Giang Hồ Dạ Vũ Thập Niên Đăng
Chương 126
Dạ lan màu máuChừng một trăm năm trước, Ly Giáo và Bắc Thần Lục phái lại dấy lên phân tranh, chẳng biết tại sao, lần này bọn họ đấu rất lợi hại, hai bên chém giết tròn năm sáu năm…
(Mộ Thanh Yến: A Khương bà bà không cần kể lại chuyện xưa thế đâu, cứ vào thẳng hai mươi năm trước là được.
Thái Chiêu: Hầy dà huynh đừng ngắt lời, tôi muốn nghe. A Khương bà bà, sao lúc ấy lại dấy lên phân tranh ạ?
Mộ Thanh Yến: Nàng không biết tính thời gian à? Trăm năm trước, tất nhiên là lúc Giáo chủ Mộ Tung chết bất đắc kỳ tử, đám con trai con rể tranh vị. Nói không chừng bọn họ đã đổ nghi ngờ cái chết của Giáo chủ Mộ Tung lên đầu Bắc Thần đấy.
Thái Chiêu: Huynh quên đi, sao tôi không đoán ra chứ. Bởi vì giáo quy có hạn, bọn hắn không thể công khai tự nhiên chém giết nhau, bèn dùng Bắc Thần Lục phái lập uy, tranh đoạt ngôi vị Giáo chủ, đúng không? Hừ hừ hừ.
A Khương bà bà: Không ấy để ta đi múc miếng nước, cô cậu từ từ mà trò chuyện.
Thái Chiêu: A Khương bà bà bà cứ nói đi nói đi ạ.)
Thôn chúng ta bao đời nay đều thông thạo nuôi tằm dệt vải, vốn không liên quan gì đến phân tranh trên giang hồ, chỉ có điều hàng năm người Ly Giáo sẽ đến thu tơ tằm, tiền bạc hàng hóa bai bên chúng ta đã thoả thuận xong thôi. Nhưng trận đó hai bên giết đỏ cả mắt, mấy tiểu môn phái thuộc hạ Bắc Thần Lục phái bèn bắt chúng ta xả giận, khi nhục nô dịch chúng ta, chúng ta bị ép buộc sống không nổi, đành phải trốn vào khu rừng rậm này…
(Mộ Thanh Yến: Hừ hừ hừ.
Thái Chiêu: Huynh hừ hừ là ý gì.
Mộ Thanh Yến: Thì là ý hừ hừ thôi.
A Khương bà bà: Hay cứ để ta đi múc miếng nước đã.
Mộ Thanh Yến: A Khương bà bà bà đừng để ý nàng ấy ngắt lời, mời nói tiếp đi ạ.)
Những kẻ truy sát theo sát không buông như chó dữ, bọn ta trốn mãi trốn mãi, cuối cùng trốn vào chỗ đầm lầy trong rừng sâu này. Nơi đây rất hiểm ác, nhưng dù sao còn tốt hơn là ra ngoài bị kẻ ác kẻ mạnh bắt nạt. Ban đầu các vị tổ tiên chỉ muốn ở đây lánh nạn, đợi tránh xong đầu gió sẽ quay về, ai ngờ mọi người nhanh chóng phát hiện không ra được.
Ôi, thì ra trong đầm Huyết Chiểu này có một loại dây leo sinh sống tiết ra một chất lỏng cổ quái gây nghiện, dây mây leo tới đâu, rau dại, nấm khuẩn, thậm chí nước suối và không khí, đều bị hại. Tổ tiên bọn ta mới ở đây hai ba năm, đã phát hiện không thể thích ứng với bên ngoài được nữa — bọn ta buộc phải uống nước ở nơi này, hít thở không khí nơi này, dùng rau quả trồng ở nơi này, nếu không thì cả người bị dày vò như sâu kiến cắn xé vậy.
Các vị tổ tiên vốn định đưa trẻ mới sinh ra ngoài, ai ngờ bọn chúng đã bị hại từ trong bụng mẹ, vừa ra khỏi đầm lầy là khó có thể sống sót. Nhưng ở đây nào phải chốn có thể ở lâu, không khí ẩm, chướng khí, còn có sâu kiến rắn rết tiết mủ độc, bọn trẻ lưng gù gầy yếu, người lớn sống không thọ, mọi người người không giống người, quỷ không giống quỷ. Nhưng còn cách nào đâu, bọn ta đành đau khổ sống nhiều đời ở đây, cầu xin có một ngày thần linh cứu bọn ta ra.
Mãi đến hơn năm mươi năm trước, đại ân nhân thôn bọn ta rốt cuộc đã đến. Năm ấy, ta tám tuổi.
Các trưởng bối quan tâm bà gọi bà tiên cô, bà thì nói mình chỉ là người phàm, họ Thái, tên Thái An Bình, đến từ Lạc Anh Cốc.
(Thái Chiêu: A!
Mộ Thanh Yến nhếch khóe miệng: … Ồ, xâu chuỗi lại rồi, hay lắm.)
Đại ân nhân vốn đến rừng rậm hái thuốc, lúc ấy bà vẫn chưa tới hai mươi, người vừa gầy vừa nhỏ, rất ốm yếu. Bà nói mình sinh ra thiếu tháng, thuốc thang châm cứu không công hiệu, thế là thăm thú hết những vùng đất hiếm thấy vắng vẻ khắp thế gian xem có cách trị cho chính mình không.
Bà chạy sâu vào rừng rậm, gặp phải bọn ta ngoài dự kiến, ngay sau khi biết cảnh ngộ của bọn ta thì đi luôn. Bọn ta vốn dĩ chỉ xem như đó cũng là một người sợ bị nghiện cuống cuồng trốn khỏi đây. Ai ngờ hai năm sau, đại ân nhân quay về.
Lần này, bà mang đến một loại hoa lan kỳ lạ chỉ nở vào đêm. Bà trồng gốc lan này vào trong Huyết Chiểu, đợi nó tẻ nhánh mới, sẽ dùng mấy loại hoa cỏ kỳ lạ ghép tại chỗ, dưỡng thành một giống lan lạ cánh hoa nhị tâm mà hoa lẫn cành lá đều một màu máu.
(Thái Chiêu: Chính là hoa lan màu máu chúng ta nhìn thấy ở đầm lầy ngoài kia à? Nhưng cháu thấy chúng cũng nở hoa vào ban ngày mà.
A Khương bà bà: Đó là gốc cây con đã qua lai giống, cây cái do đại ân nhân mang tới chỉ nở hoa trong đêm.
Lần này Mộ Thanh Yến không chen lời, như đang ngẫm nghĩ gì.)
Đại ân nhân bảo bọn ta đem hạt giống loại lan màu đỏ này trồng ở khắp đầm lầy, nhất là chỗ cây dây mây leo. Bà nói, mặc dù như thế sẽ khiến dây mây leo sinh ra kịch độc, nhưng lại có thể làm nó không còn tiết chất lỏng gây nghiện nữa. Người trưởng thành trong thôn có lẽ không thể phục hồi như cũ, nhưng trẻ con mới sinh ra có thể không khác người bình thường.
Đại ân nhân ở lại đầm lầy năm năm, bà ấy dạy bọn ta cách phòng tránh cỏ độc mây độc, làm sao trồng hoa màu trong khí hậu trong lành. Bà còn đưa mấy đứa bé mới sinh ra ngoài, mời lão bộc thiếp thân tìm một chỗ có dân cư nuôi dưỡng. Quả nhiên, mấy đứa bé kia đều sống tốt ở bên ngoài.
Sau đó nữa, thân thể đại ân nhân mỗi lúc một yếu. Bà muốn về nhà, muốn gặp song thân tuổi đã cao.
Thế nhưng, bà không về được.
Dây mây leo trong đầm lầy trước đó dù gây nghiện nhưng không phải kịch độc, người thi thoảng ghé vào hái thuốc hoặc bị lạc vào đầm lầy chí ít có thể toàn thân trở ra. Nhưng sau khi đại ân nhân cải biến, người lạc vào Huyết Chiểu quay về đều trúng kịch độc, chết rất thảm thiết.
Người nhà bạn hữu bọn hắn bèn tìm tới Quảng Thiên Môn khóc lóc kể lể, Quảng Thiên Môn họ đã điều động một số lớn đệ tử đến Huyết Chiểu điều tra nghe ngóng, thế là càng nhiều người bị độc chết, càng thêm lớn chuyện.
Đại ân nhân biết mình không về được, bà không muốn tiếp tục liên lụy Lạc Anh Cốc, bèn dạy chúng ta bày ra trận pháp, giam ở Huyết Chiểu, tung đủ loại phong thanh hiểm ác kinh khủng ra bên ngoài để người ngoài không vào tiếp, Bắc Thần Lục phái cũng không truy cứu nữa.
Không lâu, đại ân nhân mang bệnh qua đời.
Cha mẹ mấy người bọn ta đã mất sớm, đều là đại ân nhân nuôi dạy ta lớn lên. Ta khóc chết đi sống lại bên giường bệnh bà, chỉ nguyện mong sao bà chưa từng tới nơi này, cũng sẽ không chịu tiếng xấu và nỗi oan ức lớn đến thế, đại ân nhân lại nói bà tuyệt đối không hối hận.
Từ lúc mới sinh bà đã bị cho rằng sống không quá ba tuổi, sau ba tuổi lại bị khẳng định không sống tới trưởng thành, lớn lên rồi hằng năm đều phải nghe thần y các loại bóng gió bảo song thân bà lo chuẩn bị hậu sự sớm vân vân.
Bà vĩnh viễn vật lộn với những chén thuốc đắng chát, vật lộn trong ánh mắt lo lắng thương hại của mọi người, để sống lâu chút bà đi tìm kỳ dược ở khắp nơi trên thế gian, nhưng sống lâu hơn chút để làm gì? Chỉ là để cho cha mẹ lo lắng càng thêm lâu thôi.
Bà nói, bà chưa từng nghĩ tới trong cuộc đời yếu ớt cằn cỗi của mình, lại có thể cứu chữa nhiều người như vậy, bà cảm thấy rất giá trị
Từ đó đến giờ, đã năm mươi năm trôi qua.
Mấy trăm đứa bé lớn lên rời khỏi đầm lầy, ở bên ngoài thành gia lập nghiệp, trồng trọt mua bán. Giờ đây, ngày ngày họ đều có thể phơi dưới nắng, cường tráng cao lớn như đại thụ.
Còn chúng ta, chính là di dân sau cùng của Huyết Chiểu.
*
Không khí im lặng, chuyện cũ buồn bã, ba người trong phòng thật lâu không nói gì.
Mộ Thanh Yến mở miệng nhắc nhở: “… Giờ có thể nói chuyện hai mươi năm trước chưa ạ.”
Thái Chiêu liếc xéo hắn một cái, bực hắn phá hỏng bầu không khí.
A Khương bà bà cười ha hả: “Được được — vậy cô cậu thật sự không phải anh em à? Bọn ta cứ nghĩ rằng Tiểu Thù cô nương sẽ thành thân với Dương công tử. Nhưng mà, không phải cũng tốt.”
Thái Chiêu quẫn bách, cô phát hiện mấy bà cô già trên đời này đều chung một nết, thấy nam nữ trẻ tuổi là ưng lôi chuyện nhân duyên ra, thế là vội nói: “Bà bà kể chuyện của cô cô cháu đi.”
A Khương bà bà nói: “Chừng hai mươi năm trước, một đôi nam nữ trẻ tuổi chợt xông vào thôn chúng ta, bọn ta giật cả mình, cứ tưởng trận pháp bên ngoài mất linh nữa. Hai người họ là đến nghe ngóng cây Dạ Lan mẹ, bảo là bạn của Dương công tử bị bệnh, cần cây Dạ Lan mẹ làm thuốc. Tất nhiên là bọn ta đồng ý, nên họ đã lấy mấy nhánh con xong thì đi.”
“Thế thôi ạ?” Thái Chiêu nói.
“Thế thôi, Tiểu Thù cô nương là hậu nhân của đại ân nhân chúng ta, bảo chúng ta dùng mạng trả ơn còn chịu, huống chi chỉ là mấy nhánh Dạ Lan.”
Thái Chiêu không còn gì để nói, Mộ Thanh Yến nói, “A Khương bà bà, chúng cháu có thể xem cây Dạ Lan mẹ kia không ạ?”
A Khương bà bà vui vẻ đồng ý, đứng dậy đi trước dẫn đường.
Cây Dạ Lan cái trồng ở vườn sau toà nhà này, được bảo vệ giữa một vòng đá trắng. Trải qua hơn năm mươi năm rừng sâu tẩm bổ, thân rễ của nó càng thêm tráng kiện cao lớn, nhánh tươi khoẻ xanh biếc, từng nụ hoa trắng noãn yêu kiều nhú ra.
A Khương bà bà thở dài: “Chờ nửa đêm, mấy nụ hoa này có thể nở sạch, thật dễ nhìn. Cô cậu cứ nhìn thêm mấy lần đi, ngày mai nó sẽ bị thiêu huỷ rồi.”
Hai người Mộ Thái kinh ngạc, Thái Chiêu vội hỏi vì sao.
“Là Tiểu Thù cô nương đã dặn.” A Khương bà bà nói, “Sau hơn một năm cô ấy và Dương công tử rời đi thì bỗng nhiên cô quay lại. Cô ấy hỏi ta, có phải Dương công tử cũng đã quay lại lần nữa không. Ta nói phải, không lâu trước khi cô đến, Dương công tử lại lấy đi mấy nhánh Dạ Lan, ta còn hỏi phải chăng bệnh bạn cậu ấy còn chưa hết.”
“Sau đó Tiểu Thù cô nương bèn khóc. Cô khóc rất đau lòng, chúng ta khuyên thế nào cũng vô dụng. Trước khi đi Tiểu Thù cô nương trịnh trọng phó thác chúng ta, nếu về sau có người đến nghe ngóng cây Dạ Lan mẹ, bất kể là ai, cho dù là người Lạc Anh Cốc, cũng phải lập tức thiêu huỷ cây Dạ Lan.”
Thái Chiêu nghi hoặc: “Sao Dương công tử hải đến lần thứ hai, lần thứ nhất không thể lấy thêm mấy nhánh ư?”
A Khương bà bà nói: “Chiêu Chiêu cô nương không biết, Dạ Lan này dễ hư vô cùng, sau khi tẻ nhánh khỏi đất chỉ bảo tồn được nửa năm, dù cô có nuôi trong hộp thủy tinh hay là dùng chậu đất, sau nửa năm tất nhiên khô như củi, dược tính hoàn toàn biến mất.”
“Nếu nhổ cả rễ cầm ra bên ngoài nuôi thì sao?”
“Trừ phi là người cực kỳ thông thạo dưỡng giống như đại ân nhân… dù là chính đại ân nhân, năm đó mang tới mười mấy gốc Dạ Lan, cũng chỉ còn mỗi một gốc khoẻ nhất này.”
Hai người Mộ Thái liếc nhau, tự hiểu trong lòng — lần thứ nhất Mộ Chính Dương lấy nhánh Dạ Lan mẹ, là âm thầm đưa cho Trần Thự, muốn dẫn dụ Nhiếp Hằng Thành tu luyện Tử Vi Tâm Kinh. Lần thứ hai tới lấy nhánh Dạ Lan mẹ, e là vì chính mình.
Đến khi Thái Bình Thù biết được, đoán được gốc rễ hậu quả, mới khóc.
Mộ Thanh Yến trầm ngâm một lát: “Cô của Chiêu Chiêu nói rất đúng, đốt đi là hơn, vĩnh viễn trừ hậu hoạn.” Hắn lại nói, “Sao đến giờ còn chưa đốt?”
A Khương bà bà nói: “Đợi Dạ Lan nở hoa mới đốt cháy sẽ thải ra khí độc, chỉ có thể đốt vào ban ngày. Ôi, thật sự thì lần thứ hai Tiểu Thù cô nương đến đã muốn đốt đi, song bọn ta không nỡ, dù sao đây cũng là di vật cuối cùng của đại ân nhân.”
Thái Chiêu ngơ ngẩn cả người, cô cảm thấy bọn họ chịu hung hiểm vô vàn tiến vào Huyết Chiểu, hình như biết không ít, nhưng hình như lại không biết gì cả, “Còn gì khác nữa không ạ? Cô cô cháu và Dương công tử đã nói gì?”
Ánh mắt A Khương bà bà tinh nghịch, “Cô bé thật muốn nghe à? Lời tình tứ mấy cô cậu nói cùng nhau, cô cậu thật muốn nghe sao?”
“Không phải mấy câu đó.” Mặt Thái Chiêu ửng đỏ, “Ý cháu là, có gì khác không, lời không bình thường ấy?”
A Khương bà bà nghĩ mãi cũng không nhớ ra được, cho đến khi ông lão A Lâm mời bọn họ đi dùng bữa tối nhắc nhở một câu, “Chị quên chuyện Tiểu Thù cô nương cãi nhau với Dương công tử bên cạnh bờ suối rồi sao.”
“A, ta suýt thì quên mất.” A Khương bà bà a lên, “Tiểu Thù cô nương và Dương công tử vẫn luôn thắm thiết nồng nhiệt, đêm hôm ấy hai người họ vừa tới xem Dạ Lan nở hoa một lát, lúc tản bộ bên bờ suối bỗng nhiên lại có tranh chấp.”
Mộ Thanh Yến nghiêm túc: “Sao họ lại cãi nhau?”
A Khương bà bà nói: “Lúc ấy ta với em trai đang xách nước chỗ đối diện, nghe loáng thoáng vài chữ. Hình như là Dương công tử định đi giết một người, bị Tiểu Thù cô nương phát hiện, mới hỏi cậu ấy, sau đó hai người cứ nói gì ‘Nắn vuốt’.”
“Nắn vuốt?” Thái Chiêu hơi suy nghĩ, “Nhiếp Đề?!”
(*) gần như đồng âm: niē zhē và niè zhé
Mộ Thanh Yến hỏi dồn: “Sau đó thì sao?”
A Khương bà bà nói: “Dương công tử giải thích mấy cao, Tiểu Thù cô nương cao giọng nói ‘Hắn chưa làm việc ác thì không nên vô cớ trừ khử’. Sau đó hình như Dương công tử nhận sai, hai người về nghỉ tạm.”
Thái Chiêu không hiểu nhìn Mộ Thanh Yến: “Ông ta muốn giết Nhiếp Đề? Vì sao thế nhỉ.”
Mộ Thanh Yến cụp mi dài, thản nhiên nói: “Ông ta rất hận Nhiếp Hằng Thành, có lẽ là muốn giết đứa cháu kém cỏi của lão ta.”
Thái Chiêu lắc đầu: “Thảo nào cô tôi không đồng ý, cả đời bà ấy chưa giết qua người vô tội.”
Mộ Thanh Yến hất đuôi mắt dài hẹp: “Nghiêm Hủ nói, lúc Nhiếp Hằng Thành còn sống, Nhiếp Đề đúng là giả vờ biết điều, luôn khách sáo với nô tỳ bên người. Thế nhưng, nếu cô cô nàng năm ấy không cản Mộ Chính Dương giết Nhiếp Đề, nói không chừng Tôn Nhược Thủy không có ai để thông dâm, nói không chừng gia phụ giờ vẫn còn sống.”
Thái Chiêu kinh ngạc, lại không thể thốt lên lời phản bác.
Mộ Thanh Yến mỉm cười: “Ta nói thế không công bằng rồi, Tôn Nhược Thủy tham mê quyền thế phú quý, gia phụ mất tích, sống chết không biết, nếu không có Nhiếp Đề bà ta cũng tìm chỗ dựa dan díu khác thôi, huống chi người âm thầm khiến bà ta độc sát gia phụ lại là một người khác.”
Tuy là nói vậy, Thái Chiêu vẫn hoang mang, không khống chế suy nghĩ đến một khả năng khác.
*
Bữa tối là rau quả cuộn, cá nướng, gà vườn xông muối, còn có một bát canh rau nấm dại.
Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam mấy ngày chưa dùng qua thức ăn nóng, húp một hớp canh nóng thấy ngon dị thường, suýt nuốt cả lưỡi.
Tống Úc Chi tâm sự nặng nề, ăn qua loa vài miếng liền về phòng nghỉ ngơi, Thái Chiêu ho nhẹ một tiếng, “Tôi cũng no rồi, mọi người từ từ dùng…” Nói xong định đi theo hướng Tống Úc Chi rời đi.
Rắc một tiếng gỗ nứt vang trời.
Tay trái Mộ Thanh Yến đặt trên bàn không hề động đậy, nhưng bàn gỗ dày dưới năm ngón tay ngọc nứt ra một khe thật dài, Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam vội bốn tay nâng tấm bàn gãy, phòng chén bát rơi xuống.
Phàn Hưng Gia rùng mình, tự dưng thấy hơi lạnh cả người tràn vào trong phòng.
Thái Chiêu chầm chậm ngồi xuống, “Thật ra tôi ăn còn chưa no, để Tam sư huynh nghỉ ngơi trước đi.”
Mộ Thanh Yến móc một tấm khăn lụa trắng cẩn thận lau ngón tay thon dài, “Tiểu Thái nữ hiệp không cần cố kỵ người bên ngoài, có chuyện muốn nói với Tống Tam công tử thì cứ nói đi.”
“Không có không có, không có gì hết.” Thái Chiêu cười bồi.
Mộ Thanh Yến nhìn cô gái chằm chằm hồi lâu, đôi ngươi đen đặc sâu tối như biển, nhìn đến Thái Chiêu mất tự nhiên cả người.
Ba người khác ở bàn ăn cũng chẳng dám thở mạnh một tiếng, hai tên nâng mặt bàn, tên còn lại bưng bát cơm, cắm đầu thật thấp, ước gì có thể chui xuống kẽ đất biến mất cho rồi.
Sau một lúc lâu, Mộ Thanh Yến cười lạnh, phẩy tay áo bỏ đi, còn xa xa để lại một câu, “Cản cũng cản không được, Tiểu Thái nữ hiệp xin cứ tự nhiên.”
Sát tinh rời đi, trong phòng cuối cùng cũng khôi phục bình tĩnh. Thái Chiêu cười ngây ngô mấy tiếng, cuối cùng vẫn không dám ngay trước mặt Mộ Thanh Yến đi tìm Tống Úc Chi, đành ảo nảo trở về phòng mình.
Phàn Hưng Gia thở phào một hơi: “Sao Giáo chủ các người càng lúc càng âm trầm, làm ta sợ muốn chết.” Hèn gì sư muội luôn nói Mộ Thanh Yến là tên điên, quá chuẩn xác.
Du Quan Nguyệt liếc xéo hắn: “Cậu thì biết cái gì, Giáo chủ đây là thần võ ngút trời, cao thâm khó lường.”
Phàn Hưng Gia nhịn không được: “Thực ra sư muội ta cũng rất thông minh, nhưng mà khác với kiểu thông minh của Giáo chủ nhân tinh* mấy người. Sư phụ ta nói sư muội là tẩm ngẩm tầm ngầm đấm chết voi*. Gặp cùng một chuyện, Giáo chủ mấy người có thể đoán tiên cơ, còn sư muội ta là nghĩ rõ ràng đằng sau đó. Sư phụ ta nói, ngươi có thể giấu cô bé trong thoáng chốc chứ không thể gạt cô bé cả đời.”
(*) nhân tinh: 人精; người có mắt nhìn, có thể tính kế, khôn khéo. (*) đại trí giả ngu: người tài giỏi nhưng khiêm tốn, bề ngoài có vẻ đần độn.
Hắn không nói ra miệng là — Mộ Thanh Yến thông minh tràn đầy công kích và h@m muốn khống chế, làm sao thiết kế, làm sao bố cục, một cú đánh phá dứt điểm, đụng tới loại người này không bị bán còn giúp tính tiền đã là thắp nhang cầu nguyện. Mà Thái Chiêu thông minh là kiểu phòng ngự, vạn sự chưa đổ tới trên người mình thì hoàn toàn chẳng sợ, trái lại sẽ trở nên mẫn cảm nhạy bén lạ thường.
“Chúng ta nói gì cũng vô dụng, ta thấy họ lại phải vướng víu nhau rồi.” Thượng Quan Hạo Nam tóm gọn.
Phàn Hưng Gia giật mình: “Sao biết? Vãn bối cho là chuyện giữa hai đứa đã xong rồi.”
Thượng Quan Hạo Nam đắc ý: “Cậu đừng ngốc vậy, nhìn hai người họ thế kia giống như ‘đã xong’ không.” Hắn nhíu mày, “Ta nói này Quan Nguyệt, chúng ta phải đi tìm mấy cây đinh sắt, không thể nâng mặt bàn đến già được.”
Du Quan Nguyệt tức giận nói: “Cậu không thấy đồ dùng trong căn nhà này đều là Ngươi không gặp nơi này ốc xá dụng cụ đều là kết cấu ghép mộng rồi dùng dây mây buộc sao, nào có đinh sắt chứ.”
“Vậy sao giờ?”
“Ừm, trong bao đồ của ta có cây Cửu Khúc Thấu Cốt đinh, bẻ thẳng làm đinh sắt thôi.”
“Cũng được, nhưng mà chùy sắt đâu.”
“Chỗ này đến đinh còn không có lấy đâu ra chùy? Cậu dùng Đại Lực Kim Cương Chỉ ấn mặt bàn là được rồi.”
“Vậy cũng được nhỉ. Ê ê ê, gượm đã, Thấu Cốt đinh kia của cậu đã bôi độc chưa?”
“Ế, chuyện này, bôi rồi bôi rồi. Nhưng ta có mang theo thuốc giải, hay cậu uống thuốc giải trước, nhỡ cọ rách da sao. Độc tính đó cũng hơi lợi hại á.”
“Lợi hại chừng nào?”
“Cũng tạm cũng tạm, kiến huyết phong hầu* thôi.”
“…”
Hai tên chân chó cậu một lời tớ một câu, Phàn Hưng Gia nhìn bát cơm thở thật dài, một nỗi lo buồn dâng lên trong lòng.
(*)见血封喉: vô máu là ná thở. Haha tui cười mệt 2 anh tấu hài này quá.
*
Đêm dài như nước, giữa khe hở mái vòm do vô số cây mây leo đan nhau tạo thành, ánh trăng sao điểm điểm rót xuống, tô điểm cho vùng đất giữa rừng âm u ẩm ướt này như cảnh mộng mê huyễn.
Thái Chiêu buồn bực một bụng, lăn lộn khó ngủ, bèn dứt khoát đứng dậy ra ngoài đi dạo chút, đi hai vòng, lại gặp được Tống Úc Chi trong vườn rau sau nhà không một bóng người đang nhìn lên trời thở dài.
“Tam sư huynh!” Mắt Thái Chiêu sáng rực, hết nhìn đông tới nhìn tây một vòng rồi te te chạy tới, “Tốt quá Tam sư huynh, tôi có chuyện gấp muốn nói với anh!”
Tống Úc Chi đứng thẳng như tượng ngọc, khẽ nhíu mày rậm, “Sao cô phải nhỏ giọng nói vậy, còn quan sát láo liên, ở đây xa khu ốc xá, không cần lo sẽ quấy nhiễu thôn dân nghỉ ngơi đâu.” Giống như tên cướp vặt vậy, y thầm nghĩ.
Thái Chiêu quẫn bách, nghĩ thầm tôi đây không phải muốn tránh tên điên kia sao.
“Rốt cuộc cũng là chỗ của người ta, nhẹ nhàng chút cũng không sai.” Thái Chiêu móc một gói khăn trong ngực, mở ra chìa tới trước mặt Tống Úc Chi, “Tam sư huynh anh nhìn xem.”
— Trong túi khăn bọc lấy một khúc mây leo vặn vẹo ngắn ngủn, còn được phủ bởi một lớp dịch nhờn màu máu nhạt.
Thấy Tống Úc Chi không hiểu, Thái Chiêu liền nói: “Đây là đoạn dây mây ngày hôm nay tôi cắt ở chỗ sau trong Huyết Chiểu, tôi đã thử qua thỏ và gà vịt rồi, một vết thương da thịt nhẹ dính phải dịch đoạn mây leo này sẽ tê liệt ngã oặt ra, không chút giãy giụa, y chang tình trạng của anh hôm qua vậy.”
Con ngươi Tống Úc Chi chợt trợn lớn, chấn kinh không thể tin.
“Ắt là Ngũ sư huynh đã bảo anh chuyện ám tiêu kia rồi.” Thái Chiêu nói, “Tôi vừa thấy cây mây leo này lập tức biết ngay.”
Cô hít sâu một hơi, “Người ra tay với anh về võ công chỉ ở mức trung bình, nhưng hắn biết rõ tu vi thân pháp của anh, có thể đoán được một giây sau anh dùng chiêu thức gì. Tôi nhớ là dù Tam sư huynh học nghệ của Thanh Khuyết Tông nhưng cũng không quên công phu Quảng Thiên Môn, lúc ấy huynh đương dùng tuyệt kỹ nhà họ Tống à.”
Sắc mặt Tống Úc Chi nặng nề, thật đã bị cô gái nói trúng — lúc bị dính ám tiêu đêm qua, y đang di chuyển giữa ‘Bát Vân Thập Lục thức’ của nhà họ Tống.
Thái Chiêu nói tiếp: “Đồng thời, tên đó còn quen thuộc khu rừng này, biết loại dây mây leo ở sâu trong đầm tiết ra chất lỏng có thể khiến người tê dại lập tức.” — Huyết Chiểu trong rừng ngay ở mạn Bắc Quảng Thiên Môn.
Tống Úc Chi cô đơn đứng dưới ánh trăng, thân hình cứng như khối băng, cái người hại y kia đã vô cùng sống động.
Y khó khăn mở miệng, “Đại ca, sao anh ấy muốn hại ta? Vậy là, Nhị ca cũng là hắn vu cáo hãm hại ư?”
“Tôi không biết, tôi không rõ chuyện trong nhà các huynh.”
Thái Chiêu kiên quyết không dây vào chuyện xưa trạch đấu của nhà họ Tống, mẹ Ninh Tiểu Phong mỗi lần kể đến chỗ hại tam thê tứ thiếp của đại gia tộc, đến phần cuối luôn không thể thiếu một câu ‘Xem đi, nhà họ Tống rối bời bời vậy, chắc chắn sẽ có nhiễu loạn lớn thôi’.
Hai sư huynh muội đang đứng bên ngoài một hồi, chẳng nói gì nhau, sau đó họ xuyên qua một khu vườn lớn yên lặng quay về ốc xá, ai ngờ lúc vào tới sân nhà, thì đụng phải Mộ Thanh Yến từ nóc nhà cao ba tầng chậm rãi đi xuống — trên tầng ba là một sân bằng phẳng rất to dùng để trải phơi rau nấm, bên cạnh đó có đặt một cây thang đủ một người leo lên xuống.
Thấy Mộ Thanh Yến phóng tia mắt như sao băng tới, Thái Chiêu vội giải thích: “Không không không, tôi không phải cố ý đi tìm Tam sư huynh, là tôi ngủ không được, mới ra ngoài đi dạo rồi tình cờ gặp anh ấy!”
“Ồ.” Mộ Thanh Yến lạnh nhạt, “Đêm hôm khuya khoắt, sao Tam công tử dạo chơi bên ngoài thế?”
Tống Úc Chi lạnh lùng: “Ta đang ngắm cảnh. Không biết Mộ Giáo chủ thì sao?”
Mộ Thanh Yến nói: “Đúng dịp, ta cũng đang ngắm cảnh.”
Thái Chiêu lo lắng bất an, không dám xen vào.
“Quảng Thiên Môn xảy ra biến cố đột ngột, nghi ngờ trùng trùng.” Mộ Thanh Yến chợt nói, “Nếu là ta, sẽ điều tra thêm về Dương Hạc Ảnh.”
Tống Úc Chi nheo mắt: “Ý Mộ Giáo chủ là.”
Mộ Thanh Yến nói: “Mấy người biết họ phu nhân nguyên phối Dương Hạc Ảnh là gì không?”
Thái Chiêu vét cái bụng khô, “Dương phu nhân… hình như họ Trác?” Cô cố gắng nhớ lại, “Trác thị phu nhân hình như là cốt nhật duy nhất của Trác Đại Đương Gia hào khách Quan Trung, ai cũng nói toàn bộ gia sản nhà họ Trác đều thành đồ cưới của bà ấy.”
Kết hôn không đăng đối thế này, mục đích Tứ Kỳ Môn quá rõ, nhắc đến cũng chẳng vinh dự gì. Nhưng theo Ninh Tiểu Phong thấy, đây là thượng bất chính hạ tắc loạn, Tông chủ Tông đứng đầu Doãn Đại muốn thả vuốt đến địa bàn Bội Quỳnh Sơn trang, rồi đoạt thẳng đứa con trai độc nhất của nhà họ Quách giàu nhất Giang Nam làm đồ đệ, cũng nào có cao minh hơn là bao.
Thái Chiêu cắt một tiếng: “Mẹ tôi từng kể, tuy Trác phu nhân kia mười dặm hồng trang, vẫn chẳng cản được Lão lộn kiếp Dương Hạc Ảnh trái ôm phải ấp, có mới nới cũ. Nhưng, chuyện này thì liên can gì đến biến cố Quảng Thiên Môn chứ?”
Mộ Thanh Yến nói: “Trác Đại Đương gia thật ra là ông ngoại của Trác thị phu nhân, Trác phu nhân mang họ mẹ.”
Lòng Tống Úc Chi chợt chuyển: “Thế cha bà ấy họ gì?”
“Họ Hoàng.” Mộ Thanh Yến ấm áp mỉm cười, “Không sai, cha Trác phu nhân chính là Hoàng Lão bang chủ Hoàng Sa Bang. Mẹ Trác phu nhân khó sinh mà chết, Trác Đại đương gia không còn ai dưới gối, nén bi thương đến đòi con rể đứa cháu ngoại về nuôi dưỡng.”
Thái Chiêu Tống Úc Chi liếc nhau, đều rất ngạc nhiên.
“Hoàng Lão bang chủ nhân hậu, ông thương nỗi khổ Trác Đại Đương gia mất con, cũng yêu thương người trưởng nữ không lớn lên bên cạnh mình, mười năm sau mới tục huyện phu nhân mới sinh con dưỡng cái. Sa Tổ Quang vốn là đệ tử Hoàng Sa Bang, Hoàng Lão anh hùng thấy hắn lanh lẹ tài giỏi, mới gả thứ nữ gả cho. Chuyện về sau, hai người đã biết.”
Vì không chịu khuất phục Nhiếp Hằng Thành, Hoàng Sa Bang trong mấy lần kịch chiến tổn binh hao tướng nguyên khí đại thương. Sa Tổ Quang thừa dịp thế lực của cha vợ suy kiệt, bèn hiến đứa em gái xinh đẹp cho Dương Hạc Ảnh làm thiếp, nhờ đó tự lập môn hộ, quăng Hoàng thị phu nhân nguyên phối sang một bên, tự phong lưu sung sướng.
Tống Úc Chi không kìm được: “Chuyện bí mật năm xưa như thế sao cậu rõ ràng vậy?” Trong ghi chép của Doãn Đại cũng không đề cập, có thể là ông ta thấy hai nhà Trác Hoàng sớm đã suy tàn, không ai kế tục, vô danh tiểu tốt thế thì không đáng ghi chép.
Mộ Thanh Yến liếc mắt: “Oan gia đối đầu hai trăm năm, sao Ma giáo có thể không điều tra ngọn nguồn nội tình chưởng môn Lục phái chứ.”
Tống Úc Chi bị câu âm dương quái khí chọt suýt lủng phổi.
Thái Chiêu hỏi: “Hoàng Lão bang chủ biết chuyện con gái mình chịu tủi nhục không?”
“Biết thì còn thế nào? Huống chi Hoàng phu nhân đã bệnh qua đời từ rất sớm.”
“Bệnh qua đời?” Thái Chiêu cứ thấy không đúng ở đâu, nhưng trong phút chốc không nghĩ ra.
Mộ Thanh Yến nói, “Về sau Hoàng Lão bang chủ nản lòng thoái chí, dẫn một nhà mấy lão huynh đệ già trẻ bệnh yếu ẩn cư ở núi Thất Mộc, không tiếp tục qua lại với người trong giang hồ, chỉ có một người ngoại lệ…”
Thái Chiêu biết luôn, “Là Trác phu nhân. Hoàng Lão bang chủ lo cho trưởng nữ Trác phu nhân ở Tứ Kỳ Môn, định âm thầm có thư lui tới với bà ấy, bị Dương Hạc Ảnh phát hiện.”
Tống Úc Chi vẫn không hiểu: “Vậy cũng đâu phải giết hại cả nhà Hoàng Lão anh hùng chứ.”
Mộ Thanh Yến nói, “Mấy tháng trước thám tử trong Giáo phát hiện trên núi Thất Mộc có tung tích thi khôi nô, sau đó lại nghe tin hai người Dương Sa khí thế hùng hổ lên Quảng Thiên Môn. Mới đầu ta tưởng là Tống Mậu Chi tự mình luyện chế thi khôi nô, bị Dương Hạc Ảnh bắt đằng chuôi mới đến Tống Đại chưởng môn kiếm chác ít nhiều. Nhưng Tống Mậu Chi đã chết, đủ thấy sự tình cũng không phải như suy nghĩ trước đó của ta.”
Hai người Tống Thái mới đầu không hiểu hàm nghĩa trong câu, vòng vo ba vòng mới hiểu liên quan trong đó —
Phải dùng chuyện ác của Tống Mậu Chi uy hiếp Tống Thời Tuấn, đương nhiên chính Tống Mậu Chi phải còn sống, chết thì sao bắt chẹt nữa, nhưng Sa Tổ Quang lại phái tử sĩ sát hại Tống Mậu Chi, chứng tỏ ý đồ Dương Hạc Ảnh cũng không phải chỉ đơn giản là kiếm chác chút.
Lòng Tống Úc Chi loạn như ma: “Rốt cuộc họ Dương muốn làm gì!”
“Huynh cứ xâu chuỗi lại mà ngẫm.” Mộ Thanh Yến nói, “Trên núi Thất Mộc đúng là có người luyện thi khôi nô, nếu không phải Tống Mậu Chi làm, thì là ai?”
Cặp mắt Thái Chiêu tỏa sáng: “Thật ra chúng ta đã đoán ngược, không phải Mậu Chi công tử luyện thi khôi nô bị người phát hiện, mà là Dương Hạc Ảnh luyện thi khôi nô bị Tống Tú Chi phát hiện, sau đó hai bên hợp lại tính toán, dứt khoát đánh cược một lần lớn — trùng hợp là, Tống Tú Chi cũng là con rể tương lai của Dương Hạc Ảnh.”
“Dương Hạc Ảnh mất hết tính người, đáng thiên đao vạn quả!” Hơi thở Tống Úc Chi dồn dập, “Sao Đại ca lại có thể cấu kết với hạng người này? Đến cùng thì chúng muốn gì!”
Mộ Thanh Yến khoan thai nói: “Còn có thể là gì chứ, xem tình hình trước mắt, huynh trưởng Tống Mậu Chi của huynh chết rồi, Tam Thúc tổ ‘trọng thương khó lành’, ắt là sống không lâu, cha huynh Tống Thời Tuấn thì thương thế cũng không nhẹ, như vậy chức chưởng môn Quảng Thiên Môn sẽ rơi vào trong tay ai?”
Tống Úc Chi lảo đảo vịn khung cửa, vừa sợ vừa giận: “Sao lại thế, sao lại thế, sao lại thế, Đại ca… Đại ca không phải hạng người này! Từ nhỏ anh ấy không tranh không đoạt, ôn hoà hiền hậu bình thản, sao anh ấy lại làm ra chuyện như thế chứ!”
“Tam sư huynh đừng kích động, là đen là trắng luôn có thể điều tra rõ ràng.” Lúc này Thái Chiêu lại rất bình tĩnh.
Cô thấy Tống Úc Chi bị đả kích lớn định đỡ y về phòng. Mộ Thanh Yến đầy chân thành cướp trước mặt cô, rất giống như ân cần tha thiết nhẹ nhàng đỡ lấy vị công tử thế gia đồng môn.
Hắn ủi Thái Chiêu qua một bên, nâng khuỷu tay Tống Úc Chi đi vào trong, miệng còn ‘nhẹ nhàng’ khuyên giải, “Tống huynh chớ sợ, chớ bi thương, chẳng qua cũng chỉ là thủ túc tương tàn huynh đệ bất hòa, à, còn có cha già không rõ sống chết, cũng không phải là bất thường quá mức đâu. Tống Tú Chi giết em hại cha, Tống huynh cứ một đao chặt đầu gã xuống là được, đừng quên phải moi tim đào gan, máu tươi ngâm rượu bái tế…”
Thái Chiêu chống eo đứng phía sau trợn mắt, không còn cách nào khác đành về phòng đi ngủ.
(Mộ Thanh Yến: A Khương bà bà không cần kể lại chuyện xưa thế đâu, cứ vào thẳng hai mươi năm trước là được.
Thái Chiêu: Hầy dà huynh đừng ngắt lời, tôi muốn nghe. A Khương bà bà, sao lúc ấy lại dấy lên phân tranh ạ?
Mộ Thanh Yến: Nàng không biết tính thời gian à? Trăm năm trước, tất nhiên là lúc Giáo chủ Mộ Tung chết bất đắc kỳ tử, đám con trai con rể tranh vị. Nói không chừng bọn họ đã đổ nghi ngờ cái chết của Giáo chủ Mộ Tung lên đầu Bắc Thần đấy.
Thái Chiêu: Huynh quên đi, sao tôi không đoán ra chứ. Bởi vì giáo quy có hạn, bọn hắn không thể công khai tự nhiên chém giết nhau, bèn dùng Bắc Thần Lục phái lập uy, tranh đoạt ngôi vị Giáo chủ, đúng không? Hừ hừ hừ.
A Khương bà bà: Không ấy để ta đi múc miếng nước, cô cậu từ từ mà trò chuyện.
Thái Chiêu: A Khương bà bà bà cứ nói đi nói đi ạ.)
Thôn chúng ta bao đời nay đều thông thạo nuôi tằm dệt vải, vốn không liên quan gì đến phân tranh trên giang hồ, chỉ có điều hàng năm người Ly Giáo sẽ đến thu tơ tằm, tiền bạc hàng hóa bai bên chúng ta đã thoả thuận xong thôi. Nhưng trận đó hai bên giết đỏ cả mắt, mấy tiểu môn phái thuộc hạ Bắc Thần Lục phái bèn bắt chúng ta xả giận, khi nhục nô dịch chúng ta, chúng ta bị ép buộc sống không nổi, đành phải trốn vào khu rừng rậm này…
(Mộ Thanh Yến: Hừ hừ hừ.
Thái Chiêu: Huynh hừ hừ là ý gì.
Mộ Thanh Yến: Thì là ý hừ hừ thôi.
A Khương bà bà: Hay cứ để ta đi múc miếng nước đã.
Mộ Thanh Yến: A Khương bà bà bà đừng để ý nàng ấy ngắt lời, mời nói tiếp đi ạ.)
Những kẻ truy sát theo sát không buông như chó dữ, bọn ta trốn mãi trốn mãi, cuối cùng trốn vào chỗ đầm lầy trong rừng sâu này. Nơi đây rất hiểm ác, nhưng dù sao còn tốt hơn là ra ngoài bị kẻ ác kẻ mạnh bắt nạt. Ban đầu các vị tổ tiên chỉ muốn ở đây lánh nạn, đợi tránh xong đầu gió sẽ quay về, ai ngờ mọi người nhanh chóng phát hiện không ra được.
Ôi, thì ra trong đầm Huyết Chiểu này có một loại dây leo sinh sống tiết ra một chất lỏng cổ quái gây nghiện, dây mây leo tới đâu, rau dại, nấm khuẩn, thậm chí nước suối và không khí, đều bị hại. Tổ tiên bọn ta mới ở đây hai ba năm, đã phát hiện không thể thích ứng với bên ngoài được nữa — bọn ta buộc phải uống nước ở nơi này, hít thở không khí nơi này, dùng rau quả trồng ở nơi này, nếu không thì cả người bị dày vò như sâu kiến cắn xé vậy.
Các vị tổ tiên vốn định đưa trẻ mới sinh ra ngoài, ai ngờ bọn chúng đã bị hại từ trong bụng mẹ, vừa ra khỏi đầm lầy là khó có thể sống sót. Nhưng ở đây nào phải chốn có thể ở lâu, không khí ẩm, chướng khí, còn có sâu kiến rắn rết tiết mủ độc, bọn trẻ lưng gù gầy yếu, người lớn sống không thọ, mọi người người không giống người, quỷ không giống quỷ. Nhưng còn cách nào đâu, bọn ta đành đau khổ sống nhiều đời ở đây, cầu xin có một ngày thần linh cứu bọn ta ra.
Mãi đến hơn năm mươi năm trước, đại ân nhân thôn bọn ta rốt cuộc đã đến. Năm ấy, ta tám tuổi.
Các trưởng bối quan tâm bà gọi bà tiên cô, bà thì nói mình chỉ là người phàm, họ Thái, tên Thái An Bình, đến từ Lạc Anh Cốc.
(Thái Chiêu: A!
Mộ Thanh Yến nhếch khóe miệng: … Ồ, xâu chuỗi lại rồi, hay lắm.)
Đại ân nhân vốn đến rừng rậm hái thuốc, lúc ấy bà vẫn chưa tới hai mươi, người vừa gầy vừa nhỏ, rất ốm yếu. Bà nói mình sinh ra thiếu tháng, thuốc thang châm cứu không công hiệu, thế là thăm thú hết những vùng đất hiếm thấy vắng vẻ khắp thế gian xem có cách trị cho chính mình không.
Bà chạy sâu vào rừng rậm, gặp phải bọn ta ngoài dự kiến, ngay sau khi biết cảnh ngộ của bọn ta thì đi luôn. Bọn ta vốn dĩ chỉ xem như đó cũng là một người sợ bị nghiện cuống cuồng trốn khỏi đây. Ai ngờ hai năm sau, đại ân nhân quay về.
Lần này, bà mang đến một loại hoa lan kỳ lạ chỉ nở vào đêm. Bà trồng gốc lan này vào trong Huyết Chiểu, đợi nó tẻ nhánh mới, sẽ dùng mấy loại hoa cỏ kỳ lạ ghép tại chỗ, dưỡng thành một giống lan lạ cánh hoa nhị tâm mà hoa lẫn cành lá đều một màu máu.
(Thái Chiêu: Chính là hoa lan màu máu chúng ta nhìn thấy ở đầm lầy ngoài kia à? Nhưng cháu thấy chúng cũng nở hoa vào ban ngày mà.
A Khương bà bà: Đó là gốc cây con đã qua lai giống, cây cái do đại ân nhân mang tới chỉ nở hoa trong đêm.
Lần này Mộ Thanh Yến không chen lời, như đang ngẫm nghĩ gì.)
Đại ân nhân bảo bọn ta đem hạt giống loại lan màu đỏ này trồng ở khắp đầm lầy, nhất là chỗ cây dây mây leo. Bà nói, mặc dù như thế sẽ khiến dây mây leo sinh ra kịch độc, nhưng lại có thể làm nó không còn tiết chất lỏng gây nghiện nữa. Người trưởng thành trong thôn có lẽ không thể phục hồi như cũ, nhưng trẻ con mới sinh ra có thể không khác người bình thường.
Đại ân nhân ở lại đầm lầy năm năm, bà ấy dạy bọn ta cách phòng tránh cỏ độc mây độc, làm sao trồng hoa màu trong khí hậu trong lành. Bà còn đưa mấy đứa bé mới sinh ra ngoài, mời lão bộc thiếp thân tìm một chỗ có dân cư nuôi dưỡng. Quả nhiên, mấy đứa bé kia đều sống tốt ở bên ngoài.
Sau đó nữa, thân thể đại ân nhân mỗi lúc một yếu. Bà muốn về nhà, muốn gặp song thân tuổi đã cao.
Thế nhưng, bà không về được.
Dây mây leo trong đầm lầy trước đó dù gây nghiện nhưng không phải kịch độc, người thi thoảng ghé vào hái thuốc hoặc bị lạc vào đầm lầy chí ít có thể toàn thân trở ra. Nhưng sau khi đại ân nhân cải biến, người lạc vào Huyết Chiểu quay về đều trúng kịch độc, chết rất thảm thiết.
Người nhà bạn hữu bọn hắn bèn tìm tới Quảng Thiên Môn khóc lóc kể lể, Quảng Thiên Môn họ đã điều động một số lớn đệ tử đến Huyết Chiểu điều tra nghe ngóng, thế là càng nhiều người bị độc chết, càng thêm lớn chuyện.
Đại ân nhân biết mình không về được, bà không muốn tiếp tục liên lụy Lạc Anh Cốc, bèn dạy chúng ta bày ra trận pháp, giam ở Huyết Chiểu, tung đủ loại phong thanh hiểm ác kinh khủng ra bên ngoài để người ngoài không vào tiếp, Bắc Thần Lục phái cũng không truy cứu nữa.
Không lâu, đại ân nhân mang bệnh qua đời.
Cha mẹ mấy người bọn ta đã mất sớm, đều là đại ân nhân nuôi dạy ta lớn lên. Ta khóc chết đi sống lại bên giường bệnh bà, chỉ nguyện mong sao bà chưa từng tới nơi này, cũng sẽ không chịu tiếng xấu và nỗi oan ức lớn đến thế, đại ân nhân lại nói bà tuyệt đối không hối hận.
Từ lúc mới sinh bà đã bị cho rằng sống không quá ba tuổi, sau ba tuổi lại bị khẳng định không sống tới trưởng thành, lớn lên rồi hằng năm đều phải nghe thần y các loại bóng gió bảo song thân bà lo chuẩn bị hậu sự sớm vân vân.
Bà vĩnh viễn vật lộn với những chén thuốc đắng chát, vật lộn trong ánh mắt lo lắng thương hại của mọi người, để sống lâu chút bà đi tìm kỳ dược ở khắp nơi trên thế gian, nhưng sống lâu hơn chút để làm gì? Chỉ là để cho cha mẹ lo lắng càng thêm lâu thôi.
Bà nói, bà chưa từng nghĩ tới trong cuộc đời yếu ớt cằn cỗi của mình, lại có thể cứu chữa nhiều người như vậy, bà cảm thấy rất giá trị
Từ đó đến giờ, đã năm mươi năm trôi qua.
Mấy trăm đứa bé lớn lên rời khỏi đầm lầy, ở bên ngoài thành gia lập nghiệp, trồng trọt mua bán. Giờ đây, ngày ngày họ đều có thể phơi dưới nắng, cường tráng cao lớn như đại thụ.
Còn chúng ta, chính là di dân sau cùng của Huyết Chiểu.
*
Không khí im lặng, chuyện cũ buồn bã, ba người trong phòng thật lâu không nói gì.
Mộ Thanh Yến mở miệng nhắc nhở: “… Giờ có thể nói chuyện hai mươi năm trước chưa ạ.”
Thái Chiêu liếc xéo hắn một cái, bực hắn phá hỏng bầu không khí.
A Khương bà bà cười ha hả: “Được được — vậy cô cậu thật sự không phải anh em à? Bọn ta cứ nghĩ rằng Tiểu Thù cô nương sẽ thành thân với Dương công tử. Nhưng mà, không phải cũng tốt.”
Thái Chiêu quẫn bách, cô phát hiện mấy bà cô già trên đời này đều chung một nết, thấy nam nữ trẻ tuổi là ưng lôi chuyện nhân duyên ra, thế là vội nói: “Bà bà kể chuyện của cô cô cháu đi.”
A Khương bà bà nói: “Chừng hai mươi năm trước, một đôi nam nữ trẻ tuổi chợt xông vào thôn chúng ta, bọn ta giật cả mình, cứ tưởng trận pháp bên ngoài mất linh nữa. Hai người họ là đến nghe ngóng cây Dạ Lan mẹ, bảo là bạn của Dương công tử bị bệnh, cần cây Dạ Lan mẹ làm thuốc. Tất nhiên là bọn ta đồng ý, nên họ đã lấy mấy nhánh con xong thì đi.”
“Thế thôi ạ?” Thái Chiêu nói.
“Thế thôi, Tiểu Thù cô nương là hậu nhân của đại ân nhân chúng ta, bảo chúng ta dùng mạng trả ơn còn chịu, huống chi chỉ là mấy nhánh Dạ Lan.”
Thái Chiêu không còn gì để nói, Mộ Thanh Yến nói, “A Khương bà bà, chúng cháu có thể xem cây Dạ Lan mẹ kia không ạ?”
A Khương bà bà vui vẻ đồng ý, đứng dậy đi trước dẫn đường.
Cây Dạ Lan cái trồng ở vườn sau toà nhà này, được bảo vệ giữa một vòng đá trắng. Trải qua hơn năm mươi năm rừng sâu tẩm bổ, thân rễ của nó càng thêm tráng kiện cao lớn, nhánh tươi khoẻ xanh biếc, từng nụ hoa trắng noãn yêu kiều nhú ra.
A Khương bà bà thở dài: “Chờ nửa đêm, mấy nụ hoa này có thể nở sạch, thật dễ nhìn. Cô cậu cứ nhìn thêm mấy lần đi, ngày mai nó sẽ bị thiêu huỷ rồi.”
Hai người Mộ Thái kinh ngạc, Thái Chiêu vội hỏi vì sao.
“Là Tiểu Thù cô nương đã dặn.” A Khương bà bà nói, “Sau hơn một năm cô ấy và Dương công tử rời đi thì bỗng nhiên cô quay lại. Cô ấy hỏi ta, có phải Dương công tử cũng đã quay lại lần nữa không. Ta nói phải, không lâu trước khi cô đến, Dương công tử lại lấy đi mấy nhánh Dạ Lan, ta còn hỏi phải chăng bệnh bạn cậu ấy còn chưa hết.”
“Sau đó Tiểu Thù cô nương bèn khóc. Cô khóc rất đau lòng, chúng ta khuyên thế nào cũng vô dụng. Trước khi đi Tiểu Thù cô nương trịnh trọng phó thác chúng ta, nếu về sau có người đến nghe ngóng cây Dạ Lan mẹ, bất kể là ai, cho dù là người Lạc Anh Cốc, cũng phải lập tức thiêu huỷ cây Dạ Lan.”
Thái Chiêu nghi hoặc: “Sao Dương công tử hải đến lần thứ hai, lần thứ nhất không thể lấy thêm mấy nhánh ư?”
A Khương bà bà nói: “Chiêu Chiêu cô nương không biết, Dạ Lan này dễ hư vô cùng, sau khi tẻ nhánh khỏi đất chỉ bảo tồn được nửa năm, dù cô có nuôi trong hộp thủy tinh hay là dùng chậu đất, sau nửa năm tất nhiên khô như củi, dược tính hoàn toàn biến mất.”
“Nếu nhổ cả rễ cầm ra bên ngoài nuôi thì sao?”
“Trừ phi là người cực kỳ thông thạo dưỡng giống như đại ân nhân… dù là chính đại ân nhân, năm đó mang tới mười mấy gốc Dạ Lan, cũng chỉ còn mỗi một gốc khoẻ nhất này.”
Hai người Mộ Thái liếc nhau, tự hiểu trong lòng — lần thứ nhất Mộ Chính Dương lấy nhánh Dạ Lan mẹ, là âm thầm đưa cho Trần Thự, muốn dẫn dụ Nhiếp Hằng Thành tu luyện Tử Vi Tâm Kinh. Lần thứ hai tới lấy nhánh Dạ Lan mẹ, e là vì chính mình.
Đến khi Thái Bình Thù biết được, đoán được gốc rễ hậu quả, mới khóc.
Mộ Thanh Yến trầm ngâm một lát: “Cô của Chiêu Chiêu nói rất đúng, đốt đi là hơn, vĩnh viễn trừ hậu hoạn.” Hắn lại nói, “Sao đến giờ còn chưa đốt?”
A Khương bà bà nói: “Đợi Dạ Lan nở hoa mới đốt cháy sẽ thải ra khí độc, chỉ có thể đốt vào ban ngày. Ôi, thật sự thì lần thứ hai Tiểu Thù cô nương đến đã muốn đốt đi, song bọn ta không nỡ, dù sao đây cũng là di vật cuối cùng của đại ân nhân.”
Thái Chiêu ngơ ngẩn cả người, cô cảm thấy bọn họ chịu hung hiểm vô vàn tiến vào Huyết Chiểu, hình như biết không ít, nhưng hình như lại không biết gì cả, “Còn gì khác nữa không ạ? Cô cô cháu và Dương công tử đã nói gì?”
Ánh mắt A Khương bà bà tinh nghịch, “Cô bé thật muốn nghe à? Lời tình tứ mấy cô cậu nói cùng nhau, cô cậu thật muốn nghe sao?”
“Không phải mấy câu đó.” Mặt Thái Chiêu ửng đỏ, “Ý cháu là, có gì khác không, lời không bình thường ấy?”
A Khương bà bà nghĩ mãi cũng không nhớ ra được, cho đến khi ông lão A Lâm mời bọn họ đi dùng bữa tối nhắc nhở một câu, “Chị quên chuyện Tiểu Thù cô nương cãi nhau với Dương công tử bên cạnh bờ suối rồi sao.”
“A, ta suýt thì quên mất.” A Khương bà bà a lên, “Tiểu Thù cô nương và Dương công tử vẫn luôn thắm thiết nồng nhiệt, đêm hôm ấy hai người họ vừa tới xem Dạ Lan nở hoa một lát, lúc tản bộ bên bờ suối bỗng nhiên lại có tranh chấp.”
Mộ Thanh Yến nghiêm túc: “Sao họ lại cãi nhau?”
A Khương bà bà nói: “Lúc ấy ta với em trai đang xách nước chỗ đối diện, nghe loáng thoáng vài chữ. Hình như là Dương công tử định đi giết một người, bị Tiểu Thù cô nương phát hiện, mới hỏi cậu ấy, sau đó hai người cứ nói gì ‘Nắn vuốt’.”
“Nắn vuốt?” Thái Chiêu hơi suy nghĩ, “Nhiếp Đề?!”
(*) gần như đồng âm: niē zhē và niè zhé
Mộ Thanh Yến hỏi dồn: “Sau đó thì sao?”
A Khương bà bà nói: “Dương công tử giải thích mấy cao, Tiểu Thù cô nương cao giọng nói ‘Hắn chưa làm việc ác thì không nên vô cớ trừ khử’. Sau đó hình như Dương công tử nhận sai, hai người về nghỉ tạm.”
Thái Chiêu không hiểu nhìn Mộ Thanh Yến: “Ông ta muốn giết Nhiếp Đề? Vì sao thế nhỉ.”
Mộ Thanh Yến cụp mi dài, thản nhiên nói: “Ông ta rất hận Nhiếp Hằng Thành, có lẽ là muốn giết đứa cháu kém cỏi của lão ta.”
Thái Chiêu lắc đầu: “Thảo nào cô tôi không đồng ý, cả đời bà ấy chưa giết qua người vô tội.”
Mộ Thanh Yến hất đuôi mắt dài hẹp: “Nghiêm Hủ nói, lúc Nhiếp Hằng Thành còn sống, Nhiếp Đề đúng là giả vờ biết điều, luôn khách sáo với nô tỳ bên người. Thế nhưng, nếu cô cô nàng năm ấy không cản Mộ Chính Dương giết Nhiếp Đề, nói không chừng Tôn Nhược Thủy không có ai để thông dâm, nói không chừng gia phụ giờ vẫn còn sống.”
Thái Chiêu kinh ngạc, lại không thể thốt lên lời phản bác.
Mộ Thanh Yến mỉm cười: “Ta nói thế không công bằng rồi, Tôn Nhược Thủy tham mê quyền thế phú quý, gia phụ mất tích, sống chết không biết, nếu không có Nhiếp Đề bà ta cũng tìm chỗ dựa dan díu khác thôi, huống chi người âm thầm khiến bà ta độc sát gia phụ lại là một người khác.”
Tuy là nói vậy, Thái Chiêu vẫn hoang mang, không khống chế suy nghĩ đến một khả năng khác.
*
Bữa tối là rau quả cuộn, cá nướng, gà vườn xông muối, còn có một bát canh rau nấm dại.
Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam mấy ngày chưa dùng qua thức ăn nóng, húp một hớp canh nóng thấy ngon dị thường, suýt nuốt cả lưỡi.
Tống Úc Chi tâm sự nặng nề, ăn qua loa vài miếng liền về phòng nghỉ ngơi, Thái Chiêu ho nhẹ một tiếng, “Tôi cũng no rồi, mọi người từ từ dùng…” Nói xong định đi theo hướng Tống Úc Chi rời đi.
Rắc một tiếng gỗ nứt vang trời.
Tay trái Mộ Thanh Yến đặt trên bàn không hề động đậy, nhưng bàn gỗ dày dưới năm ngón tay ngọc nứt ra một khe thật dài, Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam vội bốn tay nâng tấm bàn gãy, phòng chén bát rơi xuống.
Phàn Hưng Gia rùng mình, tự dưng thấy hơi lạnh cả người tràn vào trong phòng.
Thái Chiêu chầm chậm ngồi xuống, “Thật ra tôi ăn còn chưa no, để Tam sư huynh nghỉ ngơi trước đi.”
Mộ Thanh Yến móc một tấm khăn lụa trắng cẩn thận lau ngón tay thon dài, “Tiểu Thái nữ hiệp không cần cố kỵ người bên ngoài, có chuyện muốn nói với Tống Tam công tử thì cứ nói đi.”
“Không có không có, không có gì hết.” Thái Chiêu cười bồi.
Mộ Thanh Yến nhìn cô gái chằm chằm hồi lâu, đôi ngươi đen đặc sâu tối như biển, nhìn đến Thái Chiêu mất tự nhiên cả người.
Ba người khác ở bàn ăn cũng chẳng dám thở mạnh một tiếng, hai tên nâng mặt bàn, tên còn lại bưng bát cơm, cắm đầu thật thấp, ước gì có thể chui xuống kẽ đất biến mất cho rồi.
Sau một lúc lâu, Mộ Thanh Yến cười lạnh, phẩy tay áo bỏ đi, còn xa xa để lại một câu, “Cản cũng cản không được, Tiểu Thái nữ hiệp xin cứ tự nhiên.”
Sát tinh rời đi, trong phòng cuối cùng cũng khôi phục bình tĩnh. Thái Chiêu cười ngây ngô mấy tiếng, cuối cùng vẫn không dám ngay trước mặt Mộ Thanh Yến đi tìm Tống Úc Chi, đành ảo nảo trở về phòng mình.
Phàn Hưng Gia thở phào một hơi: “Sao Giáo chủ các người càng lúc càng âm trầm, làm ta sợ muốn chết.” Hèn gì sư muội luôn nói Mộ Thanh Yến là tên điên, quá chuẩn xác.
Du Quan Nguyệt liếc xéo hắn: “Cậu thì biết cái gì, Giáo chủ đây là thần võ ngút trời, cao thâm khó lường.”
Phàn Hưng Gia nhịn không được: “Thực ra sư muội ta cũng rất thông minh, nhưng mà khác với kiểu thông minh của Giáo chủ nhân tinh* mấy người. Sư phụ ta nói sư muội là tẩm ngẩm tầm ngầm đấm chết voi*. Gặp cùng một chuyện, Giáo chủ mấy người có thể đoán tiên cơ, còn sư muội ta là nghĩ rõ ràng đằng sau đó. Sư phụ ta nói, ngươi có thể giấu cô bé trong thoáng chốc chứ không thể gạt cô bé cả đời.”
(*) nhân tinh: 人精; người có mắt nhìn, có thể tính kế, khôn khéo. (*) đại trí giả ngu: người tài giỏi nhưng khiêm tốn, bề ngoài có vẻ đần độn.
Hắn không nói ra miệng là — Mộ Thanh Yến thông minh tràn đầy công kích và h@m muốn khống chế, làm sao thiết kế, làm sao bố cục, một cú đánh phá dứt điểm, đụng tới loại người này không bị bán còn giúp tính tiền đã là thắp nhang cầu nguyện. Mà Thái Chiêu thông minh là kiểu phòng ngự, vạn sự chưa đổ tới trên người mình thì hoàn toàn chẳng sợ, trái lại sẽ trở nên mẫn cảm nhạy bén lạ thường.
“Chúng ta nói gì cũng vô dụng, ta thấy họ lại phải vướng víu nhau rồi.” Thượng Quan Hạo Nam tóm gọn.
Phàn Hưng Gia giật mình: “Sao biết? Vãn bối cho là chuyện giữa hai đứa đã xong rồi.”
Thượng Quan Hạo Nam đắc ý: “Cậu đừng ngốc vậy, nhìn hai người họ thế kia giống như ‘đã xong’ không.” Hắn nhíu mày, “Ta nói này Quan Nguyệt, chúng ta phải đi tìm mấy cây đinh sắt, không thể nâng mặt bàn đến già được.”
Du Quan Nguyệt tức giận nói: “Cậu không thấy đồ dùng trong căn nhà này đều là Ngươi không gặp nơi này ốc xá dụng cụ đều là kết cấu ghép mộng rồi dùng dây mây buộc sao, nào có đinh sắt chứ.”
“Vậy sao giờ?”
“Ừm, trong bao đồ của ta có cây Cửu Khúc Thấu Cốt đinh, bẻ thẳng làm đinh sắt thôi.”
“Cũng được, nhưng mà chùy sắt đâu.”
“Chỗ này đến đinh còn không có lấy đâu ra chùy? Cậu dùng Đại Lực Kim Cương Chỉ ấn mặt bàn là được rồi.”
“Vậy cũng được nhỉ. Ê ê ê, gượm đã, Thấu Cốt đinh kia của cậu đã bôi độc chưa?”
“Ế, chuyện này, bôi rồi bôi rồi. Nhưng ta có mang theo thuốc giải, hay cậu uống thuốc giải trước, nhỡ cọ rách da sao. Độc tính đó cũng hơi lợi hại á.”
“Lợi hại chừng nào?”
“Cũng tạm cũng tạm, kiến huyết phong hầu* thôi.”
“…”
Hai tên chân chó cậu một lời tớ một câu, Phàn Hưng Gia nhìn bát cơm thở thật dài, một nỗi lo buồn dâng lên trong lòng.
(*)见血封喉: vô máu là ná thở. Haha tui cười mệt 2 anh tấu hài này quá.
*
Đêm dài như nước, giữa khe hở mái vòm do vô số cây mây leo đan nhau tạo thành, ánh trăng sao điểm điểm rót xuống, tô điểm cho vùng đất giữa rừng âm u ẩm ướt này như cảnh mộng mê huyễn.
Thái Chiêu buồn bực một bụng, lăn lộn khó ngủ, bèn dứt khoát đứng dậy ra ngoài đi dạo chút, đi hai vòng, lại gặp được Tống Úc Chi trong vườn rau sau nhà không một bóng người đang nhìn lên trời thở dài.
“Tam sư huynh!” Mắt Thái Chiêu sáng rực, hết nhìn đông tới nhìn tây một vòng rồi te te chạy tới, “Tốt quá Tam sư huynh, tôi có chuyện gấp muốn nói với anh!”
Tống Úc Chi đứng thẳng như tượng ngọc, khẽ nhíu mày rậm, “Sao cô phải nhỏ giọng nói vậy, còn quan sát láo liên, ở đây xa khu ốc xá, không cần lo sẽ quấy nhiễu thôn dân nghỉ ngơi đâu.” Giống như tên cướp vặt vậy, y thầm nghĩ.
Thái Chiêu quẫn bách, nghĩ thầm tôi đây không phải muốn tránh tên điên kia sao.
“Rốt cuộc cũng là chỗ của người ta, nhẹ nhàng chút cũng không sai.” Thái Chiêu móc một gói khăn trong ngực, mở ra chìa tới trước mặt Tống Úc Chi, “Tam sư huynh anh nhìn xem.”
— Trong túi khăn bọc lấy một khúc mây leo vặn vẹo ngắn ngủn, còn được phủ bởi một lớp dịch nhờn màu máu nhạt.
Thấy Tống Úc Chi không hiểu, Thái Chiêu liền nói: “Đây là đoạn dây mây ngày hôm nay tôi cắt ở chỗ sau trong Huyết Chiểu, tôi đã thử qua thỏ và gà vịt rồi, một vết thương da thịt nhẹ dính phải dịch đoạn mây leo này sẽ tê liệt ngã oặt ra, không chút giãy giụa, y chang tình trạng của anh hôm qua vậy.”
Con ngươi Tống Úc Chi chợt trợn lớn, chấn kinh không thể tin.
“Ắt là Ngũ sư huynh đã bảo anh chuyện ám tiêu kia rồi.” Thái Chiêu nói, “Tôi vừa thấy cây mây leo này lập tức biết ngay.”
Cô hít sâu một hơi, “Người ra tay với anh về võ công chỉ ở mức trung bình, nhưng hắn biết rõ tu vi thân pháp của anh, có thể đoán được một giây sau anh dùng chiêu thức gì. Tôi nhớ là dù Tam sư huynh học nghệ của Thanh Khuyết Tông nhưng cũng không quên công phu Quảng Thiên Môn, lúc ấy huynh đương dùng tuyệt kỹ nhà họ Tống à.”
Sắc mặt Tống Úc Chi nặng nề, thật đã bị cô gái nói trúng — lúc bị dính ám tiêu đêm qua, y đang di chuyển giữa ‘Bát Vân Thập Lục thức’ của nhà họ Tống.
Thái Chiêu nói tiếp: “Đồng thời, tên đó còn quen thuộc khu rừng này, biết loại dây mây leo ở sâu trong đầm tiết ra chất lỏng có thể khiến người tê dại lập tức.” — Huyết Chiểu trong rừng ngay ở mạn Bắc Quảng Thiên Môn.
Tống Úc Chi cô đơn đứng dưới ánh trăng, thân hình cứng như khối băng, cái người hại y kia đã vô cùng sống động.
Y khó khăn mở miệng, “Đại ca, sao anh ấy muốn hại ta? Vậy là, Nhị ca cũng là hắn vu cáo hãm hại ư?”
“Tôi không biết, tôi không rõ chuyện trong nhà các huynh.”
Thái Chiêu kiên quyết không dây vào chuyện xưa trạch đấu của nhà họ Tống, mẹ Ninh Tiểu Phong mỗi lần kể đến chỗ hại tam thê tứ thiếp của đại gia tộc, đến phần cuối luôn không thể thiếu một câu ‘Xem đi, nhà họ Tống rối bời bời vậy, chắc chắn sẽ có nhiễu loạn lớn thôi’.
Hai sư huynh muội đang đứng bên ngoài một hồi, chẳng nói gì nhau, sau đó họ xuyên qua một khu vườn lớn yên lặng quay về ốc xá, ai ngờ lúc vào tới sân nhà, thì đụng phải Mộ Thanh Yến từ nóc nhà cao ba tầng chậm rãi đi xuống — trên tầng ba là một sân bằng phẳng rất to dùng để trải phơi rau nấm, bên cạnh đó có đặt một cây thang đủ một người leo lên xuống.
Thấy Mộ Thanh Yến phóng tia mắt như sao băng tới, Thái Chiêu vội giải thích: “Không không không, tôi không phải cố ý đi tìm Tam sư huynh, là tôi ngủ không được, mới ra ngoài đi dạo rồi tình cờ gặp anh ấy!”
“Ồ.” Mộ Thanh Yến lạnh nhạt, “Đêm hôm khuya khoắt, sao Tam công tử dạo chơi bên ngoài thế?”
Tống Úc Chi lạnh lùng: “Ta đang ngắm cảnh. Không biết Mộ Giáo chủ thì sao?”
Mộ Thanh Yến nói: “Đúng dịp, ta cũng đang ngắm cảnh.”
Thái Chiêu lo lắng bất an, không dám xen vào.
“Quảng Thiên Môn xảy ra biến cố đột ngột, nghi ngờ trùng trùng.” Mộ Thanh Yến chợt nói, “Nếu là ta, sẽ điều tra thêm về Dương Hạc Ảnh.”
Tống Úc Chi nheo mắt: “Ý Mộ Giáo chủ là.”
Mộ Thanh Yến nói: “Mấy người biết họ phu nhân nguyên phối Dương Hạc Ảnh là gì không?”
Thái Chiêu vét cái bụng khô, “Dương phu nhân… hình như họ Trác?” Cô cố gắng nhớ lại, “Trác thị phu nhân hình như là cốt nhật duy nhất của Trác Đại Đương Gia hào khách Quan Trung, ai cũng nói toàn bộ gia sản nhà họ Trác đều thành đồ cưới của bà ấy.”
Kết hôn không đăng đối thế này, mục đích Tứ Kỳ Môn quá rõ, nhắc đến cũng chẳng vinh dự gì. Nhưng theo Ninh Tiểu Phong thấy, đây là thượng bất chính hạ tắc loạn, Tông chủ Tông đứng đầu Doãn Đại muốn thả vuốt đến địa bàn Bội Quỳnh Sơn trang, rồi đoạt thẳng đứa con trai độc nhất của nhà họ Quách giàu nhất Giang Nam làm đồ đệ, cũng nào có cao minh hơn là bao.
Thái Chiêu cắt một tiếng: “Mẹ tôi từng kể, tuy Trác phu nhân kia mười dặm hồng trang, vẫn chẳng cản được Lão lộn kiếp Dương Hạc Ảnh trái ôm phải ấp, có mới nới cũ. Nhưng, chuyện này thì liên can gì đến biến cố Quảng Thiên Môn chứ?”
Mộ Thanh Yến nói: “Trác Đại Đương gia thật ra là ông ngoại của Trác thị phu nhân, Trác phu nhân mang họ mẹ.”
Lòng Tống Úc Chi chợt chuyển: “Thế cha bà ấy họ gì?”
“Họ Hoàng.” Mộ Thanh Yến ấm áp mỉm cười, “Không sai, cha Trác phu nhân chính là Hoàng Lão bang chủ Hoàng Sa Bang. Mẹ Trác phu nhân khó sinh mà chết, Trác Đại đương gia không còn ai dưới gối, nén bi thương đến đòi con rể đứa cháu ngoại về nuôi dưỡng.”
Thái Chiêu Tống Úc Chi liếc nhau, đều rất ngạc nhiên.
“Hoàng Lão bang chủ nhân hậu, ông thương nỗi khổ Trác Đại Đương gia mất con, cũng yêu thương người trưởng nữ không lớn lên bên cạnh mình, mười năm sau mới tục huyện phu nhân mới sinh con dưỡng cái. Sa Tổ Quang vốn là đệ tử Hoàng Sa Bang, Hoàng Lão anh hùng thấy hắn lanh lẹ tài giỏi, mới gả thứ nữ gả cho. Chuyện về sau, hai người đã biết.”
Vì không chịu khuất phục Nhiếp Hằng Thành, Hoàng Sa Bang trong mấy lần kịch chiến tổn binh hao tướng nguyên khí đại thương. Sa Tổ Quang thừa dịp thế lực của cha vợ suy kiệt, bèn hiến đứa em gái xinh đẹp cho Dương Hạc Ảnh làm thiếp, nhờ đó tự lập môn hộ, quăng Hoàng thị phu nhân nguyên phối sang một bên, tự phong lưu sung sướng.
Tống Úc Chi không kìm được: “Chuyện bí mật năm xưa như thế sao cậu rõ ràng vậy?” Trong ghi chép của Doãn Đại cũng không đề cập, có thể là ông ta thấy hai nhà Trác Hoàng sớm đã suy tàn, không ai kế tục, vô danh tiểu tốt thế thì không đáng ghi chép.
Mộ Thanh Yến liếc mắt: “Oan gia đối đầu hai trăm năm, sao Ma giáo có thể không điều tra ngọn nguồn nội tình chưởng môn Lục phái chứ.”
Tống Úc Chi bị câu âm dương quái khí chọt suýt lủng phổi.
Thái Chiêu hỏi: “Hoàng Lão bang chủ biết chuyện con gái mình chịu tủi nhục không?”
“Biết thì còn thế nào? Huống chi Hoàng phu nhân đã bệnh qua đời từ rất sớm.”
“Bệnh qua đời?” Thái Chiêu cứ thấy không đúng ở đâu, nhưng trong phút chốc không nghĩ ra.
Mộ Thanh Yến nói, “Về sau Hoàng Lão bang chủ nản lòng thoái chí, dẫn một nhà mấy lão huynh đệ già trẻ bệnh yếu ẩn cư ở núi Thất Mộc, không tiếp tục qua lại với người trong giang hồ, chỉ có một người ngoại lệ…”
Thái Chiêu biết luôn, “Là Trác phu nhân. Hoàng Lão bang chủ lo cho trưởng nữ Trác phu nhân ở Tứ Kỳ Môn, định âm thầm có thư lui tới với bà ấy, bị Dương Hạc Ảnh phát hiện.”
Tống Úc Chi vẫn không hiểu: “Vậy cũng đâu phải giết hại cả nhà Hoàng Lão anh hùng chứ.”
Mộ Thanh Yến nói, “Mấy tháng trước thám tử trong Giáo phát hiện trên núi Thất Mộc có tung tích thi khôi nô, sau đó lại nghe tin hai người Dương Sa khí thế hùng hổ lên Quảng Thiên Môn. Mới đầu ta tưởng là Tống Mậu Chi tự mình luyện chế thi khôi nô, bị Dương Hạc Ảnh bắt đằng chuôi mới đến Tống Đại chưởng môn kiếm chác ít nhiều. Nhưng Tống Mậu Chi đã chết, đủ thấy sự tình cũng không phải như suy nghĩ trước đó của ta.”
Hai người Tống Thái mới đầu không hiểu hàm nghĩa trong câu, vòng vo ba vòng mới hiểu liên quan trong đó —
Phải dùng chuyện ác của Tống Mậu Chi uy hiếp Tống Thời Tuấn, đương nhiên chính Tống Mậu Chi phải còn sống, chết thì sao bắt chẹt nữa, nhưng Sa Tổ Quang lại phái tử sĩ sát hại Tống Mậu Chi, chứng tỏ ý đồ Dương Hạc Ảnh cũng không phải chỉ đơn giản là kiếm chác chút.
Lòng Tống Úc Chi loạn như ma: “Rốt cuộc họ Dương muốn làm gì!”
“Huynh cứ xâu chuỗi lại mà ngẫm.” Mộ Thanh Yến nói, “Trên núi Thất Mộc đúng là có người luyện thi khôi nô, nếu không phải Tống Mậu Chi làm, thì là ai?”
Cặp mắt Thái Chiêu tỏa sáng: “Thật ra chúng ta đã đoán ngược, không phải Mậu Chi công tử luyện thi khôi nô bị người phát hiện, mà là Dương Hạc Ảnh luyện thi khôi nô bị Tống Tú Chi phát hiện, sau đó hai bên hợp lại tính toán, dứt khoát đánh cược một lần lớn — trùng hợp là, Tống Tú Chi cũng là con rể tương lai của Dương Hạc Ảnh.”
“Dương Hạc Ảnh mất hết tính người, đáng thiên đao vạn quả!” Hơi thở Tống Úc Chi dồn dập, “Sao Đại ca lại có thể cấu kết với hạng người này? Đến cùng thì chúng muốn gì!”
Mộ Thanh Yến khoan thai nói: “Còn có thể là gì chứ, xem tình hình trước mắt, huynh trưởng Tống Mậu Chi của huynh chết rồi, Tam Thúc tổ ‘trọng thương khó lành’, ắt là sống không lâu, cha huynh Tống Thời Tuấn thì thương thế cũng không nhẹ, như vậy chức chưởng môn Quảng Thiên Môn sẽ rơi vào trong tay ai?”
Tống Úc Chi lảo đảo vịn khung cửa, vừa sợ vừa giận: “Sao lại thế, sao lại thế, sao lại thế, Đại ca… Đại ca không phải hạng người này! Từ nhỏ anh ấy không tranh không đoạt, ôn hoà hiền hậu bình thản, sao anh ấy lại làm ra chuyện như thế chứ!”
“Tam sư huynh đừng kích động, là đen là trắng luôn có thể điều tra rõ ràng.” Lúc này Thái Chiêu lại rất bình tĩnh.
Cô thấy Tống Úc Chi bị đả kích lớn định đỡ y về phòng. Mộ Thanh Yến đầy chân thành cướp trước mặt cô, rất giống như ân cần tha thiết nhẹ nhàng đỡ lấy vị công tử thế gia đồng môn.
Hắn ủi Thái Chiêu qua một bên, nâng khuỷu tay Tống Úc Chi đi vào trong, miệng còn ‘nhẹ nhàng’ khuyên giải, “Tống huynh chớ sợ, chớ bi thương, chẳng qua cũng chỉ là thủ túc tương tàn huynh đệ bất hòa, à, còn có cha già không rõ sống chết, cũng không phải là bất thường quá mức đâu. Tống Tú Chi giết em hại cha, Tống huynh cứ một đao chặt đầu gã xuống là được, đừng quên phải moi tim đào gan, máu tươi ngâm rượu bái tế…”
Thái Chiêu chống eo đứng phía sau trợn mắt, không còn cách nào khác đành về phòng đi ngủ.
Bình luận truyện