Giang Bắc Nữ Phỉ
Quyển 3 - Chương 221: Mắt say mơ màng
Bởi luận bàn chiến sự quên cả thời gian, bất tri bất giác đã đến giờ cơm, Ôn Đại Nha đến mời Trịnh Luân và Thần Niên đi ăn, Thần Niên giờ mới thấy đói, nàng dẫn Trịnh Luân đến chỗ nhà ăn, cười nói: “Ở xa tới là khách, ta mời ngươi ăn ngon một chút”.
Trịnh Luân đi được vài bước lại đột nhiên hạ giọng hỏi: “Võ công của cô đã khôi phục rồi?
Bước chân Thần Niên thoáng khựng lại, lập tức lại như không có việc gì gật đầu, vui đùa nói: “Không những đã khôi phục mà còn lợi hại hơn, nên sau này ngươi đừng chọc tức ta, cẩn thận ta một chưởng đập chết ngươi”.
Trong lòng Trịnh Luân càng muốn hỏi vì sao nàng lại đột nhiên đến Giang Bắc, vì sao lại làm Tạ Thần Niên trước kia? Trong lòng hắn có vô vàn thắc mắc, nhưng không thể nói ra một điều nào khỏi miệng, cuối cùng chỉ đành mím môi. Thân phận hiện giờ của nàng là Tạ Thần Niên, hắn đã có thể gặp lại nàng, có thể nghe giọng nói của nàng, thậm chí còn có thể kề vai chiến đấu với nàng… Tất cả những chuyện này giống như hắn ăn trộm của kẻ khác, vừa thấy mừng thầm và kích động, lại vừa thấy bất an và áy náy, nhất thời rối rắm vô cùng.
Bởi có sự phối hợp của nghĩa quân, trận đầu của Trịnh Luân quả nhiên đại thắng.
Lúc tin tức truyền đến chỗ Phong Quân Dương đã sắp tháng Chạp, Giang Bắc liên tục đổ mấy trận tuyết lớn, thời tiết chợt rét lạnh, đại quân của Phong Quân Dương bị cản lại ở quận Phàn Lâm cách Dự Châu hơn nghìn dặm, mà Tiên Thị cũng hết cách với Thái Hưng, chiến tranh nhất thời ở thế giằng co.
Phong Quân Dương nhìn vào bức quân báo hơi thất thần, một lúc sau mới cất tiếng hỏi Thuận Bình: “Đó thật sự không phải nàng sao?”.
Thuận Bình cũng không biết nên trả lời câu hỏi này thế nào, theo tin Tống Diễm gửi đến trước đó, nghĩa quân do đám người Lỗ Linh Tước và Ôn Đại Nha mượn danh nghĩa Thần Niên để triệu tập, “Tạ Thần Niên” do Lỗ Linh Tước giả mạo. Nhưng sau này các tin tức khác lục tục gửi về, hành động của “Tạ Thần Niên” kia rất giống với bản gốc. Theo lý mà nói, Trịnh Luân từng hợp tác với nghĩa quân, nên biết thật giả của “Tạ Thần Niên”, nhưng trong quân báo của hắn lại chưa giờ nhắc đến việc này, ngay cả tên của Tạ Thần Niên cũng chưa từng xuất hiện.
Cho dù thông minh như Thuận Bình cũng hoàn toàn mù mờ. Giờ nghe Phong Quân Dương hỏi, y nghĩ ngợi rồi cẩn thận đáp: “Lão Kiều đã quay về trong núi kiểm tra rồi, vài bữa nữa sẽ về, đến lúc đó là biết thật giả ngay thôi”.
Phong Quân Dương trầm mặc chốc lát, nhưng lại cười tự giễu, thở dài: “Giỏi cho tên Trịnh Luân”.
Thuận Bình không dám nói tiếp, chỉ cúi đầu im lặng. Trong phòng đang im ắng, chợt nghe thân vệ bên ngoài nói Hàn tiên sinh đến, một lát sau, rèm cửa được vén lên từ ngoài, một người đàn ông béo trắng khoảng chừng bốn mươi năm mươi tuổi đi vào, đúng là phụ tá Hàn Hoa. Thuận Bình bước lên, giúp hắn cởi áo khoác trên người, lén đưa mắt cho hắn, ám chỉ tâm tình Phong Quân Dương giờ không tốt lắm.
Hàn Hoa khẽ gật đầu, đứng ở cửa giẫm mạnh tuyết đọng trên giày xong mới đi vào trong phòng, tươi cười nói: “Giang Bắc lạnh hơn Giang Nam nhiều, tôi vừa dạo ngoài thành một vòng, suýt đông cứng cả chân”.
Phong Quân Dương không tỏ ra chút hứng thú nào trên mặt, cười nhạt nói: “Năm nay lạnh hơn năm ngoái một ít”.
Hàn Hoa liếc chàng, lại cười nói: “May mà đại quân chúng ta đồn trú trong thành, nếu không trong quân sợ là có người chết cóng”.
Phong Quân Dương nghe thế, đặt quân báo trong tay xuống, hỏi Hàn Hoa: “Theo Hàn tiên sinh thấy, Thái Hưng có thể cầm cự đến bao giờ?”.
Hàn Hoa nói: “Hạ Trăn là con cáo già, thủ hai ba năm không thành vấn đề. Điều tôi lo nhất không phải việc này mà là Giang Nam trống không. Hay bảo Trịnh Luân nhanh chóng quét sạch hai châu Thanh, Ký, dẫn binh mã về để tránh Giang Nam sinh loạn”.
Phong Quân Dương ném mấy bức quân báo của Trịnh Luân cho Hàn Hoa, nói: “Chỗ hắn coi như thuận lợi, nếu không có gì bất trắc, đầu hè sang năm có thể kết thúc, ít nhất có thể đuổi người Tiên Thị qua núi Yến Thứ. Có điều Ký Châu khá phiền phức, không thể để lại cho Tiết Thịnh Hiển nữa, nhưng nếu muốn cưỡng đoạt lại không dễ dàng”.
Tiết Thịnh Hiển tuy nhát gan sợ chiến nhưng trong thành dù gì cũng có quân đội vài vạn, hơn nữa hiện giờ là lúc kẻ địch bên ngoài xâm lấn, nếu lúc này mà đánh nhau với y, mất nhiều hơn được.
Phong Quân Dương khẽ mím môi, trong mắt đượm vẻ bực dọc, nói tiếp: “Thật không nên đưa thuốc giải cho Tiết Thịnh Hiền sớm, xưa nghĩ bụng tên này vô dụng, không chịu nổi sóng gió, nhưng không ngờ y lại vô dụng đến bực này, mấy vạn đại quân co đầu rụt cổ bên trong thành Ký Châu mặc cho quân đội Tiên Thị đi đi lại lại ngoài thành”.
Thật ra không riêng Phong Quân Dương căm tức Ký Châu, Thần Niên và Trịnh Luân cũng vậy.
Đại quân Tiên Thị vốn đã đánh đến Nghi Bình, Trịnh Luân dẫn tinh binh từ phía sau đi ra, giết người Tiên Thị không kịp trở tay. Đại tướng quân Tiên Thị là Hạ Lan Uyên nổi điên, bỏ Nghi Bình treo bên miệng xuống, quay sang bổ nhào đến chỗ quân của Trịnh Luân. Nhưng không ngờ không thể báo thù mà còn để Trịnh Luân thắng liền mấy trận, sĩ khí suy giảm nặng nề. Mà phía Tống Diễm cũng thay đổi thái độ phòng thủ không chiến trước đó, xua đại quân mạnh mẽ ra khỏi Nghi Bình, trực tiếp đón đầu quân Tiên Thị.
Hạ Lan Uyên không còn cách nào, đành phải lui binh về Bắc, cũng may binh lực trong tay Trịnh Luân có hạn, không thể tiếp chiến trực diện với đại quân Tiên Thị nên mới để Hạ Lan Uyên có thể dẫn binh về Bắc.
Tháng Hai năm Tân Võ thứ tư, đại quân Hạ Lan Uyên thuận lợi lui về thành An Hạ ngay giữa Ký Châu, cách thành Ký Châu không quá ba trăm dặm. Thần Niên và Trịnh Luân mang binh theo lặng lẽ lên Bắc, muốn tìm một nơi mai phục ở phía Bắc Ký Châu, bẫy Hạ Lan Uyên một phen. Nhưng Bắc Ký Châu phần lớn là đồng bằng, địa thế bằng phẳng rộng rãi, nếu muốn tìm một nơi vừa lòng hợp ý thật sự không dễ.
Cả ngày trời, Thần Niên nằm rạp người trên bản đồ nghiên cứu quá nửa buổi cũng không tìm được nơi nào hài lòng, khó tránh khỏi nóng nảy, ngước mắt thấy Trịnh Luân từ ngoài cửa vào không nhịn được ai oán nói với hắn: “Ngươi càng gõ vào mai của y, y càng rụt vào trong. Hiện Hạ Lan Uyên ở ngay trước mặt y, nếu y chịu xuất binh đâm cho chúng một đao từ phía sau có phải tiết kiệm được bao nhiêu sức lực của chúng ta không?”.
Người trong quân phần lớn ăn nói thô lỗ, nhưng nàng là một cô gái xinh đẹp, nói thế lại làm người ta dở khóc dở cười. Trịnh Luân nắm tay để hờ lên môi ho khẽ hai tiếng, đi đến bên cạnh Thần Niên, do dự một chút rồi mới lấy ra thứ gì đó trong ngực áo cho Thần Niên, lãnh đạm nói: “Cho cô”.
Thần Niên hơi bất ngờ, nhận lấy xem thử, thấy là một chiếc mặt nạ chế tác bằng vàng và bạc, sắc vàng dịu nhẹ, chạm vào hơi lạnh, vì mài rất mỏng nên không nặng bao nhiêu, nhìn kĩ, trên mặt màu bạc còn khắc hoa văn mờ đẹp đẽ, quả nhiên là chế tác tinh xảo. Thần Niên thấy rất ưng bụng, không khỏi ngẩng đầu hỏi Trịnh Luân: “Cho ta?”.
Trịnh Luân gật đầu, mặt vẫn lãnh đạm, nói: “Cái này tiện hơn khăn đen, cũng khó rơi hơn”.
Con gái đa số đều thích chưng diện, ngay cả Thần Niên cũng không ngoại lệ. Nghe nói chiếc mặt nạ này thật sự dành cho nàng, Thần Niên cực kì hứng thú đeo mặt nạ lên mặt, nhất thời lại không tìm được gương để soi, bèn ngước lên hỏi Trịnh Luân: “Thế nào? Đẹp không?”.
Trịnh Luân chỉ liếc mắt nhìn nàng một cái rồi rời mắt đi, lấp liếm cúi đầu xuống nhìn bản đồ trên bàn, nói: “Tạm được”.
Thần Niên hoan hỉ nhận mặt nạ, cười nói: “Đa tạ nhé, đến lần sau xuất chiến, ta sẽ đeo nó”.
Trịnh Luân thấy nàng thích chiếc mặt nạ trong bụng vui vô cùng, muốn nói với nàng vài câu, nhưng không biết tại sao khi mở miệng lại bảo: “Trong quân cũng dùng đi, cô là thân gái, xuất đầu lộ diện dù sao cũng không tốt”.
Thần Niên vốn tràn đầy vui mừng, nghe xong lời hắn nói lại không nói gì, cũng may nàng ở với hắn một thời gian, biết người này không biết nói chuyện, bởi vậy cũng không so đo với hắn, chỉ thở dài: “Trịnh tướng quân ơi là Trịnh tướng quân, ngươi mở miệng ra quả nhiên là thối hết thuốc chữa rồi. Tặng đồ cho người nhưng lại đắc tội với người ta, ta cũng không biết phải nói gì với ngươi mới được nữa!”.
Trịnh Luân ngạc nhiên, ngẩng đầu nhìn nàng, hiển nhiên là không biết mình lại nói sai điều gì.
Thần Niên yếu ớt phất phất tay, nói: “Thôi đi, không chấp nhặt với ngươi, nói chính sự đi”. Nàng đặt mặt nạ sang một bên, hỏi Trịnh Luân, “Chúng ta mai phục ở đâu thì được? Vẫn muốn đuổi Hạ Lan Uyên về Bắc chứ?”.
Trịnh Luân thu hồi tâm tư, ngẫm nghĩ rồi nói: “Ta không có nhiều thời gian, Giang Nam trống binh lâu sẽ nảy sinh biến cố, ta phải mau chóng diệt Hạ Lan Uyên để dẫn quân về Giang Nam”.
Thần Niên nghe thế hơi bất ngờ, hỏi: “Giang Nam không ổn?”.
Trịnh Luân gật đầu đáp: “Hiện tại tuy còn chưa có gì, nhưng đã có tai họa ngầm nảy sinh”.
Lo lắng của Trịnh Luân không phải không có lý, Phong Quân Dương định Giang Nam mới hai năm đổ lại, chư vương Tề thị vẫn còn rất nhiều thế lực tàn dư chưa kịp thanh trừ. Trước mắt tất cả binh lực Giang Nam đều điều đến Giang Bắc, tất sẽ dẫn dụ kẻ nào đó rục rịch ngóc đầu dậy.
Quả nhiên, tháng Ba năm Tân Võ thứ tư, một vài vị vương gia còn sót lại của Hạ thất hoàng tộc do Lĩnh Nam vương Tề Tương cầm đầu, chiêu binh mãi mã ở Lĩnh Nam, khởi binh xả thân cứu giúp triều đình, thừa dịp phòng ngự của Giang Nam trống không, chỉ dùng hơn hai mươi ngày ngắn ngủi đã tấn công đến dưới thành Thịnh Đô.
Thịnh Đô báo nguy, Giang Nam báo nguy.
Hai mươi vạn đại quân của Phong Quân Dương vẫn giao chiến với Mộ Dung bộ của Tiên Thị ở đồng bằng trong sông rất xa, không về cứu kịp, nếu muốn cứu viện Thịnh Đô, chỉ có lệnh cho Trịnh Luân dẫn binh về Nam. Nhưng lúc này, tình hình chiến đấu ở Ký Châu cũng đang đến thời khắc then chốt, nếu Trịnh Luân lui về Nam như thế, Hạ Lan Uyên dẫn quân xông đến, Nghi Bình khó giữ, hai châu Thanh, Ký cứ thế lọt vào tay Tiên Thị.
Giang Nam và hai châu Thanh Ký, chỉ có thể chọn một trong hai mà thôi.
Thần Niên xem bức quân báo, trầm mặc hồi lâu, tâm tư có trăm ngàn mối, cuối cùng giương mắt nhìn Trịnh Luân, trầm giọng hỏi: “Ngươi tính thế nào?”.
Trịnh Luân khẽ mím môi, nhìn Thần Niên không đáp.
Thần Niên không khỏi cười một cái, chỉ nói: “Ngươi đừng nhìn ta, ta không quyết định thay ngươi được. Có điều, nghĩa quân ta làm thế này là vì chống lại lại Tiên Thị, bảo quốc an dân, tuyệt đối sẽ không theo ngươi đi Giang Nam bình định. Không có các ngươi, nghĩa quân vẫn có thể đánh bại Hạ Lan Uyên”.
Tuy nàng nói thế, nhưng trong lòng cả hai người đều hiểu rất rõ, nếu Trịnh Luân thật sự mang binh lui về Nam, chỉ dựa vào những người của nghĩa quân, vốn không thể cản nổi sự phản công của Hạ Lan Uyên. Ánh mắt Trịnh Luân sa sầm, nói: “Việc này ta không quyết định được, phải để vương gia định đoạt”.
Thần Niên nghe thế, nhẹ nhàng hạ mí mắt, Giang Nam chính là chỗ căn cơ của Phong Quân Dương, chàng có thể cam lòng vứt bỏ một nửa giang sơn Giang Nam, ở lại Giang Bắc chống lại Tiên Thị tiếp chăng? Trong lòng chàng, quyền thế và bách tính, rốt cuộc bên nào nặng bên nào nhẹ?
Nơi ngàn dặm xa xôi, Phong Quân Dương cũng đang cân nhắc vấn đề này.
Phong Quân Dương gặp chuyện thích yên tĩnh, nếu có việc khó khăn sẽ ở một mình trong phòng, im lặng suy nghĩ. Thuận Bình biết thói quen của chàng, không dám mảy may quấy quả, chỉ buông tay canh ngoài cửa, đến trà nước cũng không dám đưa vào. Đèn trong phòng sáng suốt một đêm, đợi khi trời sáng mới nghe Phong Quân Dương lạnh nhạt ra lệnh: “Đi mời Hàn tiên sinh đến đây”.
Thuận Bình vâng lời, vội ra khỏi cửa mời Hàn Hoa. Hàn Hoa rất nhanh từ ngoài vào, đưa mắt liếc nhìn sắc mặt của Phong Quân Dương, hỏi: “Vương gia có định đoạt chưa?”.
Phong Quân Dương trầm giọng đáp: “Bỏ Giang Nam, giữ Giang Bắc”.
Đáp án này nằm ngoài dự tính của Hàn Hoa, làm hắn bất giác ngây người, một lúc sau mới lên tiếng: “Bỏ Giang Nam, giữ Giang Bắc, đã phải chống lại mấy chục vạn đại quân Tiên Thị lại còn phải đề phòng Hạ Trăn táp ngược trở lại. Đến lúc đó đuổi Thác Bạt Nghiêu khỏi quan ngoại Tĩnh Dương, nếu không có Giang Nam chống đỡ, cũng không làm gì được Hạ Trăn, sợ là chỉ có thể chia ra để trị với ông ta”.
Phong Quân Dương chậm rãi gật đầu: “Ta biết, nhưng nếu bây giờ quay về, Giang Bắc tất sẽ rơi vào tay Thác Bạt Nghiêu”.
Hàn Hoa khuyên nhủ: “Vương gia, chỉ cần có một nửa giang sơn Giang Nam nơi tay, chúng ta còn có thể tích lũy lực lượng, tính việc chinh phạt Giang Bắc lại”.
Phong Quân Dương khẽ cau mày, nói: “Giang Bắc không thể rơi vào tay Thác Bạt Nghiêu, bằng không, đại quân Tiên Thị có thể xuôi dòng dọc sông Uyển, vạ đến Giang Nam”.
Hàn Hoa nói: “Nhưng một khi Tề Tương chiếm Thịnh Đô, mượn danh thiên tử lệnh cho chư hầu, chúng ta muốn đánh trở lại sẽ rất khó khăn”.
Phong Quân Dương cụp mắt trầm mặc hồi lâu, một lúc sau mới chậm rãi thở dài một hơi, nói: “Tề Tương chiếm Giang Nam, dân chúng Giang Nam có thể sống. Nhưng nếu ta lui về Nam, mặc cho Tiên Thị tùy ý chiếm Giang Bắc thì sau này sẽ gặp họa diệt quốc. Trước kia ta vì đoạt Giang Bắc, ban đầu ngồi xem các trấn quân Giang Bắc đánh nhau, sau lại có ý dung túng cho Tiên Thị xâm lược phía Nam, cuối cùng làm hại quốc gia tiêu vong, dân chúng chịu nạn, đã là sai lầm rồi, không thể sai lầm tiếp nữa”.
“Vương gia, nhưng có thể lệnh cho Trịnh Luân dẫn quân về Nam trước, tranh thủ ít thời gian cho quân ta, đến lúc đó tuy mất đi…”.
Phong Quân Dương nâng tay ngắt lời Hàn Hoa, chỉ nói: “Ý ta đã quyết, không cần nói nữa, Trịnh Luân phải tiếp tục ở lại Ký Châu, đồng thời, chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ Tây tiến, nhanh chóng đoạt được Dự Châu”.
Hàn Hoa thấy chàng kiên quyết như vậy cũng không tiện khuyên nữa, chỉ thở dài lắc lắc đầu. Phong Quân Dương hiếm khi thấy dáng vẻ đó của Hàn Hoa, không khỏi cong miệng, mỉm cười nói: “Hàn tiên sinh không cần như thế, bản thân ta cảm thấy Giang Bắc quan trọng hơn Giang Nam nhiều”.
Từ xưa đến nay, vốn từ Bắc công Nam dễ, chứ ngược lại thì khó gấp bội, lời Phong Quân Dương nói kể cũng không sai. Hàn Hoa miễn cưỡng cười một cái, nói: “Có lẽ vậy”.
Hắn đi theo Phong Quân Dương đã lâu, hai người xem như nửa thầy nửa bạn, tình cảm khăng khít, hơi phân vân chút ít nhưng vẫn không nhịn được hỏi Phong Quân Dương: “Vương gia, tôi có câu này không biết có nên hỏi hay không”.
Phong Quân Dương như đã đoán được Hàn Hoa muốn hỏi gì, khóe miệng chậm rãi thả ngang ra, trầm mặc nhìn Hàn Hoa một lát, lạnh nhạt nói: “Hỏi đi”.
Hàn Hoa nhìn chàng, hỏi: “Vương gia không cho Trịnh Luân mang binh về Nam giờ phút này, chính là vì thương ớ Tạ cô nương…”.
“Không phải”. Phong Quân Dương không đợi Hàn Hoa hỏi cho xong đã lên tiếng ngắt lời hắn. Ngay sau đó, chàng tự thấy mình trả lời quá nhanh, cố tình tạm dừng một lát rồi mới nói tiếp, “Không phải vì nàng, chỉ là vì bách tính thiên hạ”.
Hàn Hoa cười cười, chắp tay vái chào Phong Quân Dương, cáo từ rời đi.
Phong Quân Dương lại lặng lẽ ngồi một lát nữa rồi mới gọi Thuận Bình vào, dặn y: “Truyền tin cho Trịnh Luân và Tống Diễm, lệnh cho hai người họ dốc sức hợp tác nhất định phải nhanh chóng tiêu diệt Hạ Lan bộ của Tiên Thị”.
Thuận Bình vâng lời, do dự một chút nhưng lại hỏi: “Phía thái hậu nên làm gì đây ạ? Có cần nghĩ cách cứu thái hậu và tiểu hoàng đế ra khỏi Thịnh Đô?”.
Phong Quân Dương nghe thế, trên môi bất giác nở nụ cười khẩy, nói: “Không cần đâu, quan hệ giữa thái hậu và Tề Tương luôn không tồi, trước kia nếu không có thái hậu trợ giúp, Tề Tương sao có thể trở lại Lĩnh Nam?”.
Sau khi Phong Quân Dương chiếm đóng Thịnh Đô từng nhốt Tề Tương ở Thịnh Đô rất lâu, vẫn nhờ Phong thái hậu đứng giữa hòa giải, Tề Tương mới có thể rời khỏi Thịnh Đô. Hai người họ cũng coi như đều có mục đích riêng, một người muốn dựa cây cao bóng cả thái hậu, người kia lại muốn mượn chư vương họ Tề khống chế Phong Quân Dương, để ngôi vị hoàng đế của nhi tử có thể yên ổn.
Việc này, Phong Quân Dương đã biết được chút ít từ lâu, nhưng chưa bao giờ so tính với Phong thái hậu, đơn giản là muốn giữ lại chút tình cảm tỷ đệ, không ngờ Phong thái hậu lại không coi chàng là đệ đệ từ lâu.
Trong lòng Thuận Bình cũng không xem Phong thái hậu ra gì, song lại biết người ngoài không thể xen vào việc giữa người thân, nghe Phong Quân Dương nói thế chỉ cúi đầu nín thở, không dám đáp lại. Phong Quân Dương chính là một người cực kì tự kiềm chế, từ nhỏ đã được dạy không được lộ ra hỉ nộ, bây giờ có thể nói ra những lời này đã là hơi mất khống chế rồi. Chàng nhắm mắt một lát, chậm rãi thở ra một hơi, sắc mặt mới dần dần hòa hoãn như thường, dặn dò: “Truyền tin, bảo Phàn Cảnh Vân từ quan ngoại về”.
Tháng Tư, Tề Tương dẫn quân tấn công Thịnh Đô, Phong Quân Dương lại mang binh tiếp tục Tây tiến. Trịnh Luân cũng nhận được mệnh lệnh của Phong Quân Dương, tiếp tục ở lại Ký Châu, tiêu diệt binh mã Hạ Lan bộ của Tiên Thị.
Hành vi vứt bỏ Giang Nam không để ý, chỉ toàn lực chống giặc ngoại xâm của Phong Quân Dương thật ra lại nằm ngoài dự đoán của người đời, nhất thời có đủ kiểu ý kiến xôn xao, khen chê không đồng nhất, có người khen đây là lấy quốc gia đại nghĩa làm trọng, lại có kẻ nói Phong Quân Dương chẳng qua là cuồng vọng tự đại, là đồ mua danh trục lợi.
Bên trong phủ thủ thành Thái Hưng, sau khi nhận được tin tức xác thực Phong Quân Dương lại tiếp tục dẫn binh Tây tiến, sự lo lắng treo giữa chân mày Hạ Trăn giờ mới tan đi, ông ta phất tay đuổi Tào Âm, đặt quân cờ trên tay xuống, nói với Bạch Chương: “Tề Tương suy cho cùng vẫn còn trẻ, dễ kích động, y làm loạn lên như thế trước hạn, suýt nữa phá hủy việc lớn của ta”.
Bạch Chương thủng thẳng nhón lấy quân cờ, mắt chăm chú nhìn cờ trên bàn, nhưng miệng lại nói: “Ông cũng mạo hiểm thật, lấy Thái Hưng ra đánh cược, cũng không sợ Phong Quân Dương thật sự bỏ lại Giang Bắc về Nam. May mà hắn trẻ tuổi xăng xái, nghĩ đến quốc gia đại nghĩa gì gì, bằng không lão đệ ông lấy gì để chống lại mấy chục vạn đại quân của Tiên Thị? Đến lúc đó bị Khâu Mục Lăng Việt công phá Thái Hưng, ông sẽ hối hận liền!”.
Hạ Trăn cười nhạt, không nhanh không chậm nói: “Trước kia thực lực quốc gia của Bắc Mạc đang thịnh thì danh tướng Bắc Mạc là Châu Chỉ Nhẫn dẫn theo hơn mười vạn tinh binh mãnh tướng bao vây Thái Hưng hai năm cũng không thể phá cửa thành. Khâu Mục Lăng Việt chỉ là phường võ biền, chắp vá mười vạn tạp quân Bắc Mạc lại mà cũng hòng đoạt Thái Hưng ta, chẳng qua là chuyện cười thôi”.
Hạ Trăn nói thế thực không phải cuồng ngạo tự đại. Thái Hưng bị vây từ mùa xuân năm ngoái đến giờ đã một năm có lẻ, Khâu Mục Lăng Việt liên tục tấn công, đã hao tốn rất nhiều binh mã mà vẫn không thể chiếm cứ Thái Hưng. Đợt lũ mùa hạ năm ngoái, Khâu Mục Lăng Việt thậm chí còn đào cả đê lớn sông Uyển, muốn nước nhấn chìm Thái Hưng, nhưng quân phòng thủ và dân chúng trong thành đều chuyển đến chỗ cao, không hề ảnh hưởng đến việc thủ thành.
Khâu Mục Lăng Việt không còn cách nào mới không thể không tạm dừng công thành, chia binh chiếm lấy mấy thành nhỏ gần Thái Hưng, hình thành xu thế bao quanh Thái Hưng, vây mà không đánh.
Bạch Chương liếc Hạ Trăn một cái, cũng cười theo ha ha, thờ ơ hỏi han: “Khi nào thì thủy quân về Đông?”.
Thủy quân Thái Hưng luôn đóng ở thủy trại Phụ Bình phía trước sông Uyển, theo dự tính ban đầu của Hạ Trăn, muốn chờ khi Phong Quân Dương và Thác Bạt Nghiêu lâm vào cảnh không chết không thôi, thủy quân Thái Hưng sẽ lén lút về Đông chiếm Nghi Bình. Song ngờ đâu lại có lắm rủi ro, ban đầu Hạ Lan bộ của Tiên Thị vượt núi Yến Thứ tiến vào Ký Châu, khiến cho Phong Quân Dương phải điều binh từ Giang Nam lên Bắc, do đó làm Tề Tương nổi loạn sớm… Một bước này đã lệch hơn nhiều so với bố trí dự kiến ban đầu của Hạ Trăn.
Hạ Trăn suy tư một lát, đáp: “Còn phải chờ thêm đã, chờ Trịnh Luân và Hạ Lan Uyên phân rõ thắng bại rồi nói sau. Xem tình hình trước mắt, phần thắng của Trịnh Luân lớn hơn một chút, đến lúc đó nếu hắn có thể mang binh về Nam chiến đấu với Tề Tương, tất nhiên là tốt nhất”.
Bạch Chương chậm rãi gật đầu, nhưng một lát sau bỗng lại vừa cười vừa nói: “Nhưng không biết Thịnh Đô có giữ được đến lúc Trịnh Luân mang binh về không, nếu Tề Tương đã chiếm đóng Thịnh Đô từ sớm, tôi thấy Phong Quân Dương chưa chắc đã gọi Trịnh Luân về”.
Hạ Trăn nói: “Thành Thịnh Đô kiên cố đủ lương thực, chỉ cần tướng thủ thành không làm chuyện ngu ngốc, thủ vài tháng cũng không khó khăn gì”.
Ngờ đâu lần này Hạ Trăn lại tính sai, ngay sau khi Tề Tương vây công Thịnh Đô nửa tháng, một hiệu úy nho nhỏ của cấm quân trong thành lén lút chạy sang hàng ngũ giặc, thừa dịp đêm khuya mở cửa thành Thịnh Đô, thả quân đội của Tề Tương vào thành, Thịnh Đô đã bị chiếm đóng như thế. Tay hiệu úy kia cũng chẳng phải ai khác, mà chính là Tiêu Hầu Nhi đã bái Tịnh Vũ Hiên làm thầy cùng Thần Niên năm xưa.
Năm Vĩnh Ninh thứ ba, Tiêu Hầu Nhi phản bội rời khỏi Tụ Nghĩa trại, đi Thịnh Đô với Phong Quân Dương, sau khi đổi tên là Tiêu Đắc Hầu thì gia nhập trong quân, không ngờ lại không hề được Phong Quân Dương trọng dụng. Tên này đầu óc linh hoạt, lại không có đức hạnh, vừa cảm thấy Phong Quân Dương có lỗi với mình, lại mắt thấy đại quân Tề Tương đến tấn công Thịnh Đô, dứt khoát âm thầm nhảy sang chỗ Tề Tương.
Tin tức truyền về Giang Bắc, Ôn Đại Nha ban đầu tức giận, sau đó lại vui vẻ bảo Thần Niên: “Tiêu Hầu Nhi đúng là đồ lòng lang dạ sói, nhưng Phong Quân Dương cũng đáng đời! Trước kia nếu không phải hắn lấy quyền thế ra dụ, Tiêu Hầu Nhi sao lại phản bội chúng ta? Giờ Tiêu Hầu Nhi lại phản bội hắn, quả đúng là ác giả ác báo, đáng!”.
Trịnh Luân đi được vài bước lại đột nhiên hạ giọng hỏi: “Võ công của cô đã khôi phục rồi?
Bước chân Thần Niên thoáng khựng lại, lập tức lại như không có việc gì gật đầu, vui đùa nói: “Không những đã khôi phục mà còn lợi hại hơn, nên sau này ngươi đừng chọc tức ta, cẩn thận ta một chưởng đập chết ngươi”.
Trong lòng Trịnh Luân càng muốn hỏi vì sao nàng lại đột nhiên đến Giang Bắc, vì sao lại làm Tạ Thần Niên trước kia? Trong lòng hắn có vô vàn thắc mắc, nhưng không thể nói ra một điều nào khỏi miệng, cuối cùng chỉ đành mím môi. Thân phận hiện giờ của nàng là Tạ Thần Niên, hắn đã có thể gặp lại nàng, có thể nghe giọng nói của nàng, thậm chí còn có thể kề vai chiến đấu với nàng… Tất cả những chuyện này giống như hắn ăn trộm của kẻ khác, vừa thấy mừng thầm và kích động, lại vừa thấy bất an và áy náy, nhất thời rối rắm vô cùng.
Bởi có sự phối hợp của nghĩa quân, trận đầu của Trịnh Luân quả nhiên đại thắng.
Lúc tin tức truyền đến chỗ Phong Quân Dương đã sắp tháng Chạp, Giang Bắc liên tục đổ mấy trận tuyết lớn, thời tiết chợt rét lạnh, đại quân của Phong Quân Dương bị cản lại ở quận Phàn Lâm cách Dự Châu hơn nghìn dặm, mà Tiên Thị cũng hết cách với Thái Hưng, chiến tranh nhất thời ở thế giằng co.
Phong Quân Dương nhìn vào bức quân báo hơi thất thần, một lúc sau mới cất tiếng hỏi Thuận Bình: “Đó thật sự không phải nàng sao?”.
Thuận Bình cũng không biết nên trả lời câu hỏi này thế nào, theo tin Tống Diễm gửi đến trước đó, nghĩa quân do đám người Lỗ Linh Tước và Ôn Đại Nha mượn danh nghĩa Thần Niên để triệu tập, “Tạ Thần Niên” do Lỗ Linh Tước giả mạo. Nhưng sau này các tin tức khác lục tục gửi về, hành động của “Tạ Thần Niên” kia rất giống với bản gốc. Theo lý mà nói, Trịnh Luân từng hợp tác với nghĩa quân, nên biết thật giả của “Tạ Thần Niên”, nhưng trong quân báo của hắn lại chưa giờ nhắc đến việc này, ngay cả tên của Tạ Thần Niên cũng chưa từng xuất hiện.
Cho dù thông minh như Thuận Bình cũng hoàn toàn mù mờ. Giờ nghe Phong Quân Dương hỏi, y nghĩ ngợi rồi cẩn thận đáp: “Lão Kiều đã quay về trong núi kiểm tra rồi, vài bữa nữa sẽ về, đến lúc đó là biết thật giả ngay thôi”.
Phong Quân Dương trầm mặc chốc lát, nhưng lại cười tự giễu, thở dài: “Giỏi cho tên Trịnh Luân”.
Thuận Bình không dám nói tiếp, chỉ cúi đầu im lặng. Trong phòng đang im ắng, chợt nghe thân vệ bên ngoài nói Hàn tiên sinh đến, một lát sau, rèm cửa được vén lên từ ngoài, một người đàn ông béo trắng khoảng chừng bốn mươi năm mươi tuổi đi vào, đúng là phụ tá Hàn Hoa. Thuận Bình bước lên, giúp hắn cởi áo khoác trên người, lén đưa mắt cho hắn, ám chỉ tâm tình Phong Quân Dương giờ không tốt lắm.
Hàn Hoa khẽ gật đầu, đứng ở cửa giẫm mạnh tuyết đọng trên giày xong mới đi vào trong phòng, tươi cười nói: “Giang Bắc lạnh hơn Giang Nam nhiều, tôi vừa dạo ngoài thành một vòng, suýt đông cứng cả chân”.
Phong Quân Dương không tỏ ra chút hứng thú nào trên mặt, cười nhạt nói: “Năm nay lạnh hơn năm ngoái một ít”.
Hàn Hoa liếc chàng, lại cười nói: “May mà đại quân chúng ta đồn trú trong thành, nếu không trong quân sợ là có người chết cóng”.
Phong Quân Dương nghe thế, đặt quân báo trong tay xuống, hỏi Hàn Hoa: “Theo Hàn tiên sinh thấy, Thái Hưng có thể cầm cự đến bao giờ?”.
Hàn Hoa nói: “Hạ Trăn là con cáo già, thủ hai ba năm không thành vấn đề. Điều tôi lo nhất không phải việc này mà là Giang Nam trống không. Hay bảo Trịnh Luân nhanh chóng quét sạch hai châu Thanh, Ký, dẫn binh mã về để tránh Giang Nam sinh loạn”.
Phong Quân Dương ném mấy bức quân báo của Trịnh Luân cho Hàn Hoa, nói: “Chỗ hắn coi như thuận lợi, nếu không có gì bất trắc, đầu hè sang năm có thể kết thúc, ít nhất có thể đuổi người Tiên Thị qua núi Yến Thứ. Có điều Ký Châu khá phiền phức, không thể để lại cho Tiết Thịnh Hiển nữa, nhưng nếu muốn cưỡng đoạt lại không dễ dàng”.
Tiết Thịnh Hiển tuy nhát gan sợ chiến nhưng trong thành dù gì cũng có quân đội vài vạn, hơn nữa hiện giờ là lúc kẻ địch bên ngoài xâm lấn, nếu lúc này mà đánh nhau với y, mất nhiều hơn được.
Phong Quân Dương khẽ mím môi, trong mắt đượm vẻ bực dọc, nói tiếp: “Thật không nên đưa thuốc giải cho Tiết Thịnh Hiền sớm, xưa nghĩ bụng tên này vô dụng, không chịu nổi sóng gió, nhưng không ngờ y lại vô dụng đến bực này, mấy vạn đại quân co đầu rụt cổ bên trong thành Ký Châu mặc cho quân đội Tiên Thị đi đi lại lại ngoài thành”.
Thật ra không riêng Phong Quân Dương căm tức Ký Châu, Thần Niên và Trịnh Luân cũng vậy.
Đại quân Tiên Thị vốn đã đánh đến Nghi Bình, Trịnh Luân dẫn tinh binh từ phía sau đi ra, giết người Tiên Thị không kịp trở tay. Đại tướng quân Tiên Thị là Hạ Lan Uyên nổi điên, bỏ Nghi Bình treo bên miệng xuống, quay sang bổ nhào đến chỗ quân của Trịnh Luân. Nhưng không ngờ không thể báo thù mà còn để Trịnh Luân thắng liền mấy trận, sĩ khí suy giảm nặng nề. Mà phía Tống Diễm cũng thay đổi thái độ phòng thủ không chiến trước đó, xua đại quân mạnh mẽ ra khỏi Nghi Bình, trực tiếp đón đầu quân Tiên Thị.
Hạ Lan Uyên không còn cách nào, đành phải lui binh về Bắc, cũng may binh lực trong tay Trịnh Luân có hạn, không thể tiếp chiến trực diện với đại quân Tiên Thị nên mới để Hạ Lan Uyên có thể dẫn binh về Bắc.
Tháng Hai năm Tân Võ thứ tư, đại quân Hạ Lan Uyên thuận lợi lui về thành An Hạ ngay giữa Ký Châu, cách thành Ký Châu không quá ba trăm dặm. Thần Niên và Trịnh Luân mang binh theo lặng lẽ lên Bắc, muốn tìm một nơi mai phục ở phía Bắc Ký Châu, bẫy Hạ Lan Uyên một phen. Nhưng Bắc Ký Châu phần lớn là đồng bằng, địa thế bằng phẳng rộng rãi, nếu muốn tìm một nơi vừa lòng hợp ý thật sự không dễ.
Cả ngày trời, Thần Niên nằm rạp người trên bản đồ nghiên cứu quá nửa buổi cũng không tìm được nơi nào hài lòng, khó tránh khỏi nóng nảy, ngước mắt thấy Trịnh Luân từ ngoài cửa vào không nhịn được ai oán nói với hắn: “Ngươi càng gõ vào mai của y, y càng rụt vào trong. Hiện Hạ Lan Uyên ở ngay trước mặt y, nếu y chịu xuất binh đâm cho chúng một đao từ phía sau có phải tiết kiệm được bao nhiêu sức lực của chúng ta không?”.
Người trong quân phần lớn ăn nói thô lỗ, nhưng nàng là một cô gái xinh đẹp, nói thế lại làm người ta dở khóc dở cười. Trịnh Luân nắm tay để hờ lên môi ho khẽ hai tiếng, đi đến bên cạnh Thần Niên, do dự một chút rồi mới lấy ra thứ gì đó trong ngực áo cho Thần Niên, lãnh đạm nói: “Cho cô”.
Thần Niên hơi bất ngờ, nhận lấy xem thử, thấy là một chiếc mặt nạ chế tác bằng vàng và bạc, sắc vàng dịu nhẹ, chạm vào hơi lạnh, vì mài rất mỏng nên không nặng bao nhiêu, nhìn kĩ, trên mặt màu bạc còn khắc hoa văn mờ đẹp đẽ, quả nhiên là chế tác tinh xảo. Thần Niên thấy rất ưng bụng, không khỏi ngẩng đầu hỏi Trịnh Luân: “Cho ta?”.
Trịnh Luân gật đầu, mặt vẫn lãnh đạm, nói: “Cái này tiện hơn khăn đen, cũng khó rơi hơn”.
Con gái đa số đều thích chưng diện, ngay cả Thần Niên cũng không ngoại lệ. Nghe nói chiếc mặt nạ này thật sự dành cho nàng, Thần Niên cực kì hứng thú đeo mặt nạ lên mặt, nhất thời lại không tìm được gương để soi, bèn ngước lên hỏi Trịnh Luân: “Thế nào? Đẹp không?”.
Trịnh Luân chỉ liếc mắt nhìn nàng một cái rồi rời mắt đi, lấp liếm cúi đầu xuống nhìn bản đồ trên bàn, nói: “Tạm được”.
Thần Niên hoan hỉ nhận mặt nạ, cười nói: “Đa tạ nhé, đến lần sau xuất chiến, ta sẽ đeo nó”.
Trịnh Luân thấy nàng thích chiếc mặt nạ trong bụng vui vô cùng, muốn nói với nàng vài câu, nhưng không biết tại sao khi mở miệng lại bảo: “Trong quân cũng dùng đi, cô là thân gái, xuất đầu lộ diện dù sao cũng không tốt”.
Thần Niên vốn tràn đầy vui mừng, nghe xong lời hắn nói lại không nói gì, cũng may nàng ở với hắn một thời gian, biết người này không biết nói chuyện, bởi vậy cũng không so đo với hắn, chỉ thở dài: “Trịnh tướng quân ơi là Trịnh tướng quân, ngươi mở miệng ra quả nhiên là thối hết thuốc chữa rồi. Tặng đồ cho người nhưng lại đắc tội với người ta, ta cũng không biết phải nói gì với ngươi mới được nữa!”.
Trịnh Luân ngạc nhiên, ngẩng đầu nhìn nàng, hiển nhiên là không biết mình lại nói sai điều gì.
Thần Niên yếu ớt phất phất tay, nói: “Thôi đi, không chấp nhặt với ngươi, nói chính sự đi”. Nàng đặt mặt nạ sang một bên, hỏi Trịnh Luân, “Chúng ta mai phục ở đâu thì được? Vẫn muốn đuổi Hạ Lan Uyên về Bắc chứ?”.
Trịnh Luân thu hồi tâm tư, ngẫm nghĩ rồi nói: “Ta không có nhiều thời gian, Giang Nam trống binh lâu sẽ nảy sinh biến cố, ta phải mau chóng diệt Hạ Lan Uyên để dẫn quân về Giang Nam”.
Thần Niên nghe thế hơi bất ngờ, hỏi: “Giang Nam không ổn?”.
Trịnh Luân gật đầu đáp: “Hiện tại tuy còn chưa có gì, nhưng đã có tai họa ngầm nảy sinh”.
Lo lắng của Trịnh Luân không phải không có lý, Phong Quân Dương định Giang Nam mới hai năm đổ lại, chư vương Tề thị vẫn còn rất nhiều thế lực tàn dư chưa kịp thanh trừ. Trước mắt tất cả binh lực Giang Nam đều điều đến Giang Bắc, tất sẽ dẫn dụ kẻ nào đó rục rịch ngóc đầu dậy.
Quả nhiên, tháng Ba năm Tân Võ thứ tư, một vài vị vương gia còn sót lại của Hạ thất hoàng tộc do Lĩnh Nam vương Tề Tương cầm đầu, chiêu binh mãi mã ở Lĩnh Nam, khởi binh xả thân cứu giúp triều đình, thừa dịp phòng ngự của Giang Nam trống không, chỉ dùng hơn hai mươi ngày ngắn ngủi đã tấn công đến dưới thành Thịnh Đô.
Thịnh Đô báo nguy, Giang Nam báo nguy.
Hai mươi vạn đại quân của Phong Quân Dương vẫn giao chiến với Mộ Dung bộ của Tiên Thị ở đồng bằng trong sông rất xa, không về cứu kịp, nếu muốn cứu viện Thịnh Đô, chỉ có lệnh cho Trịnh Luân dẫn binh về Nam. Nhưng lúc này, tình hình chiến đấu ở Ký Châu cũng đang đến thời khắc then chốt, nếu Trịnh Luân lui về Nam như thế, Hạ Lan Uyên dẫn quân xông đến, Nghi Bình khó giữ, hai châu Thanh, Ký cứ thế lọt vào tay Tiên Thị.
Giang Nam và hai châu Thanh Ký, chỉ có thể chọn một trong hai mà thôi.
Thần Niên xem bức quân báo, trầm mặc hồi lâu, tâm tư có trăm ngàn mối, cuối cùng giương mắt nhìn Trịnh Luân, trầm giọng hỏi: “Ngươi tính thế nào?”.
Trịnh Luân khẽ mím môi, nhìn Thần Niên không đáp.
Thần Niên không khỏi cười một cái, chỉ nói: “Ngươi đừng nhìn ta, ta không quyết định thay ngươi được. Có điều, nghĩa quân ta làm thế này là vì chống lại lại Tiên Thị, bảo quốc an dân, tuyệt đối sẽ không theo ngươi đi Giang Nam bình định. Không có các ngươi, nghĩa quân vẫn có thể đánh bại Hạ Lan Uyên”.
Tuy nàng nói thế, nhưng trong lòng cả hai người đều hiểu rất rõ, nếu Trịnh Luân thật sự mang binh lui về Nam, chỉ dựa vào những người của nghĩa quân, vốn không thể cản nổi sự phản công của Hạ Lan Uyên. Ánh mắt Trịnh Luân sa sầm, nói: “Việc này ta không quyết định được, phải để vương gia định đoạt”.
Thần Niên nghe thế, nhẹ nhàng hạ mí mắt, Giang Nam chính là chỗ căn cơ của Phong Quân Dương, chàng có thể cam lòng vứt bỏ một nửa giang sơn Giang Nam, ở lại Giang Bắc chống lại Tiên Thị tiếp chăng? Trong lòng chàng, quyền thế và bách tính, rốt cuộc bên nào nặng bên nào nhẹ?
Nơi ngàn dặm xa xôi, Phong Quân Dương cũng đang cân nhắc vấn đề này.
Phong Quân Dương gặp chuyện thích yên tĩnh, nếu có việc khó khăn sẽ ở một mình trong phòng, im lặng suy nghĩ. Thuận Bình biết thói quen của chàng, không dám mảy may quấy quả, chỉ buông tay canh ngoài cửa, đến trà nước cũng không dám đưa vào. Đèn trong phòng sáng suốt một đêm, đợi khi trời sáng mới nghe Phong Quân Dương lạnh nhạt ra lệnh: “Đi mời Hàn tiên sinh đến đây”.
Thuận Bình vâng lời, vội ra khỏi cửa mời Hàn Hoa. Hàn Hoa rất nhanh từ ngoài vào, đưa mắt liếc nhìn sắc mặt của Phong Quân Dương, hỏi: “Vương gia có định đoạt chưa?”.
Phong Quân Dương trầm giọng đáp: “Bỏ Giang Nam, giữ Giang Bắc”.
Đáp án này nằm ngoài dự tính của Hàn Hoa, làm hắn bất giác ngây người, một lúc sau mới lên tiếng: “Bỏ Giang Nam, giữ Giang Bắc, đã phải chống lại mấy chục vạn đại quân Tiên Thị lại còn phải đề phòng Hạ Trăn táp ngược trở lại. Đến lúc đó đuổi Thác Bạt Nghiêu khỏi quan ngoại Tĩnh Dương, nếu không có Giang Nam chống đỡ, cũng không làm gì được Hạ Trăn, sợ là chỉ có thể chia ra để trị với ông ta”.
Phong Quân Dương chậm rãi gật đầu: “Ta biết, nhưng nếu bây giờ quay về, Giang Bắc tất sẽ rơi vào tay Thác Bạt Nghiêu”.
Hàn Hoa khuyên nhủ: “Vương gia, chỉ cần có một nửa giang sơn Giang Nam nơi tay, chúng ta còn có thể tích lũy lực lượng, tính việc chinh phạt Giang Bắc lại”.
Phong Quân Dương khẽ cau mày, nói: “Giang Bắc không thể rơi vào tay Thác Bạt Nghiêu, bằng không, đại quân Tiên Thị có thể xuôi dòng dọc sông Uyển, vạ đến Giang Nam”.
Hàn Hoa nói: “Nhưng một khi Tề Tương chiếm Thịnh Đô, mượn danh thiên tử lệnh cho chư hầu, chúng ta muốn đánh trở lại sẽ rất khó khăn”.
Phong Quân Dương cụp mắt trầm mặc hồi lâu, một lúc sau mới chậm rãi thở dài một hơi, nói: “Tề Tương chiếm Giang Nam, dân chúng Giang Nam có thể sống. Nhưng nếu ta lui về Nam, mặc cho Tiên Thị tùy ý chiếm Giang Bắc thì sau này sẽ gặp họa diệt quốc. Trước kia ta vì đoạt Giang Bắc, ban đầu ngồi xem các trấn quân Giang Bắc đánh nhau, sau lại có ý dung túng cho Tiên Thị xâm lược phía Nam, cuối cùng làm hại quốc gia tiêu vong, dân chúng chịu nạn, đã là sai lầm rồi, không thể sai lầm tiếp nữa”.
“Vương gia, nhưng có thể lệnh cho Trịnh Luân dẫn quân về Nam trước, tranh thủ ít thời gian cho quân ta, đến lúc đó tuy mất đi…”.
Phong Quân Dương nâng tay ngắt lời Hàn Hoa, chỉ nói: “Ý ta đã quyết, không cần nói nữa, Trịnh Luân phải tiếp tục ở lại Ký Châu, đồng thời, chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ Tây tiến, nhanh chóng đoạt được Dự Châu”.
Hàn Hoa thấy chàng kiên quyết như vậy cũng không tiện khuyên nữa, chỉ thở dài lắc lắc đầu. Phong Quân Dương hiếm khi thấy dáng vẻ đó của Hàn Hoa, không khỏi cong miệng, mỉm cười nói: “Hàn tiên sinh không cần như thế, bản thân ta cảm thấy Giang Bắc quan trọng hơn Giang Nam nhiều”.
Từ xưa đến nay, vốn từ Bắc công Nam dễ, chứ ngược lại thì khó gấp bội, lời Phong Quân Dương nói kể cũng không sai. Hàn Hoa miễn cưỡng cười một cái, nói: “Có lẽ vậy”.
Hắn đi theo Phong Quân Dương đã lâu, hai người xem như nửa thầy nửa bạn, tình cảm khăng khít, hơi phân vân chút ít nhưng vẫn không nhịn được hỏi Phong Quân Dương: “Vương gia, tôi có câu này không biết có nên hỏi hay không”.
Phong Quân Dương như đã đoán được Hàn Hoa muốn hỏi gì, khóe miệng chậm rãi thả ngang ra, trầm mặc nhìn Hàn Hoa một lát, lạnh nhạt nói: “Hỏi đi”.
Hàn Hoa nhìn chàng, hỏi: “Vương gia không cho Trịnh Luân mang binh về Nam giờ phút này, chính là vì thương ớ Tạ cô nương…”.
“Không phải”. Phong Quân Dương không đợi Hàn Hoa hỏi cho xong đã lên tiếng ngắt lời hắn. Ngay sau đó, chàng tự thấy mình trả lời quá nhanh, cố tình tạm dừng một lát rồi mới nói tiếp, “Không phải vì nàng, chỉ là vì bách tính thiên hạ”.
Hàn Hoa cười cười, chắp tay vái chào Phong Quân Dương, cáo từ rời đi.
Phong Quân Dương lại lặng lẽ ngồi một lát nữa rồi mới gọi Thuận Bình vào, dặn y: “Truyền tin cho Trịnh Luân và Tống Diễm, lệnh cho hai người họ dốc sức hợp tác nhất định phải nhanh chóng tiêu diệt Hạ Lan bộ của Tiên Thị”.
Thuận Bình vâng lời, do dự một chút nhưng lại hỏi: “Phía thái hậu nên làm gì đây ạ? Có cần nghĩ cách cứu thái hậu và tiểu hoàng đế ra khỏi Thịnh Đô?”.
Phong Quân Dương nghe thế, trên môi bất giác nở nụ cười khẩy, nói: “Không cần đâu, quan hệ giữa thái hậu và Tề Tương luôn không tồi, trước kia nếu không có thái hậu trợ giúp, Tề Tương sao có thể trở lại Lĩnh Nam?”.
Sau khi Phong Quân Dương chiếm đóng Thịnh Đô từng nhốt Tề Tương ở Thịnh Đô rất lâu, vẫn nhờ Phong thái hậu đứng giữa hòa giải, Tề Tương mới có thể rời khỏi Thịnh Đô. Hai người họ cũng coi như đều có mục đích riêng, một người muốn dựa cây cao bóng cả thái hậu, người kia lại muốn mượn chư vương họ Tề khống chế Phong Quân Dương, để ngôi vị hoàng đế của nhi tử có thể yên ổn.
Việc này, Phong Quân Dương đã biết được chút ít từ lâu, nhưng chưa bao giờ so tính với Phong thái hậu, đơn giản là muốn giữ lại chút tình cảm tỷ đệ, không ngờ Phong thái hậu lại không coi chàng là đệ đệ từ lâu.
Trong lòng Thuận Bình cũng không xem Phong thái hậu ra gì, song lại biết người ngoài không thể xen vào việc giữa người thân, nghe Phong Quân Dương nói thế chỉ cúi đầu nín thở, không dám đáp lại. Phong Quân Dương chính là một người cực kì tự kiềm chế, từ nhỏ đã được dạy không được lộ ra hỉ nộ, bây giờ có thể nói ra những lời này đã là hơi mất khống chế rồi. Chàng nhắm mắt một lát, chậm rãi thở ra một hơi, sắc mặt mới dần dần hòa hoãn như thường, dặn dò: “Truyền tin, bảo Phàn Cảnh Vân từ quan ngoại về”.
Tháng Tư, Tề Tương dẫn quân tấn công Thịnh Đô, Phong Quân Dương lại mang binh tiếp tục Tây tiến. Trịnh Luân cũng nhận được mệnh lệnh của Phong Quân Dương, tiếp tục ở lại Ký Châu, tiêu diệt binh mã Hạ Lan bộ của Tiên Thị.
Hành vi vứt bỏ Giang Nam không để ý, chỉ toàn lực chống giặc ngoại xâm của Phong Quân Dương thật ra lại nằm ngoài dự đoán của người đời, nhất thời có đủ kiểu ý kiến xôn xao, khen chê không đồng nhất, có người khen đây là lấy quốc gia đại nghĩa làm trọng, lại có kẻ nói Phong Quân Dương chẳng qua là cuồng vọng tự đại, là đồ mua danh trục lợi.
Bên trong phủ thủ thành Thái Hưng, sau khi nhận được tin tức xác thực Phong Quân Dương lại tiếp tục dẫn binh Tây tiến, sự lo lắng treo giữa chân mày Hạ Trăn giờ mới tan đi, ông ta phất tay đuổi Tào Âm, đặt quân cờ trên tay xuống, nói với Bạch Chương: “Tề Tương suy cho cùng vẫn còn trẻ, dễ kích động, y làm loạn lên như thế trước hạn, suýt nữa phá hủy việc lớn của ta”.
Bạch Chương thủng thẳng nhón lấy quân cờ, mắt chăm chú nhìn cờ trên bàn, nhưng miệng lại nói: “Ông cũng mạo hiểm thật, lấy Thái Hưng ra đánh cược, cũng không sợ Phong Quân Dương thật sự bỏ lại Giang Bắc về Nam. May mà hắn trẻ tuổi xăng xái, nghĩ đến quốc gia đại nghĩa gì gì, bằng không lão đệ ông lấy gì để chống lại mấy chục vạn đại quân của Tiên Thị? Đến lúc đó bị Khâu Mục Lăng Việt công phá Thái Hưng, ông sẽ hối hận liền!”.
Hạ Trăn cười nhạt, không nhanh không chậm nói: “Trước kia thực lực quốc gia của Bắc Mạc đang thịnh thì danh tướng Bắc Mạc là Châu Chỉ Nhẫn dẫn theo hơn mười vạn tinh binh mãnh tướng bao vây Thái Hưng hai năm cũng không thể phá cửa thành. Khâu Mục Lăng Việt chỉ là phường võ biền, chắp vá mười vạn tạp quân Bắc Mạc lại mà cũng hòng đoạt Thái Hưng ta, chẳng qua là chuyện cười thôi”.
Hạ Trăn nói thế thực không phải cuồng ngạo tự đại. Thái Hưng bị vây từ mùa xuân năm ngoái đến giờ đã một năm có lẻ, Khâu Mục Lăng Việt liên tục tấn công, đã hao tốn rất nhiều binh mã mà vẫn không thể chiếm cứ Thái Hưng. Đợt lũ mùa hạ năm ngoái, Khâu Mục Lăng Việt thậm chí còn đào cả đê lớn sông Uyển, muốn nước nhấn chìm Thái Hưng, nhưng quân phòng thủ và dân chúng trong thành đều chuyển đến chỗ cao, không hề ảnh hưởng đến việc thủ thành.
Khâu Mục Lăng Việt không còn cách nào mới không thể không tạm dừng công thành, chia binh chiếm lấy mấy thành nhỏ gần Thái Hưng, hình thành xu thế bao quanh Thái Hưng, vây mà không đánh.
Bạch Chương liếc Hạ Trăn một cái, cũng cười theo ha ha, thờ ơ hỏi han: “Khi nào thì thủy quân về Đông?”.
Thủy quân Thái Hưng luôn đóng ở thủy trại Phụ Bình phía trước sông Uyển, theo dự tính ban đầu của Hạ Trăn, muốn chờ khi Phong Quân Dương và Thác Bạt Nghiêu lâm vào cảnh không chết không thôi, thủy quân Thái Hưng sẽ lén lút về Đông chiếm Nghi Bình. Song ngờ đâu lại có lắm rủi ro, ban đầu Hạ Lan bộ của Tiên Thị vượt núi Yến Thứ tiến vào Ký Châu, khiến cho Phong Quân Dương phải điều binh từ Giang Nam lên Bắc, do đó làm Tề Tương nổi loạn sớm… Một bước này đã lệch hơn nhiều so với bố trí dự kiến ban đầu của Hạ Trăn.
Hạ Trăn suy tư một lát, đáp: “Còn phải chờ thêm đã, chờ Trịnh Luân và Hạ Lan Uyên phân rõ thắng bại rồi nói sau. Xem tình hình trước mắt, phần thắng của Trịnh Luân lớn hơn một chút, đến lúc đó nếu hắn có thể mang binh về Nam chiến đấu với Tề Tương, tất nhiên là tốt nhất”.
Bạch Chương chậm rãi gật đầu, nhưng một lát sau bỗng lại vừa cười vừa nói: “Nhưng không biết Thịnh Đô có giữ được đến lúc Trịnh Luân mang binh về không, nếu Tề Tương đã chiếm đóng Thịnh Đô từ sớm, tôi thấy Phong Quân Dương chưa chắc đã gọi Trịnh Luân về”.
Hạ Trăn nói: “Thành Thịnh Đô kiên cố đủ lương thực, chỉ cần tướng thủ thành không làm chuyện ngu ngốc, thủ vài tháng cũng không khó khăn gì”.
Ngờ đâu lần này Hạ Trăn lại tính sai, ngay sau khi Tề Tương vây công Thịnh Đô nửa tháng, một hiệu úy nho nhỏ của cấm quân trong thành lén lút chạy sang hàng ngũ giặc, thừa dịp đêm khuya mở cửa thành Thịnh Đô, thả quân đội của Tề Tương vào thành, Thịnh Đô đã bị chiếm đóng như thế. Tay hiệu úy kia cũng chẳng phải ai khác, mà chính là Tiêu Hầu Nhi đã bái Tịnh Vũ Hiên làm thầy cùng Thần Niên năm xưa.
Năm Vĩnh Ninh thứ ba, Tiêu Hầu Nhi phản bội rời khỏi Tụ Nghĩa trại, đi Thịnh Đô với Phong Quân Dương, sau khi đổi tên là Tiêu Đắc Hầu thì gia nhập trong quân, không ngờ lại không hề được Phong Quân Dương trọng dụng. Tên này đầu óc linh hoạt, lại không có đức hạnh, vừa cảm thấy Phong Quân Dương có lỗi với mình, lại mắt thấy đại quân Tề Tương đến tấn công Thịnh Đô, dứt khoát âm thầm nhảy sang chỗ Tề Tương.
Tin tức truyền về Giang Bắc, Ôn Đại Nha ban đầu tức giận, sau đó lại vui vẻ bảo Thần Niên: “Tiêu Hầu Nhi đúng là đồ lòng lang dạ sói, nhưng Phong Quân Dương cũng đáng đời! Trước kia nếu không phải hắn lấy quyền thế ra dụ, Tiêu Hầu Nhi sao lại phản bội chúng ta? Giờ Tiêu Hầu Nhi lại phản bội hắn, quả đúng là ác giả ác báo, đáng!”.
Bình luận truyện