Đi Xuyên Hà Nội
Chương 34: Từ Bà Mụ Đến Nữ Hộ Sinh
Phụ nữ Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng từ cuối thế kỷ XIX trở về trước khi sinh con đều do bà mụ đỡ và thường mỗi làng, mỗi xã, mỗi phố có một bà mụ. Trong nhà có đàn bà sắp sinh, gia đình sẽ mời bà mụ đến thăm thai và bằng kinh nghiệm, bà mụ sẽ dự đoán thời gian sinh nở. Tuy nhiên do những hủ tục mang nặng màu sắc mê tín nên có bà bắt chồng hay người trong gia đình họ phải làm một số mẹo để sản phụ dễ đẻ và tùy theo vùng miền sẽ có những mẹo khác nhau. Trong bài thơ dân gian Đám cưới chuột ở vùng Liễu Đôi, lúc chuột cái đau đẻ, bà đỡ khuyên vợ chồng chuột:
... Đau thì nén chịu con ơi
Qua cơn vượt cạn ấy thời rinh rang
Chú đi tìm bắc cái thang
Leo nhà ba bậc, lăn đàng năm tao
Rồi ra lặn cọc bờ ao
Xong rồi mới vào liếm láp đồ rau
Cứ y như phép nhiệm màu
Làm xong là đẻ chẳng đau đớn nào...
Khuyên chuột nhưng thực ra là khuyên các ông chồng, “bắc cái thang”, “leo ba bậc” hay “lăn đàng năm tao”... chính là mẹo. Song dù dùng mẹo và kinh nghiệm của các bà mụ cũng có khi không tránh được thai nhi hay sản phụ tử vong vì thế có chửa “vừa là phúc cũng vừa là họa” nên dân gian có câu “Chửa là cửa mả” hay “Chửa con so làm lo láng giềng”. Mẹ tròn con vuông là mong mỏi của các gia đình nhưng tục lệ kiêng kỵ không cho người khác đẻ ở nhà mình, kể cả người ruột thịt đã gây nguy hiểm cho sản phụ đang đau đẻ. Đáng thương nhất là những người đàn bà chửa gần đến tháng sinh vẫn phải lao động quần quật nên đã đẻ rơi ngoài đường. Theo thống kê, năm 1928, tỷ lệ thai nhi bị chết ở Việt Nam lên tới 30%.
Năm 1902, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra quyết định thành lập trường Trường Y khoa Đông Dương. Cùng với trường là bệnh viện thực hành được xây dựng tại ấp Thái Hà. Tuy nhiên do Thái Hà khi đó ở vùng ngoại ô không thuận tiện cho việc đi lại nên năm 1904, chính quyền bảo hộ quyết định xung công khu đất thuộc tu viện Carmel do bà phước Aimec thành lập đồng thời với bệnh xá của bà phước Antoine trên đất Phủ Doãn lập từ năm 1888.
Việc sung công dựa theo chính sách thế tục hóa (laicisation) các trường học và bệnh viện thuộc nhà thờ Công giáo của chính phủ Đệ tam cộng hòa Pháp. Sau khi sung công, Toàn quyền Paul Beau (thay Paul Doumer) ra quyết định thành lập Bệnh viện Bảo hộ (Hôpital du Protectorat - nay là Bệnh viện Hữu nghị Việt-Đức), nhưng vì xây trên đất Phủ Doãn xưa nên dân gọi là Nhà thương Phủ Doãn. Còn phần đất thuộc tu viện Carmel trở thành nhà hộ sinh (maternite municipale) đầu tiên của Hà Nội (tiền thân của Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em hiện nay). Paul Beau thay hiệu trưởng mới là bác sĩ Cognacq, bác sĩ Le Roy des Barres, người thi đỗ trong đợt tuyển bác sĩ sang Đông Dương được cử làm giám đốc bệnh viện và phụ trách nhà hộ sinh. Trường Y khoa Đông Dương ra đời nằm trong chính sách “khai hóa văn minh cho An Nam” của chính phủ Pháp và cũng lần đầu tiên trong lịch sử, sản phụ ở Hà Nội sinh con theo kiểu phương Tây, nghĩa là gần đến ngày đẻ họ vào bệnh viện, nếu khó sinh và nguy hiểm thì bác sĩ có thể mổ để cứu con hay cứu mẹ.
Theo Tạp chí Đông Dương (Revue Indochinoise - năm 1908), năm 1905 nhà hộ sinh thành phố đã đón 250 sản phụ, năm 1906 là 474, số sản phụ tăng lên chứng tỏ các bà mẹ ở thành phố tin tưởng sinh con ở bệnh viện. Ngay từ khi bệnh viện thực hành Phủ Doãn thành lập thì Trường Y khoa Đông Dương đã mở lớp đào tạo nữ hộ sinh người Việt Nam, tuy nhiên những năm đầu thế kỷ XX, phụ nữ có văn bằng tiếng Pháp rất hiếm vì hệ thống giáo dục phổ thông mới đang hình thành. Học viên không biết tiếng Pháp nên họ phải đào tạo theo kiểu cầm tay chỉ việc. Tính đến năm 1914 đã có 237 y sĩ, y tá và nữ hộ sinh được đào tạo song số nữ hộ sinh chỉ có mấy chục người, nguyên nhân do nghề đỡ bị “mang tiếng” vì dư luận đồn đại bác sĩ Le Roy des Barrdes trực đêm hay “quan hệ với nữ hộ sinh” và ông này có nhiều vợ Việt Nam không chính thức. Vả lại nghề hộ sinh không bằng nghề dạy học nên nhiều người học xong nếu lấy chồng là bỏ nghề.
Năm 1918, Hà Nội xuất hiện nhà hộ sinh tư đầu tiên là Rồng Vàng ở số nhà 40 Rue Takou (nay là phố Hàng Cót). Người đứng ra mở là cô Tiến, một trong những học viên khóa năm 1916 của Trường Y Hà Nội, khóa này được đào tạo chính quy đầu tiên. Nhà hộ sinh Rồng Vàng trang bị đầy đủ có sở vật chất lại do bác sĩ Le Roy des Barrdes đỡ đầu, mỗi khi gặp ca khó thì chính bác sĩ này trực tiếp xử lý nên thu hút rất đông sản phụ Hà Nội thuộc tầng lớp trung lưu. Tầng lớp này không muốn đẻ ở Bệnh viện Phủ Doãn vì ngại nằm chung phòng với tầng lớp tiểu thương và dân nghèo song họ lại không thể đẻ ở Bệnh viện Saint Paul nơi chỉ dành cho vợ quan lại, công chức cao cấp người Việt, người Pháp. Tiếp sau bà Tiến, cô Josephine người Pháp cũng mở nhà hộ sinh ở 10 phố Đồng Xuân.
Để khuyến khích phụ nữ theo học hộ sinh, chính phủ bảo hộ chỉ yêu cầu có bằng tiểu học (tức là có thể nói được tiếng Pháp), người trúng tuyển được cấp học bổng, năm thứ nhất là 6 đồng một tháng, năm thứ hai 8 đồng một tháng. Tốt nghiệp đi làm bệnh viện công hưởng lương 25 đồng một tháng (một tạ gạo thời điểm này là 3 đồng) cao hơn y tá nhưng lại kém lương giáo viên tiểu học. Những chuyện “thành kiến” với nữ hộ sinh hoặc có đảm bảo của bác sĩ Tây dần vào quá khứ và xã hội đã tin tưởng vào chuyên môn của các nữ hộ sinh Hà Nội.
Số bác sĩ tốt nghiệp Trường Y Hà Nội ngày càng nhiều, có bác sĩ làm bệnh viện công, có bác sĩ làm việc cho các ngành nhưng cũng nhiều bác sĩ mở bệnh viện tư, như bệnh viện Đặng Vũ Lạc, Hoàng Thụy Ba, Nguyễn văn Chính... các bệnh viện này đều có khoa sản. Trước khi trở thành Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội cuối tháng 8-1945, bác sĩ Trần Duy Hưng có bệnh viện tư ở phố Bông Thợ Nhuộm và chính ông đã đỡ đẻ cho em gái mình. Cho đến năm 1945, khu vực nội thành không còn ai đẻ tại nhà, tất cả đều đẻ tại bệnh viện hay nhà hộ sinh tư. Ca sĩ Khánh Ly sinh năm 1945 tại bệnh viện Bạch Mai, nhạc sĩ Phạm Duy sinh năm 1920 tại nhà hộ sinh Rồng Vàng. Trẻ sinh ở thành phố dù bệnh viện công, tư hay nhà hộ sinh đều được cấp giấy chứng sinh và gia đình cầm giấy chứng sinh ra tòa đốc lý làm khai sinh, bởi thế không ai ăn gian được tuổi. Sau năm 1954, nhiều người ở quê ra Hà Nội không có giấy khai sinh, họ về xã xin chứng nhận và các “ông xã” chứng như họ muốn. Trong ngày 27-4-1964, Tòa án Nhân dân Hà Nội đã xử vụ Nguyễn Mạnh Tiến và đồng bọn 18 năm tù giam vì tội kết hợp với cán bộ xã khai gian tuổi để đưa vợ ở quê và nhiều người khác nhập hộ khẩu Hà Nội vào làm cơ quan nhà nước. Bây giờ chuyện gian dối ngày tháng năm sinh để lâu về hưu cũng không hiếm.
Sau 1954, mỗi khu phố có một nhà hộ sinh trực thuộc phòng y tế khu phố, tuy nhiên sản phụ có thể sinh con tại các bệnh viện. Ở ngoại thành, trạm y tế xã đều có người đỡ đẻ được đào tạo bài bản. Trong các nhà hộ sinh của Hà Nội thì Nhà hộ sinh B (dân quen gọi là nhà hộ sinh Cây đa Nhà Bò) ở cuối phố Lò Đúc bị đồn đại ma quỷ nhất. Cạnh cây đa có cái miếu nhỏ, ngày rằm, mồng một nghi ngút khói hương và chen chúc người xì xụp khấn vái.
Vào những năm 1920, khu vực này có nhiều bãi đất trống và hồ ao nên nhà hàng Weil chuyên bán thịt bò ở đầu phố Hàng Giò (nay là Bà Triệu) mua bãi đất sát cây đa để thả bò trước khi giết mổ. Xung quanh cũng có vài gia đình Ấn kiều nuôi bò sữa, hàng ngày vắt sữa rồi mang lên phố bán. Một số người Việt như Cả Xây, Hai Hồ, Ba Cháo cũng bắt chước nuôi bò sữa và nhờ có bò sữa nên họ đã xây được nhà, vì thế cái tên cây đa Nhà Bò ra đời. Cuối những năm 1930, hãng hàng không Pháp Air France mua lô đất này xây nhà, mở xưởng chuyên vẽ bản đồ bay, sau đó khu nhà lại thành phân xưởng cơ khí của hãng ô-tô Berset. Và cái xưởng cơ khí này thành Nhà hộ sinh B vào năm 1960 thì gia đình sản phụ thường thắp hương cầu khấn cho “mẹ tròn con vuông” xin “thần cây đa” đừng bắt đứa bé đi, vì thế ngày nào nhà hộ sinh cũng có mùi hương và khói xông vào nên chính quyền buộc phải cho xây bảng tin ở phía ngoài để chặn người cúng bái.
Có thể nói phần lớn những người dưới 55 tuổi đã sống ở quận Hai Bà Trưng đều sinh ra ở Nhà hộ sinh B và nói một cách công bằng, kinh nghiệm cùng kiến thức chuyên môn của các nữ hộ sinh ở đây rất cao. Họ có kinh nghiệm luôn cố gắng để sinh tự nhiên, chỉ mổ khi buộc phải mổ. Sinh con không cần dao kéo tốt cho sức khỏe sản phụ. Thế nhưng bây giờ không chỉ Nhà hộ sinh B mà Hộ sinh A, Đống Đa, Ba Đình vắng sản phụ vì các gia đình giàu có chấp nhận bỏ cả trăm triệu để sinh con ở bệnh viện có vốn nước ngoài nào đó, nhưng trớ trêu rất nhiều sản phụ vẫn bị họ đè ra... mổ.
... Đau thì nén chịu con ơi
Qua cơn vượt cạn ấy thời rinh rang
Chú đi tìm bắc cái thang
Leo nhà ba bậc, lăn đàng năm tao
Rồi ra lặn cọc bờ ao
Xong rồi mới vào liếm láp đồ rau
Cứ y như phép nhiệm màu
Làm xong là đẻ chẳng đau đớn nào...
Khuyên chuột nhưng thực ra là khuyên các ông chồng, “bắc cái thang”, “leo ba bậc” hay “lăn đàng năm tao”... chính là mẹo. Song dù dùng mẹo và kinh nghiệm của các bà mụ cũng có khi không tránh được thai nhi hay sản phụ tử vong vì thế có chửa “vừa là phúc cũng vừa là họa” nên dân gian có câu “Chửa là cửa mả” hay “Chửa con so làm lo láng giềng”. Mẹ tròn con vuông là mong mỏi của các gia đình nhưng tục lệ kiêng kỵ không cho người khác đẻ ở nhà mình, kể cả người ruột thịt đã gây nguy hiểm cho sản phụ đang đau đẻ. Đáng thương nhất là những người đàn bà chửa gần đến tháng sinh vẫn phải lao động quần quật nên đã đẻ rơi ngoài đường. Theo thống kê, năm 1928, tỷ lệ thai nhi bị chết ở Việt Nam lên tới 30%.
Năm 1902, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra quyết định thành lập trường Trường Y khoa Đông Dương. Cùng với trường là bệnh viện thực hành được xây dựng tại ấp Thái Hà. Tuy nhiên do Thái Hà khi đó ở vùng ngoại ô không thuận tiện cho việc đi lại nên năm 1904, chính quyền bảo hộ quyết định xung công khu đất thuộc tu viện Carmel do bà phước Aimec thành lập đồng thời với bệnh xá của bà phước Antoine trên đất Phủ Doãn lập từ năm 1888.
Việc sung công dựa theo chính sách thế tục hóa (laicisation) các trường học và bệnh viện thuộc nhà thờ Công giáo của chính phủ Đệ tam cộng hòa Pháp. Sau khi sung công, Toàn quyền Paul Beau (thay Paul Doumer) ra quyết định thành lập Bệnh viện Bảo hộ (Hôpital du Protectorat - nay là Bệnh viện Hữu nghị Việt-Đức), nhưng vì xây trên đất Phủ Doãn xưa nên dân gọi là Nhà thương Phủ Doãn. Còn phần đất thuộc tu viện Carmel trở thành nhà hộ sinh (maternite municipale) đầu tiên của Hà Nội (tiền thân của Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em hiện nay). Paul Beau thay hiệu trưởng mới là bác sĩ Cognacq, bác sĩ Le Roy des Barres, người thi đỗ trong đợt tuyển bác sĩ sang Đông Dương được cử làm giám đốc bệnh viện và phụ trách nhà hộ sinh. Trường Y khoa Đông Dương ra đời nằm trong chính sách “khai hóa văn minh cho An Nam” của chính phủ Pháp và cũng lần đầu tiên trong lịch sử, sản phụ ở Hà Nội sinh con theo kiểu phương Tây, nghĩa là gần đến ngày đẻ họ vào bệnh viện, nếu khó sinh và nguy hiểm thì bác sĩ có thể mổ để cứu con hay cứu mẹ.
Theo Tạp chí Đông Dương (Revue Indochinoise - năm 1908), năm 1905 nhà hộ sinh thành phố đã đón 250 sản phụ, năm 1906 là 474, số sản phụ tăng lên chứng tỏ các bà mẹ ở thành phố tin tưởng sinh con ở bệnh viện. Ngay từ khi bệnh viện thực hành Phủ Doãn thành lập thì Trường Y khoa Đông Dương đã mở lớp đào tạo nữ hộ sinh người Việt Nam, tuy nhiên những năm đầu thế kỷ XX, phụ nữ có văn bằng tiếng Pháp rất hiếm vì hệ thống giáo dục phổ thông mới đang hình thành. Học viên không biết tiếng Pháp nên họ phải đào tạo theo kiểu cầm tay chỉ việc. Tính đến năm 1914 đã có 237 y sĩ, y tá và nữ hộ sinh được đào tạo song số nữ hộ sinh chỉ có mấy chục người, nguyên nhân do nghề đỡ bị “mang tiếng” vì dư luận đồn đại bác sĩ Le Roy des Barrdes trực đêm hay “quan hệ với nữ hộ sinh” và ông này có nhiều vợ Việt Nam không chính thức. Vả lại nghề hộ sinh không bằng nghề dạy học nên nhiều người học xong nếu lấy chồng là bỏ nghề.
Năm 1918, Hà Nội xuất hiện nhà hộ sinh tư đầu tiên là Rồng Vàng ở số nhà 40 Rue Takou (nay là phố Hàng Cót). Người đứng ra mở là cô Tiến, một trong những học viên khóa năm 1916 của Trường Y Hà Nội, khóa này được đào tạo chính quy đầu tiên. Nhà hộ sinh Rồng Vàng trang bị đầy đủ có sở vật chất lại do bác sĩ Le Roy des Barrdes đỡ đầu, mỗi khi gặp ca khó thì chính bác sĩ này trực tiếp xử lý nên thu hút rất đông sản phụ Hà Nội thuộc tầng lớp trung lưu. Tầng lớp này không muốn đẻ ở Bệnh viện Phủ Doãn vì ngại nằm chung phòng với tầng lớp tiểu thương và dân nghèo song họ lại không thể đẻ ở Bệnh viện Saint Paul nơi chỉ dành cho vợ quan lại, công chức cao cấp người Việt, người Pháp. Tiếp sau bà Tiến, cô Josephine người Pháp cũng mở nhà hộ sinh ở 10 phố Đồng Xuân.
Để khuyến khích phụ nữ theo học hộ sinh, chính phủ bảo hộ chỉ yêu cầu có bằng tiểu học (tức là có thể nói được tiếng Pháp), người trúng tuyển được cấp học bổng, năm thứ nhất là 6 đồng một tháng, năm thứ hai 8 đồng một tháng. Tốt nghiệp đi làm bệnh viện công hưởng lương 25 đồng một tháng (một tạ gạo thời điểm này là 3 đồng) cao hơn y tá nhưng lại kém lương giáo viên tiểu học. Những chuyện “thành kiến” với nữ hộ sinh hoặc có đảm bảo của bác sĩ Tây dần vào quá khứ và xã hội đã tin tưởng vào chuyên môn của các nữ hộ sinh Hà Nội.
Số bác sĩ tốt nghiệp Trường Y Hà Nội ngày càng nhiều, có bác sĩ làm bệnh viện công, có bác sĩ làm việc cho các ngành nhưng cũng nhiều bác sĩ mở bệnh viện tư, như bệnh viện Đặng Vũ Lạc, Hoàng Thụy Ba, Nguyễn văn Chính... các bệnh viện này đều có khoa sản. Trước khi trở thành Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội cuối tháng 8-1945, bác sĩ Trần Duy Hưng có bệnh viện tư ở phố Bông Thợ Nhuộm và chính ông đã đỡ đẻ cho em gái mình. Cho đến năm 1945, khu vực nội thành không còn ai đẻ tại nhà, tất cả đều đẻ tại bệnh viện hay nhà hộ sinh tư. Ca sĩ Khánh Ly sinh năm 1945 tại bệnh viện Bạch Mai, nhạc sĩ Phạm Duy sinh năm 1920 tại nhà hộ sinh Rồng Vàng. Trẻ sinh ở thành phố dù bệnh viện công, tư hay nhà hộ sinh đều được cấp giấy chứng sinh và gia đình cầm giấy chứng sinh ra tòa đốc lý làm khai sinh, bởi thế không ai ăn gian được tuổi. Sau năm 1954, nhiều người ở quê ra Hà Nội không có giấy khai sinh, họ về xã xin chứng nhận và các “ông xã” chứng như họ muốn. Trong ngày 27-4-1964, Tòa án Nhân dân Hà Nội đã xử vụ Nguyễn Mạnh Tiến và đồng bọn 18 năm tù giam vì tội kết hợp với cán bộ xã khai gian tuổi để đưa vợ ở quê và nhiều người khác nhập hộ khẩu Hà Nội vào làm cơ quan nhà nước. Bây giờ chuyện gian dối ngày tháng năm sinh để lâu về hưu cũng không hiếm.
Sau 1954, mỗi khu phố có một nhà hộ sinh trực thuộc phòng y tế khu phố, tuy nhiên sản phụ có thể sinh con tại các bệnh viện. Ở ngoại thành, trạm y tế xã đều có người đỡ đẻ được đào tạo bài bản. Trong các nhà hộ sinh của Hà Nội thì Nhà hộ sinh B (dân quen gọi là nhà hộ sinh Cây đa Nhà Bò) ở cuối phố Lò Đúc bị đồn đại ma quỷ nhất. Cạnh cây đa có cái miếu nhỏ, ngày rằm, mồng một nghi ngút khói hương và chen chúc người xì xụp khấn vái.
Vào những năm 1920, khu vực này có nhiều bãi đất trống và hồ ao nên nhà hàng Weil chuyên bán thịt bò ở đầu phố Hàng Giò (nay là Bà Triệu) mua bãi đất sát cây đa để thả bò trước khi giết mổ. Xung quanh cũng có vài gia đình Ấn kiều nuôi bò sữa, hàng ngày vắt sữa rồi mang lên phố bán. Một số người Việt như Cả Xây, Hai Hồ, Ba Cháo cũng bắt chước nuôi bò sữa và nhờ có bò sữa nên họ đã xây được nhà, vì thế cái tên cây đa Nhà Bò ra đời. Cuối những năm 1930, hãng hàng không Pháp Air France mua lô đất này xây nhà, mở xưởng chuyên vẽ bản đồ bay, sau đó khu nhà lại thành phân xưởng cơ khí của hãng ô-tô Berset. Và cái xưởng cơ khí này thành Nhà hộ sinh B vào năm 1960 thì gia đình sản phụ thường thắp hương cầu khấn cho “mẹ tròn con vuông” xin “thần cây đa” đừng bắt đứa bé đi, vì thế ngày nào nhà hộ sinh cũng có mùi hương và khói xông vào nên chính quyền buộc phải cho xây bảng tin ở phía ngoài để chặn người cúng bái.
Có thể nói phần lớn những người dưới 55 tuổi đã sống ở quận Hai Bà Trưng đều sinh ra ở Nhà hộ sinh B và nói một cách công bằng, kinh nghiệm cùng kiến thức chuyên môn của các nữ hộ sinh ở đây rất cao. Họ có kinh nghiệm luôn cố gắng để sinh tự nhiên, chỉ mổ khi buộc phải mổ. Sinh con không cần dao kéo tốt cho sức khỏe sản phụ. Thế nhưng bây giờ không chỉ Nhà hộ sinh B mà Hộ sinh A, Đống Đa, Ba Đình vắng sản phụ vì các gia đình giàu có chấp nhận bỏ cả trăm triệu để sinh con ở bệnh viện có vốn nước ngoài nào đó, nhưng trớ trêu rất nhiều sản phụ vẫn bị họ đè ra... mổ.
Bình luận truyện