Dốc Quỷ Ám
Chương 6: Mộ vong linh
Mông Thiếu Huy và La
Phi rời khỏi xóm núi, tiến thẳng về hướng bắc. Họ đi dọc theo chân núi,
đường sá quanh co ngoằn ngoèo, chỗ dốc chỗ bằng. Cứ gặp chỗ địa thế bằng phẳng là thế nào cũng có một vài hộ dân sinh sống trên đảo, lúc này
Mông Thiếu Huy tạm dừng chân, hỏi thăm tin tức về người cha của mình,
nhưng vẫn chưa có kết quả gì.
Một tiếng đồng hồ sau, hai người họ kể ra cũng đã đi được một quãng đường khoảng ba đến bốn cây số, gần ra đến hướng chính đông của hòn đảo. Đoạn đường đồi núi này trở nên cheo leo hiểm trở, bóng người cũng thưa dần, trước mặt họ xuất hiện một ngã rẽ.
Nếu rẽ tay trái đi về hướng đông bắc, chắc sẽ đâm thẳng xuống làng mạc ở dưới chân núi; còn nếu rẽ tay phải, thì có lẽ là hướng đi lên núi. La Phi đứng quan sát tứ phía một lát, lấy tay trỏ về phía tây ở trên cao, hạ giọng nói: “Chỗ đó nhất định là ‘Dốc quỷ ám’.”
Mông Thiếu Huy nhìn theo hướng tay La Phi, chỉ thấy trong tầm mắt một vách đá sừng sững, tuy gọi là “dốc”, nhưng vách núi đó gần như tạo với mặt đất một góc 90 độ, như thể có ai đó cầm rìu phạt đi một mảng. Trên vách núi là những lùm cây um tùm, tất cả đều mọc xiên lên trên, cho thấy một sức sống không chịu khuất phục.
Do địa thế hiểm trở, vách núi này tuy chỉ cao có vài chục mét nhưng nó tạo nên một khí thế vô cùng dễ sợ, khiến người ta phải ngộp thở. La Phi lúc này đã hoàn toàn hiểu rõ hàm ý trong lời nói của Tôn Phát Siêu lúc trưa: người nào có ý định giả làm ma quỷ trên vách núi này thì chắc anh ta phải giống với loài khỉ vượn, có bản lĩnh băng rừng vượt núi.
Trước sự quyến rũ của phong cảnh thiên nhiên kì thú, hai người họ dường như quên mất giai thoại đáng sợ về “Dốc quỷ ám”, bất giác họ đi theo lối rẽ bên phải hướng về phía tây vào sâu trong núi.
Đường nhỏ cheo leo, càng lúc càng hẻo lánh, dần dần hai bên đường chỉ thấy toàn vách núi với cành khô, không hề thấy có dấu người, trông chừng chẳng cần đi bao lâu nữa là đã có thể thẳng tiến đến dưới vách núi “Dốc quỷ ám”, bỗng nghe thấy một giọng nói từ đâu cất lên: “Đường phía trước nguy hiểm vô cùng, chẳng hay hai vị định đi đâu?”
Nhìn trước nhìn sau chẳng thấy ai khác, giọng nói bất ngờ này khiến hai người họ giật thót mình, con Kaka cũng uốn lưng trừng mắt, trông bộ dạng rất căng thẳng. Đang lúc chưa kịp hoàn hồn, chỉ nghe thấy tiếng kêu xoạt xoạt trong lùm cây phía bên trái đường, một người đàn ông chui từ trong đó ra.
Người này trông trạc tuổi trên dưới năm mươi, thân hình hơi mập, mặt mày phúc hậu, đầu tròn trộc lốc, trên người mặc bộ đồ đông bên ngoài có khoác áo cà sa, đích thị là một hòa thượng.
La Phi quan sát kĩ mới phát hiện thấy hóa ra phía sau vị hòa thượng còn có một con đường nhỏ khuất trong lùm cây, vô cùng kín đáo. Thấy người đối diện có ý tốt muốn cứu nhân độ thế, anh mỉm cười và giải thích: “Chúng tôi muốn đến chỗ ‘Dốc quỷ ám’ xem sao.”
Nét mặt vị hòa thượng trở nên tập trung hơn, sau khi nhìn hai người họ một lượt, ánh mắt ông dừng lại trên người Mông Thiếu Huy. Ông nhìn rất chăm chú, hai mắt sáng ngời, như chứa đựng trong đó một thứ cảm xúc không thể dùng lời mà tả hết được.
Mông Thiếu Huy cảm thấy mất tự nhiên khi bị người khác nhìn như vậy, đang định nói điều gì đó thì vị hòa thượng đã lên tiếng hỏi trước: “Cậu có phải là chàng trai trẻ bị mất trí nhớ ấy không? Thế nào, đã phát hiện ra điều gì trên đảo chưa?”
Sao ông ta lại biết mình nhỉ? –Mông Thiếu Huy mắt nhìn vị hòa thượng, tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên. Còn La Phi thì như nhận ra điều gì đó, anh hỏi lại: “Ông chính là hòa thượng Đức Bình, phải không?”
Hòa thượng chắp tay đáp lễ: “Cảnh sát La Phi quả là tư duy vô cùng sắc bén. Người xuất gia không có họ tên, Đức Bình chỉ là pháp hiệu của tôi.”
Lúc này Mông Thiếu Huy cũng chợt nhớ ra Đức Bình chính là người đặt mua quan tài mà ông Hồ đã nhắc tới, chắc chắn là ông ấy đã biết được lai lịch của mình và La Phi qua miệng ông Hồ. Giải tỏa được nỗi hoài nghi trong lòng, Mông Thiếu Huy cũng không giấu giếm, bèn vắn tắt kể lại tình hình có liên quan kể từ khi cậu đặt chân lên đảo.
Được biết Mông Thiếu Huy là người may mắn sống sót trong trận sóng thần năm ấy, vẻ mặt hòa thượng Đức Bình biểu lộ sự đau thương khôn tả, sau đó ông thở dài và nói: “Hai vị xin hãy đi theo tôi, câu trả lời mà hai vị cần tìm rất có thể sẽ được tìm thấy ở chỗ tôi.”
Dứt lời, hòa thượng Đức Bình ra hiệu mời hai người họ đi theo, rồi quay người đi vào sâu con đường nhỏ. Mông Thiếu Huy không biết phải làm sao, cậu quay sang nhìn La Phi, nhận được cái gật đầu của La Phi cậu mới đi theo.
Đường nhỏ đầy gai, Mông Thiếu Huy sợ con Kaka bị gai đâm, nên cúi người bế nó trên tay.
Bước vào bên trong lùm cây, đoạn đường phía sau càng đi càng rộng, hòa thượng Đức Bình vừa đi trước dẫn đường vừa chốc chốc ngoảnh lại giới thiệu đôi câu: “Chỗ này của tôi rất ít người đến… kể cả vào mùa hè du khách đi từ trên núi qua, cũng chưa có ai phát hiện ra con đường nhỏ này… đây là nơi các linh hồn yên nghỉ, đáng lẽ ra không nên quấy rầy.”
Đi được độ dăm ba phút, là đã đến cuối đường, không ngờ nơi đây thế đất bằng phẳng mà lại ẩn chứa một khoảnh trời riêng. Hòa thượng Đức Bình dừng bước, trỏ tay về phía trước nói: “Đến nơi rồi, đây chính là miếu thờ những người gặp nạn sóng thần.”
Giọng nói của hòa thượng Đức Bình không to lắm, nhưng La Phi và Mông Thiếu Huy nghe xong đều giật thót mình. Nếu đã là miếu thờ, thì đây hẳn là nơi mà linh hồn của hàng ngàn nạn nhân yên nghỉ, đồng thời cũng có liên quan đến lời đồn “Dốc quỷ ám”.
Miếu thờ nhìn từ bên ngoài không to lắm, có phần giống như một cái miếu nhỏ. La Phi và Mông Thiếu Huy bước vào miếu thờ dưới sự dẫn dắt của hòa thượng Đức Bình. Vào bên trong mới thấy nó được chia làm hai gian, gian ngoài kê giường và một ít đồ dùng hàng ngày, có vẻ đây là nơi ở của hòa thượng Đức Bình. Có một tiểu hòa thượng đang quét dọn trong phòng, trông thấy ba người họ bước vào, vội ra nghênh tiếp và cung kính chào: “Thầy.”
Hòa thượng Đức Bình xua tay: “Con cứ đi làm việc của mình đi.” –tiểu hòa thượng gật đầu và lui ra.
“Đây là đồ đệ của tôi, pháp hiệu Huệ Thông.” –hòa thượng Đức Bình giới thiệu với hai vị khách. La Phi quan sát thoáng qua, vị tiểu hòa thượng này chừng mười lăm mười sáu tuổi, thần thái thật thà, vùng trán toát lên vẻ lanh lợi.
Ba người không dừng lại mà đi thẳng vào gian trong. Nơi đây trông có vẻ giống với nơi thờ Phật, trên ban đặt tượng Phật, xung quanh thắp hương, dưới nền nhà còn có hai chiếc đệm hương bồ, nhưng điều đầu tiên thu hút ánh nhìn của La Phi và Mông Thiếu Huy, lại là cỗ quan tài đặt ngay chính giữa.
Đây chính là cỗ quan tài mà họ đã nhìn thấy ở trên thuyền. Như vậy là hòa thượng Đức Bình quả thực đã gặp ông Hồ và phán đoán của La Phi trước đó đã không sai.
“Đây có phải là nơi cúng tế cho những người chết ở trên đảo không?” –La Phi đoán hỏi, “Cỗ quan tài mới này đến đây cùng chuyến đò với chúng tôi, mà gần đây mới có người mất hay sao?”
“Mấy ngày nay thì không có. Nhưng sinh lão bệnh tử đều là ý trời, ai mà biết trước được? Có chuẩn bị thì vẫn tốt hơn, mà cũng đâu có thừa.” –hòa thượng Đức Bình nói vẻ thản nhiên, như thể đã quá quen với sự sống và cái chết.
“Hòa thượng Đức Bình cũng là người trải qua đại nạn năm ấy chứ? Nếu tôi đoán không nhầm, thì thầy cũng có người thân gặp nạn trong trận sóng thần đó?”
Nghe La Phi nói vậy, hòa thượng Đức Bình ngẩng đầu nhìn anh thoáng chút ngạc nhiên: “Cảnh sát La Phi quả nhiên không phải người tầm thường. Anh đoán không sai chút nào, chính là sau vụ thảm họa ấy mà tôi mới nhìn thấu một vài điều, rồi tôi tự nguyện xuất gia, quanh năm trụ lại nơi đây để làm bạn với những linh hồn phiêu bạt ngoài kia.”
Mông Thiếu Huy đang chăm chú nghe hòa thượng Đức Bình kể thì con Kaka đang nằm trên tay bỗng nhiên há miệng nhe nanh, có phản ứng khác thường, thoạt đầu cậu tưởng là do đến nơi lạ nên con mèo bị căng thẳng, đang định lấy tay vỗ về nó, thì con Kaka kêu “meo” lên một tiếng rồi đạp chân rất mạnh, nhảy ra khỏi tay cậu, sau đó leo phắt lên cửa sổ, thoắt cái đã chạy ra ngoài.
“Mọi người đều bảo giống mèo đen rất thiêng, xem ra cũng không hoàn toàn là lời đồn đại.” – trông thấy điều này, hòa thượng Đức Bình không lấy gì làm lạ, ông đẩy một cánh cửa sau bước ra: “Cảnh sát La Phi, chẳng phải anh rất hứng thú với lời đồn ‘Dốc quỷ ám’ hay sao, vậy anh hãy lại đây mà xem.”
La Phi và Mông Thiếu Huy theo hòa thượng Đức Bình ra đằng sau nhà, ngay lập tức một cảm giác trang nghiêm ập đến với họ.
Chính giữa bãi cỏ hoang là một ngôi mộ xi măng nằm biệt lập, chân mộ cao trên hai mét, trước mộ có đặt một tấm bia lớn không khắc chữ. Con Kaka đang uốn lưng chạy quanh ngôi mộ.
Hòa thượng Đức Bình tiến về phía trước, lấy tay phủi nhẹ lên tấm bia: “Cảnh sát La Phi, những chuyện xảy ra trên ‘Dốc quỷ ám’ anh cũng đã biết khá nhiều, để anh tin vào chuyện ma quỷ chắc là khó, nhưng tôi muốn kể với anh chuyện này, năm ấy sau khi xây xong miếu thờ này thì bóng đen trên ‘Dốc quỷ ám’ mới chịu biến mất… Đây tuy là một ngôi mộ trống, bia mộ cũng chỉ là một phiến đá trống trơn, nhưng lại là nơi chôn cất linh hồn của những nạn nhân chết trong trận sóng thần năm ấy.” –nói đến đây, ông ngừng lại đôi chút, chậm rãi quay đầu sang nhìn Mông Thiếu Huy, “Con à, trong số đó có cả mẹ của con.”
Toàn thân Mông Thiếu Huy hơi run lên, hai hàng nước mắt trào ra. Dù trước đó trong đầu đã có phỏng đoán, nhưng đây là lần đầu tiên có người nói ra thân thế của mình một cách rõ ràng đến như vậy, trong tức khắc, một cảm giác đau xót xâm lấn con người cậu, phải một hồi lâu sau cậu mới ấp úng: “Rốt cục mẹ con là ai? Tại sao cha con lại đưa con rời khỏi đảo? Mà sao con lại không thể nhớ chút gì về những chuyện đã xảy ra? Tất cả những điều đó, ai là người có thể nói cho con biết đây?
“Nhưng sao con lại phải biết cơ chứ? Con thật là may mắn, mà bản thân không hề biết. Có biết bao người muốn quên đi những ký ức đáng sợ ấy, mà họ không thể làm nổi, họ đành chấp nhận để cơn ác mộng làm cho tỉnh giấc lúc nửa đêm. Còn con thì lại đường sá xa xôi về đây, chỉ để đi tìm những thứ không hề có ý nghĩa gì đối với mình.” –Đức Bình nhìn thẳng vào đôi mắt Mông Thiếu Huy, “Mà người đời thường không giác ngộ gì cả, chuyện đã qua thì cũng đã qua rồi, so với những thứ mà từ lâu đã không còn tồn tại trong đầu óc con nữa, chả lẽ lại không còn điều gì khác đáng để con quí trọng và níu giữ hay sao?”
Những lời này của hòa thượng Đức Bình, đến La Phi cũng thấy chí lí. Mông Thiếu Huy thấy xúc động trong lòng, trong chớp mắt cậu đã nghĩ đến rất nhiều chuyện, kể cả chuyện người bạn gái nói lời tạm biệt với mình lúc ở phố huyện, nếu vì chuyện này mà đánh mất cô ấy thì liệu có đáng không? Nhưng có nhiều chuyện cất giữ trong lòng đã làm cậu giày vò ngần ấy năm trời, nếu không tìm cho ra câu trả lời, thì đợi đến bao giờ mới khuây khỏa được đây?
“Vậy bây giờ… con phải làm sao?” Mông Thiếu Huy ấp úng nói, không biết là cậu đang tự nói với mình hay muốn tìm kiếm sự giúp đỡ.
Đức Bình thở dài một cái, rồi giơ tay trỏ về hướng ngôi mộ: “Ra thắp cho mẹ con nén hương đi đã.”
Mông Thiếu Huy bày hương hỏa và đệm hương bồ xong, cúi đầu vái lạy bia mộ vô danh ba vái. La Phi đứng bên cạnh lặng lẽ quan sát tất cả những gì đang diễn ra, trong lòng tự nhủ: việc anh đi khám phá bí mật của “Dốc quỷ ám”, không biết theo hòa thượng Đức Bình thì có phải cũng là một việc làm vô nghĩa hay không
Một tiếng đồng hồ sau, hai người họ kể ra cũng đã đi được một quãng đường khoảng ba đến bốn cây số, gần ra đến hướng chính đông của hòn đảo. Đoạn đường đồi núi này trở nên cheo leo hiểm trở, bóng người cũng thưa dần, trước mặt họ xuất hiện một ngã rẽ.
Nếu rẽ tay trái đi về hướng đông bắc, chắc sẽ đâm thẳng xuống làng mạc ở dưới chân núi; còn nếu rẽ tay phải, thì có lẽ là hướng đi lên núi. La Phi đứng quan sát tứ phía một lát, lấy tay trỏ về phía tây ở trên cao, hạ giọng nói: “Chỗ đó nhất định là ‘Dốc quỷ ám’.”
Mông Thiếu Huy nhìn theo hướng tay La Phi, chỉ thấy trong tầm mắt một vách đá sừng sững, tuy gọi là “dốc”, nhưng vách núi đó gần như tạo với mặt đất một góc 90 độ, như thể có ai đó cầm rìu phạt đi một mảng. Trên vách núi là những lùm cây um tùm, tất cả đều mọc xiên lên trên, cho thấy một sức sống không chịu khuất phục.
Do địa thế hiểm trở, vách núi này tuy chỉ cao có vài chục mét nhưng nó tạo nên một khí thế vô cùng dễ sợ, khiến người ta phải ngộp thở. La Phi lúc này đã hoàn toàn hiểu rõ hàm ý trong lời nói của Tôn Phát Siêu lúc trưa: người nào có ý định giả làm ma quỷ trên vách núi này thì chắc anh ta phải giống với loài khỉ vượn, có bản lĩnh băng rừng vượt núi.
Trước sự quyến rũ của phong cảnh thiên nhiên kì thú, hai người họ dường như quên mất giai thoại đáng sợ về “Dốc quỷ ám”, bất giác họ đi theo lối rẽ bên phải hướng về phía tây vào sâu trong núi.
Đường nhỏ cheo leo, càng lúc càng hẻo lánh, dần dần hai bên đường chỉ thấy toàn vách núi với cành khô, không hề thấy có dấu người, trông chừng chẳng cần đi bao lâu nữa là đã có thể thẳng tiến đến dưới vách núi “Dốc quỷ ám”, bỗng nghe thấy một giọng nói từ đâu cất lên: “Đường phía trước nguy hiểm vô cùng, chẳng hay hai vị định đi đâu?”
Nhìn trước nhìn sau chẳng thấy ai khác, giọng nói bất ngờ này khiến hai người họ giật thót mình, con Kaka cũng uốn lưng trừng mắt, trông bộ dạng rất căng thẳng. Đang lúc chưa kịp hoàn hồn, chỉ nghe thấy tiếng kêu xoạt xoạt trong lùm cây phía bên trái đường, một người đàn ông chui từ trong đó ra.
Người này trông trạc tuổi trên dưới năm mươi, thân hình hơi mập, mặt mày phúc hậu, đầu tròn trộc lốc, trên người mặc bộ đồ đông bên ngoài có khoác áo cà sa, đích thị là một hòa thượng.
La Phi quan sát kĩ mới phát hiện thấy hóa ra phía sau vị hòa thượng còn có một con đường nhỏ khuất trong lùm cây, vô cùng kín đáo. Thấy người đối diện có ý tốt muốn cứu nhân độ thế, anh mỉm cười và giải thích: “Chúng tôi muốn đến chỗ ‘Dốc quỷ ám’ xem sao.”
Nét mặt vị hòa thượng trở nên tập trung hơn, sau khi nhìn hai người họ một lượt, ánh mắt ông dừng lại trên người Mông Thiếu Huy. Ông nhìn rất chăm chú, hai mắt sáng ngời, như chứa đựng trong đó một thứ cảm xúc không thể dùng lời mà tả hết được.
Mông Thiếu Huy cảm thấy mất tự nhiên khi bị người khác nhìn như vậy, đang định nói điều gì đó thì vị hòa thượng đã lên tiếng hỏi trước: “Cậu có phải là chàng trai trẻ bị mất trí nhớ ấy không? Thế nào, đã phát hiện ra điều gì trên đảo chưa?”
Sao ông ta lại biết mình nhỉ? –Mông Thiếu Huy mắt nhìn vị hòa thượng, tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên. Còn La Phi thì như nhận ra điều gì đó, anh hỏi lại: “Ông chính là hòa thượng Đức Bình, phải không?”
Hòa thượng chắp tay đáp lễ: “Cảnh sát La Phi quả là tư duy vô cùng sắc bén. Người xuất gia không có họ tên, Đức Bình chỉ là pháp hiệu của tôi.”
Lúc này Mông Thiếu Huy cũng chợt nhớ ra Đức Bình chính là người đặt mua quan tài mà ông Hồ đã nhắc tới, chắc chắn là ông ấy đã biết được lai lịch của mình và La Phi qua miệng ông Hồ. Giải tỏa được nỗi hoài nghi trong lòng, Mông Thiếu Huy cũng không giấu giếm, bèn vắn tắt kể lại tình hình có liên quan kể từ khi cậu đặt chân lên đảo.
Được biết Mông Thiếu Huy là người may mắn sống sót trong trận sóng thần năm ấy, vẻ mặt hòa thượng Đức Bình biểu lộ sự đau thương khôn tả, sau đó ông thở dài và nói: “Hai vị xin hãy đi theo tôi, câu trả lời mà hai vị cần tìm rất có thể sẽ được tìm thấy ở chỗ tôi.”
Dứt lời, hòa thượng Đức Bình ra hiệu mời hai người họ đi theo, rồi quay người đi vào sâu con đường nhỏ. Mông Thiếu Huy không biết phải làm sao, cậu quay sang nhìn La Phi, nhận được cái gật đầu của La Phi cậu mới đi theo.
Đường nhỏ đầy gai, Mông Thiếu Huy sợ con Kaka bị gai đâm, nên cúi người bế nó trên tay.
Bước vào bên trong lùm cây, đoạn đường phía sau càng đi càng rộng, hòa thượng Đức Bình vừa đi trước dẫn đường vừa chốc chốc ngoảnh lại giới thiệu đôi câu: “Chỗ này của tôi rất ít người đến… kể cả vào mùa hè du khách đi từ trên núi qua, cũng chưa có ai phát hiện ra con đường nhỏ này… đây là nơi các linh hồn yên nghỉ, đáng lẽ ra không nên quấy rầy.”
Đi được độ dăm ba phút, là đã đến cuối đường, không ngờ nơi đây thế đất bằng phẳng mà lại ẩn chứa một khoảnh trời riêng. Hòa thượng Đức Bình dừng bước, trỏ tay về phía trước nói: “Đến nơi rồi, đây chính là miếu thờ những người gặp nạn sóng thần.”
Giọng nói của hòa thượng Đức Bình không to lắm, nhưng La Phi và Mông Thiếu Huy nghe xong đều giật thót mình. Nếu đã là miếu thờ, thì đây hẳn là nơi mà linh hồn của hàng ngàn nạn nhân yên nghỉ, đồng thời cũng có liên quan đến lời đồn “Dốc quỷ ám”.
Miếu thờ nhìn từ bên ngoài không to lắm, có phần giống như một cái miếu nhỏ. La Phi và Mông Thiếu Huy bước vào miếu thờ dưới sự dẫn dắt của hòa thượng Đức Bình. Vào bên trong mới thấy nó được chia làm hai gian, gian ngoài kê giường và một ít đồ dùng hàng ngày, có vẻ đây là nơi ở của hòa thượng Đức Bình. Có một tiểu hòa thượng đang quét dọn trong phòng, trông thấy ba người họ bước vào, vội ra nghênh tiếp và cung kính chào: “Thầy.”
Hòa thượng Đức Bình xua tay: “Con cứ đi làm việc của mình đi.” –tiểu hòa thượng gật đầu và lui ra.
“Đây là đồ đệ của tôi, pháp hiệu Huệ Thông.” –hòa thượng Đức Bình giới thiệu với hai vị khách. La Phi quan sát thoáng qua, vị tiểu hòa thượng này chừng mười lăm mười sáu tuổi, thần thái thật thà, vùng trán toát lên vẻ lanh lợi.
Ba người không dừng lại mà đi thẳng vào gian trong. Nơi đây trông có vẻ giống với nơi thờ Phật, trên ban đặt tượng Phật, xung quanh thắp hương, dưới nền nhà còn có hai chiếc đệm hương bồ, nhưng điều đầu tiên thu hút ánh nhìn của La Phi và Mông Thiếu Huy, lại là cỗ quan tài đặt ngay chính giữa.
Đây chính là cỗ quan tài mà họ đã nhìn thấy ở trên thuyền. Như vậy là hòa thượng Đức Bình quả thực đã gặp ông Hồ và phán đoán của La Phi trước đó đã không sai.
“Đây có phải là nơi cúng tế cho những người chết ở trên đảo không?” –La Phi đoán hỏi, “Cỗ quan tài mới này đến đây cùng chuyến đò với chúng tôi, mà gần đây mới có người mất hay sao?”
“Mấy ngày nay thì không có. Nhưng sinh lão bệnh tử đều là ý trời, ai mà biết trước được? Có chuẩn bị thì vẫn tốt hơn, mà cũng đâu có thừa.” –hòa thượng Đức Bình nói vẻ thản nhiên, như thể đã quá quen với sự sống và cái chết.
“Hòa thượng Đức Bình cũng là người trải qua đại nạn năm ấy chứ? Nếu tôi đoán không nhầm, thì thầy cũng có người thân gặp nạn trong trận sóng thần đó?”
Nghe La Phi nói vậy, hòa thượng Đức Bình ngẩng đầu nhìn anh thoáng chút ngạc nhiên: “Cảnh sát La Phi quả nhiên không phải người tầm thường. Anh đoán không sai chút nào, chính là sau vụ thảm họa ấy mà tôi mới nhìn thấu một vài điều, rồi tôi tự nguyện xuất gia, quanh năm trụ lại nơi đây để làm bạn với những linh hồn phiêu bạt ngoài kia.”
Mông Thiếu Huy đang chăm chú nghe hòa thượng Đức Bình kể thì con Kaka đang nằm trên tay bỗng nhiên há miệng nhe nanh, có phản ứng khác thường, thoạt đầu cậu tưởng là do đến nơi lạ nên con mèo bị căng thẳng, đang định lấy tay vỗ về nó, thì con Kaka kêu “meo” lên một tiếng rồi đạp chân rất mạnh, nhảy ra khỏi tay cậu, sau đó leo phắt lên cửa sổ, thoắt cái đã chạy ra ngoài.
“Mọi người đều bảo giống mèo đen rất thiêng, xem ra cũng không hoàn toàn là lời đồn đại.” – trông thấy điều này, hòa thượng Đức Bình không lấy gì làm lạ, ông đẩy một cánh cửa sau bước ra: “Cảnh sát La Phi, chẳng phải anh rất hứng thú với lời đồn ‘Dốc quỷ ám’ hay sao, vậy anh hãy lại đây mà xem.”
La Phi và Mông Thiếu Huy theo hòa thượng Đức Bình ra đằng sau nhà, ngay lập tức một cảm giác trang nghiêm ập đến với họ.
Chính giữa bãi cỏ hoang là một ngôi mộ xi măng nằm biệt lập, chân mộ cao trên hai mét, trước mộ có đặt một tấm bia lớn không khắc chữ. Con Kaka đang uốn lưng chạy quanh ngôi mộ.
Hòa thượng Đức Bình tiến về phía trước, lấy tay phủi nhẹ lên tấm bia: “Cảnh sát La Phi, những chuyện xảy ra trên ‘Dốc quỷ ám’ anh cũng đã biết khá nhiều, để anh tin vào chuyện ma quỷ chắc là khó, nhưng tôi muốn kể với anh chuyện này, năm ấy sau khi xây xong miếu thờ này thì bóng đen trên ‘Dốc quỷ ám’ mới chịu biến mất… Đây tuy là một ngôi mộ trống, bia mộ cũng chỉ là một phiến đá trống trơn, nhưng lại là nơi chôn cất linh hồn của những nạn nhân chết trong trận sóng thần năm ấy.” –nói đến đây, ông ngừng lại đôi chút, chậm rãi quay đầu sang nhìn Mông Thiếu Huy, “Con à, trong số đó có cả mẹ của con.”
Toàn thân Mông Thiếu Huy hơi run lên, hai hàng nước mắt trào ra. Dù trước đó trong đầu đã có phỏng đoán, nhưng đây là lần đầu tiên có người nói ra thân thế của mình một cách rõ ràng đến như vậy, trong tức khắc, một cảm giác đau xót xâm lấn con người cậu, phải một hồi lâu sau cậu mới ấp úng: “Rốt cục mẹ con là ai? Tại sao cha con lại đưa con rời khỏi đảo? Mà sao con lại không thể nhớ chút gì về những chuyện đã xảy ra? Tất cả những điều đó, ai là người có thể nói cho con biết đây?
“Nhưng sao con lại phải biết cơ chứ? Con thật là may mắn, mà bản thân không hề biết. Có biết bao người muốn quên đi những ký ức đáng sợ ấy, mà họ không thể làm nổi, họ đành chấp nhận để cơn ác mộng làm cho tỉnh giấc lúc nửa đêm. Còn con thì lại đường sá xa xôi về đây, chỉ để đi tìm những thứ không hề có ý nghĩa gì đối với mình.” –Đức Bình nhìn thẳng vào đôi mắt Mông Thiếu Huy, “Mà người đời thường không giác ngộ gì cả, chuyện đã qua thì cũng đã qua rồi, so với những thứ mà từ lâu đã không còn tồn tại trong đầu óc con nữa, chả lẽ lại không còn điều gì khác đáng để con quí trọng và níu giữ hay sao?”
Những lời này của hòa thượng Đức Bình, đến La Phi cũng thấy chí lí. Mông Thiếu Huy thấy xúc động trong lòng, trong chớp mắt cậu đã nghĩ đến rất nhiều chuyện, kể cả chuyện người bạn gái nói lời tạm biệt với mình lúc ở phố huyện, nếu vì chuyện này mà đánh mất cô ấy thì liệu có đáng không? Nhưng có nhiều chuyện cất giữ trong lòng đã làm cậu giày vò ngần ấy năm trời, nếu không tìm cho ra câu trả lời, thì đợi đến bao giờ mới khuây khỏa được đây?
“Vậy bây giờ… con phải làm sao?” Mông Thiếu Huy ấp úng nói, không biết là cậu đang tự nói với mình hay muốn tìm kiếm sự giúp đỡ.
Đức Bình thở dài một cái, rồi giơ tay trỏ về hướng ngôi mộ: “Ra thắp cho mẹ con nén hương đi đã.”
Mông Thiếu Huy bày hương hỏa và đệm hương bồ xong, cúi đầu vái lạy bia mộ vô danh ba vái. La Phi đứng bên cạnh lặng lẽ quan sát tất cả những gì đang diễn ra, trong lòng tự nhủ: việc anh đi khám phá bí mật của “Dốc quỷ ám”, không biết theo hòa thượng Đức Bình thì có phải cũng là một việc làm vô nghĩa hay không
Bình luận truyện