Giấy Ngắn Tình Dài – The Cardesiseur [Hệ Liệt 2]
Quyển 1 - Chương 12: Còn có dã tâm không nhỏ
Hội trường khi không còn tiếng ồn sẽ thật giống như một nơi hoang vu. Ánh đèn tắt xuống, để lại một bóng dáng gần như lẫn vào bóng tối, tịch mịch, lặng yên.
Tề Cao Vân đứng một mình trong hội trường rất lâu, dù cho Vưu Hạ đã đi trước tự bao giờ. Một tia sáng len vào từ nơi cửa phòng, chiếu thẳng đến mũi giày màu đen của hắn. Mũi giày bóng loáng, sạch sẽ, bất động trên mặt đất.
Không thể biết được Tề Cao Vân hiện tại đang suy tư điều gì, chỉ khi chuẩn bị đi khỏi chỗ đó, khóe môi hắn nhạt nhòa kéo ra một đường nhỏ, nhưng rất nhanh liền biến mất.
Trong phòng nghỉ ngơi, Tưởng Nghị rót một tách trà ấm, đẩy tới phía đối diện, nở một nụ cười nói: “Sao rồi? Sau khi chào hỏi với nó, cậu có nhận xét gì không?”
Tề Cao Vân rũ mắt, nâng tách trà lên thong thả uống một ngụm. Vẻ mặt tức giận khi nãy tại phòng hội trường thoáng cái đã tan biến. Tưởng Nghị cũng nâng tách trà trong tay, nhưng ông không vội vàng uống như đối phương mà mân mê viền tách một chút rồi mới chậm rãi thưởng thức.
Loại trà mà Tưởng Nghị thích nhất chính là hoàng trà, hay còn gọi là trà vàng. Cách chế biến loại trà này tương tự như trà xanh, có điều nó thường được chất đống và hấp nhẹ. Việc này khiến cho các diệp lục tố mất đi từ từ, giúp cho thành phần xanthophylls có màu vàng hiện ra rõ ràng hơn. Đó là lý do vì sao cánh lẫn nước trà đều có một màu vàng óng.
Vì sao lại phải lấy màu vàng?
Có giả thuyết nói vì loại trà này ngày xưa thường được dùng để dâng lên hoàng đế, mà hoàng đế thì thích mọi thứ đều là màu vàng. Giả thuyết này không thể nói đúng hay sai, vì lý do thật sự hiếm ai có thể biết đến.
Tề Cao Vân đặt tách trà về chỗ cũ, nhàn nhạt đáp: “Không tệ.”
Tưởng Nghị ngước mắt nhìn hắn: “Không cần kiệm lời như vàng thế chứ? Không tệ là thế nào? Cậu ưng mắt nó sao?”
Tề Cao Vân nhíu mày: “Ông ăn nói cho cẩn thận. Đó chỉ là cảm giác của tôi sau khi nói chuyện với cậu ta lần đầu tiên thôi. Không tệ, tức là rất có năng lực, cũng có bản lĩnh. Ngoài ra còn có dã tâm không nhỏ.”
“Dã tâm?” Tưởng Nghị đầy nghi hoặc, vội uống thêm một ngụm trà nữa, “Dã tâm gì?”
Tề Cao Vân gác tay lên thành vịn, các đầu ngón tay nhẹ nhàng gõ thành nhịp, bỗng nhớ lại cuộc trò chuyện trước đó với Vưu Hạ. Từ ánh mắt đến giọng điệu khiến cho hắn hoài nghi, liệu có phải vì người này có bệ đỡ khổng lồ sau lưng nên mới dám mạnh miệng như thế hay không?
Hay đây chính là bản chất thật sự của người đó?
Hơn nữa, điều khiến cho Tề Cao Vân cảm thấy ấn tượng về Vưu Hạ chính là đôi mắt. Màu mắt thật sự hiếm thấy, không những đặc biệt mà còn có khả năng mê hoặc đối phương.
Nhưng đối phương đáng tiếc không phải là hắn.
Tề Cao Vân nhếch nhẹ khóe môi, bỗng nói: “Tôi bắt đầu nóng lòng muốn cho cậu ta nếm thử mùi vị tuyệt vọng rồi.”
Tưởng Nghị ban đầu hơi bất ngờ, lát sau đã nghển cằm cười ha hả mấy tiếng: “Vậy tôi đây sẽ chính thức làm khán giả, ngồi một bên chiêm ngưỡng kịch hay.”
Tề Cao Vân cũng mỉm cười, ánh mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, nắng thật nhạt, giống như trong đôi mắt của hắn, chưa bao giờ đọng lại một chút cảm xúc nào.
—
Võ đường Phong Vũ.
Tiếng đọc bài của trẻ con lanh lảnh dứt khoát đồng thanh vọng ra ngoài cửa. Kỳ Họa Niên rẽ lái chạy vào góc vườn nhỏ, để xe đạp báu vật sát vào vách tường rồi khóa lại rất cẩn thận. Mặc dù cậu biết rõ con ngựa chiến cũ kỹ này có vứt giữa đường cũng không có ma nào thèm, nhưng vì đây là món đồ quý giá nhất mà ba cậu để lại, cho nên cậu càng không muốn bị mất nó.
Xong xuôi, Kỳ Họa Niên sửa soạn lại quần áo rồi mới ôm cặp chạy nhanh đến cửa lớn. Ngay khi có một bóng người thấp thoáng nơi ngạch cửa, một số đứa trẻ miệng còn gắng sức rống to bỗng hạ thấp âm thanh, đôi mắt dáo dác ngó ra ngoài đó, môi cong cong cười tủm tỉm.
Quan Phi vốn dĩ đang quay lưng về phía cửa lớn nên không hề phát hiện có người đang đứng. Ông nhắm hờ mắt, đầu gật gù theo từng lời đọc của bọn trẻ.
Một lát sau, bên cạnh ông bất ngờ xuất hiện một bóng người thấp thỏm, cất tiếng chào lễ phép: “Em chào thầy, thầy Quan.”
Quan Phi hé mắt, dùng dư quang để nhận dạng đối phương. Đó là một khuôn mặt ngăm ngăm bởi vì rám nắng, còn có nụ cười dịu dàng ấm áp như mọi ngày. Kỳ Họa Niên căng thẳng nở một nụ cười với Quan Phi, trong lòng vẫn cố trấn an bản thân, cho dù có bị thầy đánh cũng phải im lặng nhẫn nhịn.
Tất nhiên, Quan Phi không làm trò bạo lực học đường đấy. Ông chắp hai tay ra sau lưng, tấm lưng thẳng tắp, bả vai rộng bốn tấc, bắp thịt ở cánh tay và lồng ngực săn chắc. Từng đường nét mạnh mẽ ấy được gói gọn trong bộ quần áo truyền thống của võ quyền.
Cuốn sách bị cuộn tròn nằm trong lòng bàn tay to lớn. Quan Phi ngẩng mặt nhìn Kỳ Họa Niên hồi lâu mới nói: “Đúng lúc lắm, nếu đã có mặt rồi thì tôi sẽ hỏi em một vài câu, em sẽ phải trả lời trong vòng ba giây. Sau ba giây mà không có được câu trả lời rành mạch chính xác thì đừng bao giờ xuất hiện nữa.”
Đám học đệ của Kỳ Họa Niên còn rất nhỏ, nghe thấy lời khiêu khích của thầy, ai nấy đều trắng cả mặt, lặng lẽ lùi ra phía sau một chút. Trong đám người “đã quá thành thạo” môn võ này rồi có Gia Thanh là bạn thân của cậu, nhưng gã cũng chẳng dám hó hé nửa lời, căng thẳng quan sát khung cảnh đẫm nước mắt lúc này.
Quan Phi rướn chân mày: “Sao? Quên hết rồi chứ gì.”
Ngay lập tức, Kỳ Họa Niên mỉm cười, bình tĩnh đáp: “Thầy hỏi đi ạ.”
“Được, câu thứ nhất, giải thích lý thuyết “dùng bộ pháp tìm tay đối thủ” và“dùng eo xoay phá giải đòn công của địch”.”
Trong bụng Quan Phi nhanh chóng đếm thầm: Một…hai…
Kỳ Họa Niên nghĩ rất nhanh: “Lúc tiến theo thế “đạp bộ” hay còn gọi là “leo núi”, chân trước bước kéo chân sau theo, trọng tâm thân thể luôn đặt tại chân sau. Lúc địch thủ tấn công, thế “chuyển mã” dời trung tâm tuyến và dẫn đòn đối thủ vào khoảng không.”
Tiếng đếm thứ ba lặng lẽ rơi vào dĩ vãng.
Quan Phi mặt không đổi sắc hỏi tiếp: “Ba thế cước của Tầm Kiều là gì?”
“Ba thế cước đó là đề thoái, trực đăng thoái và trắc sanh thoái, thưa thầy.”
Cơn giận trong lòng Quan Phi lúc này đã phần nào lắng xuống, nhưng ông nào có dễ dàng bỏ qua cho Kỳ Họa Niên như vậy. Tuy muốn mỉm cười hài lòng nhưng không được, ông phải nghiêm mặt hơn nữa.
“Vậy câu cuối đây, nghe cho rõ. Tiêu Chỉ áp dụng những nguyên lý nào?”
Hai câu trước khá đơn giản cho Kỳ Họa Niên, nhưng khi đến câu này thì cậu lập tức khựng lại. Cậu rũ mắt nhìn xuống đôi giày màu đen của mình, hít sâu một hơi để nhớ lại kiến thức cũ.
Quan Phi phát hiện bộ dạng ngập ngừng của cậu, khóe môi nhếch lên: “Một…hai…b–“
“Áp dụng nguyên lý “dĩ công vi thủ”, “dĩ đả vi tiêu”,“hậu phát dĩ tiên chí”, “dùng eo phát lực” và“lực quán chỉ”, thưa thầy.”
Sau khi trả lời xong, Kỳ Họa Niên nhẹ nhàng cười một cái.
Gia Thanh ngồi đằng xa âm thầm bật ngón cái tán dương, nhìn mấy đứa trong đám bằng vẻ mặt đắc ý “bọn mày thấy bạn tao ngầu chưa?”.
Đầu mày của Quan Phi đã hoàn toàn dãn ra, ông không kìm được cười lên một tiếng đầy thỏa mãn. Cánh tay vỗ vỗ lên vai Kỳ Họa Niên, trong lòng tự hào “quả nhiên là học trò cưng của mình”.
Sau màn khảo bài của thầy Quan Phi, mọi người bắt đầu đi vào chia nhóm tập luyện. Kỳ Họa Niên để cặp ở một góc rồi tự tập riêng một mình. Quan Phi đứng đằng xa lặng lẽ quan sát cậu, đáy mắt vừa bồn chồn vừa lo lắng. Dù sao chỉ còn một tuần nữa là đến cuộc thi rồi, đối thủ của họ cũng không phải dạng vừa, mà người được ứng cử đi thi chỉ có bốn nam sinh, trong đó có Gia Thanh và Kỳ Họa Niên.
Quan Phi không lo lắng cho ba nam sinh còn lại cho lắm, vì từ trước đến giờ ông chỉ quan tâm đến mỗi Kỳ Họa Niên mà thôi. Cậu là một học trò thông minh và nhiệt huyết, là người đã phần nào khơi dậy niềm đam mê mãnh liệt lúc trẻ của ông. Cho nên việc con gà cưng này đột ngột nghỉ liên tiếp mấy buổi làm cho ông sốt ruột chết đi được.
Trong lúc mọi người đang luyện tập thì Quan Phi âm thầm kéo tay Gia Thanh ra khỏi võ đường để nói chuyện.
Ông chắp hai tay sau lưng, thở dài một hơi: “Sắp đến cuộc thi rồi, thầy rất lo cho Họa Niên. Môn võ này ngoài sự nhanh nhẹn dứt khoát còn cần độ tập trung cao. Mà em biết đó, thằng bé này nó thông minh nhanh nhạy, nhưng chỉ cần một tác động nhỏ cũng có thể khiến nó xao nhãng. Nghỉ liên tục mấy buổi, phong thái có vẻ đã xuống đi không ít.”
Gia Thanh hiểu được suy nghĩ và nỗi lo của ông, gã nghiêm túc lắng nghe, hồi sau mới đáp: “Em cũng biết những gì mà thầy lo lắng rồi, nhưng thầy phải tin tưởng cậu ấy. Họa Niên trước giờ nói được làm được, chưa bao giờ khiến cho ai phải thất vọng cả. Việc vắng mấy buổi ở võ đường thì ai cũng biết lý do, thậm chí cậu ấy còn bùng học ở trường chỉ vì phải lo cho bà đang nằm viện, buổi tối thì đi làm thêm. Cho nên bọn em lúc nào cũng muốn ở bên cạnh động viên cậu ấy nhiều nhất có thể.”
Ánh mắt Quan Phi lắng xuống. Ông im lặng quay đầu nhìn Kỳ Họa Niên, cậu đang tự tập một mình, thái độ cực kỳ nghiêm túc, bỗng nhiên làm cho khóe mắt ông cay cay.
“Thế nên thầy càng không muốn thúc ép hay áp lực cho Họa Niên. Chuyện của bà em ấy, nếu có gì khó khăn thì em hãy nói với thầy được không?”
Gia Thanh quay sang nhìn ông, có chút khó xử nói: “Em nghĩ là không nên ạ, chúng ta không nên…”
Quan Phi ngầm hiểu ý tứ của gã, bèn mỉm cười: “Tính tình của Họa Niên rất tốt bụng, rất nhiệt tình, nhưng cái tôi thì cũng rất cao. Em đang muốn nói là thầy đừng chủ động giúp đỡ chứ gì, em ấy chắc chắn sẽ không nhận đúng không?”
Gia Thang nghe xong lập tức gật mạnh đầu.
“Đừng lo, chúng ta âm thầm giúp đỡ là được rồi.”
Khi Gia Thanh quay lại, Kỳ Họa Niên đã tập xong bài Tầm Kiều. Gia Thanh gác tay lên vai cậu, bộ dạng có chút ngả ngớn, cười hỏi: “Tập quen lại chưa? Lấy lại phong độ chưa nào?”
Kỳ Họa Niên xoay xoay khớp vai, cười một tiếng: “Trước kia có phong độ sao?”
Gia Thanh trừng mắt, rõ ràng cảm thấy ấm ức: “Mẹ, trước kia cậu không phong độ thì thằng quèn nào trong lớp này có chứ?”
“Cậu cũng có mà.”
Gia Thanh cười ha hả: “Tất nhiên rồi, nhưng phong độ của ông đây không bằng cậu được. Nghe nói bọn bên Mộc Xuân khủng khiếp lắm, trâu bò không đó. Bọn nó được mệnh danh là gấu gỗ.”
“Gấu gỗ?” Kỳ Họa Niên cảm giác biệt danh này rất trào phúng, “Cái này gọi là khen thật à? Người ta thường mắng là đầu gỗ, chân gỗ cả đấy thôi.”
Gia Thanh sờ sờ cằm: “Ờ ha, chẳng hiểu sao có biệt danh hãm tài này nữa. Nhưng mà bọn nó trâu bò là thật, từng xem qua một clip rồi. Đánh mà ruột gan phèo phổi muốn lộn vài vòng luôn vậy đó.”
“Vậy cậu nên băng khắp người lại đi, cố định nội tạng cho lành.”
“Đậu, nghe mất mặt quá! Tập đi, tớ tập chung với cậu.”
Sau đó, cả hai đấu với nhau đến khi mệt lã người mới dừng lại. Thời gian không còn sớm, ngoài trời đã chập tối, có ánh hoàng hôn nào rơi xuống trước bậc tam cấp của võ đường.
Kỳ Họa Niên đi qua soạn cặp đeo lên vai, lúc xoay người nhìn ra hướng cửa chính, bất chợt ngây người.
Sắc hoàng hôn đẹp nhất đang ở ngay trước mắt cậu.
Bên ngoài, bầu trời đỏ rực như lửa thiêu, từng tầng mây chậm rãi tản ra nơi đường chân trời, lại giống như đang trốn cả sau những rặng cây cao.
Có tia sáng nhạt nhòa vẽ trên mũi cậu, ấm áp, dịu dàng.
Trong các buổi của một ngày, Kỳ Họa Niên thích nhất là xế chiều. Sắc trời nửa sáng nửa tối ấy, những tia nắng sắp sửa lụi tàn ấy, không hiểu vì sao lại đẹp đến như vậy. Một sự tĩnh lặng sâu trong tâm hồn, một sự cô đơn đè nặng lên lồng ngực. Có điều, cậu yêu thích lối sống tĩnh lặng này, thích vị thanh đặc của trà sớm, thích quấn quýt cùng bốn chú mèo mồ côi, thích dầm trong mồ hôi sau mỗi bài quyền, thích dùng màu sắc để vẽ lại tâm trí của bản thân,…
Lý Thiệu Lâm từng nói với cậu một câu khi cả hai ngồi trên ngọn đồi ngắm hoàng hôn: Hoàng hôn đúng là rất đẹp, nhưng nó mang theo một vẻ đẹp rất cô độc. Đó là sự lẻ loi còn sót lại sau một ngày ồn ào náo nhiệt…
Kỳ Họa Niên nghe vậy liền mỉm cười, đáp chẳng đầu chẳng đuôi: Tôi sẽ vẽ một bức tranh hoàng hôn đẹp nhất trên đời này. Màu đỏ, chính là màu đẹp nhất.
Lý Thiệu Lâm chống ngược hai tay ra sau, ngả người một chút, kiên nhẫn ngắm nhìn mặt trời thật sự biến mất mới nói: Khi nào cậu vẽ xong bức tranh ấy, tôi lập tức mua ngay với giá cao ngất ngưởng.
Kỳ Họa Niên còn nhớ lúc đó hình như cậu còn thật sự ra giá cho bức tranh chưa vẽ của mình, giá rất cao, vậy mà Lý Thiệu Lâm vẫn đồng ý, còn ghi hẳn một giấy nợ.
Xúc cảm đột ngột dâng lên trong lòng khiến Kỳ Họa Niên cảm giác khó thở. Cậu thu tầm mắt, quay người tìm kiếm Gia Thanh. Gia Thanh từ xa phóng tới, lôi cậu ra khỏi võ đường.
“Một lát nữa cậu đến bệnh viện luôn hay là về nhà?”
Kỳ Họa Niên bên này đang mở khóa xe. Sau đó cậu ném cặp vào rổ xe, ngồi lên, chống chân trên bàn đạp, nghĩ nghĩ chốc lát: “Về nhà tắm rửa đã rồi mới vào viện. Trong viện giờ này có y tá trông hộ rồi, không sao.”
Gia Thanh còn lề mề chưa xong, miệng liến thoắng: “Ok ok, vậy tớ qua nhà cậu, nấu một bữa cho cậu ăn nhá. À, bốn con mèo kia, tớ đem về chăm giúp mấy hôm được không?”
Kỳ Họa Niên gác tay lên tay lái, lắc đầu, mỉm cười nói: “Không được. Chị Lệ Linh giành chăm sóc trước rồi. Cậu hết cửa nhá.”
“Lệ Linh?” Gia Thanh thình lình quay đầu nhìn đối phương, nào ai có thể phát hiện trong mắt gã xuất hiện vài tia mừng rỡ rất lén lút, “Chị Lệ Linh trông bốn con mèo rồi hả?”
“Ừ, chị ấy trông được mấy hôm rồi.” Kỳ Họa Niên không còn kiên nhẫn đợi, đạp một cái, xe lăn bánh, “Mau lên mau lên, cậu lề mề thật đó!”
Kỳ Họa Niên đi trước, Gia Thanh vội vã phóng lên xe, đuổi theo sát sao. Bóng lưng của hai thiếu niên dần dần nhòa đi trong ánh chiều tà.
Tề Cao Vân đứng một mình trong hội trường rất lâu, dù cho Vưu Hạ đã đi trước tự bao giờ. Một tia sáng len vào từ nơi cửa phòng, chiếu thẳng đến mũi giày màu đen của hắn. Mũi giày bóng loáng, sạch sẽ, bất động trên mặt đất.
Không thể biết được Tề Cao Vân hiện tại đang suy tư điều gì, chỉ khi chuẩn bị đi khỏi chỗ đó, khóe môi hắn nhạt nhòa kéo ra một đường nhỏ, nhưng rất nhanh liền biến mất.
Trong phòng nghỉ ngơi, Tưởng Nghị rót một tách trà ấm, đẩy tới phía đối diện, nở một nụ cười nói: “Sao rồi? Sau khi chào hỏi với nó, cậu có nhận xét gì không?”
Tề Cao Vân rũ mắt, nâng tách trà lên thong thả uống một ngụm. Vẻ mặt tức giận khi nãy tại phòng hội trường thoáng cái đã tan biến. Tưởng Nghị cũng nâng tách trà trong tay, nhưng ông không vội vàng uống như đối phương mà mân mê viền tách một chút rồi mới chậm rãi thưởng thức.
Loại trà mà Tưởng Nghị thích nhất chính là hoàng trà, hay còn gọi là trà vàng. Cách chế biến loại trà này tương tự như trà xanh, có điều nó thường được chất đống và hấp nhẹ. Việc này khiến cho các diệp lục tố mất đi từ từ, giúp cho thành phần xanthophylls có màu vàng hiện ra rõ ràng hơn. Đó là lý do vì sao cánh lẫn nước trà đều có một màu vàng óng.
Vì sao lại phải lấy màu vàng?
Có giả thuyết nói vì loại trà này ngày xưa thường được dùng để dâng lên hoàng đế, mà hoàng đế thì thích mọi thứ đều là màu vàng. Giả thuyết này không thể nói đúng hay sai, vì lý do thật sự hiếm ai có thể biết đến.
Tề Cao Vân đặt tách trà về chỗ cũ, nhàn nhạt đáp: “Không tệ.”
Tưởng Nghị ngước mắt nhìn hắn: “Không cần kiệm lời như vàng thế chứ? Không tệ là thế nào? Cậu ưng mắt nó sao?”
Tề Cao Vân nhíu mày: “Ông ăn nói cho cẩn thận. Đó chỉ là cảm giác của tôi sau khi nói chuyện với cậu ta lần đầu tiên thôi. Không tệ, tức là rất có năng lực, cũng có bản lĩnh. Ngoài ra còn có dã tâm không nhỏ.”
“Dã tâm?” Tưởng Nghị đầy nghi hoặc, vội uống thêm một ngụm trà nữa, “Dã tâm gì?”
Tề Cao Vân gác tay lên thành vịn, các đầu ngón tay nhẹ nhàng gõ thành nhịp, bỗng nhớ lại cuộc trò chuyện trước đó với Vưu Hạ. Từ ánh mắt đến giọng điệu khiến cho hắn hoài nghi, liệu có phải vì người này có bệ đỡ khổng lồ sau lưng nên mới dám mạnh miệng như thế hay không?
Hay đây chính là bản chất thật sự của người đó?
Hơn nữa, điều khiến cho Tề Cao Vân cảm thấy ấn tượng về Vưu Hạ chính là đôi mắt. Màu mắt thật sự hiếm thấy, không những đặc biệt mà còn có khả năng mê hoặc đối phương.
Nhưng đối phương đáng tiếc không phải là hắn.
Tề Cao Vân nhếch nhẹ khóe môi, bỗng nói: “Tôi bắt đầu nóng lòng muốn cho cậu ta nếm thử mùi vị tuyệt vọng rồi.”
Tưởng Nghị ban đầu hơi bất ngờ, lát sau đã nghển cằm cười ha hả mấy tiếng: “Vậy tôi đây sẽ chính thức làm khán giả, ngồi một bên chiêm ngưỡng kịch hay.”
Tề Cao Vân cũng mỉm cười, ánh mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, nắng thật nhạt, giống như trong đôi mắt của hắn, chưa bao giờ đọng lại một chút cảm xúc nào.
—
Võ đường Phong Vũ.
Tiếng đọc bài của trẻ con lanh lảnh dứt khoát đồng thanh vọng ra ngoài cửa. Kỳ Họa Niên rẽ lái chạy vào góc vườn nhỏ, để xe đạp báu vật sát vào vách tường rồi khóa lại rất cẩn thận. Mặc dù cậu biết rõ con ngựa chiến cũ kỹ này có vứt giữa đường cũng không có ma nào thèm, nhưng vì đây là món đồ quý giá nhất mà ba cậu để lại, cho nên cậu càng không muốn bị mất nó.
Xong xuôi, Kỳ Họa Niên sửa soạn lại quần áo rồi mới ôm cặp chạy nhanh đến cửa lớn. Ngay khi có một bóng người thấp thoáng nơi ngạch cửa, một số đứa trẻ miệng còn gắng sức rống to bỗng hạ thấp âm thanh, đôi mắt dáo dác ngó ra ngoài đó, môi cong cong cười tủm tỉm.
Quan Phi vốn dĩ đang quay lưng về phía cửa lớn nên không hề phát hiện có người đang đứng. Ông nhắm hờ mắt, đầu gật gù theo từng lời đọc của bọn trẻ.
Một lát sau, bên cạnh ông bất ngờ xuất hiện một bóng người thấp thỏm, cất tiếng chào lễ phép: “Em chào thầy, thầy Quan.”
Quan Phi hé mắt, dùng dư quang để nhận dạng đối phương. Đó là một khuôn mặt ngăm ngăm bởi vì rám nắng, còn có nụ cười dịu dàng ấm áp như mọi ngày. Kỳ Họa Niên căng thẳng nở một nụ cười với Quan Phi, trong lòng vẫn cố trấn an bản thân, cho dù có bị thầy đánh cũng phải im lặng nhẫn nhịn.
Tất nhiên, Quan Phi không làm trò bạo lực học đường đấy. Ông chắp hai tay ra sau lưng, tấm lưng thẳng tắp, bả vai rộng bốn tấc, bắp thịt ở cánh tay và lồng ngực săn chắc. Từng đường nét mạnh mẽ ấy được gói gọn trong bộ quần áo truyền thống của võ quyền.
Cuốn sách bị cuộn tròn nằm trong lòng bàn tay to lớn. Quan Phi ngẩng mặt nhìn Kỳ Họa Niên hồi lâu mới nói: “Đúng lúc lắm, nếu đã có mặt rồi thì tôi sẽ hỏi em một vài câu, em sẽ phải trả lời trong vòng ba giây. Sau ba giây mà không có được câu trả lời rành mạch chính xác thì đừng bao giờ xuất hiện nữa.”
Đám học đệ của Kỳ Họa Niên còn rất nhỏ, nghe thấy lời khiêu khích của thầy, ai nấy đều trắng cả mặt, lặng lẽ lùi ra phía sau một chút. Trong đám người “đã quá thành thạo” môn võ này rồi có Gia Thanh là bạn thân của cậu, nhưng gã cũng chẳng dám hó hé nửa lời, căng thẳng quan sát khung cảnh đẫm nước mắt lúc này.
Quan Phi rướn chân mày: “Sao? Quên hết rồi chứ gì.”
Ngay lập tức, Kỳ Họa Niên mỉm cười, bình tĩnh đáp: “Thầy hỏi đi ạ.”
“Được, câu thứ nhất, giải thích lý thuyết “dùng bộ pháp tìm tay đối thủ” và“dùng eo xoay phá giải đòn công của địch”.”
Trong bụng Quan Phi nhanh chóng đếm thầm: Một…hai…
Kỳ Họa Niên nghĩ rất nhanh: “Lúc tiến theo thế “đạp bộ” hay còn gọi là “leo núi”, chân trước bước kéo chân sau theo, trọng tâm thân thể luôn đặt tại chân sau. Lúc địch thủ tấn công, thế “chuyển mã” dời trung tâm tuyến và dẫn đòn đối thủ vào khoảng không.”
Tiếng đếm thứ ba lặng lẽ rơi vào dĩ vãng.
Quan Phi mặt không đổi sắc hỏi tiếp: “Ba thế cước của Tầm Kiều là gì?”
“Ba thế cước đó là đề thoái, trực đăng thoái và trắc sanh thoái, thưa thầy.”
Cơn giận trong lòng Quan Phi lúc này đã phần nào lắng xuống, nhưng ông nào có dễ dàng bỏ qua cho Kỳ Họa Niên như vậy. Tuy muốn mỉm cười hài lòng nhưng không được, ông phải nghiêm mặt hơn nữa.
“Vậy câu cuối đây, nghe cho rõ. Tiêu Chỉ áp dụng những nguyên lý nào?”
Hai câu trước khá đơn giản cho Kỳ Họa Niên, nhưng khi đến câu này thì cậu lập tức khựng lại. Cậu rũ mắt nhìn xuống đôi giày màu đen của mình, hít sâu một hơi để nhớ lại kiến thức cũ.
Quan Phi phát hiện bộ dạng ngập ngừng của cậu, khóe môi nhếch lên: “Một…hai…b–“
“Áp dụng nguyên lý “dĩ công vi thủ”, “dĩ đả vi tiêu”,“hậu phát dĩ tiên chí”, “dùng eo phát lực” và“lực quán chỉ”, thưa thầy.”
Sau khi trả lời xong, Kỳ Họa Niên nhẹ nhàng cười một cái.
Gia Thanh ngồi đằng xa âm thầm bật ngón cái tán dương, nhìn mấy đứa trong đám bằng vẻ mặt đắc ý “bọn mày thấy bạn tao ngầu chưa?”.
Đầu mày của Quan Phi đã hoàn toàn dãn ra, ông không kìm được cười lên một tiếng đầy thỏa mãn. Cánh tay vỗ vỗ lên vai Kỳ Họa Niên, trong lòng tự hào “quả nhiên là học trò cưng của mình”.
Sau màn khảo bài của thầy Quan Phi, mọi người bắt đầu đi vào chia nhóm tập luyện. Kỳ Họa Niên để cặp ở một góc rồi tự tập riêng một mình. Quan Phi đứng đằng xa lặng lẽ quan sát cậu, đáy mắt vừa bồn chồn vừa lo lắng. Dù sao chỉ còn một tuần nữa là đến cuộc thi rồi, đối thủ của họ cũng không phải dạng vừa, mà người được ứng cử đi thi chỉ có bốn nam sinh, trong đó có Gia Thanh và Kỳ Họa Niên.
Quan Phi không lo lắng cho ba nam sinh còn lại cho lắm, vì từ trước đến giờ ông chỉ quan tâm đến mỗi Kỳ Họa Niên mà thôi. Cậu là một học trò thông minh và nhiệt huyết, là người đã phần nào khơi dậy niềm đam mê mãnh liệt lúc trẻ của ông. Cho nên việc con gà cưng này đột ngột nghỉ liên tiếp mấy buổi làm cho ông sốt ruột chết đi được.
Trong lúc mọi người đang luyện tập thì Quan Phi âm thầm kéo tay Gia Thanh ra khỏi võ đường để nói chuyện.
Ông chắp hai tay sau lưng, thở dài một hơi: “Sắp đến cuộc thi rồi, thầy rất lo cho Họa Niên. Môn võ này ngoài sự nhanh nhẹn dứt khoát còn cần độ tập trung cao. Mà em biết đó, thằng bé này nó thông minh nhanh nhạy, nhưng chỉ cần một tác động nhỏ cũng có thể khiến nó xao nhãng. Nghỉ liên tục mấy buổi, phong thái có vẻ đã xuống đi không ít.”
Gia Thanh hiểu được suy nghĩ và nỗi lo của ông, gã nghiêm túc lắng nghe, hồi sau mới đáp: “Em cũng biết những gì mà thầy lo lắng rồi, nhưng thầy phải tin tưởng cậu ấy. Họa Niên trước giờ nói được làm được, chưa bao giờ khiến cho ai phải thất vọng cả. Việc vắng mấy buổi ở võ đường thì ai cũng biết lý do, thậm chí cậu ấy còn bùng học ở trường chỉ vì phải lo cho bà đang nằm viện, buổi tối thì đi làm thêm. Cho nên bọn em lúc nào cũng muốn ở bên cạnh động viên cậu ấy nhiều nhất có thể.”
Ánh mắt Quan Phi lắng xuống. Ông im lặng quay đầu nhìn Kỳ Họa Niên, cậu đang tự tập một mình, thái độ cực kỳ nghiêm túc, bỗng nhiên làm cho khóe mắt ông cay cay.
“Thế nên thầy càng không muốn thúc ép hay áp lực cho Họa Niên. Chuyện của bà em ấy, nếu có gì khó khăn thì em hãy nói với thầy được không?”
Gia Thanh quay sang nhìn ông, có chút khó xử nói: “Em nghĩ là không nên ạ, chúng ta không nên…”
Quan Phi ngầm hiểu ý tứ của gã, bèn mỉm cười: “Tính tình của Họa Niên rất tốt bụng, rất nhiệt tình, nhưng cái tôi thì cũng rất cao. Em đang muốn nói là thầy đừng chủ động giúp đỡ chứ gì, em ấy chắc chắn sẽ không nhận đúng không?”
Gia Thang nghe xong lập tức gật mạnh đầu.
“Đừng lo, chúng ta âm thầm giúp đỡ là được rồi.”
Khi Gia Thanh quay lại, Kỳ Họa Niên đã tập xong bài Tầm Kiều. Gia Thanh gác tay lên vai cậu, bộ dạng có chút ngả ngớn, cười hỏi: “Tập quen lại chưa? Lấy lại phong độ chưa nào?”
Kỳ Họa Niên xoay xoay khớp vai, cười một tiếng: “Trước kia có phong độ sao?”
Gia Thanh trừng mắt, rõ ràng cảm thấy ấm ức: “Mẹ, trước kia cậu không phong độ thì thằng quèn nào trong lớp này có chứ?”
“Cậu cũng có mà.”
Gia Thanh cười ha hả: “Tất nhiên rồi, nhưng phong độ của ông đây không bằng cậu được. Nghe nói bọn bên Mộc Xuân khủng khiếp lắm, trâu bò không đó. Bọn nó được mệnh danh là gấu gỗ.”
“Gấu gỗ?” Kỳ Họa Niên cảm giác biệt danh này rất trào phúng, “Cái này gọi là khen thật à? Người ta thường mắng là đầu gỗ, chân gỗ cả đấy thôi.”
Gia Thanh sờ sờ cằm: “Ờ ha, chẳng hiểu sao có biệt danh hãm tài này nữa. Nhưng mà bọn nó trâu bò là thật, từng xem qua một clip rồi. Đánh mà ruột gan phèo phổi muốn lộn vài vòng luôn vậy đó.”
“Vậy cậu nên băng khắp người lại đi, cố định nội tạng cho lành.”
“Đậu, nghe mất mặt quá! Tập đi, tớ tập chung với cậu.”
Sau đó, cả hai đấu với nhau đến khi mệt lã người mới dừng lại. Thời gian không còn sớm, ngoài trời đã chập tối, có ánh hoàng hôn nào rơi xuống trước bậc tam cấp của võ đường.
Kỳ Họa Niên đi qua soạn cặp đeo lên vai, lúc xoay người nhìn ra hướng cửa chính, bất chợt ngây người.
Sắc hoàng hôn đẹp nhất đang ở ngay trước mắt cậu.
Bên ngoài, bầu trời đỏ rực như lửa thiêu, từng tầng mây chậm rãi tản ra nơi đường chân trời, lại giống như đang trốn cả sau những rặng cây cao.
Có tia sáng nhạt nhòa vẽ trên mũi cậu, ấm áp, dịu dàng.
Trong các buổi của một ngày, Kỳ Họa Niên thích nhất là xế chiều. Sắc trời nửa sáng nửa tối ấy, những tia nắng sắp sửa lụi tàn ấy, không hiểu vì sao lại đẹp đến như vậy. Một sự tĩnh lặng sâu trong tâm hồn, một sự cô đơn đè nặng lên lồng ngực. Có điều, cậu yêu thích lối sống tĩnh lặng này, thích vị thanh đặc của trà sớm, thích quấn quýt cùng bốn chú mèo mồ côi, thích dầm trong mồ hôi sau mỗi bài quyền, thích dùng màu sắc để vẽ lại tâm trí của bản thân,…
Lý Thiệu Lâm từng nói với cậu một câu khi cả hai ngồi trên ngọn đồi ngắm hoàng hôn: Hoàng hôn đúng là rất đẹp, nhưng nó mang theo một vẻ đẹp rất cô độc. Đó là sự lẻ loi còn sót lại sau một ngày ồn ào náo nhiệt…
Kỳ Họa Niên nghe vậy liền mỉm cười, đáp chẳng đầu chẳng đuôi: Tôi sẽ vẽ một bức tranh hoàng hôn đẹp nhất trên đời này. Màu đỏ, chính là màu đẹp nhất.
Lý Thiệu Lâm chống ngược hai tay ra sau, ngả người một chút, kiên nhẫn ngắm nhìn mặt trời thật sự biến mất mới nói: Khi nào cậu vẽ xong bức tranh ấy, tôi lập tức mua ngay với giá cao ngất ngưởng.
Kỳ Họa Niên còn nhớ lúc đó hình như cậu còn thật sự ra giá cho bức tranh chưa vẽ của mình, giá rất cao, vậy mà Lý Thiệu Lâm vẫn đồng ý, còn ghi hẳn một giấy nợ.
Xúc cảm đột ngột dâng lên trong lòng khiến Kỳ Họa Niên cảm giác khó thở. Cậu thu tầm mắt, quay người tìm kiếm Gia Thanh. Gia Thanh từ xa phóng tới, lôi cậu ra khỏi võ đường.
“Một lát nữa cậu đến bệnh viện luôn hay là về nhà?”
Kỳ Họa Niên bên này đang mở khóa xe. Sau đó cậu ném cặp vào rổ xe, ngồi lên, chống chân trên bàn đạp, nghĩ nghĩ chốc lát: “Về nhà tắm rửa đã rồi mới vào viện. Trong viện giờ này có y tá trông hộ rồi, không sao.”
Gia Thanh còn lề mề chưa xong, miệng liến thoắng: “Ok ok, vậy tớ qua nhà cậu, nấu một bữa cho cậu ăn nhá. À, bốn con mèo kia, tớ đem về chăm giúp mấy hôm được không?”
Kỳ Họa Niên gác tay lên tay lái, lắc đầu, mỉm cười nói: “Không được. Chị Lệ Linh giành chăm sóc trước rồi. Cậu hết cửa nhá.”
“Lệ Linh?” Gia Thanh thình lình quay đầu nhìn đối phương, nào ai có thể phát hiện trong mắt gã xuất hiện vài tia mừng rỡ rất lén lút, “Chị Lệ Linh trông bốn con mèo rồi hả?”
“Ừ, chị ấy trông được mấy hôm rồi.” Kỳ Họa Niên không còn kiên nhẫn đợi, đạp một cái, xe lăn bánh, “Mau lên mau lên, cậu lề mề thật đó!”
Kỳ Họa Niên đi trước, Gia Thanh vội vã phóng lên xe, đuổi theo sát sao. Bóng lưng của hai thiếu niên dần dần nhòa đi trong ánh chiều tà.
Bình luận truyện