Giang Hồ Dạ Vũ Thập Niên Đăng
Chương 93
Bí mật của kẻ nóng tính.
Gió xuân tháng Tư phơn phớt dịu dàng, thổi đến lòng người mềm yếu.
Sau khi chịu cơn sóng gió cực lớn Tông chủ thật giả rồi Ma giáo xâm nhập, cuối cùng Thanh Khuyết tông đã khôi phục yên tĩnh an vui trước đó. Trên sân tập võ mặt trời mới mọc hừng hực, tiếng người huyên náo, Tống Úc Chi thả lỏng vai ngưng khí, thân hình mạnh mẽ, một kiếm chém xuống, núi đá vỡ toang, bụi đất khuấy động, tiếng hoan hô chúng đệ tử như sấm.
Chuyến đi Ma giáo mạo hiểm lần này vốn có thể nói là vô cùng viên mãn. Hai người Tống Thái ‘cơ duyên xảo hợp’ ngẫu nhiên lấy được bảo vật, cũng toàn thân trở ra từ cuộc phân tranh không ngớt của Ma giáo, sau khi quay về Tống Úc Chi còn khôi phục công lực trước đó, Thích Vân Kha vui vẻ ăn cơm nhiều hơn mấy bát — với bất kỳ môn phái nào mà nói, người đệ tử chân truyền dốc lòng vun trồng mười mấy năm đều có chỗ quan trọng bất thường.
Trời cho thời tiết tốt, người có việc vui, nhưng chúng đệ tử lại quỷ dị cảm nhận được một thứ gì đó không hài hòa bao phủ trên ngọn Vạn Thủy Thiên Sơn — Tiểu Thái sư muội xưa giờ cười luôn miệng hay cởi mở ôn hòa thân thiện, bỗng dưng đổi tính.
Người thứ nhất nếm mùi lưỡi đao của cô chính là Tứ sư huynh Đinh Trác.
Đinh thiếu hiệp hai lần bị lỡ hẹn cảm thấy mình rất có lý do nổi khùng, thế là trong một tiểu yến Tằng Đại Lâu đãi đồng môn không nói không rằng đâm chọt Thái Chiêu đôi câu, kiểu mấy thứ cùng loại như mình chỉ là vô danh tiểu tốt, chứ nếu không cũng đâu bị lần nào cũng bị quên sạch sẽ.
Cứ tưởng Tiểu Thái cô nương sẽ như dĩ vãng dúi bàn tay nhỏ cười xoà xin lỗi, sau đó hai người lại đặt ra hẹn đấu. Ai ngờ cô bé không nói hai lời dằn đũa, mặt lạnh te túm chặt tay áo Đinh Trác, kéo thẳng về chỗ Đinh Trác ở, bảo người ta canh chừng cổng sân chặt chẽ, không được cho bất kì kẻ nào đi vào.
Sau hai ba nén nhang, Thái Chiêu tiếp tục bộ mặt lạnh te bước ra, váy dài dưới ánh trăng vung ra tư thế lục thân không nhận, chả ai dám bước lên hỏi thăm, còn Đinh Trác thì tự nhốt mình trong phòng trọn ba ngày, lúc xuất hiện cả người u buồn, khí khái kiêu căng chọc trời bớt đi một nửa.
Bên trong Phá Trúc hiên đã xảy ra chuyện gì tuy không ai biết được, nhưng theo đệ tử đào góc tường nói, ở trong đó cứ phát ra tiếng kiếm kích cheng cheng chập cheng, sau đó nô bộc vào dọn dẹp bảo mảnh kiếm chém vỡ vụn đầy đất, hẳn hai người đã đánh nhau rất dữ, có lẽ còn không chỉ đánh ở một chỗ.
Không ai biết kết quả trận quyết đấu, cũng không ai dám đến hỏi, chỉ biết là khi Thái Chiêu đẩy cửa ra, lạnh lùng nhìn Đinh Trác đang té xuống đất quẳng lại một câu, “Học võ là để diễn kịch cho người ta xem sao, lúc sống chết đấu nhau, ai mà chờ huynh tắm rửa xông hương hay là hỏi huynh đau tim hay là ăn quá no! Tứ sư huynh cứ khư khư cái kiểu ấy thì, cả đời đóng cửa đóng xe* đi!”
(*) thành ngữ đóng cửa tạo xe không quan sát đường sá: nhắm mắt làm liều; xa rời thực tế; (ví với chỉ theo ý chủ quan của mình mà làm việc, không cần biết đến thực tế khách quan)
Mặt tốt của kết thúc câu chuyện này là, Đinh Trác bắt đầu tích cực tham gia tỷ thí giữa các đồng môn, còn gặp Thích Vân Kha tỏ ý hy vọng có cơ hội xuống núi học hỏi; còn mặt xấu là sư huynh ‘thúc giục’ chúng đệ tử lại nhiều thêm một vị.
Người thứ hai ăn đao của Thái Chiêu chính là Tống Úc Chi.
Thật ra Tống Úc Chi không hề hứng thú đối với kết quả cuộc đóng cửa tỷ thí ở Phá Trúc hiên, chỉ là muốn tìm cái cớ đi Xuân Linh tiểu trúc thôi.
“Hôm ấy Chiêu Chiêu sư muội tỷ thí cùng Tứ sư đệ kết quả thế nào?” Tống Úc Chi đâu ra đấy hỏi han.
Thái Chiêu đầy kinh ngạc: “Huynh tôi sóng vai nhiều ngày ở U Minh hoàng đạo, lẽ nào huynh lại không biết.”
Tống Úc Chi đương nhiên biết.
Thái Chiêu vốn thắng trên Đinh Trác một bậc, nhưng trước đó cô chỉ tu luyện ở trong Lạc Anh cốc, sau này Ma giáo xông vào ngọn Vạn Thủy Thiên Sơn mới cho cô cơ hội trui luyện. Nhưng lần đó dù sao cũng quá ngắn ngủi, đồng thời còn có bọn Lý Văn Huấn lược trận một bên, ít nhiều cô chắc chắn không lo tính mệnh, không thể so với lần chém giết thực thụ thân thể phó mặc dưới lưỡi đao ở U Minh hoàng đạo.
Giáo chủng Ma giáo không nói tới võ đức, trong mấy ngày liền trải qua nguy hiểm Thái Chiêu lĩnh giáo minh đao ám tiễn các loại không ít, võ nghệ tự nhiên tinh tiến thần tốc. Theo Tống Úc Chi tính toán, trước khi đi U Minh hoàng đạo, trong vòng trăm bảy trăm tám mươi chiêu Thái Chiêu có thể đánh bại Đinh Trác, sau khi từ U Minh hoàng đạo trở về, phỏng chừng Đinh Trác chỉ cầm chừng trên dưới trăm chiêu.
Tống Úc Chi cũng không khéo ăn nói, cuối cùng hỏi thẳng luôn: “Trong bao nhiêu chiêu?”
Thái Chiêu: “Bảy mươi tám chiêu.”
“Nhanh vậy?” Tống Úc Chi hơi giật mình.
“Tôi rút Diễm Dương đao, Tứ sư huynh đau lòng Trường Không kiếm, không dám chính diện đỡ đao tôi.” Thái Chiêu nhún nhún vai.
Tống Úc Chi: “… Đồng môn tỷ thí thôi, cần gì rút Diễm Dương đao chứ.”
“Tôi là vì muốn tốt cho Tứ sư huynh, anh ấy quá để ý, lúc đối địch thể nào cũng bị thiệt thòi.”
Như thế, đối thoại kết thúc.
Cao ngạo lạnh lùng như Tống Úc Chi, cũng phát hiện tiểu sư muội không có hứng tán gẫu; nếu đổi lại trước kia, tiểu cô nương tủm tỉm từ thoại bản đến món mới ra lò, có thể nói nhăng nói cuội cả một đống lời rỗi rãi.
Tống Úc Chi đành tự tìm chuyện nói: “Mấy quyển trục ta đưa tới, sư muội xem rồi nhỉ.”
“Xem cả rồi, thật đẹp mắt, còn đặc sắc hơn thoại bản nữa. Tam sư huynh còn nữa không, cho ít quyển mới đi.”
“…” Tống Úc Chi, “Sư muội không có gì muốn nói với ta sao.”
Thái Chiêu ngẫm nghĩ, “Có, sư huynh đi theo tôi.”
Cô dắt tay áo Tống Úc Chi đi ra, xuyên qua hành lang rồi vườn hoa, đi tới một chòi nghỉ sau vườn của Xuân Linh tiểu trúc, trong chòi nghỉ bày một cây trúc rất dài.
Thái Chiêu nhón mũi chân, nhìn xa xa, “Tôi biết mà, giờ này bọn họ nhất định sẽ đến.”
Địa thế nơi này tương đối cao, vừa kịp có thể nhìn thấy trong bụi cỏ phía dưới cách đó không xa có hai người đang thủ thỉ trò chuyện.
Ấy là Thích Lăng Ba và Đới Phong Trì, nhưng cũng chỉ có thể nhìn thấy đầu hai người họ, không nghe được tiếng nói chuyện.
Thái Chiêu đẩy Tống Úc Chi tới bên cạnh ống trúc, ra hiệu y cúi người xuống nghe — không biết ống trúc được thiết kế thế nào, tiếng nói chuyện cùa Thích Lăng Ba và Đới Phong Trì không ngừng truyền theo ống trúc tới.
“… Không phải hôm qua đã bảo Nhị sư huynh ăn nhiều chút sao, muội thấy hôm nay huynh lại gầy đi rồi.” giọng Thích Lăng Ba.
Đới Phong Trì thở dài, không nói.
“Sao chúng ta cứ phải đến đây trò chuyện, sao Nhị sư huynh không đến Tiên Ngọc Linh Lung cư tìm ta.”
“Tình cảnh ta bây giờ đầy xấu hổ, không muốn liên lụy muội.”
“Lúc đó là Nhị sư huynh bị che mắt mới giúp tên giả mạo kia, cũng đâu phải cố ý nối giáo cho giặc. Ta nói với cha hết rồi, cha nói không có trách Nhị sư huynh gì đâu.”
“Sư phụ từ ái phúc hậu, đương nhiên ông không trách ta. Thế nhưng cả đám đồng môn nhìn ta bằng con mắt thế nào chứ, Tam sư đệ còn có thể phát giác tên giả mạo kia không đúng, mà ta thì không hề để ý.”
“Tam sư huynh từ nhỏ đến lớn đều theo cha, nếu bàn về hiểu cha, đến kẻ làm con như ta cũng không bằng, huống hồ Nhị sư huynh lại lớn lên bên cạnh mẹ. Nhị sư huynh chớ tự trách nữa, ta nhìn rất đau lòng.”
“Lăng Ba, tâm ý của muội ta đều biết, nhưng mà sau này chúng ta vẫn giữ khoảng cách chút tốt hơn. Chúng ta đều lớn cả rồi, không thể như lúc còn bé, nếu muội với ta quá thân thiết, Tam sư đệ không vui thì sao.”
“Không vui? Hứ! trong mắt Tam sư huynh chưa từng có muội, đừng nói ta thân thiết với ai, mà hôm nào đó muội có chết đi, chỉ e anh ấy là người biết cuối cùng đó!”
“Sư muội đừng nói vậy, dù sao thì hai người…Ồi… Sư mẫu có ơn dưỡng dục với ta, ta không thể hại muội. Dù võ nghệ ta kém, nhưng chỉ cần sư muội có lời cần, thiên đao vạn quả ta cũng đến! Nếu trái lời thề, trời tru đất diệt! Hầy, có điều mai này chúng ta bớt gặp nhau đi!”
Thích Lăng Ba qua mãi lâu, mới nói: “… Nhị sư huynh, mấy ngày nay mẹ hay bảo ta, nói ta hãy nghĩ rõ ràng chuyện hôn sự.”
“Sao sư mẫu lại nhắc chuyện này?”
Thích Lăng Ba nói: “Mẹ nói, cuộc sống khi lấy chồng, như người uống nước ấm lạnh tự biết. Quyền thế tôn vinh vô biên, đến cùng có thể đỡ nổi nửa đời cô tịch đa nghi vắng vẻ không, bảo ta hãy nghĩ cho kỹ càng.”
“Sư mẫu, sư mẫu thật sự nói thế sao?” giọng Đới Phong Trì phát run, “Sư muội, sư muội ta…, Ấy ấy, sư muội chờ ta với, chờ ta với…”
Nghe một tràng bước chân, hai người đã đi xa.
Tống Úc Chi thả ống trúc, nhìn Thái Chiêu.
Thái Chiêu cũng nhìn y.
Hai người nhìn nhau một đỗi, cuối cùng Tống Úc Chi nói: “Ống trúc này là muội làm à?”
Thái Chiêu nói: “Sau hôm đầu bắt gặp hai người họ ở đó nói chuyện, tôi đã chặt trúc làm suốt đêm. Chỗ này đủ gần, xa hơn chút nữa âm thanh sẽ truyền không tới.”
“Nghe lén người ta nói chuyện là không đúng.”
“Ờ.”
Hai người lại đối mặt lần nữa.
Một lát sau, vẫn là Tống Úc Chi thua trận: “Muội bảo ta tới nghe chuyện này, là ý gì?”
“Đâu có ý gì, Tam sư huynh nghĩ sao.”
Tống Úc Chi trầm ngâm một lát, “Hôn ước của ta và Lăng Ba…”
“Tam sư huynh không cần giải thích.” Thái Chiêu xoay người đi, tiêu sái khoát tay sau lưng, “Từ bé tôi đã thích nghe lỏm chuyện, không thích nghe người ta giải thích.”
Sau đó, người buồn bực không vui trong Tông môn, thêm một Tống Úc Chi.
Đợt thứ ba đụng vào đao của Thái Chiêu, là một đám người.
Bấy giờ tình hình trên đỉnh Vạn thủy Thiên Sơn rất diệu vợi, Tống với Thái, Tống với Thích, Thích với Đới, đúng là rắc rối phức tạp thay đổi liên tục, đệ tử trong Tông môn ít ra cũng có mấy trăm, dĩ nhiên có lời ra tiếng vào. Rất nhiều người, ít thì là nháy mắt ra hiệu nói đến cười đểu một tiếng, còn kẻ bụng dạ không tốt không khỏi thọc ra ít câu ô ngôn uế ngữ.
Nhưng không biết thế nào, thường thường sau khi bọn hắn cười toe toét xì xầm xong, ngay sau đó sẽ phát hiện Tiểu Thái sư muội ngồi xổm một bên, cười tủm tỉm không biết đã nghe ngóng bao lâu. Đợi cô phủi váy đứng dậy, là sẽ ‘thỉnh giáo’ chư vị đồng môn một phen.
Đâu thể không nhận lời, vì không nhận thì cô cũng đánh, sau một trận bị đánh tơi bời không nói câu nào, mọi người mặt mũi sưng húp dắt díu nhau về, đau ít nhất cũng mất mấy ngày.
Nếu xì xầm về cô không phải mà bị đánh một trận thì cũng thôi, đáng hận là, có khi chúng đệ tử chỉ kháo chuyện xấu ở tuổi xế chiều giữa thím Ba nhà bếp đang thủ tiết với chú Năm sau núi, cũng bị đánh giống vậy luôn.
Cậu quỳ xuống xin tha, cô bé sẽ lấy câu đệ tử một Tông đứng đầu Bắc Thần không thể không có cốt khí đánh cậu;
Cậu nằm ngửa nhận thua ‘muốn đánh thì cô đánh đi’, cô bé sẽ dùng ‘chưa từng nghe yêu cầu thế này nên buộc phải thỏa mãn thôi’ mà đánh cậu;
Thảng như mấy hôm trước cậu vừa mới bị đánh, cô bé sẽ nói ‘Kẻ sĩ ba ngày không gặp chùi mắt mà trông, để sư muội lĩnh giáo thử xem có phải sư huynh của hôm nay mạnh hơn sư huynh của mấy hôm trước không’, sau đó vòng vèo lại cũng đánh.
Mọi người kêu trời gọi đất bẩm đến trước mặt Tằng Đại Lâu, Thái Chiêu liền tỏ ý tất thảy đều là ‘so tài’, đồng môn so tài thì có thể có ý đồ gì xấu chứ, tất cả chỉ là hiểu lầm cả, thế là Tằng Đại Lâu cũng đâu tiện nói gì.
Mọi người khóc sướt mướt bẩm báo đến trước mặt Tống Úc Chi, Tống Úc Chi sẽ mặt đầy âm u đánh chúng đệ tử thêm trận nữa, đặt tên cho hay là ‘Mất bò mới lo làm chuồng’.
Cứ thế náo loạn một trận, lập tức Thanh Khuyết tông chuyển thành yên ắng vô cùng, chúng đệ tử chỉ biết vùi đầu tập võ, không dám tiếp tục nói người ta không phải, trong khoảnh khắc Thái Chiêu không tìm được ai luận bàn, cảm thấy thế gian này thật tịch mịch như tuyết.
Một ngày nọ, cô dạo bước khắp núi, vô tình tản bộ đến chỗ rừng bia sau núi, phát hiện sư bá Lý Văn Huấn đang đứng trong đó, ngẩn người ngước nhìn bia đá cao vút.
Vạt rừng bia này được xây dựa vào núi, bốn phía cỏ dại rậm rạp, hoang vu lạnh lẽo, càng thêm u ám ẩm ướt, gió u u quỷ dị.
Với phong thuỷ ấy, dĩ nhiên khắc trên tấm bia đá kia không phải anh hùng sự nghiệp to lớn gì, mà là chuyện ác nghiệt đồ Thanh Khuyết tông qua các đời, khi sư diệt tổ, ám hại đồng môn, trộm luyện tà công, mưu phản tông môn, tất nhiên cũng có cấu kết Ma giáo…
Thái Chiêu vội chắp tay hành lễ: “Đệ tử bái kiến Lý sư bá.”
Lý Văn Huấn ừ đáp, chỉ một chỗ bia đá còn trống trơn trong đó, “Câu chuyện Khâu Nhân Kiệt, nên khắc thế nào đây?”
Thái Chiêu ngây ra, giờ mới hiểu được ý ông.
Lý Văn Huấn nói: “Khâu Nhân Kiệt phản bội sư môn, cấu kết Ma giáo, ám toán chưởng môn, nên ngàn tùng vạn xẻo trước mặt đệ tử gia mới phải. Cho anh ta tự vận xem như đã có hời.”
Thái Chiêu nhớ vị Lý sư bá này cũng kiêm cả việc nắm hình pháp Tông môn, tự dưng rụt cổ.
“Kẻ tội nhân vứt xác nơi hoang dã, việc ác rõ ràng trên đời, còn anh linh liệt sĩ hào kiệt thờ phụng trong cung Mộ Vi, ấy mới là thiện ác tất báo!” Lý Văn Huấn ngoảnh đầu lại, “Chiêu Chiêu, tuy cô chỉ thuộc tông môn trên danh nghĩa, nhưng cũng phải luôn ghi nhớ luật lệ của bản môn đấy.”
Mồ hôi rịn đầy trán Thái Chiêu, luôn miệng dạ vâng.
Bị ám hiệu không hiểu thấu chặn đường, cô ủ rũ cụp đầu quay về Xuân Linh tiểu trúc, tiếp tục luyện công, thả câu, xem thoại bản, thi thoảng ‘luận võ’ với đồng môn sống cuộc sống yên bình.
Thời gian dần trôi, tựa như cô đã quên đi cái tên âm dương quái khí kia, cái tên khiến tim cô đau nhói.
Thấm thoắt, hơn một tháng vội qua, sắp đến ngày tế bái Thường thị.
Có câu có việc thì đệ tử làm thay, dưới ghế Thích Vân Kha có bảy đệ tử đích truyền, ngoài Đại đệ tử Tằng Đại Lâu phải ở lại Tông môn xử lý việc vặt, sáu người còn lại đều phái ra, đi trước một bước đến Thường gia bảo chuẩn bị đại nghi lễ tế điện.
Đợi sau khi Thích Vân Kha Chu Trí Trăn Thái Bình Xuân tụ hợp, ba vị chưởng môn sẽ cùng đến tế bái, tỏ kính ý đến Thường Hạo Sinh đại hiệp đã qua đời.
Đến ngày lên đường, sáu đệ tử do Đới Phong Trì dẫn đầu, cộng thêm hơn mười đệ tử nội ngoại môn võ nghệ cao cường, đồng loạt bái biệt Thích Vân Kha, xuống núi.
Khu nhà chính của Thường thị vốn nằm trong một tiểu trấn dưới núi Vũ An, là vọng tộc nơi đó. Sau vì tránh né Nhiếp Hằng Thành giết chóc, Thường Hạo Sinh dựng một khu ổ bảo trên núi Vũ An, dời cả nhà lên.
Mà Thái Sơ Quán cách núi Vũ An không xa, do đó sau khi đệ tử Thanh Khuyết tông đến nơi, đã đưa danh thiếp bái kiến chưởng môn đương nhiệm Vương Nguyên Kính trước tiên.
Từ sau khi xảy ra thảm sự Vũ Nguyên Anh, Thái Sơ Quán có phần khó ngóc đầu trên giang hồ, vừa thoáng ló mặt là có người đến châm chọc mấp mé, hoặc cảm thương cho Vũ Nguyên Anh năm đó anh liệt, hoặc chửi rủa Cầu Nguyên Phong vô sỉ, tóm lại làm đệ tử Thái Sơ Quán lúng túng không thôi.
Sau khi Vương Nguyên Kính kế vị chưởng môn, dứt khoát đóng cửa sống qua ngày, tránh quãng tai tiếng trong thời gian này hẵng tính.
Đến khi Đới Phong Trì đưa bái thiếp đến, Vương Nguyên Kính đương nhỡ tay luyện đan không tiện rời đi, bèn sai mấy đệ tử dẫn đường cho Thanh Khuyết tông lên núi Vũ An. Lý Nguyên Mẫn vốn mang chữ lót nhỏ nhất, hào hứng làm bạn đồng hành.
Núi Vũ An ở đây ai cũng có thể lên, song ổ bảo nhà họ Thường ở chỗ nào trong núi thì mười mấy năm qua chẳng ai biết được. Núi Vũ An lại là một hòn núi khá rộng lớn, muốn mò mẫm từng tấc không khác nào mò kim đáy biển.
Nhưng từ khi pháp trận xung quanh Thường gia bảo bị phá, chuyến đi lần này thấy không sót một thứ gì.
Dưới sự dẫn đường của đệ tử Thái Sơ Quán, đã tìm được Thường gia bảo bị thiêu huỷ đổ nát trong một khe núi.
Lúc này sắc trời đã tối, dưới ánh sáng lờ mờ, ngói vỡ lung tung vương đầy đất, phơi bày rõ cảnh thịnh vượng xưa kia của Thường thị Vũ An, giờ đây hủy hết.
Lý Nguyên Mẫn thở dài: “Chỗ này bị kẻ tặc Ma giáo phá huỷ không còn dáng hình, còn thả một mồi lửa, đốt mấy ngày chưa tắt, không còn sót lại thứ gì. Sau đó bọn ta chỉ có thể chắp vá nhặt mấy xác chết cháy, cùng chôn chỗ nghĩa địa sau núi.”
Dù rằng tu vi Đới Phong Trì chỉ có vậy, nhưng xem như đối nhân xử thế thì không tầm thường, lập tức luôn miệng tán thưởng Thái Sơ Quán lòng dạ nhân hậu vân vân, làm đệ tử Thái Sơ Quán bị hắt hủi mấy tháng tự dưng cảm thấy nở mũi.
Sau một hồi buôn bán đầy nhu tình mật ý thổi phồng lẫn nhau, đệ tử hai phái dắt nhau ra nghĩa địa phía sau núi, vốn là chỗ chôn cất người trong tộc Thường thị, sau đó không lâu tro cốt của Thường Hạo Sinh cũng được nhập táng. Ai ngờ vừa mới chuyển qua vách núi, đã thấy trước nấm mồ vốn chỉ trơ trọi một tấm bia đá là một đám người bọc binh giới đang đứng, vẻ mặt đầy cung kính. Một chỗ rất nhiều người đứng thế mà thật im ắng, chỉ nghe gió núi từng hồi.
Đứng chính giữa đám người như quỷ mị này, là một thanh niên mặc huyền bào cao lớn.
Ánh trăng bàng bạc từ vách núi cuối cùng đã rơi xuống, xuyên qua rừng đá thưa thớt, trải một vệt sáng nhẹ thật dài lên nghĩa địa hoang dã. Thanh niên đứng đó khuất bóng, khuôn mặt sâu sắc đẹp đẽ, lạnh lùng uy nghiêm.
Hắn nhìn thấy đám người, có phần kinh ngạc, ngay sau đó ánh mắt xuyên qua đám người, dừng ở một góc nào đó sau lưng Tống Úc Chi.
Trái tim Thái Chiêu chợt đau nhói mãnh liệt, vội cúi đầu.Bà Quan: Nói lời giữ lời, nam chính xuất hiện.
Gió xuân tháng Tư phơn phớt dịu dàng, thổi đến lòng người mềm yếu.
Sau khi chịu cơn sóng gió cực lớn Tông chủ thật giả rồi Ma giáo xâm nhập, cuối cùng Thanh Khuyết tông đã khôi phục yên tĩnh an vui trước đó. Trên sân tập võ mặt trời mới mọc hừng hực, tiếng người huyên náo, Tống Úc Chi thả lỏng vai ngưng khí, thân hình mạnh mẽ, một kiếm chém xuống, núi đá vỡ toang, bụi đất khuấy động, tiếng hoan hô chúng đệ tử như sấm.
Chuyến đi Ma giáo mạo hiểm lần này vốn có thể nói là vô cùng viên mãn. Hai người Tống Thái ‘cơ duyên xảo hợp’ ngẫu nhiên lấy được bảo vật, cũng toàn thân trở ra từ cuộc phân tranh không ngớt của Ma giáo, sau khi quay về Tống Úc Chi còn khôi phục công lực trước đó, Thích Vân Kha vui vẻ ăn cơm nhiều hơn mấy bát — với bất kỳ môn phái nào mà nói, người đệ tử chân truyền dốc lòng vun trồng mười mấy năm đều có chỗ quan trọng bất thường.
Trời cho thời tiết tốt, người có việc vui, nhưng chúng đệ tử lại quỷ dị cảm nhận được một thứ gì đó không hài hòa bao phủ trên ngọn Vạn Thủy Thiên Sơn — Tiểu Thái sư muội xưa giờ cười luôn miệng hay cởi mở ôn hòa thân thiện, bỗng dưng đổi tính.
Người thứ nhất nếm mùi lưỡi đao của cô chính là Tứ sư huynh Đinh Trác.
Đinh thiếu hiệp hai lần bị lỡ hẹn cảm thấy mình rất có lý do nổi khùng, thế là trong một tiểu yến Tằng Đại Lâu đãi đồng môn không nói không rằng đâm chọt Thái Chiêu đôi câu, kiểu mấy thứ cùng loại như mình chỉ là vô danh tiểu tốt, chứ nếu không cũng đâu bị lần nào cũng bị quên sạch sẽ.
Cứ tưởng Tiểu Thái cô nương sẽ như dĩ vãng dúi bàn tay nhỏ cười xoà xin lỗi, sau đó hai người lại đặt ra hẹn đấu. Ai ngờ cô bé không nói hai lời dằn đũa, mặt lạnh te túm chặt tay áo Đinh Trác, kéo thẳng về chỗ Đinh Trác ở, bảo người ta canh chừng cổng sân chặt chẽ, không được cho bất kì kẻ nào đi vào.
Sau hai ba nén nhang, Thái Chiêu tiếp tục bộ mặt lạnh te bước ra, váy dài dưới ánh trăng vung ra tư thế lục thân không nhận, chả ai dám bước lên hỏi thăm, còn Đinh Trác thì tự nhốt mình trong phòng trọn ba ngày, lúc xuất hiện cả người u buồn, khí khái kiêu căng chọc trời bớt đi một nửa.
Bên trong Phá Trúc hiên đã xảy ra chuyện gì tuy không ai biết được, nhưng theo đệ tử đào góc tường nói, ở trong đó cứ phát ra tiếng kiếm kích cheng cheng chập cheng, sau đó nô bộc vào dọn dẹp bảo mảnh kiếm chém vỡ vụn đầy đất, hẳn hai người đã đánh nhau rất dữ, có lẽ còn không chỉ đánh ở một chỗ.
Không ai biết kết quả trận quyết đấu, cũng không ai dám đến hỏi, chỉ biết là khi Thái Chiêu đẩy cửa ra, lạnh lùng nhìn Đinh Trác đang té xuống đất quẳng lại một câu, “Học võ là để diễn kịch cho người ta xem sao, lúc sống chết đấu nhau, ai mà chờ huynh tắm rửa xông hương hay là hỏi huynh đau tim hay là ăn quá no! Tứ sư huynh cứ khư khư cái kiểu ấy thì, cả đời đóng cửa đóng xe* đi!”
(*) thành ngữ đóng cửa tạo xe không quan sát đường sá: nhắm mắt làm liều; xa rời thực tế; (ví với chỉ theo ý chủ quan của mình mà làm việc, không cần biết đến thực tế khách quan)
Mặt tốt của kết thúc câu chuyện này là, Đinh Trác bắt đầu tích cực tham gia tỷ thí giữa các đồng môn, còn gặp Thích Vân Kha tỏ ý hy vọng có cơ hội xuống núi học hỏi; còn mặt xấu là sư huynh ‘thúc giục’ chúng đệ tử lại nhiều thêm một vị.
Người thứ hai ăn đao của Thái Chiêu chính là Tống Úc Chi.
Thật ra Tống Úc Chi không hề hứng thú đối với kết quả cuộc đóng cửa tỷ thí ở Phá Trúc hiên, chỉ là muốn tìm cái cớ đi Xuân Linh tiểu trúc thôi.
“Hôm ấy Chiêu Chiêu sư muội tỷ thí cùng Tứ sư đệ kết quả thế nào?” Tống Úc Chi đâu ra đấy hỏi han.
Thái Chiêu đầy kinh ngạc: “Huynh tôi sóng vai nhiều ngày ở U Minh hoàng đạo, lẽ nào huynh lại không biết.”
Tống Úc Chi đương nhiên biết.
Thái Chiêu vốn thắng trên Đinh Trác một bậc, nhưng trước đó cô chỉ tu luyện ở trong Lạc Anh cốc, sau này Ma giáo xông vào ngọn Vạn Thủy Thiên Sơn mới cho cô cơ hội trui luyện. Nhưng lần đó dù sao cũng quá ngắn ngủi, đồng thời còn có bọn Lý Văn Huấn lược trận một bên, ít nhiều cô chắc chắn không lo tính mệnh, không thể so với lần chém giết thực thụ thân thể phó mặc dưới lưỡi đao ở U Minh hoàng đạo.
Giáo chủng Ma giáo không nói tới võ đức, trong mấy ngày liền trải qua nguy hiểm Thái Chiêu lĩnh giáo minh đao ám tiễn các loại không ít, võ nghệ tự nhiên tinh tiến thần tốc. Theo Tống Úc Chi tính toán, trước khi đi U Minh hoàng đạo, trong vòng trăm bảy trăm tám mươi chiêu Thái Chiêu có thể đánh bại Đinh Trác, sau khi từ U Minh hoàng đạo trở về, phỏng chừng Đinh Trác chỉ cầm chừng trên dưới trăm chiêu.
Tống Úc Chi cũng không khéo ăn nói, cuối cùng hỏi thẳng luôn: “Trong bao nhiêu chiêu?”
Thái Chiêu: “Bảy mươi tám chiêu.”
“Nhanh vậy?” Tống Úc Chi hơi giật mình.
“Tôi rút Diễm Dương đao, Tứ sư huynh đau lòng Trường Không kiếm, không dám chính diện đỡ đao tôi.” Thái Chiêu nhún nhún vai.
Tống Úc Chi: “… Đồng môn tỷ thí thôi, cần gì rút Diễm Dương đao chứ.”
“Tôi là vì muốn tốt cho Tứ sư huynh, anh ấy quá để ý, lúc đối địch thể nào cũng bị thiệt thòi.”
Như thế, đối thoại kết thúc.
Cao ngạo lạnh lùng như Tống Úc Chi, cũng phát hiện tiểu sư muội không có hứng tán gẫu; nếu đổi lại trước kia, tiểu cô nương tủm tỉm từ thoại bản đến món mới ra lò, có thể nói nhăng nói cuội cả một đống lời rỗi rãi.
Tống Úc Chi đành tự tìm chuyện nói: “Mấy quyển trục ta đưa tới, sư muội xem rồi nhỉ.”
“Xem cả rồi, thật đẹp mắt, còn đặc sắc hơn thoại bản nữa. Tam sư huynh còn nữa không, cho ít quyển mới đi.”
“…” Tống Úc Chi, “Sư muội không có gì muốn nói với ta sao.”
Thái Chiêu ngẫm nghĩ, “Có, sư huynh đi theo tôi.”
Cô dắt tay áo Tống Úc Chi đi ra, xuyên qua hành lang rồi vườn hoa, đi tới một chòi nghỉ sau vườn của Xuân Linh tiểu trúc, trong chòi nghỉ bày một cây trúc rất dài.
Thái Chiêu nhón mũi chân, nhìn xa xa, “Tôi biết mà, giờ này bọn họ nhất định sẽ đến.”
Địa thế nơi này tương đối cao, vừa kịp có thể nhìn thấy trong bụi cỏ phía dưới cách đó không xa có hai người đang thủ thỉ trò chuyện.
Ấy là Thích Lăng Ba và Đới Phong Trì, nhưng cũng chỉ có thể nhìn thấy đầu hai người họ, không nghe được tiếng nói chuyện.
Thái Chiêu đẩy Tống Úc Chi tới bên cạnh ống trúc, ra hiệu y cúi người xuống nghe — không biết ống trúc được thiết kế thế nào, tiếng nói chuyện cùa Thích Lăng Ba và Đới Phong Trì không ngừng truyền theo ống trúc tới.
“… Không phải hôm qua đã bảo Nhị sư huynh ăn nhiều chút sao, muội thấy hôm nay huynh lại gầy đi rồi.” giọng Thích Lăng Ba.
Đới Phong Trì thở dài, không nói.
“Sao chúng ta cứ phải đến đây trò chuyện, sao Nhị sư huynh không đến Tiên Ngọc Linh Lung cư tìm ta.”
“Tình cảnh ta bây giờ đầy xấu hổ, không muốn liên lụy muội.”
“Lúc đó là Nhị sư huynh bị che mắt mới giúp tên giả mạo kia, cũng đâu phải cố ý nối giáo cho giặc. Ta nói với cha hết rồi, cha nói không có trách Nhị sư huynh gì đâu.”
“Sư phụ từ ái phúc hậu, đương nhiên ông không trách ta. Thế nhưng cả đám đồng môn nhìn ta bằng con mắt thế nào chứ, Tam sư đệ còn có thể phát giác tên giả mạo kia không đúng, mà ta thì không hề để ý.”
“Tam sư huynh từ nhỏ đến lớn đều theo cha, nếu bàn về hiểu cha, đến kẻ làm con như ta cũng không bằng, huống hồ Nhị sư huynh lại lớn lên bên cạnh mẹ. Nhị sư huynh chớ tự trách nữa, ta nhìn rất đau lòng.”
“Lăng Ba, tâm ý của muội ta đều biết, nhưng mà sau này chúng ta vẫn giữ khoảng cách chút tốt hơn. Chúng ta đều lớn cả rồi, không thể như lúc còn bé, nếu muội với ta quá thân thiết, Tam sư đệ không vui thì sao.”
“Không vui? Hứ! trong mắt Tam sư huynh chưa từng có muội, đừng nói ta thân thiết với ai, mà hôm nào đó muội có chết đi, chỉ e anh ấy là người biết cuối cùng đó!”
“Sư muội đừng nói vậy, dù sao thì hai người…Ồi… Sư mẫu có ơn dưỡng dục với ta, ta không thể hại muội. Dù võ nghệ ta kém, nhưng chỉ cần sư muội có lời cần, thiên đao vạn quả ta cũng đến! Nếu trái lời thề, trời tru đất diệt! Hầy, có điều mai này chúng ta bớt gặp nhau đi!”
Thích Lăng Ba qua mãi lâu, mới nói: “… Nhị sư huynh, mấy ngày nay mẹ hay bảo ta, nói ta hãy nghĩ rõ ràng chuyện hôn sự.”
“Sao sư mẫu lại nhắc chuyện này?”
Thích Lăng Ba nói: “Mẹ nói, cuộc sống khi lấy chồng, như người uống nước ấm lạnh tự biết. Quyền thế tôn vinh vô biên, đến cùng có thể đỡ nổi nửa đời cô tịch đa nghi vắng vẻ không, bảo ta hãy nghĩ cho kỹ càng.”
“Sư mẫu, sư mẫu thật sự nói thế sao?” giọng Đới Phong Trì phát run, “Sư muội, sư muội ta…, Ấy ấy, sư muội chờ ta với, chờ ta với…”
Nghe một tràng bước chân, hai người đã đi xa.
Tống Úc Chi thả ống trúc, nhìn Thái Chiêu.
Thái Chiêu cũng nhìn y.
Hai người nhìn nhau một đỗi, cuối cùng Tống Úc Chi nói: “Ống trúc này là muội làm à?”
Thái Chiêu nói: “Sau hôm đầu bắt gặp hai người họ ở đó nói chuyện, tôi đã chặt trúc làm suốt đêm. Chỗ này đủ gần, xa hơn chút nữa âm thanh sẽ truyền không tới.”
“Nghe lén người ta nói chuyện là không đúng.”
“Ờ.”
Hai người lại đối mặt lần nữa.
Một lát sau, vẫn là Tống Úc Chi thua trận: “Muội bảo ta tới nghe chuyện này, là ý gì?”
“Đâu có ý gì, Tam sư huynh nghĩ sao.”
Tống Úc Chi trầm ngâm một lát, “Hôn ước của ta và Lăng Ba…”
“Tam sư huynh không cần giải thích.” Thái Chiêu xoay người đi, tiêu sái khoát tay sau lưng, “Từ bé tôi đã thích nghe lỏm chuyện, không thích nghe người ta giải thích.”
Sau đó, người buồn bực không vui trong Tông môn, thêm một Tống Úc Chi.
Đợt thứ ba đụng vào đao của Thái Chiêu, là một đám người.
Bấy giờ tình hình trên đỉnh Vạn thủy Thiên Sơn rất diệu vợi, Tống với Thái, Tống với Thích, Thích với Đới, đúng là rắc rối phức tạp thay đổi liên tục, đệ tử trong Tông môn ít ra cũng có mấy trăm, dĩ nhiên có lời ra tiếng vào. Rất nhiều người, ít thì là nháy mắt ra hiệu nói đến cười đểu một tiếng, còn kẻ bụng dạ không tốt không khỏi thọc ra ít câu ô ngôn uế ngữ.
Nhưng không biết thế nào, thường thường sau khi bọn hắn cười toe toét xì xầm xong, ngay sau đó sẽ phát hiện Tiểu Thái sư muội ngồi xổm một bên, cười tủm tỉm không biết đã nghe ngóng bao lâu. Đợi cô phủi váy đứng dậy, là sẽ ‘thỉnh giáo’ chư vị đồng môn một phen.
Đâu thể không nhận lời, vì không nhận thì cô cũng đánh, sau một trận bị đánh tơi bời không nói câu nào, mọi người mặt mũi sưng húp dắt díu nhau về, đau ít nhất cũng mất mấy ngày.
Nếu xì xầm về cô không phải mà bị đánh một trận thì cũng thôi, đáng hận là, có khi chúng đệ tử chỉ kháo chuyện xấu ở tuổi xế chiều giữa thím Ba nhà bếp đang thủ tiết với chú Năm sau núi, cũng bị đánh giống vậy luôn.
Cậu quỳ xuống xin tha, cô bé sẽ lấy câu đệ tử một Tông đứng đầu Bắc Thần không thể không có cốt khí đánh cậu;
Cậu nằm ngửa nhận thua ‘muốn đánh thì cô đánh đi’, cô bé sẽ dùng ‘chưa từng nghe yêu cầu thế này nên buộc phải thỏa mãn thôi’ mà đánh cậu;
Thảng như mấy hôm trước cậu vừa mới bị đánh, cô bé sẽ nói ‘Kẻ sĩ ba ngày không gặp chùi mắt mà trông, để sư muội lĩnh giáo thử xem có phải sư huynh của hôm nay mạnh hơn sư huynh của mấy hôm trước không’, sau đó vòng vèo lại cũng đánh.
Mọi người kêu trời gọi đất bẩm đến trước mặt Tằng Đại Lâu, Thái Chiêu liền tỏ ý tất thảy đều là ‘so tài’, đồng môn so tài thì có thể có ý đồ gì xấu chứ, tất cả chỉ là hiểu lầm cả, thế là Tằng Đại Lâu cũng đâu tiện nói gì.
Mọi người khóc sướt mướt bẩm báo đến trước mặt Tống Úc Chi, Tống Úc Chi sẽ mặt đầy âm u đánh chúng đệ tử thêm trận nữa, đặt tên cho hay là ‘Mất bò mới lo làm chuồng’.
Cứ thế náo loạn một trận, lập tức Thanh Khuyết tông chuyển thành yên ắng vô cùng, chúng đệ tử chỉ biết vùi đầu tập võ, không dám tiếp tục nói người ta không phải, trong khoảnh khắc Thái Chiêu không tìm được ai luận bàn, cảm thấy thế gian này thật tịch mịch như tuyết.
Một ngày nọ, cô dạo bước khắp núi, vô tình tản bộ đến chỗ rừng bia sau núi, phát hiện sư bá Lý Văn Huấn đang đứng trong đó, ngẩn người ngước nhìn bia đá cao vút.
Vạt rừng bia này được xây dựa vào núi, bốn phía cỏ dại rậm rạp, hoang vu lạnh lẽo, càng thêm u ám ẩm ướt, gió u u quỷ dị.
Với phong thuỷ ấy, dĩ nhiên khắc trên tấm bia đá kia không phải anh hùng sự nghiệp to lớn gì, mà là chuyện ác nghiệt đồ Thanh Khuyết tông qua các đời, khi sư diệt tổ, ám hại đồng môn, trộm luyện tà công, mưu phản tông môn, tất nhiên cũng có cấu kết Ma giáo…
Thái Chiêu vội chắp tay hành lễ: “Đệ tử bái kiến Lý sư bá.”
Lý Văn Huấn ừ đáp, chỉ một chỗ bia đá còn trống trơn trong đó, “Câu chuyện Khâu Nhân Kiệt, nên khắc thế nào đây?”
Thái Chiêu ngây ra, giờ mới hiểu được ý ông.
Lý Văn Huấn nói: “Khâu Nhân Kiệt phản bội sư môn, cấu kết Ma giáo, ám toán chưởng môn, nên ngàn tùng vạn xẻo trước mặt đệ tử gia mới phải. Cho anh ta tự vận xem như đã có hời.”
Thái Chiêu nhớ vị Lý sư bá này cũng kiêm cả việc nắm hình pháp Tông môn, tự dưng rụt cổ.
“Kẻ tội nhân vứt xác nơi hoang dã, việc ác rõ ràng trên đời, còn anh linh liệt sĩ hào kiệt thờ phụng trong cung Mộ Vi, ấy mới là thiện ác tất báo!” Lý Văn Huấn ngoảnh đầu lại, “Chiêu Chiêu, tuy cô chỉ thuộc tông môn trên danh nghĩa, nhưng cũng phải luôn ghi nhớ luật lệ của bản môn đấy.”
Mồ hôi rịn đầy trán Thái Chiêu, luôn miệng dạ vâng.
Bị ám hiệu không hiểu thấu chặn đường, cô ủ rũ cụp đầu quay về Xuân Linh tiểu trúc, tiếp tục luyện công, thả câu, xem thoại bản, thi thoảng ‘luận võ’ với đồng môn sống cuộc sống yên bình.
Thời gian dần trôi, tựa như cô đã quên đi cái tên âm dương quái khí kia, cái tên khiến tim cô đau nhói.
Thấm thoắt, hơn một tháng vội qua, sắp đến ngày tế bái Thường thị.
Có câu có việc thì đệ tử làm thay, dưới ghế Thích Vân Kha có bảy đệ tử đích truyền, ngoài Đại đệ tử Tằng Đại Lâu phải ở lại Tông môn xử lý việc vặt, sáu người còn lại đều phái ra, đi trước một bước đến Thường gia bảo chuẩn bị đại nghi lễ tế điện.
Đợi sau khi Thích Vân Kha Chu Trí Trăn Thái Bình Xuân tụ hợp, ba vị chưởng môn sẽ cùng đến tế bái, tỏ kính ý đến Thường Hạo Sinh đại hiệp đã qua đời.
Đến ngày lên đường, sáu đệ tử do Đới Phong Trì dẫn đầu, cộng thêm hơn mười đệ tử nội ngoại môn võ nghệ cao cường, đồng loạt bái biệt Thích Vân Kha, xuống núi.
Khu nhà chính của Thường thị vốn nằm trong một tiểu trấn dưới núi Vũ An, là vọng tộc nơi đó. Sau vì tránh né Nhiếp Hằng Thành giết chóc, Thường Hạo Sinh dựng một khu ổ bảo trên núi Vũ An, dời cả nhà lên.
Mà Thái Sơ Quán cách núi Vũ An không xa, do đó sau khi đệ tử Thanh Khuyết tông đến nơi, đã đưa danh thiếp bái kiến chưởng môn đương nhiệm Vương Nguyên Kính trước tiên.
Từ sau khi xảy ra thảm sự Vũ Nguyên Anh, Thái Sơ Quán có phần khó ngóc đầu trên giang hồ, vừa thoáng ló mặt là có người đến châm chọc mấp mé, hoặc cảm thương cho Vũ Nguyên Anh năm đó anh liệt, hoặc chửi rủa Cầu Nguyên Phong vô sỉ, tóm lại làm đệ tử Thái Sơ Quán lúng túng không thôi.
Sau khi Vương Nguyên Kính kế vị chưởng môn, dứt khoát đóng cửa sống qua ngày, tránh quãng tai tiếng trong thời gian này hẵng tính.
Đến khi Đới Phong Trì đưa bái thiếp đến, Vương Nguyên Kính đương nhỡ tay luyện đan không tiện rời đi, bèn sai mấy đệ tử dẫn đường cho Thanh Khuyết tông lên núi Vũ An. Lý Nguyên Mẫn vốn mang chữ lót nhỏ nhất, hào hứng làm bạn đồng hành.
Núi Vũ An ở đây ai cũng có thể lên, song ổ bảo nhà họ Thường ở chỗ nào trong núi thì mười mấy năm qua chẳng ai biết được. Núi Vũ An lại là một hòn núi khá rộng lớn, muốn mò mẫm từng tấc không khác nào mò kim đáy biển.
Nhưng từ khi pháp trận xung quanh Thường gia bảo bị phá, chuyến đi lần này thấy không sót một thứ gì.
Dưới sự dẫn đường của đệ tử Thái Sơ Quán, đã tìm được Thường gia bảo bị thiêu huỷ đổ nát trong một khe núi.
Lúc này sắc trời đã tối, dưới ánh sáng lờ mờ, ngói vỡ lung tung vương đầy đất, phơi bày rõ cảnh thịnh vượng xưa kia của Thường thị Vũ An, giờ đây hủy hết.
Lý Nguyên Mẫn thở dài: “Chỗ này bị kẻ tặc Ma giáo phá huỷ không còn dáng hình, còn thả một mồi lửa, đốt mấy ngày chưa tắt, không còn sót lại thứ gì. Sau đó bọn ta chỉ có thể chắp vá nhặt mấy xác chết cháy, cùng chôn chỗ nghĩa địa sau núi.”
Dù rằng tu vi Đới Phong Trì chỉ có vậy, nhưng xem như đối nhân xử thế thì không tầm thường, lập tức luôn miệng tán thưởng Thái Sơ Quán lòng dạ nhân hậu vân vân, làm đệ tử Thái Sơ Quán bị hắt hủi mấy tháng tự dưng cảm thấy nở mũi.
Sau một hồi buôn bán đầy nhu tình mật ý thổi phồng lẫn nhau, đệ tử hai phái dắt nhau ra nghĩa địa phía sau núi, vốn là chỗ chôn cất người trong tộc Thường thị, sau đó không lâu tro cốt của Thường Hạo Sinh cũng được nhập táng. Ai ngờ vừa mới chuyển qua vách núi, đã thấy trước nấm mồ vốn chỉ trơ trọi một tấm bia đá là một đám người bọc binh giới đang đứng, vẻ mặt đầy cung kính. Một chỗ rất nhiều người đứng thế mà thật im ắng, chỉ nghe gió núi từng hồi.
Đứng chính giữa đám người như quỷ mị này, là một thanh niên mặc huyền bào cao lớn.
Ánh trăng bàng bạc từ vách núi cuối cùng đã rơi xuống, xuyên qua rừng đá thưa thớt, trải một vệt sáng nhẹ thật dài lên nghĩa địa hoang dã. Thanh niên đứng đó khuất bóng, khuôn mặt sâu sắc đẹp đẽ, lạnh lùng uy nghiêm.
Hắn nhìn thấy đám người, có phần kinh ngạc, ngay sau đó ánh mắt xuyên qua đám người, dừng ở một góc nào đó sau lưng Tống Úc Chi.
Trái tim Thái Chiêu chợt đau nhói mãnh liệt, vội cúi đầu.Bà Quan: Nói lời giữ lời, nam chính xuất hiện.
Bình luận truyện