không có láng giềng cung họ hàng thân thích quan tâm chăm sóc, chỉ sợ Bách Nhi và mẫu thân đã sớm chết đói ngoài đường rồi, đây đâu phải tính cách của phụ thân? Hôm nay bỗng nhiên có ba người tới, nói là có tin tức của cha, hai mắt mẹ lại đỏ hoe, không dám nhìn thẳng vào Bách Nhi, những biểu hiện như thế không đủ nói lên rằng cha đã tạ thế rồi sao?”.
Dứt lời, tất cả đều kinh ngạc cảm thán. Kinh ngạc bởi, cậu bé này tuy còn nhỏ tuổi nhưng tư duy đã nhạy bén sắc sảo, cảm thán vì một đứa trẻ thông minh lanh lợi như vậy mà đã sớm mất cha.
Lưu thị lại càng thương tâm vạn phần, ôm chặt lấy hai vai con trai, khóc nấc lên. Qua một lúc lâu, Lưu thị mới buông Bách Nhi ra, đi đến trước bàn mở chiếc khăn màu đên bọc ô bồn ra, nức nở nói: “Tướng công, Bách Nhi vô cùng thông minh, chàng có thể yên lòng rồi”.
Bách Nhi thấy thế không khỏi kinh ngạc, vội tiến lên gọi: “Mẹ, mẹ làm sao thế? Vì sao lại ôm cái ô bồn nói năng hồ đồ vậy?”.
Lại nghe tiếng khóc của ô bồn vang lên, nức nở nói: “Bách Nhi, phụ thân chết oan uổng lắm!”.
Bách Nhi kinh hoàng thất sắc, chân tay mềm nhũn, quỳ sụp xuống đất, nhìn chăm chăm vào ô bồn.
Lưu thị đặt ô bồn xuống trước mặt Bách Nhi, nức nở nói: “Bách Nhi, đây là cha con…”, sau đó liền đem mọi chuyên nhất nhất kể lại cho con nghe.
Bách Nhi nghe xong, nhắm mắt không nói lên tiếng nào, hai hàng nước mắt trong suốt từ từ chảy xuống, cả người run rẩy không ngừng. Hồi lâu sau, Bách Nhi bỗng mở mắt ra, dập đầu ba cái trước ô bồn, kiên định nói: “Cha, người yên tâm, Bách Nhi nhất định sẽ đòi lại công bằng cho cha”.
Dứt lời, Bách Nhi đứng thẳng lên quay lại, đi đến trước mặt ba người Triển Chiêu, ngẩng đầu nói: “Ba vị đại nhân, Bách Nhi biết cửa hàng nào trong trấn nửa năm nay bán lụa Vân Cẩm!”.
“Cái gì?”, Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu, Lưu thị cùng kêu lên.
Triển Chiêu liền hỏi: “Bách Nhi biết được từ đâu?”.
Bách Nhi lau nước mắt nói: “Đại nhân, từ sau tết Nguyên Tiêu khi cha thất hẹn, Bách Nhi đều đặc biệt lưu ý những tin tức có liên quan đến cha. Bách Nhi từng nghe phụ thân nhắc đến tên loại lụa Vân Cẩm, cho nên vừa nghe nói có người bán thứ lụa này Bách Nhi liền chạy qua đó thăm dò”.
Triển Chiêu lại hỏi: “Vậy người nào bán loại lụa này?”.
Bách Nhi đáp: “Là cửa hàng vải Thiên Chức ở đầu phố Nam, nửa năm nay chỉ có chỗ đó bán lụa Vân Cẩm”.
Triển Chiêu nghe xong liền gật đầu, quay sang ra lệnh cho hai người Kim, Trịnh: “Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu, mau theo ta đến cửa hàng vải Thiên Chức điều tra”.
“Tuân lệnh!”, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu chắp tay đồng thanh đáp.
Kim Kiền vừa nhấc chân bước qua ngưỡng cửa, Triển Chiêu đang đi phía trước bỗng dừng lại, quay đầu nói: “Kim Kiền, ngươi hãy mang ô bồn theo, phòng khi cần đến”.
“… Khụ khụ… Tuân lệnh…”
Bình luận truyện