Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
Quyển 3 - Chương 20: Gai góc đầy lòng trời chưa sáng
Khi hoa đào nở rộ, những chú én mùa xuân lại bay về làm tổ. Những nhành dương liễu đung đưa nhè nhẹ, như quấn lấy làn gió xuân, khiến người ta có cảm giác nóng nực, mồ hôi không ngớt rỉ ra.
Từ sau khi tôi có thai, Huyền Lăng chưa tới thăm hỏi lấy một lần, cũng không cho phép bất cứ người nào đến thăm, thậm chí đến cả My Trang cũng không được bước vào Đường Lê cung một bước. Y chỉ cho phép Phương Nhược mỗi ngày đến bầu bạn với tôi một canh giờ, trông coi việc ngủ nghỉ của tôi, hoặc đưa tôi tới Thượng Lâm uyển tản bộ một lúc. Tất cả mọi việc còn lại đều được giao cho Hoàng hậu xử lý.
Tôi biết y vô cùng căm ghét tôi, bí mật mà y giấu kín không ngờ lại bị tôi biết được, chiếc áo của người mà y yêu bị tôi tùy tiện khoác lên người. Còn tôi cũng hết sức oán hận y, tình ý trong bao năm nay không ngờ lại phó thác nhầm chỗ.
Dần dần, sự oán hận trở nên không còn cần thiết nữa. Nhớ lại việc ngày trước, y từng mấy bận dễ dàng hoài nghi và ghẻ lạnh tôi, tôi hiểu ra rằng địa vị của mình trong lòng y cũng chỉ có vậy.
Người duy nhất có thể tùy ý ra vào là Ôn Thực Sơ, hắn cũng thường xuyên mang tới cho tôi một số tin tức bên ngoài. Đám thị vệ hại chết Lưu Chu đã bị Huyền Lăng phạt đến Bạc thất làm lao dịch. Huyền Thanh tuy có công trong việc bình định Nhữ Nam Vương nhưng lại từ chối mọi sự phong thưởng, vẫn tiếp tục làm một vị vương gia nhàn tản. Cha mẹ tôi và ca ca, tẩu tẩu tuy đều lo lắng cho tôi nhưng lại chẳng có cách nào, may mà Huyền Lăng không trút giận lên bọn họ. Người hắn nói tới nhiều nhất vẫn là My Trang, hôm nay tỷ ấy nhờ hắn đưa tới một hộp bánh ngọt mà tôi thích ăn, ngày mai là một phong thư có chiếc nơ như ý thắt bên ngoài, bên trên viết toàn những lời an ủi ấm áp, ngày kia lại là một chiếc áo yếm cho trẻ con. Tôi hiểu tâm ý của tỷ ấy, trong lòng cảm thấy dễ chịu vô cùng. Thỉnh thoảng Kính Phi và Đoan Phi cũng nhờ Ôn Thực Sơ gửi tới tôi những lời an ủi, duy chỉ có Lăng Dung là hình như đã hoàn toàn biến mất, không có chút tin tức nào, cũng không tỏ ý quan tâm tới tôi.
Tôi gượng cười một tiếng, tuy thói đời nóng lạnh nhưng tự đáy lòng nàng ta chưa chắc đã không oán hận tôi.
Tôi gặp lại Thụy Quý nhân một lần nữa ở Thượng Lâm uyển, đó cũng là nơi duy nhất mà tôi có thể lui tới lúc này.
Dưới ánh nắng xuân rạng rỡ như gấm vóc, nàng ta mặc một chiếc áo lụa mỏng màu ngó sen, bên dưới là tà váy dài màu vàng nhạt, nhìn hết sức thanh nhã. Mái tóc trên đầu nàng ta búi cao, chỉ điểm xuyết bằng những món đồ trang sức bằng bạc, tựa một làn khói thoảng mây mù, khí cốt lộ rõ. Cho dù bây giờ tôi không có lòng dạ nào để ý tới người khác nhưng trong lòng vẫn không kìm được thầm khen một tiếng.
Dường như nàng ta lúc nào cũng thanh nhã như vậy, khiến người ta vừa nhìn đã thấy dễ chịu, thư thái. Lúc này, nàng ta đang dắt tay thị nữ đứng trong đình Tùng Phong, nhìn cây tùng già xanh biếc mà cất tiếng ngâm: “Dài ngắn thon thon búp ngọc hồng, nghiêng con giấy Thục sáng bên song. Không cho chàng thấy che tay lụa, học viết uyên ương chữ chửa xong[1].”
[1] Bài thơ Thập ức thi kỳ 5 của Lý Nguyên Ưng. Dịch thơ Lê Xuân Khải. Phiên âm Hán Việt: Tiêm ngọc sâm si tượng quản khinh, thục tiên tiểu nghiên bích song minh. Tụ sa mật yểm sân lang khán, học tả uyên ương tự vị thành.
Thật là một bài thơ tươi đẹp, bên trong chan chứa tình cảm mặn nồng, khí chất của một nữ tử nơi khuê các cũng được lộ rõ. Tôi nghe nói nàng ta từng đọc khá nhiều thi thư nhưng nghe nàng ta ngâm thơ thì đây mới là lần đầu.
Trái tim tôi bất giác nhói đau, nhớ thuở xưa, tôi và Huyền Lăng cũng từng đắm đuối trong những bài thơ nhi nữ tình trường thế này, còn giờ đây, tình ý ấy, Huyền Lăng chắc đã chuyển sang cho nàng ta.
Thế nhưng tôi vẫn cất tiếng khen thật lòng: “Thơ của Thụy Quý nhân hay lắm!”
Nàng ta nghe tiếng liền ngoảnh lại, kính cẩn hành lễ. “Nương nương an hảo!”
Tôi mỉm cười, nói: “Trong thơ có mấy phần tình ý, chắc Thụy Quý nhân nói về bản thân mình đúng không?”
Nàng ta nở một nụ cười trong trẻo, điềm đạm nói: “Dạ không!”, rồi nghiêng đầu nhìn qua bên cạnh. “Tần thiếp chẳng qua chỉ nghĩ về tình cảnh khi nương nương và Hoàng thượng ở bên nhau rồi tiện tay viết thôi, lời văn thô lậu, thực không đạt ý.”
Nghe thấy những lời như vậy vào lúc này tôi vốn nên giận dữ, vậy nhưng chỉ im lặng, trong lòng cảm thấy buồn bã. Trong lúc tôi ngẩn ngơ, nàng ta lại tiện tay gấp tờ giấy viết bài thơ cất vào trong tay áo. “Tần thiếp đã mạo phạm rồi. Chỉ là khi xưa nương nương được ân sủng như thế, bây giờ lại rơi vào cảnh này, tần thiếp cảm khái sự khó lường của vận mệnh, thành ra có mấy phần thương cảm mà thôi!”
Tôi nói: “Quý nhân kỳ thực chẳng cần thương cảm làm gì, chúng ta không giống nhau.”
“Vậy sao?” Nàng ta tựa như tự hỏi mình, lại như là hỏi tôi: “Kỳ thực đều giống nhau cả thôi.”
Nàng ta vào cung chỉ mới nửa năm, cũng khá được ân sủng, vậy mà lại có suy nghĩ rõ ràng và tỉnh táo như vậy, thực khiến tôi cảm thấy kinh ngạc. Nàng ta lại lấy ra một bài thơ khác, đưa cho tôi. “Nương nương nổi tiếng có tài thơ văn, xin hãy giúp thần thiếp đánh giá một chút.”
Tôi cầm xem thử, thấy cũng là một bài thơ ngắn: “Môi đỏ hàm răng ngọc dễ ưa, mây xanh muốn xuống độ cao vừa. Cũng hay hát đến nơi tình tứ, giữ chậm dư âm ánh mắt đưa[2].”
[2] Bài thơ Thập ức thi kỳ 4 của Lý Nguyên Ưng. Dịch thơ Lê Xuân Khải. Phiên âm Hán Việt: Nhất xuyến hồng nha toái ngọc xao, bích vân vô lực trú lăng tiêu. Dã tri xướng đáo quan tình xử, hoãn án dư thanh nhãn sắc chiêu.
Tôi khẽ cười, nói: “Bản cung bây giờ thất thế, Quý nhân viết vài câu cũng chẳng sao, nhưng hà tất phải động chạm đến An Phương nghi, bây giờ nàng ta đang đắc thế, truyền ra ngoài thì không hay đâu. Huống chi với miệng lưỡi của người trong cung, dù vô tâm cũng sẽ thành hữu ý.”
Nàng ta hơi cau mày, đôi hàng lông mày thanh tú như dính chặt vào nhau. “Tần thiếp không muốn giễu cợt ai, chỉ cảm thấy mọi người trong cung đều như nhau dù có địa vị cao thấp thế nào, càng không cần phải tranh đấu làm gì!” Thong dừng lại, nàng ta nói tiếp: “Đời người vốn đã có quá nhiều việc phiền não, bọn họ gây khó dễ cho nhau như vậy, tần thiếp chỉ cảm thấy bọn họ thật đáng thương.”
Lòng tôi hiểu rõ, việc ở hậu cung há lại đơn giản như trong suy nghĩ của nàng ta, những sự tranh đấu có từng ít bao giờ?
Tôi không nói gì, Phương Nhược đưa mắt thúc giục, ý bảo tôi không tiện ở lại lâu. Tôi hiểu ý, bèn nói với Thụy Quý nhân: “Bản cung chỉ muốn khuyên Quý nhân một câu, bản thân hiểu rõ là được, không cần phải động chạm đến người khác.”
Nàng ta nở một nụ cười trong trẻo. “Đa tạ nương nương. Tần thiếp cũng không có ý động chạm đến người khác, chỉ tỏ lòng ngưỡng mộ nương nương, bây giờ đã có thể thanh tịnh hơn một chút rồi!”
Thanh tịnh? Tôi cười lạnh, nơi nào mới thực sự thanh tịnh đây? Phật môn ư? Nhưng bên ngoài Phật môn chính là hồng trần, chẳng có nơi nào thực sự thanh tịnh cả.
Nàng ta tiện tay xé bài thơ đó đi, hỏi: “Nương nương có biết tại sao tần thiếp lại thích đình Tùng Phong không?”
Tôi đưa mắt nhìn nàng ta. “Quý nhân xin hãy nói ta nghe thử.”
Nàng ta điềm đạm nói: “Tùng có khí tiết, hà tất phải làm giống hoa bợ đỡ.” Dứt lời, nàng ta liền ung dung rời đi.
Nhìn theo bóng lưng nàng ta, tôi khẽ thở dài một tiếng. Phương Nhược nói: “Thụy Quý nhân đúng là một cô gái tốt!” Nàng ta không nói thêm nữa nhưng tôi lại biết, một cô gái tốt như vậy không thích hợp với cuộc sống trong cung, dù rằng nàng ta bây giờ đang đắc sủng.
Thời tiết ngày một nóng hơn, đến độ tháng Sáu, tôi đã phải đổi sang mặc áo sa mỏng. Có thai năm tháng, thân thể tôi hết sức mỏi mệt và hay buồn ngủ, thường xuyên ngồi tựa trên chiếc sạp quý phi mà ngủ gật giữa ban ngày nhưng đến đêm thì lại không ngủ được, cái bụng đã nhô hẳn lên khiến tôi trằn trọc không yên, ngón chân và bắp đùi thỉnh thoảng lại bị chuột rút, hết sức khó chịu.
Ôn Thực Sơ đến khám cho tôi rồi nói: “Nương nương nên uống nhiều canh ninh xương, nhớ cho thêm chút giấm, thường ngày nên ăn nhiều đậu phụ và rau quả, như vậy có thể chữa được chứng chuột rút. Còn nếu muốn ngủ ngon, trước khi đi ngủ hãy uống một chút sữa bò.”
Hoán Bích đứng bên cạnh cẩn thận ghi nhớ. Ôn Thực Sơ lại viết thêm mấy phương thuốc an thai, nói: “Xin thứ cho vi thần nhiều lời, nương nương ngủ không ngon e là vì trong lòng có quá nhiều suy nghĩ, chỉ dùng thuốc thì khó mà có tác dụng được.”
Tôi xắn tay áo lên, mỉm cười nói: “Đại nhân đã biết vậy hà tất phải nói nhiều làm gì. Đợi lát nữa đại nhân đi phục mệnh với Hoàng hậu, xin hãy thay bản cung gửi lời vấn an, cứ nói là bản cung tất thảy đều ổn.”
Hắn nói: “Hoàng hậu nương nương được Hoàng thượng nhờ cậy, không dám lơ là qua loa với nương nương và thai nhi trong bụng, thường xuyên triệu vi thần tới hỏi han tình hình.”
Tôi đưa mắt liếc hắn, chậm rãi nói: “Đại nhân biết cần phải ứng phó thế nào là được.”
Sau khi trò chuyện một hồi, tôi lại hỏi: “Vết bỏng trên tay My Trang tỷ tỷ chắc cũng khỏi rồi, Ôn đại nhân đã đưa Thư ngân giao cho tỷ tỷ dùng rồi chứ? Hiệu quả thế nào?”
Trên mặt lộ ra một tia buồn bã, Ôn Thực Sơ tiện miệng nói: “Đỡ hơn nhiều rồi!” Hắn do dự một chút, cuối cùng không nói gì thêm, chỉ bảo vết thương của My Trang kín miệng rất nhanh, còn về việc Thư ngân giao có hiệu quả hay không thì không nhắc tới. Sau đó, hắn lại cẩn thận dặn dò thêm một câu: “Sau này, nếu An Phương nghi có đưa vật gì tới cho nương nương, xin nương nương hãy để vi thần kiểm tra trước rồi hãy dùng.”
Nhìn điệu bộ ân cần dặn dò của hắn, lại liên tưởng tới vẻ mặt không yên tâm của hắn ngày đó khi tôi đưa Thư ngân giao cho My Trang, trái tim tôi bất giác nhảy dựng lên, cảm thấy hết sức bất an. Cố giữ vẻ bình tĩnh, tôi nhẹ nhàng nói: “Đại nhân muốn bản cung tĩnh tâm dưỡng thai, không suy nghĩ nhiều, nhưng lại cứ nói năng mập mờ, không rõ ràng như vậy, há chẳng phải là càng khiến bản cung lo lắng, bất an hơn sao?” Tôi đưa mắt nhìn quanh Đường Lê cung một lượt, chậm rãi nói tiếp: “Đại nhân có gì xin cứ nói thẳng, lẽ nào đã rơi vào tình cảnh như ngày hôm nay rồi, bản cung còn có chuyện gì không chịu đựng nổi sao?”
Trong mắt như có một tia sáng lóe lên, hắn do dự nói: “Thư ngân giao đó…”
Khuôn mặt hắn lộ rõ vẻ không đành lòng và chán ghét, trong đầu tôi như có một tia sáng lóe lên, dù không muốn tin đến mấy thì lúc này cũng không thể không tin được. Tại sao mấy ngày trước khi sẩy thai, tôi cứ luôn cảm thấy thân thể không thoải mái? Tại sao mới chỉ ngửi Hoan nghi hương mấy canh giờ và quỳ nửa canh giờ trong cung Hoa Phi mà tôi đã sẩy thai? Tại sao sau khi tôi sẩy thai, Ôn Thực Sơ lại chuẩn đoán ra trong cơ thể tôi có xạ hương, mà sự giải thích của Lăng Dung lại là vì Hoan nghi hương?
Xạ hương? Thân thể tôi run lên dữ dội, cảm thấy chẳng còn chút sức lực, phải cố gắng lắm mới có thể cất tiếng hỏi Ôn Thực Sơ: “Trong Thư ngân giao đó có xạ hương phải không?”
Hắn hơi sững sờ. “Nương nương…”
Tôi ra sức nắm chặt bàn tay, nín thở nói: “Đại nhân nói đi!”
Hắn hết cách, đành nói: “Vi thần… Trong Thư ngân giao đó có khá nhiều xạ hương, nếu thông qua vết thương đi vào da thịt thì chẳng khác gì ăn uống mỗi ngày, hơn nữa hương hoa của nó nồng đậm như vậy chính là để che giấu mùi của xạ hương, nếu không phải là người hiểu về hương liệu thì quyết không thể phối chế ra được.” Hắn nắm chặt ống tay áo của mình, nói tiếp: “Kỳ thực, người đứng sau việc này chưa chắc đã là An Phương nghi, vi thần cũng chỉ phán đoán thôi, dù sao Thư ngân giao để trong tẩm cung của nương nương cũng có thể có người động đến…”
Thư ngân giao là do tự tay Lăng Dung tự tay điều chế, mỗi ngày tôi đều mang theo bên người để dùng, chắc hẳn không một ai có thể động đến. Mà nếu không phải người hiểu rõ về hương liệu như nàng ta, ai lại có thể nắm rõ được chừng mực để khiến tôi không phát hiện ra như thế?
Có điều, không biết nàng ta làm như vậy là do ý của bản thân hay là do người khác sai khiến, mà tại sao nàng ta lại căm hận tôi đến mức này, ngay đến đứa bé trong bụng tôi ngày đó cũng không chịu buông tha?
Thân thể tôi lạnh toát từng cơn, nỗi căm hận trào dâng trong lòng, lồng ngực bức bối đến khó chịu, cảm thấy buồn nôn vô cùng, không kìm được “ọe” một tiếng, nôn thốc nôn tháo một hồi. Ôn Thực Sơ không hề ngại bẩn, vội bước tới đỡ lấy tôi, Hoán Bích giúp tôi lau khóe miệng. Ôn Thực Sơ hỏi với giọng quan tâm: “Nương nương buồn nôn lắm sao?”
Tôi ngồi tựa người trên ghế, cất tiếng cười lạnh lùng mà thê lương. “Có người còn khiến ta buồn nôn hơn nhiều.” Tôi đưa mắt nhìn hắn. “Ta không ngờ lại bị vẻ ngụy trang của ả lừa gạt, thật ngu xuẩn quá chừng!”
Hắn vội nói: “Nếu tâm kế của An thị quả thực sâu xa như thế, liệu có ai nhìn thấu được đây, đâu phải chỉ có mình nương nương bị ả lừa gạt!”
Tôi uể oải đứng dậy, ánh dương bên ngoài cửa sổ thật rạng rỡ và nóng nực biết bao, rải xuống đất một mảng sáng lòa khiến tôi choáng váng. Tôi cố hết sức nhẫn nhịn, hỏi Ôn Thực Sơ: “Chuyện này My tỷ tỷ có biết không?”
Hắn dè dặt lắc đầu. “Vi thần không dám tùy tiện nói bừa.”
Tôi khẽ gật đầu, tỏ ý vừa lòng. “Chuyện này nhất định đừng để tỷ ấy biết, bằng không với tính cách của tỷ ấy sao có thể nhẫn nhịn được. Nếu kẻ chủ mưu thật sự là An Phương nghi, tâm kế của ả ắt hết sức thâm trầm, My tỷ tỷ khó có cách nào chống đỡ nổi. Huống chi, bây giờ bản cung đang thất thế, tỷ ấy lại càng thế đơn lực bạc.”
Ôn Thực Sơ gật đầu một cái thật mạnh. Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Xin đại nhân hãy chuyển lời tới My tỷ tỷ, bất kể thế nào cũng đừng đắc tội với Hoàng hậu và An Phương nghi.” Tôi khẽ xua tay một cái. “Đại nhân về đi, bản cung hơi mệt rồi!”
Hoán Bích vội đỡ tôi vào nội điện nằm nghỉ, căng thẳng nói: “Nếu An Phương nghi có liên quan tới việc nương nương sẩy thai ngày trước, sao nương nương không để Thẩm Tiệp dư biết việc này mà tùy cơ hành sự, lại cứ giấu giếm làm gì?”
Tôi nằm trên giường, mồ hôi rỉ ra ướt đẫm tóc mai, chậm rãi phe phẩy quạt, nói: “Trong tình hình bây giờ, ta chỉ có thể để My Trang tự bảo vệ mình, lỡ như bị ta làm liên lụy thì biết phải làm sao đây? Nếu để tỷ ấy tùy cơ hành sự, há chẳng phải là đưa tỷ ấy vào con đường chết?”
Hoán Bích đỏ bừng hai má, nói: “Nô tỳ chỉ lo lắng cho nương nương thôi.”
Tôi nói: “Muội ra ngoài đi, để ta yên lặng nghỉ ngơi một lát.” Hoán Bích vâng lời ra ngoài, tôi một mình nằm đó, trái tim nóng như lửa đốt. Tình cảm giữa tôi và Lăng Dung tất nhiên không thể so được với My Trang, nhưng xưa nay cũng luôn thân mật, dù rằng trong sự thân mật vẫn còn mấy phần xa cách nhưng tôi cũng chưa từng làm việc gì có lỗi với nàng ta kia mà!
Sự đáng sợ của lòng người chẳng lẽ lại tới mức này sao? Tôi khẽ phe phẩy chiếc quạt, bàn tay hơi run rẩy. Lăng Dung, Lăng Dung, đầu óc tôi trở nên bùng nhùng, rối loạn, nghĩ về mối tư tình quạ lạnh, về Kim lũ y, rồi về việc sau khi tôi thất sủng, nàng ta nghe theo sự chỉ dẫn của Hoàng hậu cất tiếng ca vang mà được sủng ái trở lại, sau đó lại để ý đến việc Huyền Lăng sủng ái ai hơn. Sau đó, tôi nghĩ đến bộ dạng ân cần của Hoàng hậu khi khuyên tôi dùng Thư ngân giao để chữa trị vết thương trên mặt, bao nhiêu manh mối và những nghi ngờ trước đó đồng loạt hiện lên, được tôi xuyên suốt nối thành một dải.
Những sự việc nhỏ nhặt mà tôi cố tình bỏ qua hoặc không suy nghĩ đến cũng ùn ùn lóe hiện, ghép thành một bức tranh tàn khốc trước mặt tôi.
Hoàng hậu và Lăng Dung, mối quan hệ giữa bọn họ rốt cuộc như thế nào? Hoàng hậu mà tôi từng ngỡ là đoan trang, hiền thục, thì ra vẫn luôn ngấm ngầm bày mưu tính kế sau lưng tôi, hơn nữa còn mượn tay Lăng Dung, Hoa Phi chẳng qua chỉ là một kẻ chịu tội thay mà thôi.
Tôi căm hận đến nỗi cơ hồ muốn hộc máu, chợt nghe “cạch” một tiếng, cây quạt tròn trong tay đã bị bẻ gãy làm hai nửa.
Ngủ một mình giữa đêm thanh vắng, tiết trời nóng nực khiến tôi trằn trọc không yên, nhưng không dám bỏ chăn sợ bị cảm lạnh. Dưới sự đè nén của những mối tâm sự trùng trùng, tôi rốt cuộc đã trở dậy, đi chân trần lặng lẽ đến hành lang ở sau điện. Qua ô cửa sổ có lớp rèm bị gió thổi tung, tôi nhìn thấy Hoán Bích đang gục đầu xuống bàn ngủ say. Sau khi Lưu Chu qua đời, Hoán Bích lo hầu hạ tôi mọi việc, lại phải thức trông chừng tôi khát nước hay bị chuột rút lúc nửa đêm, tất nhiên vô cùng mỏi mệt.
Trên dãy hành lang, ánh trăng bị những lùm cây hoặc thưa hoặc rậm che khuất một phần, tạo thành những mảng sáng muôn hình vạn trạng. Hoa lê sớm đã lụi tàn, kết thành không ít quả lê xanh trên cây, tựa như nắm tay của những đứa bé. Giữa làn gió đêm hiu hắt, hương hoa thoang thoảng tràn vào bên trong chiếc áo ngủ mỏng manh của tôi. Có thai được năm tháng, cái bụng của tôi đã nhô lên rất rõ ràng.
Còn nhớ lần đầu có thai, tôi cũng từng đứng dưới gốc lê thế này, những bông hoa lê nở trắng như tuyết, tỏa ra mùi hương thanh tân dễ chịu, tình cảm mặn nồng với Huyền Lăng khi đó giống như một giấc mộng xuân nơi khuê các, thăm thẳm xa xôi, đã đi rồi là không bao giờ có thể quay trở lại.
Tôi của bây giờ mang thai thực vất vả biết bao, lúc nào cũng chìm trong những nỗi sợ hãi, chẳng biết nơi đâu mới là điểm tận cùng.
Gió thổi tới khiến mái tóc dài của tôi tung bay nhè nhẹ, khẽ phớt lên gò má ngày một hốc hác, phía đằng xa loáng thoáng vang lên tiếng kêu của một loài côn trùng nào đó, khiến tôi bỗng thấy bi thương, nghẹn ngào bật khóc. Nhưng dù đang khóc, tôi vẫn hết sức kìm nén tiếng khóc của mình, để nó từ từ tan đi trong gió.
Từ phía sau lưng, một đôi tay khoác một chiếc áo lên người tôi, tôi quay lại, thấy là Cận Tịch. Nàng ta ân cần nói: “Nương nương đi chân trần ra đây, cẩn thận kẻo bị cảm lạnh.”
Nàng ta còn mang theo một đôi giày lụa mềm mại, sau khi đỡ tôi ngồi xuống liền cẩn thận đi vào cho tôi. Làm bộ như không nhìn thấy những giọt nước mắt và nỗi căm hận của tôi, Cận Tịch chậm rãi nói: “Đáng lẽ nương nương nên cảm thấy vui mới đúng.”
Tôi nghi hoặc. “Vui mừng ư?”
“Nương nương đã mấy bận nghi ngờ dụng tâm của An tiểu chủ, nếu trước đây nàng ta là tên bắn lén, vậy bây giờ đã trở thành giáo đâm thẳng mặt rồi, như thế chẳng phải nương nương càng dễ đề phòng hơn sao? Hiện giờ nương nương đang ở chỗ sáng, kẻ địch ở chỗ tối, bớt được người nào thì tốt người đó.” Nàng ta khẽ cất tiếng hỏi tôi: “Có phải nương nương đau lòng vì tình nghĩa tỷ muội ngày xưa không?”
Tôi vốn định gật đầu nhưng rồi lại cười lạnh, nói: “Chuyện đã đến nước này rồi, ả với ta còn có cái gì gọi là ‘tình nghĩa tỷ muội’ nữa?”
Cận Tịch nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh tôi, khẽ nở nụ cười, nói: “Tình cảm giữa nương nương và Thẩm Tiệp dư quả là hiếm có, nhưng cũng chính vì nó hiếm có nên không cần thiết phải hy vọng rằng ai ai cũng như vậy.”
Tôi nói với giọng ngợp nỗi bi thương: “Ta thực không hiểu nổi tại sao Lăng Dung lại đối xử với ta như vậy.”
Cận Tịch cười, nói: “Nương nương không cần phải hiểu, vì một khi đã hiểu rồi, nhất định đó sẽ là một chân tướng cực kỳ xấu xí. Nương nương quả thực đã đối xử với An Phương nghi rất tốt, nhưng trong chốn hậu cung này, không phải nương nương đối tốt với nàng thì nàng ta sẽ đối tốt với nương nương.”
Tôi biết, hiện giờ tôi không hề có cơ hội phản kích, dù có căm hận đến mấy, tôi cũng nhất định phải nhẫn nhịn.
Tôi vén mấy sợi tóc rối trước trán lên. “Ngươi nói không sai, tốt hay xấu đều do lợi ích của bản thân quyết định. Ta cũng từng hoài nghi ả bị người ta xúi bẩy, nhưng bất kể có phải bản thân ả muốn làm vậy hay không, ả quả thực cũng đã làm.” Tôi nắm lấy bàn tay Cận Tịch, nói với giọng cảm kích: “Cận Tịch, ngươi lúc nào cũng giúp ta kịp thời tỉnh ngộ.”
Nàng ta thoáng có chút thẹn thùng rồi rất nhanh đã thản nhiên nói: “Nô tỳ từ nhỏ đã sống trong chốn thâm cung, bây giờ cũng ba mươi tuổi rồi, tất nhiên không phải hạng trẻ người non dạ, chưa từng trải chuyện đời.” Thoáng dừng lại, nàng ta nói tiếp với giọng ôn tồn mà kiên định: “Sau lưng An Phương nghi có lẽ còn có người giật dây, nhưng bất kể thế nào, nếu lúc này nương nương vì nàng ta mà tự làm tổn hại tới thân thể mình thì thực không đáng, xin nương nương chú ý giữ gìn.” Sau đó lại có chút thổn thức. “Kỳ thực việc này cũng không sao hết, nương nương trọng tình nghĩa nên mới thương tâm, ở trong cung dù là chị em ruột cũng có ngày trở mặt, huống chi hai người còn chẳng phải họ hà thân thích.”
Nghe nàng ta nói vậy, tôi bất giác thấy thư thái hơn nhiều, không nói gì thêm, chỉ tự an ủi bản thân, yên tâm đi ngủ.
Khi tôi mang thai được sáu tháng cũng là lúc trời nóng nhất. Tôi vốn không chịu được cái nóng, do đang mang thai nên không thể ăn đồ lạnh, thành ra lại càng cảm thấy khó chịu, tính tình cũng có chút nóng nảy. Điều đáng mừng duy nhất là thai nhi trong bụng tôi ngày càng động đậy rõ ràng hơn.
Hôm ấy tôi ngủ trưa trong điện, vì từ sau khi có thai đến giờ tôi cứ luôn ngủ không ngon, hiếm có khi nào ngủ sâu được như bây giờ, do đó mọi người đều rất vui vẻ. Vì sợ quấy nhiễu giấc ngủ của tôi, mọi người chỉ để một mình Hoán Bích ở lại bên cạnh tôi phẩy quạt hầu hạ. Trưa hôm nay trời vừa mưa, những làn gió mát rượi từ bên ngoài ô cửa sổ phía bắc không ngớt thổi vào, do đó tôi ngủ rất ngon.
Trong cơn mơ màng, tôi cảm thấy Hoán Bích quạt rất mạnh, từng làn gió mát rượi liên tục thổi tới, do đó lại càng thoải mái. Tôi đã nằm mơ, mơ về năm tôi vừa được sủng hạnh, lúc đang ở Thái Bình hành cung, cũng là một dịp trưa hè thế này, khi ấy trời nóng, Huyền Lăng tới thăm tôi. Bao nhiêu lời lẽ yêu đương dạt dào tình cảm của y loáng thoáng vang lên bên tai, dịu dàng mà trầm ấm. Y đột nhiên cất tiếng gọi tôi: “Hoàn Hoàn, điệu Kinh hồng đó nàng múa đẹp thật!” Tôi đang ngồi trước bàn trang điểm, y vẽ lông mày hình núi xa cho tôi, động tác rất thành thạo, nhưng thực ra lông mày của tôi thích hợp với kiểu mày lá liễu hơn. Tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi, lớn tiếng hô lên: “Tứ lang! Thiếp là Hoàn Hoàn, không phải Hoàn Hoàn kia, không phải Hoàn Hoàn gì hết!” Nhưng y lại chỉ đắm đuối nhìn tôi, giọng nói thiết tha chứa đầy tình cảm: “Hoàn Hoàn, điệu Kinh hồng của nàng…”
Đầu tôi đau như muốn nứt ra, cơ hồ muốn bật khóc thành tiếng, điệu Kinh hồng tung bay trong mê loạn, một tiếng sáo u buồn vang lên bên tai tôi, là tiếng sáo hay tiếng tiêu, tôi gần như không thể phân biệt rõ. Tiếng cười giòn tan của mẹ cất lên. “Học điệu Kinh hồng là để múa cho tình lang mà mình yêu quý xem đấy, điệu múa mà một cô gái phải khổ công luyện tập sao có thể tùy tiện để người ngoài xem được!”
Tôi hết sức khó chịu, trong lúc mơ màng cảm thấy có một bàn tay ấm áp nhẹ nhàng đặt lên trán mình, hỏi với giọng lo lắng: “Nàng ấy thường xuyên ngủ không được ngon thế này sao?”
Đó rõ ràng là một giọng nam, Hoán Bích khẽ cất tiếng trả lời: “Nương nương khi ngủ cứ luôn bị giật mình như vậy đấy, ăn cũng chẳng được ngon.”
Y khẽ “ồ” một tiếng, một chiếc khăn mát rượi được đắp lên trán tôi, tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Dường như có một đôi tay đang nhẹ nhàng vuốt ve cái bụng ngày một tròn hơn của tôi, nhưng cảm giác không được rõ ràng lắm, đó là một sự tiếp xúc hết sức nhẹ nhàng.
Tôi cảm thấy rất mệt, chỉ loáng thoáng nghe thấy y và Hoán Bích dường như đang thấp giọng trò chuyện với nhau, sau đó dần thiếp đi.
Khi tỉnh dậy thì đã là đêm khuya, tôi cựa mình trở dậy, nói: “Bụng càng ngày càng to hơn rồi, cử động thật khó khăn quá!”
Hoán Bích cười, nói: “Thân hình nương nương trông không có vẻ phát phì chút nào.”
Tôi mỉm cười nói: “Vừa rồi hình như ta nghe thấy muội nói chuyện với ai đó, ai từng tới đây sao?”
Hoán Bích nói: “Bây giờ thì còn có ai tới được chứ? Là Tiểu Doãn Tử vừa vào, thấy nương nương ngủ mà cũng đổ mồ hôi liền đắp cho nương nương một chiếc khăn lạnh.” Tôi thấy bên tay mình quả nhiên có một chiếc khăn vuông màu trắng, cũng không mấy để tâm, đang định bảo Hoán Bích lấy cho một ngụm nước thì chợt cảm thấy thành bụng hơi rung nhẹ, hình như vừa bị đá một cú. Tôi lập tức ngây người, không dám động đậy, hồi lâu sau, cảm giác đó lại lặp lại.
Tôi mừng đến rơi nước mắt, vội kéo tay Hoán Bích, đặt lên bụng mình, giọng nói có chút lộn xộn: “Muội nghe! Muội nghe đi! Nó đang đá ta đấy!”
Hoán Bích vứt thứ đang cầm trong tay qua một bên, mừng rỡ nói: “Thật vậy sao?” sau đó liền áp sát mặt mình vào. “Nương nương! Hình như nó đang động đậy này, hình như… hình như là đang vươn vai.”
Dấu hiệu của sinh mệnh đã rõ ràng hết sức, tôi mừng đến nỗi chẳng biết phải nói gì. Hoán Bích nắm lấy bàn tay tôi, khuôn mặt đầy nét vui sướng và kích động. “Nương nương…” Rồi không kìm được mà rơi nước mắt.
Tôi vội cười, nói: “Khóc cái gì chứ.” Tôi khẽ vuốt ve cái bụng đã nhô hẳn lên của mình. “Muội là dì của nó đấy, nên vui mừng mới phải.”
Hoán Bích vừa cười vừa khóc, vẻ mừng vui lại càng thể hiện rõ ràng. “Đúng là một đứa bé ngoan, biết thương mẹ nó, do đó quãng thời gian trước nương nương dù buồn nôn nhưng cũng không nôn mửa dữ quá. Sau này nó nhất định sẽ là vị hoàng tử hiếu thuận nhất!”
Tôi chỉ mỉm cười, khẽ nói: “Sao phải là một hoàng tử. Ta hy vọng nó là một công chúa cơ.”
Hoán Bích khẽ kêu “úi” một tiếng, tò mò nói: “Nương nương không hy vọng là hoàng tử sao? Phải là hoàng tử thì nương nương mới có thể trở mình, nhận lại ân sủng được.”
Tôi hờ hững lắc đầu. “Ân sủng? Ta chẳng thèm. Ta chỉ mong đứa bé này có thể bình an trưởng thành.” Tôi cúi xuống, khẽ nói: “Nếu là một công chúa thì sẽ có thể tránh khỏi cuộc chiến tranh giành ngôi báu sau này. Ngươi biết đấy, những cuộc tranh đấu trong hoàng tộc xưa nay luôn là kẻ sống người chết, quá mức tanh máu.” Tôi thoáng do dự nói tiếp: “Huống chi đứa bé này chưa chắc đã được lòng phụ hoàng của nó.”
Hoán Bích có chút suy tư, khẽ nói: “Điều này cũng khó nói, nô tỳ chỉ mong đứa bé này được bình an thôi!”
Tôi khẽ mỉm cười, không nói gì thêm. Kể từ khi bị cấm túc đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc như vậy. Đứa bé này đang ở trong bụng tôi, đang sống trong bụng tôi, đang trưởng thành trong bụng tôi. Lúc này đây, sự vĩ đại và hừng hực của sinh mệnh cuồn cuộn tràn vào trái tim đang ngợp trong mỏi mệt và bi ai, thù hận của tôi, tất cả tâm trạng tiêu cực nhanh chóng tan biến hết, chỉ có sinh mệnh nhỏ bé kia mới là nơi tôi thác gửi mọi niềm yêu thương và hy vọng.
Sang thu, thân thể tôi lại càng nặng nề, vướng víu. Độ này trời nắng đẹp, mỗi ngày Phương Nhược đều đến đưa tôi đi dạo trong Thượng Lâm uyển một canh giờ để tiện cho việc sinh nở. Phương Nhược hiển nhiên đã được người ta dặn dò, rất ít khi nói với tôi về chuyện bên ngoài, thỉnh thoảng thấy tôi đi đã mệt thì cũng chỉ lẳng lặng dắt tôi tới ngồi xuống nghỉ ngơi, không nói gì nhiều, nhưng sự quan tâm và xót xa trong mắt lại không cách nào giấu được.
Việc đi lại của tôi ngày một trở nên nặng nề và khó khăn hơn, thường xuyên phải có người dìu đỡ, thân thể thì gầy guộc và nhợt nhạt, duy có phần bụng là tròn vo, nhô hẳn lên, nhìn từ xa tới chỉ thấy được mỗi cái bụng. Phương Nhược cô cô ngó quanh, thấy bốn phía không có ai liền thấp giọng cảm thán: “Nếu sớm biết có mối tai họa ngày hôm nay, khi đó nô tỳ đã không dụng tâm chỉ dạy nương nương rồi, như thế nương nương cũng bớt phải chịu khổ.”
Tôi nhìn bầu trời xa xăm, thấy một đàn chim nhạn đang bay về phương Nam, bốn phía xung quanh những bức tường đỏ cao vút của Tử Áo Thành là một khoảng trời xanh biếc, không một gợn mây, dường như vĩnh viễn thuần khiết như thế. Tôi khẽ mỉm cười, trái tim hết sức bình lặng, thời tiết thế này thật rất giống với hôm tôi mới vào cung, tôi của khi đó ôm một tâm trạng thấp thỏm bất an về tương lai phía trước, hệt như tôi của bây giờ, cũng không biết con đường trước mặt sẽ đưa mình đi tới đâu. Tôi khẽ mỉm cười, nói: “Cô cô và bản cung đều không phải thánh nhân, làm sao biết ngày sau sẽ xảy ra chuyện gì. Bất kể khi nào, chúng ta cũng chỉ có thể để tâm tới chuyện trước mắt mà thôi.”
Phương Nhược không biết phải trả lời ra sao, sau khi im lặng một thoáng liền nói: “Kỳ thực Hoàng thượng rất quan tâm tới nương nương đấy!”
“Vậy sao?” Tôi hơi nhếch khóe môi, coi như cười mỉm. “Là quan tâm tới bản cung hay đứa bé trong bụng bản cung?” Ánh nắng mùa thu ấm áp tựa bông hoa sen đang nở rộ trên người tôi, tôi hơi nheo mắt, nói tiếp: “Nếu cô cô nói lời này với mấy vị quý nhân mới, chắc bọn họ sẽ thấy vui mừng hơn bản cung nhiều.”
Phương Nhược muốn nói gì đó nhưng lại thôi, cuối cùng chỉ im lặng.
Phía đằng xa có tiếng cười của nữ tử vang lại, chính là mấy vị quý nhân năm ngoái mới vào cung. Kỳ Quý nhân đã được tấn phong làm Kỳ Tần, Thụy Quý nhân cũng được làm Thụy Tần, hiện giờ khá được Huyền Lăng sủng ái, Phúc Quý nhân và Tường Quý nhân thì kém bề ân sủng, vẫn chưa được tấn phong. Nhìn thấy tôi, Kỳ Tần khom người hành lễ từ xa, Tường Quý nhân thì có vẻ không bằng lòng lắm, kéo tay áo Kỳ Tần, khẽ làu bàu: “Hoàng thượng chỉ cho nàng ta đãi ngộ bậc tần, cũng giống như Kỳ tỷ tỷ thôi, tỷ hà tất phải hành đại lễ với nàng ta như thế?”
Kỳ Tần không tỏ vẻ gì, Thụy Tần xưa nay luôn thoát tục, sau khi hành lễ chỉ khẽ mỉm cười với tôi, không để ý gì đến lời của Tường Quý nhân. Phúc Quý nhân đứng bên cạnh hơi cau mày với Tường Quý nhân, tỏ ý bảo nàng ta im lặng, sau đó khẽ cười với tôi coi như chào hỏi. Nhưng Tường Quý nhân chẳng thèm để ý tới nàng ta, một mình cất bước rời đi trước.
Tôi coi như chẳng nghe thấy lời của Tường Quý nhân. Phương Nhược thấy bọn họ đã đi xa, liền cười, nói: “Phúc Quý nhân quả là một người hiền lành.”
Tiểu cung nữ bưng khay hoa quả đi theo bên cạnh Phương Nhược không kìm được cất tiếng nói chen vào: “Còn chẳng phải thế sao, nghe nói Tường Quý nhân dám mời Hoàng thượng đi từ trong cung của Phúc Quý nhân nữa, hại Phúc Quý nhân ba tháng liền không được gặp Hoàng thượng. Nhưng kể cũng lạ, Phúc Quý nhân vẫn ngày ngày tươi cười vui vẻ, không hề tỏ ra khó chịu.”
Phương Nhược giận dữ trừng mắt nhìn tiểu cung nữ đó. “Chuyện của Quý nhân mà ngươi cũng dám tùy tiện bàn luận sau lưng sao? Mau lui xuống, sau này không được tới đây hầu hạ nữa.”
Tiểu cung nữ đó mặt đầy vẻ ấm ức, nhưng chỉ trề môi không dám khóc. Tôi mỉm cười, nói: “Phương Nhược cô cô cũng cẩn thận quá rồi, lời của thị, bản cung chỉ coi là chuyện cười để nghe mà thôi.”
Giọng nói của Phương Nhược hòa hoãn hơn một chút: “Nương nương đang có thai, thật không nên nghe những lời không hay đó.”
Tôi chỉ nói: “Có thai hay không thì chuyện cũng đã xảy ra rồi, còn sợ phải nghe sao?”
Hồ Thái Dịch lúc này trong veo, xanh biếc, giữa những gợn sóng lăn tăn là vô số bóng mặt trời bé nhỏ, khiến người ta cảm thấy vừa rực rỡ vừa hư ảo. Ngồi lâu, tôi cảm thấy thân thể hơi lạnh, bèn chống tay đứng dậy. “Đi đâu đó tản bộ một chút thôi, ngồi lâu rồi, ta thấy hơi lạnh.” Phương Nhược vâng lời, cùng Hoán Bích mỗi người một bên đỡ lấy tôi.
Tôi rất muốn đi thăm My Trang nhưng mỗi lần Phương Nhược đều để ý cẩn thận, thành ra chẳng thể. Mà cứ mỗi khi My Trang đến gần tôi trong phạm vi ba trượng, Phương Nhược đều hòa nhã mời tỷ ấy tránh đi. Tuy rằng hòa nhã nhưng lại có ý chỉ của Huyền Lăng, do đó My Trang chỉ có thể đứng từ xa nhìn tôi trong chốc lát, sau đó liền xoay người rời đi.
Tôi chậm rãi bước đi dọc theo bờ hồ Thái Dịch, trời thu như vẽ, lá sen nhô cao, còn chưa có vẻ gì là sẽ tàn. Thượng Lâm uyển luôn đẹp đẽ như vậy, mùa xuân tươi mới, mùa hạ tưng bừng, mùa thu đậm hương hoa, đến cả mùa đông cũng được điểm xuyết bằng vô số bông hoa giả làm từ lụa là gấm vóc, hệt như những nữ tử xinh đẹp trong cung, nhóm này già rồi thì lại có nhóm mới vào, bờ môi thắm tươi, đôi má mịn màng bóng bẩy, ánh mắt đung đưa, thân hình yểu điệu, tựa như những bông hoa xuân chẳng bao giờ nở hết. Nhớ thuở xưa, tôi cũng từng là một bông hoa diễm lệ nhất trong Thượng Lâm uyển này.
Chiếc đu tôi từng ngồi ngày đó vẫn còn đây, chỉ là dây tử đằng và cỏ đỗ nhược trên dây đu sớm đã khô héo, chỉ còn lại những sợi vàng vọt, mà chiếc đu cũng trống trải và phủ đầy bụi, hình như đã lâu lắm rồi chưa có người dùng, còn cây hạnh vốn nở hoa rực rỡ ngay gần đó lúc này cũng đã úa vàng. Tôi thoáng ngây người trong khoảnh khắc, dường như những ngày tháng xưa cũ đó vẫn còn đây, tôi ngẫu nhiên ngoảnh đầu lại, nhìn thấy thân thể cao lớn của Huyền Lăng. Tất cả mọi việc, tôi đều không thể tránh khỏi, và cứ thế bắt đầu một cách đẹp đẽ. Tôi vẫn loáng thoáng nhớ được lời của bản thân năm xưa: “Hoa hạnh tuy đẹp nhưng lại kết ra quả hạnh rất chua, hạt lại đắng chát. Nếu con người sống trên đời cũng như vậy, mở đầu đẹp đẽ nhưng kết cục lại thảm thương, vậy thì còn ý nghĩa gì nữa? Chẳng được như tùng bách, quanh năm xanh tươi, tuy không hoa chẳng quả nhưng vẫn tốt hơn nhiều.”
Quả đúng là nói chơi mà cuối cùng thành thật, đang lúc tôi ngơ ngẩn, Hoán Bích nhắc nhở: “Nương nương nên về rồi. Nhà bếp đã làm xong món hạnh hầm chim ngói, ăn vào lúc này là bổ nhất đấy!”
Tôi nghe thấy thế thì bất giác gượng cười một tiếng. “Hạnh hầm chim ngói? Hoa hạnh nếu đã nở rồi thì thôi hãy bỏ đi.”
Hoán Bích thoáng suy nghĩ, lập tức hiểu ra, khuôn mặt bất giác đỏ bừng. Tôi thấy Hoán Bích có vẻ lúng túng liền nói: “Đúng lúc ta đang đói, chúng ta cùng về đi!”
Vừa định đứng dậy, tôi bỗng thấy Huyền Thanh dẫn theo mấy tên thái giám đang đi tới từ phía trước, bèn thỉnh an: “Vương gia an hảo!” Huyền Lăng chắc chưa dặn dò Phương Nhược việc nếu gặp hoàng thân quốc thích thì có cần ngăn cản hay không, thành ra Phương Nhược nhất thời không kịp phản ứng, để cho Huyền Thanh bước tới gần, cất tiếng chào tôi: “Lâu lắm không gặp Quý tần rồi!” Khi nhìn về phía bụng tôi, trong mắt y thoáng qua một tia mừng rỡ và bất lực, ất nhanh đã nói: “Tiểu vương còn chưa kịp chúc mừng Quý tần, xin có lời tại đây.”
Tôi khẽ mỉm cười. “Vương gia khách sáo rồi!” Dừng một chút lại hỏi: “Vương gia chuẩn bị đi thỉnh an Thái hậu sao?”
“Ta vừa từ chỗ hoàng huynh tới đây, đang định đi thăm Thái hậu.” Trên mặt y xuất hiện một nét cười hiền hòa. “Đến đây vội quá, ta chưa kịp chuẩn bị quà mừng cho Quý tần.”
Tôi cười, nói: “Đa tạ vương gia!” Ánh mắt vô tình lướt qua cây sáo mà y đeo bên hông, tôi tiện miệng nói: “Đã lâu rồi không được nghe tiếng nhạc, bản cung cảm thấy mồm miệng nhạt nhẽo, chẳng có chút hứng thú ăn uống.”
Y hiểu ý, nói: “Nương nương thích nghe bài gì? Bản vương xin được dùng tiếng nhạc làm quà mừng.”
“Hạnh hoa thiên ảnh[3].” Tôi buột miệng nói, ngay sau đó lập tức hối hận. Khúc nhạc này tôi từng thổi trong lần đầu gặp Huyền Lăng, bây giờ nghe lại, làm gì còn chút ý nghĩa nào nữa.
[3] Tên một điệu từ, do Khương Quỳ người thời Tống sáng tác.
Huyền Thanh cúi xuống, lấy cây sáo ra đưa lên bên môi, chậm rãi cất tiếng thổi. Tôi lùi về phía sau hai bước, lặng lẽ lắng nghe. Hồi đó, tôi còn ít tuổi, chỉ cảm thấy khúc nhạc này rất hay, nhưng cái thâm ý bên trong thì lại không hiểu rõ hoàn toàn. Đợi đến bây giờ hiểu rõ, tôi mới hay bên trong khúc nhạc là một nỗi sầu mênh mang, cảnh đẹp thương không dài, nỗi bi thương ngợp khắp nơi nơi.
Vẻ mặt Huyền Thanh nghiêm túc mà chăm chú, tôi dường như đã từng nhìn thấy ở đâu rồi. Ánh mắt tôi lướt qua khuôn mặt y, lần đầu tiên nổi lên một suy nghĩ thế này, người mà tôi vừa ý rốt cuộc là Huyền Lăng trong địa vị của kẻ đế vương, hay là nam tử nho nhã đi ra từ giữa những bông hoa hạnh lất phất bay đầy trời kia?
Khúc nhạc còn chưa hết, tôi đã khẽ cất tiếng cắt ngang: “Vương gia chắc đang nôn nóng đi thỉnh an Thái hậu, bản cung không làm phiền nữa. Mời Vương gia!”
Trong mắt y lóe lên một tia sáng kỳ dị, dường như ẩn đầy nỗi xót thương. “Mời Quý tần!” Y tỏ vẻ vô tình nói với gã thái giám bên cạnh: “Nghe nói sau khi vào thu, Thái hậu ăn gì cũng chẳng thấy ngon, trong phủ bản vương thường dùng ngân nhĩ và cẩu kỷ hầm thành canh tẩm bổ, đợi lát nữa sẽ sai người về vương phủ lấy một ít đưa tới đây.” Y thể hiện vẻ quan tâm một cách kín đáo vô cùng, tôi chỉ hờ hững đứng nhìn từ xa.
Gã thái giám kia vội cười, nói: “Vương gia không cần phải như vậy đâu, lát nữa cứ bảo phủ Nội vụ chọn loại thượng hảo đưa tới cho Thái hậu là được mà.”
Một gã thái giám khác nói: “Đó là lòng hiếu thảo của Vương gia đối với Thái hậu, những thứ trong phủ Nội vụ có thể so bì được sao?”
Huyền Thanh khẽ mỉm cười, cuối cùng chỉ nói: “Quý tần xin hãy bảo trọng!” Sau đó liền vội vã rời đi.
Về đến Đường Lê cung, tôi nằm trên giường nghỉ ngơi. Hoán Bích ngồi bên cạnh phẩy quạt cho tôi. “Không biết có phải nô tỳ cả nghĩ không, vừa rồi cứ luôn cảm thấy bộ dạng của Kỳ Tần tiểu chủ có vẻ hơi cổ quái.”
Tôi ngồi dậy, một tay chống cằm, một tay lật xem những bộ quần áo nhỏ mà các cung nhân chuẩn bị cho đứa bé sắp ra đời, khẽ “ồ” một tiếng, hỏi: “Tức là sao?”
Hoán Bích nghiêm túc suy nghĩ một chút rồi đáp: “Đây chỉ là sự nghi ngờ của nô tỳ thôi. Mùa đông năm ngoái, khi công tử vào cung từng nhắc đến việc nhị ca Quản Khê của Kỳ tần tiểu chủ sẽ cưới nhị tiểu thư vào dịp Trùng Dương năm nay, tại sao bây giờ đã là tháng Tám rồi mà vẫn chẳng có chút động tĩnh nào?”
Tôi không để ý lắm, chỉ thầm nghĩ nếu cái thai lần trước của tôi thật sự bị Hoàng hậu và Lăng Dung làm hại, vậy tại sao lần này lại chẳng có chút động tĩnh nào như thế, dù rằng tôi đã xin Huyền Lăng hạ chỉ cho Hoàng hậu phụ trách việc sinh
Từ sau khi tôi có thai, Huyền Lăng chưa tới thăm hỏi lấy một lần, cũng không cho phép bất cứ người nào đến thăm, thậm chí đến cả My Trang cũng không được bước vào Đường Lê cung một bước. Y chỉ cho phép Phương Nhược mỗi ngày đến bầu bạn với tôi một canh giờ, trông coi việc ngủ nghỉ của tôi, hoặc đưa tôi tới Thượng Lâm uyển tản bộ một lúc. Tất cả mọi việc còn lại đều được giao cho Hoàng hậu xử lý.
Tôi biết y vô cùng căm ghét tôi, bí mật mà y giấu kín không ngờ lại bị tôi biết được, chiếc áo của người mà y yêu bị tôi tùy tiện khoác lên người. Còn tôi cũng hết sức oán hận y, tình ý trong bao năm nay không ngờ lại phó thác nhầm chỗ.
Dần dần, sự oán hận trở nên không còn cần thiết nữa. Nhớ lại việc ngày trước, y từng mấy bận dễ dàng hoài nghi và ghẻ lạnh tôi, tôi hiểu ra rằng địa vị của mình trong lòng y cũng chỉ có vậy.
Người duy nhất có thể tùy ý ra vào là Ôn Thực Sơ, hắn cũng thường xuyên mang tới cho tôi một số tin tức bên ngoài. Đám thị vệ hại chết Lưu Chu đã bị Huyền Lăng phạt đến Bạc thất làm lao dịch. Huyền Thanh tuy có công trong việc bình định Nhữ Nam Vương nhưng lại từ chối mọi sự phong thưởng, vẫn tiếp tục làm một vị vương gia nhàn tản. Cha mẹ tôi và ca ca, tẩu tẩu tuy đều lo lắng cho tôi nhưng lại chẳng có cách nào, may mà Huyền Lăng không trút giận lên bọn họ. Người hắn nói tới nhiều nhất vẫn là My Trang, hôm nay tỷ ấy nhờ hắn đưa tới một hộp bánh ngọt mà tôi thích ăn, ngày mai là một phong thư có chiếc nơ như ý thắt bên ngoài, bên trên viết toàn những lời an ủi ấm áp, ngày kia lại là một chiếc áo yếm cho trẻ con. Tôi hiểu tâm ý của tỷ ấy, trong lòng cảm thấy dễ chịu vô cùng. Thỉnh thoảng Kính Phi và Đoan Phi cũng nhờ Ôn Thực Sơ gửi tới tôi những lời an ủi, duy chỉ có Lăng Dung là hình như đã hoàn toàn biến mất, không có chút tin tức nào, cũng không tỏ ý quan tâm tới tôi.
Tôi gượng cười một tiếng, tuy thói đời nóng lạnh nhưng tự đáy lòng nàng ta chưa chắc đã không oán hận tôi.
Tôi gặp lại Thụy Quý nhân một lần nữa ở Thượng Lâm uyển, đó cũng là nơi duy nhất mà tôi có thể lui tới lúc này.
Dưới ánh nắng xuân rạng rỡ như gấm vóc, nàng ta mặc một chiếc áo lụa mỏng màu ngó sen, bên dưới là tà váy dài màu vàng nhạt, nhìn hết sức thanh nhã. Mái tóc trên đầu nàng ta búi cao, chỉ điểm xuyết bằng những món đồ trang sức bằng bạc, tựa một làn khói thoảng mây mù, khí cốt lộ rõ. Cho dù bây giờ tôi không có lòng dạ nào để ý tới người khác nhưng trong lòng vẫn không kìm được thầm khen một tiếng.
Dường như nàng ta lúc nào cũng thanh nhã như vậy, khiến người ta vừa nhìn đã thấy dễ chịu, thư thái. Lúc này, nàng ta đang dắt tay thị nữ đứng trong đình Tùng Phong, nhìn cây tùng già xanh biếc mà cất tiếng ngâm: “Dài ngắn thon thon búp ngọc hồng, nghiêng con giấy Thục sáng bên song. Không cho chàng thấy che tay lụa, học viết uyên ương chữ chửa xong[1].”
[1] Bài thơ Thập ức thi kỳ 5 của Lý Nguyên Ưng. Dịch thơ Lê Xuân Khải. Phiên âm Hán Việt: Tiêm ngọc sâm si tượng quản khinh, thục tiên tiểu nghiên bích song minh. Tụ sa mật yểm sân lang khán, học tả uyên ương tự vị thành.
Thật là một bài thơ tươi đẹp, bên trong chan chứa tình cảm mặn nồng, khí chất của một nữ tử nơi khuê các cũng được lộ rõ. Tôi nghe nói nàng ta từng đọc khá nhiều thi thư nhưng nghe nàng ta ngâm thơ thì đây mới là lần đầu.
Trái tim tôi bất giác nhói đau, nhớ thuở xưa, tôi và Huyền Lăng cũng từng đắm đuối trong những bài thơ nhi nữ tình trường thế này, còn giờ đây, tình ý ấy, Huyền Lăng chắc đã chuyển sang cho nàng ta.
Thế nhưng tôi vẫn cất tiếng khen thật lòng: “Thơ của Thụy Quý nhân hay lắm!”
Nàng ta nghe tiếng liền ngoảnh lại, kính cẩn hành lễ. “Nương nương an hảo!”
Tôi mỉm cười, nói: “Trong thơ có mấy phần tình ý, chắc Thụy Quý nhân nói về bản thân mình đúng không?”
Nàng ta nở một nụ cười trong trẻo, điềm đạm nói: “Dạ không!”, rồi nghiêng đầu nhìn qua bên cạnh. “Tần thiếp chẳng qua chỉ nghĩ về tình cảnh khi nương nương và Hoàng thượng ở bên nhau rồi tiện tay viết thôi, lời văn thô lậu, thực không đạt ý.”
Nghe thấy những lời như vậy vào lúc này tôi vốn nên giận dữ, vậy nhưng chỉ im lặng, trong lòng cảm thấy buồn bã. Trong lúc tôi ngẩn ngơ, nàng ta lại tiện tay gấp tờ giấy viết bài thơ cất vào trong tay áo. “Tần thiếp đã mạo phạm rồi. Chỉ là khi xưa nương nương được ân sủng như thế, bây giờ lại rơi vào cảnh này, tần thiếp cảm khái sự khó lường của vận mệnh, thành ra có mấy phần thương cảm mà thôi!”
Tôi nói: “Quý nhân kỳ thực chẳng cần thương cảm làm gì, chúng ta không giống nhau.”
“Vậy sao?” Nàng ta tựa như tự hỏi mình, lại như là hỏi tôi: “Kỳ thực đều giống nhau cả thôi.”
Nàng ta vào cung chỉ mới nửa năm, cũng khá được ân sủng, vậy mà lại có suy nghĩ rõ ràng và tỉnh táo như vậy, thực khiến tôi cảm thấy kinh ngạc. Nàng ta lại lấy ra một bài thơ khác, đưa cho tôi. “Nương nương nổi tiếng có tài thơ văn, xin hãy giúp thần thiếp đánh giá một chút.”
Tôi cầm xem thử, thấy cũng là một bài thơ ngắn: “Môi đỏ hàm răng ngọc dễ ưa, mây xanh muốn xuống độ cao vừa. Cũng hay hát đến nơi tình tứ, giữ chậm dư âm ánh mắt đưa[2].”
[2] Bài thơ Thập ức thi kỳ 4 của Lý Nguyên Ưng. Dịch thơ Lê Xuân Khải. Phiên âm Hán Việt: Nhất xuyến hồng nha toái ngọc xao, bích vân vô lực trú lăng tiêu. Dã tri xướng đáo quan tình xử, hoãn án dư thanh nhãn sắc chiêu.
Tôi khẽ cười, nói: “Bản cung bây giờ thất thế, Quý nhân viết vài câu cũng chẳng sao, nhưng hà tất phải động chạm đến An Phương nghi, bây giờ nàng ta đang đắc thế, truyền ra ngoài thì không hay đâu. Huống chi với miệng lưỡi của người trong cung, dù vô tâm cũng sẽ thành hữu ý.”
Nàng ta hơi cau mày, đôi hàng lông mày thanh tú như dính chặt vào nhau. “Tần thiếp không muốn giễu cợt ai, chỉ cảm thấy mọi người trong cung đều như nhau dù có địa vị cao thấp thế nào, càng không cần phải tranh đấu làm gì!” Thong dừng lại, nàng ta nói tiếp: “Đời người vốn đã có quá nhiều việc phiền não, bọn họ gây khó dễ cho nhau như vậy, tần thiếp chỉ cảm thấy bọn họ thật đáng thương.”
Lòng tôi hiểu rõ, việc ở hậu cung há lại đơn giản như trong suy nghĩ của nàng ta, những sự tranh đấu có từng ít bao giờ?
Tôi không nói gì, Phương Nhược đưa mắt thúc giục, ý bảo tôi không tiện ở lại lâu. Tôi hiểu ý, bèn nói với Thụy Quý nhân: “Bản cung chỉ muốn khuyên Quý nhân một câu, bản thân hiểu rõ là được, không cần phải động chạm đến người khác.”
Nàng ta nở một nụ cười trong trẻo. “Đa tạ nương nương. Tần thiếp cũng không có ý động chạm đến người khác, chỉ tỏ lòng ngưỡng mộ nương nương, bây giờ đã có thể thanh tịnh hơn một chút rồi!”
Thanh tịnh? Tôi cười lạnh, nơi nào mới thực sự thanh tịnh đây? Phật môn ư? Nhưng bên ngoài Phật môn chính là hồng trần, chẳng có nơi nào thực sự thanh tịnh cả.
Nàng ta tiện tay xé bài thơ đó đi, hỏi: “Nương nương có biết tại sao tần thiếp lại thích đình Tùng Phong không?”
Tôi đưa mắt nhìn nàng ta. “Quý nhân xin hãy nói ta nghe thử.”
Nàng ta điềm đạm nói: “Tùng có khí tiết, hà tất phải làm giống hoa bợ đỡ.” Dứt lời, nàng ta liền ung dung rời đi.
Nhìn theo bóng lưng nàng ta, tôi khẽ thở dài một tiếng. Phương Nhược nói: “Thụy Quý nhân đúng là một cô gái tốt!” Nàng ta không nói thêm nữa nhưng tôi lại biết, một cô gái tốt như vậy không thích hợp với cuộc sống trong cung, dù rằng nàng ta bây giờ đang đắc sủng.
Thời tiết ngày một nóng hơn, đến độ tháng Sáu, tôi đã phải đổi sang mặc áo sa mỏng. Có thai năm tháng, thân thể tôi hết sức mỏi mệt và hay buồn ngủ, thường xuyên ngồi tựa trên chiếc sạp quý phi mà ngủ gật giữa ban ngày nhưng đến đêm thì lại không ngủ được, cái bụng đã nhô hẳn lên khiến tôi trằn trọc không yên, ngón chân và bắp đùi thỉnh thoảng lại bị chuột rút, hết sức khó chịu.
Ôn Thực Sơ đến khám cho tôi rồi nói: “Nương nương nên uống nhiều canh ninh xương, nhớ cho thêm chút giấm, thường ngày nên ăn nhiều đậu phụ và rau quả, như vậy có thể chữa được chứng chuột rút. Còn nếu muốn ngủ ngon, trước khi đi ngủ hãy uống một chút sữa bò.”
Hoán Bích đứng bên cạnh cẩn thận ghi nhớ. Ôn Thực Sơ lại viết thêm mấy phương thuốc an thai, nói: “Xin thứ cho vi thần nhiều lời, nương nương ngủ không ngon e là vì trong lòng có quá nhiều suy nghĩ, chỉ dùng thuốc thì khó mà có tác dụng được.”
Tôi xắn tay áo lên, mỉm cười nói: “Đại nhân đã biết vậy hà tất phải nói nhiều làm gì. Đợi lát nữa đại nhân đi phục mệnh với Hoàng hậu, xin hãy thay bản cung gửi lời vấn an, cứ nói là bản cung tất thảy đều ổn.”
Hắn nói: “Hoàng hậu nương nương được Hoàng thượng nhờ cậy, không dám lơ là qua loa với nương nương và thai nhi trong bụng, thường xuyên triệu vi thần tới hỏi han tình hình.”
Tôi đưa mắt liếc hắn, chậm rãi nói: “Đại nhân biết cần phải ứng phó thế nào là được.”
Sau khi trò chuyện một hồi, tôi lại hỏi: “Vết bỏng trên tay My Trang tỷ tỷ chắc cũng khỏi rồi, Ôn đại nhân đã đưa Thư ngân giao cho tỷ tỷ dùng rồi chứ? Hiệu quả thế nào?”
Trên mặt lộ ra một tia buồn bã, Ôn Thực Sơ tiện miệng nói: “Đỡ hơn nhiều rồi!” Hắn do dự một chút, cuối cùng không nói gì thêm, chỉ bảo vết thương của My Trang kín miệng rất nhanh, còn về việc Thư ngân giao có hiệu quả hay không thì không nhắc tới. Sau đó, hắn lại cẩn thận dặn dò thêm một câu: “Sau này, nếu An Phương nghi có đưa vật gì tới cho nương nương, xin nương nương hãy để vi thần kiểm tra trước rồi hãy dùng.”
Nhìn điệu bộ ân cần dặn dò của hắn, lại liên tưởng tới vẻ mặt không yên tâm của hắn ngày đó khi tôi đưa Thư ngân giao cho My Trang, trái tim tôi bất giác nhảy dựng lên, cảm thấy hết sức bất an. Cố giữ vẻ bình tĩnh, tôi nhẹ nhàng nói: “Đại nhân muốn bản cung tĩnh tâm dưỡng thai, không suy nghĩ nhiều, nhưng lại cứ nói năng mập mờ, không rõ ràng như vậy, há chẳng phải là càng khiến bản cung lo lắng, bất an hơn sao?” Tôi đưa mắt nhìn quanh Đường Lê cung một lượt, chậm rãi nói tiếp: “Đại nhân có gì xin cứ nói thẳng, lẽ nào đã rơi vào tình cảnh như ngày hôm nay rồi, bản cung còn có chuyện gì không chịu đựng nổi sao?”
Trong mắt như có một tia sáng lóe lên, hắn do dự nói: “Thư ngân giao đó…”
Khuôn mặt hắn lộ rõ vẻ không đành lòng và chán ghét, trong đầu tôi như có một tia sáng lóe lên, dù không muốn tin đến mấy thì lúc này cũng không thể không tin được. Tại sao mấy ngày trước khi sẩy thai, tôi cứ luôn cảm thấy thân thể không thoải mái? Tại sao mới chỉ ngửi Hoan nghi hương mấy canh giờ và quỳ nửa canh giờ trong cung Hoa Phi mà tôi đã sẩy thai? Tại sao sau khi tôi sẩy thai, Ôn Thực Sơ lại chuẩn đoán ra trong cơ thể tôi có xạ hương, mà sự giải thích của Lăng Dung lại là vì Hoan nghi hương?
Xạ hương? Thân thể tôi run lên dữ dội, cảm thấy chẳng còn chút sức lực, phải cố gắng lắm mới có thể cất tiếng hỏi Ôn Thực Sơ: “Trong Thư ngân giao đó có xạ hương phải không?”
Hắn hơi sững sờ. “Nương nương…”
Tôi ra sức nắm chặt bàn tay, nín thở nói: “Đại nhân nói đi!”
Hắn hết cách, đành nói: “Vi thần… Trong Thư ngân giao đó có khá nhiều xạ hương, nếu thông qua vết thương đi vào da thịt thì chẳng khác gì ăn uống mỗi ngày, hơn nữa hương hoa của nó nồng đậm như vậy chính là để che giấu mùi của xạ hương, nếu không phải là người hiểu về hương liệu thì quyết không thể phối chế ra được.” Hắn nắm chặt ống tay áo của mình, nói tiếp: “Kỳ thực, người đứng sau việc này chưa chắc đã là An Phương nghi, vi thần cũng chỉ phán đoán thôi, dù sao Thư ngân giao để trong tẩm cung của nương nương cũng có thể có người động đến…”
Thư ngân giao là do tự tay Lăng Dung tự tay điều chế, mỗi ngày tôi đều mang theo bên người để dùng, chắc hẳn không một ai có thể động đến. Mà nếu không phải người hiểu rõ về hương liệu như nàng ta, ai lại có thể nắm rõ được chừng mực để khiến tôi không phát hiện ra như thế?
Có điều, không biết nàng ta làm như vậy là do ý của bản thân hay là do người khác sai khiến, mà tại sao nàng ta lại căm hận tôi đến mức này, ngay đến đứa bé trong bụng tôi ngày đó cũng không chịu buông tha?
Thân thể tôi lạnh toát từng cơn, nỗi căm hận trào dâng trong lòng, lồng ngực bức bối đến khó chịu, cảm thấy buồn nôn vô cùng, không kìm được “ọe” một tiếng, nôn thốc nôn tháo một hồi. Ôn Thực Sơ không hề ngại bẩn, vội bước tới đỡ lấy tôi, Hoán Bích giúp tôi lau khóe miệng. Ôn Thực Sơ hỏi với giọng quan tâm: “Nương nương buồn nôn lắm sao?”
Tôi ngồi tựa người trên ghế, cất tiếng cười lạnh lùng mà thê lương. “Có người còn khiến ta buồn nôn hơn nhiều.” Tôi đưa mắt nhìn hắn. “Ta không ngờ lại bị vẻ ngụy trang của ả lừa gạt, thật ngu xuẩn quá chừng!”
Hắn vội nói: “Nếu tâm kế của An thị quả thực sâu xa như thế, liệu có ai nhìn thấu được đây, đâu phải chỉ có mình nương nương bị ả lừa gạt!”
Tôi uể oải đứng dậy, ánh dương bên ngoài cửa sổ thật rạng rỡ và nóng nực biết bao, rải xuống đất một mảng sáng lòa khiến tôi choáng váng. Tôi cố hết sức nhẫn nhịn, hỏi Ôn Thực Sơ: “Chuyện này My tỷ tỷ có biết không?”
Hắn dè dặt lắc đầu. “Vi thần không dám tùy tiện nói bừa.”
Tôi khẽ gật đầu, tỏ ý vừa lòng. “Chuyện này nhất định đừng để tỷ ấy biết, bằng không với tính cách của tỷ ấy sao có thể nhẫn nhịn được. Nếu kẻ chủ mưu thật sự là An Phương nghi, tâm kế của ả ắt hết sức thâm trầm, My tỷ tỷ khó có cách nào chống đỡ nổi. Huống chi, bây giờ bản cung đang thất thế, tỷ ấy lại càng thế đơn lực bạc.”
Ôn Thực Sơ gật đầu một cái thật mạnh. Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Xin đại nhân hãy chuyển lời tới My tỷ tỷ, bất kể thế nào cũng đừng đắc tội với Hoàng hậu và An Phương nghi.” Tôi khẽ xua tay một cái. “Đại nhân về đi, bản cung hơi mệt rồi!”
Hoán Bích vội đỡ tôi vào nội điện nằm nghỉ, căng thẳng nói: “Nếu An Phương nghi có liên quan tới việc nương nương sẩy thai ngày trước, sao nương nương không để Thẩm Tiệp dư biết việc này mà tùy cơ hành sự, lại cứ giấu giếm làm gì?”
Tôi nằm trên giường, mồ hôi rỉ ra ướt đẫm tóc mai, chậm rãi phe phẩy quạt, nói: “Trong tình hình bây giờ, ta chỉ có thể để My Trang tự bảo vệ mình, lỡ như bị ta làm liên lụy thì biết phải làm sao đây? Nếu để tỷ ấy tùy cơ hành sự, há chẳng phải là đưa tỷ ấy vào con đường chết?”
Hoán Bích đỏ bừng hai má, nói: “Nô tỳ chỉ lo lắng cho nương nương thôi.”
Tôi nói: “Muội ra ngoài đi, để ta yên lặng nghỉ ngơi một lát.” Hoán Bích vâng lời ra ngoài, tôi một mình nằm đó, trái tim nóng như lửa đốt. Tình cảm giữa tôi và Lăng Dung tất nhiên không thể so được với My Trang, nhưng xưa nay cũng luôn thân mật, dù rằng trong sự thân mật vẫn còn mấy phần xa cách nhưng tôi cũng chưa từng làm việc gì có lỗi với nàng ta kia mà!
Sự đáng sợ của lòng người chẳng lẽ lại tới mức này sao? Tôi khẽ phe phẩy chiếc quạt, bàn tay hơi run rẩy. Lăng Dung, Lăng Dung, đầu óc tôi trở nên bùng nhùng, rối loạn, nghĩ về mối tư tình quạ lạnh, về Kim lũ y, rồi về việc sau khi tôi thất sủng, nàng ta nghe theo sự chỉ dẫn của Hoàng hậu cất tiếng ca vang mà được sủng ái trở lại, sau đó lại để ý đến việc Huyền Lăng sủng ái ai hơn. Sau đó, tôi nghĩ đến bộ dạng ân cần của Hoàng hậu khi khuyên tôi dùng Thư ngân giao để chữa trị vết thương trên mặt, bao nhiêu manh mối và những nghi ngờ trước đó đồng loạt hiện lên, được tôi xuyên suốt nối thành một dải.
Những sự việc nhỏ nhặt mà tôi cố tình bỏ qua hoặc không suy nghĩ đến cũng ùn ùn lóe hiện, ghép thành một bức tranh tàn khốc trước mặt tôi.
Hoàng hậu và Lăng Dung, mối quan hệ giữa bọn họ rốt cuộc như thế nào? Hoàng hậu mà tôi từng ngỡ là đoan trang, hiền thục, thì ra vẫn luôn ngấm ngầm bày mưu tính kế sau lưng tôi, hơn nữa còn mượn tay Lăng Dung, Hoa Phi chẳng qua chỉ là một kẻ chịu tội thay mà thôi.
Tôi căm hận đến nỗi cơ hồ muốn hộc máu, chợt nghe “cạch” một tiếng, cây quạt tròn trong tay đã bị bẻ gãy làm hai nửa.
Ngủ một mình giữa đêm thanh vắng, tiết trời nóng nực khiến tôi trằn trọc không yên, nhưng không dám bỏ chăn sợ bị cảm lạnh. Dưới sự đè nén của những mối tâm sự trùng trùng, tôi rốt cuộc đã trở dậy, đi chân trần lặng lẽ đến hành lang ở sau điện. Qua ô cửa sổ có lớp rèm bị gió thổi tung, tôi nhìn thấy Hoán Bích đang gục đầu xuống bàn ngủ say. Sau khi Lưu Chu qua đời, Hoán Bích lo hầu hạ tôi mọi việc, lại phải thức trông chừng tôi khát nước hay bị chuột rút lúc nửa đêm, tất nhiên vô cùng mỏi mệt.
Trên dãy hành lang, ánh trăng bị những lùm cây hoặc thưa hoặc rậm che khuất một phần, tạo thành những mảng sáng muôn hình vạn trạng. Hoa lê sớm đã lụi tàn, kết thành không ít quả lê xanh trên cây, tựa như nắm tay của những đứa bé. Giữa làn gió đêm hiu hắt, hương hoa thoang thoảng tràn vào bên trong chiếc áo ngủ mỏng manh của tôi. Có thai được năm tháng, cái bụng của tôi đã nhô lên rất rõ ràng.
Còn nhớ lần đầu có thai, tôi cũng từng đứng dưới gốc lê thế này, những bông hoa lê nở trắng như tuyết, tỏa ra mùi hương thanh tân dễ chịu, tình cảm mặn nồng với Huyền Lăng khi đó giống như một giấc mộng xuân nơi khuê các, thăm thẳm xa xôi, đã đi rồi là không bao giờ có thể quay trở lại.
Tôi của bây giờ mang thai thực vất vả biết bao, lúc nào cũng chìm trong những nỗi sợ hãi, chẳng biết nơi đâu mới là điểm tận cùng.
Gió thổi tới khiến mái tóc dài của tôi tung bay nhè nhẹ, khẽ phớt lên gò má ngày một hốc hác, phía đằng xa loáng thoáng vang lên tiếng kêu của một loài côn trùng nào đó, khiến tôi bỗng thấy bi thương, nghẹn ngào bật khóc. Nhưng dù đang khóc, tôi vẫn hết sức kìm nén tiếng khóc của mình, để nó từ từ tan đi trong gió.
Từ phía sau lưng, một đôi tay khoác một chiếc áo lên người tôi, tôi quay lại, thấy là Cận Tịch. Nàng ta ân cần nói: “Nương nương đi chân trần ra đây, cẩn thận kẻo bị cảm lạnh.”
Nàng ta còn mang theo một đôi giày lụa mềm mại, sau khi đỡ tôi ngồi xuống liền cẩn thận đi vào cho tôi. Làm bộ như không nhìn thấy những giọt nước mắt và nỗi căm hận của tôi, Cận Tịch chậm rãi nói: “Đáng lẽ nương nương nên cảm thấy vui mới đúng.”
Tôi nghi hoặc. “Vui mừng ư?”
“Nương nương đã mấy bận nghi ngờ dụng tâm của An tiểu chủ, nếu trước đây nàng ta là tên bắn lén, vậy bây giờ đã trở thành giáo đâm thẳng mặt rồi, như thế chẳng phải nương nương càng dễ đề phòng hơn sao? Hiện giờ nương nương đang ở chỗ sáng, kẻ địch ở chỗ tối, bớt được người nào thì tốt người đó.” Nàng ta khẽ cất tiếng hỏi tôi: “Có phải nương nương đau lòng vì tình nghĩa tỷ muội ngày xưa không?”
Tôi vốn định gật đầu nhưng rồi lại cười lạnh, nói: “Chuyện đã đến nước này rồi, ả với ta còn có cái gì gọi là ‘tình nghĩa tỷ muội’ nữa?”
Cận Tịch nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh tôi, khẽ nở nụ cười, nói: “Tình cảm giữa nương nương và Thẩm Tiệp dư quả là hiếm có, nhưng cũng chính vì nó hiếm có nên không cần thiết phải hy vọng rằng ai ai cũng như vậy.”
Tôi nói với giọng ngợp nỗi bi thương: “Ta thực không hiểu nổi tại sao Lăng Dung lại đối xử với ta như vậy.”
Cận Tịch cười, nói: “Nương nương không cần phải hiểu, vì một khi đã hiểu rồi, nhất định đó sẽ là một chân tướng cực kỳ xấu xí. Nương nương quả thực đã đối xử với An Phương nghi rất tốt, nhưng trong chốn hậu cung này, không phải nương nương đối tốt với nàng thì nàng ta sẽ đối tốt với nương nương.”
Tôi biết, hiện giờ tôi không hề có cơ hội phản kích, dù có căm hận đến mấy, tôi cũng nhất định phải nhẫn nhịn.
Tôi vén mấy sợi tóc rối trước trán lên. “Ngươi nói không sai, tốt hay xấu đều do lợi ích của bản thân quyết định. Ta cũng từng hoài nghi ả bị người ta xúi bẩy, nhưng bất kể có phải bản thân ả muốn làm vậy hay không, ả quả thực cũng đã làm.” Tôi nắm lấy bàn tay Cận Tịch, nói với giọng cảm kích: “Cận Tịch, ngươi lúc nào cũng giúp ta kịp thời tỉnh ngộ.”
Nàng ta thoáng có chút thẹn thùng rồi rất nhanh đã thản nhiên nói: “Nô tỳ từ nhỏ đã sống trong chốn thâm cung, bây giờ cũng ba mươi tuổi rồi, tất nhiên không phải hạng trẻ người non dạ, chưa từng trải chuyện đời.” Thoáng dừng lại, nàng ta nói tiếp với giọng ôn tồn mà kiên định: “Sau lưng An Phương nghi có lẽ còn có người giật dây, nhưng bất kể thế nào, nếu lúc này nương nương vì nàng ta mà tự làm tổn hại tới thân thể mình thì thực không đáng, xin nương nương chú ý giữ gìn.” Sau đó lại có chút thổn thức. “Kỳ thực việc này cũng không sao hết, nương nương trọng tình nghĩa nên mới thương tâm, ở trong cung dù là chị em ruột cũng có ngày trở mặt, huống chi hai người còn chẳng phải họ hà thân thích.”
Nghe nàng ta nói vậy, tôi bất giác thấy thư thái hơn nhiều, không nói gì thêm, chỉ tự an ủi bản thân, yên tâm đi ngủ.
Khi tôi mang thai được sáu tháng cũng là lúc trời nóng nhất. Tôi vốn không chịu được cái nóng, do đang mang thai nên không thể ăn đồ lạnh, thành ra lại càng cảm thấy khó chịu, tính tình cũng có chút nóng nảy. Điều đáng mừng duy nhất là thai nhi trong bụng tôi ngày càng động đậy rõ ràng hơn.
Hôm ấy tôi ngủ trưa trong điện, vì từ sau khi có thai đến giờ tôi cứ luôn ngủ không ngon, hiếm có khi nào ngủ sâu được như bây giờ, do đó mọi người đều rất vui vẻ. Vì sợ quấy nhiễu giấc ngủ của tôi, mọi người chỉ để một mình Hoán Bích ở lại bên cạnh tôi phẩy quạt hầu hạ. Trưa hôm nay trời vừa mưa, những làn gió mát rượi từ bên ngoài ô cửa sổ phía bắc không ngớt thổi vào, do đó tôi ngủ rất ngon.
Trong cơn mơ màng, tôi cảm thấy Hoán Bích quạt rất mạnh, từng làn gió mát rượi liên tục thổi tới, do đó lại càng thoải mái. Tôi đã nằm mơ, mơ về năm tôi vừa được sủng hạnh, lúc đang ở Thái Bình hành cung, cũng là một dịp trưa hè thế này, khi ấy trời nóng, Huyền Lăng tới thăm tôi. Bao nhiêu lời lẽ yêu đương dạt dào tình cảm của y loáng thoáng vang lên bên tai, dịu dàng mà trầm ấm. Y đột nhiên cất tiếng gọi tôi: “Hoàn Hoàn, điệu Kinh hồng đó nàng múa đẹp thật!” Tôi đang ngồi trước bàn trang điểm, y vẽ lông mày hình núi xa cho tôi, động tác rất thành thạo, nhưng thực ra lông mày của tôi thích hợp với kiểu mày lá liễu hơn. Tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi, lớn tiếng hô lên: “Tứ lang! Thiếp là Hoàn Hoàn, không phải Hoàn Hoàn kia, không phải Hoàn Hoàn gì hết!” Nhưng y lại chỉ đắm đuối nhìn tôi, giọng nói thiết tha chứa đầy tình cảm: “Hoàn Hoàn, điệu Kinh hồng của nàng…”
Đầu tôi đau như muốn nứt ra, cơ hồ muốn bật khóc thành tiếng, điệu Kinh hồng tung bay trong mê loạn, một tiếng sáo u buồn vang lên bên tai tôi, là tiếng sáo hay tiếng tiêu, tôi gần như không thể phân biệt rõ. Tiếng cười giòn tan của mẹ cất lên. “Học điệu Kinh hồng là để múa cho tình lang mà mình yêu quý xem đấy, điệu múa mà một cô gái phải khổ công luyện tập sao có thể tùy tiện để người ngoài xem được!”
Tôi hết sức khó chịu, trong lúc mơ màng cảm thấy có một bàn tay ấm áp nhẹ nhàng đặt lên trán mình, hỏi với giọng lo lắng: “Nàng ấy thường xuyên ngủ không được ngon thế này sao?”
Đó rõ ràng là một giọng nam, Hoán Bích khẽ cất tiếng trả lời: “Nương nương khi ngủ cứ luôn bị giật mình như vậy đấy, ăn cũng chẳng được ngon.”
Y khẽ “ồ” một tiếng, một chiếc khăn mát rượi được đắp lên trán tôi, tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Dường như có một đôi tay đang nhẹ nhàng vuốt ve cái bụng ngày một tròn hơn của tôi, nhưng cảm giác không được rõ ràng lắm, đó là một sự tiếp xúc hết sức nhẹ nhàng.
Tôi cảm thấy rất mệt, chỉ loáng thoáng nghe thấy y và Hoán Bích dường như đang thấp giọng trò chuyện với nhau, sau đó dần thiếp đi.
Khi tỉnh dậy thì đã là đêm khuya, tôi cựa mình trở dậy, nói: “Bụng càng ngày càng to hơn rồi, cử động thật khó khăn quá!”
Hoán Bích cười, nói: “Thân hình nương nương trông không có vẻ phát phì chút nào.”
Tôi mỉm cười nói: “Vừa rồi hình như ta nghe thấy muội nói chuyện với ai đó, ai từng tới đây sao?”
Hoán Bích nói: “Bây giờ thì còn có ai tới được chứ? Là Tiểu Doãn Tử vừa vào, thấy nương nương ngủ mà cũng đổ mồ hôi liền đắp cho nương nương một chiếc khăn lạnh.” Tôi thấy bên tay mình quả nhiên có một chiếc khăn vuông màu trắng, cũng không mấy để tâm, đang định bảo Hoán Bích lấy cho một ngụm nước thì chợt cảm thấy thành bụng hơi rung nhẹ, hình như vừa bị đá một cú. Tôi lập tức ngây người, không dám động đậy, hồi lâu sau, cảm giác đó lại lặp lại.
Tôi mừng đến rơi nước mắt, vội kéo tay Hoán Bích, đặt lên bụng mình, giọng nói có chút lộn xộn: “Muội nghe! Muội nghe đi! Nó đang đá ta đấy!”
Hoán Bích vứt thứ đang cầm trong tay qua một bên, mừng rỡ nói: “Thật vậy sao?” sau đó liền áp sát mặt mình vào. “Nương nương! Hình như nó đang động đậy này, hình như… hình như là đang vươn vai.”
Dấu hiệu của sinh mệnh đã rõ ràng hết sức, tôi mừng đến nỗi chẳng biết phải nói gì. Hoán Bích nắm lấy bàn tay tôi, khuôn mặt đầy nét vui sướng và kích động. “Nương nương…” Rồi không kìm được mà rơi nước mắt.
Tôi vội cười, nói: “Khóc cái gì chứ.” Tôi khẽ vuốt ve cái bụng đã nhô hẳn lên của mình. “Muội là dì của nó đấy, nên vui mừng mới phải.”
Hoán Bích vừa cười vừa khóc, vẻ mừng vui lại càng thể hiện rõ ràng. “Đúng là một đứa bé ngoan, biết thương mẹ nó, do đó quãng thời gian trước nương nương dù buồn nôn nhưng cũng không nôn mửa dữ quá. Sau này nó nhất định sẽ là vị hoàng tử hiếu thuận nhất!”
Tôi chỉ mỉm cười, khẽ nói: “Sao phải là một hoàng tử. Ta hy vọng nó là một công chúa cơ.”
Hoán Bích khẽ kêu “úi” một tiếng, tò mò nói: “Nương nương không hy vọng là hoàng tử sao? Phải là hoàng tử thì nương nương mới có thể trở mình, nhận lại ân sủng được.”
Tôi hờ hững lắc đầu. “Ân sủng? Ta chẳng thèm. Ta chỉ mong đứa bé này có thể bình an trưởng thành.” Tôi cúi xuống, khẽ nói: “Nếu là một công chúa thì sẽ có thể tránh khỏi cuộc chiến tranh giành ngôi báu sau này. Ngươi biết đấy, những cuộc tranh đấu trong hoàng tộc xưa nay luôn là kẻ sống người chết, quá mức tanh máu.” Tôi thoáng do dự nói tiếp: “Huống chi đứa bé này chưa chắc đã được lòng phụ hoàng của nó.”
Hoán Bích có chút suy tư, khẽ nói: “Điều này cũng khó nói, nô tỳ chỉ mong đứa bé này được bình an thôi!”
Tôi khẽ mỉm cười, không nói gì thêm. Kể từ khi bị cấm túc đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc như vậy. Đứa bé này đang ở trong bụng tôi, đang sống trong bụng tôi, đang trưởng thành trong bụng tôi. Lúc này đây, sự vĩ đại và hừng hực của sinh mệnh cuồn cuộn tràn vào trái tim đang ngợp trong mỏi mệt và bi ai, thù hận của tôi, tất cả tâm trạng tiêu cực nhanh chóng tan biến hết, chỉ có sinh mệnh nhỏ bé kia mới là nơi tôi thác gửi mọi niềm yêu thương và hy vọng.
Sang thu, thân thể tôi lại càng nặng nề, vướng víu. Độ này trời nắng đẹp, mỗi ngày Phương Nhược đều đến đưa tôi đi dạo trong Thượng Lâm uyển một canh giờ để tiện cho việc sinh nở. Phương Nhược hiển nhiên đã được người ta dặn dò, rất ít khi nói với tôi về chuyện bên ngoài, thỉnh thoảng thấy tôi đi đã mệt thì cũng chỉ lẳng lặng dắt tôi tới ngồi xuống nghỉ ngơi, không nói gì nhiều, nhưng sự quan tâm và xót xa trong mắt lại không cách nào giấu được.
Việc đi lại của tôi ngày một trở nên nặng nề và khó khăn hơn, thường xuyên phải có người dìu đỡ, thân thể thì gầy guộc và nhợt nhạt, duy có phần bụng là tròn vo, nhô hẳn lên, nhìn từ xa tới chỉ thấy được mỗi cái bụng. Phương Nhược cô cô ngó quanh, thấy bốn phía không có ai liền thấp giọng cảm thán: “Nếu sớm biết có mối tai họa ngày hôm nay, khi đó nô tỳ đã không dụng tâm chỉ dạy nương nương rồi, như thế nương nương cũng bớt phải chịu khổ.”
Tôi nhìn bầu trời xa xăm, thấy một đàn chim nhạn đang bay về phương Nam, bốn phía xung quanh những bức tường đỏ cao vút của Tử Áo Thành là một khoảng trời xanh biếc, không một gợn mây, dường như vĩnh viễn thuần khiết như thế. Tôi khẽ mỉm cười, trái tim hết sức bình lặng, thời tiết thế này thật rất giống với hôm tôi mới vào cung, tôi của khi đó ôm một tâm trạng thấp thỏm bất an về tương lai phía trước, hệt như tôi của bây giờ, cũng không biết con đường trước mặt sẽ đưa mình đi tới đâu. Tôi khẽ mỉm cười, nói: “Cô cô và bản cung đều không phải thánh nhân, làm sao biết ngày sau sẽ xảy ra chuyện gì. Bất kể khi nào, chúng ta cũng chỉ có thể để tâm tới chuyện trước mắt mà thôi.”
Phương Nhược không biết phải trả lời ra sao, sau khi im lặng một thoáng liền nói: “Kỳ thực Hoàng thượng rất quan tâm tới nương nương đấy!”
“Vậy sao?” Tôi hơi nhếch khóe môi, coi như cười mỉm. “Là quan tâm tới bản cung hay đứa bé trong bụng bản cung?” Ánh nắng mùa thu ấm áp tựa bông hoa sen đang nở rộ trên người tôi, tôi hơi nheo mắt, nói tiếp: “Nếu cô cô nói lời này với mấy vị quý nhân mới, chắc bọn họ sẽ thấy vui mừng hơn bản cung nhiều.”
Phương Nhược muốn nói gì đó nhưng lại thôi, cuối cùng chỉ im lặng.
Phía đằng xa có tiếng cười của nữ tử vang lại, chính là mấy vị quý nhân năm ngoái mới vào cung. Kỳ Quý nhân đã được tấn phong làm Kỳ Tần, Thụy Quý nhân cũng được làm Thụy Tần, hiện giờ khá được Huyền Lăng sủng ái, Phúc Quý nhân và Tường Quý nhân thì kém bề ân sủng, vẫn chưa được tấn phong. Nhìn thấy tôi, Kỳ Tần khom người hành lễ từ xa, Tường Quý nhân thì có vẻ không bằng lòng lắm, kéo tay áo Kỳ Tần, khẽ làu bàu: “Hoàng thượng chỉ cho nàng ta đãi ngộ bậc tần, cũng giống như Kỳ tỷ tỷ thôi, tỷ hà tất phải hành đại lễ với nàng ta như thế?”
Kỳ Tần không tỏ vẻ gì, Thụy Tần xưa nay luôn thoát tục, sau khi hành lễ chỉ khẽ mỉm cười với tôi, không để ý gì đến lời của Tường Quý nhân. Phúc Quý nhân đứng bên cạnh hơi cau mày với Tường Quý nhân, tỏ ý bảo nàng ta im lặng, sau đó khẽ cười với tôi coi như chào hỏi. Nhưng Tường Quý nhân chẳng thèm để ý tới nàng ta, một mình cất bước rời đi trước.
Tôi coi như chẳng nghe thấy lời của Tường Quý nhân. Phương Nhược thấy bọn họ đã đi xa, liền cười, nói: “Phúc Quý nhân quả là một người hiền lành.”
Tiểu cung nữ bưng khay hoa quả đi theo bên cạnh Phương Nhược không kìm được cất tiếng nói chen vào: “Còn chẳng phải thế sao, nghe nói Tường Quý nhân dám mời Hoàng thượng đi từ trong cung của Phúc Quý nhân nữa, hại Phúc Quý nhân ba tháng liền không được gặp Hoàng thượng. Nhưng kể cũng lạ, Phúc Quý nhân vẫn ngày ngày tươi cười vui vẻ, không hề tỏ ra khó chịu.”
Phương Nhược giận dữ trừng mắt nhìn tiểu cung nữ đó. “Chuyện của Quý nhân mà ngươi cũng dám tùy tiện bàn luận sau lưng sao? Mau lui xuống, sau này không được tới đây hầu hạ nữa.”
Tiểu cung nữ đó mặt đầy vẻ ấm ức, nhưng chỉ trề môi không dám khóc. Tôi mỉm cười, nói: “Phương Nhược cô cô cũng cẩn thận quá rồi, lời của thị, bản cung chỉ coi là chuyện cười để nghe mà thôi.”
Giọng nói của Phương Nhược hòa hoãn hơn một chút: “Nương nương đang có thai, thật không nên nghe những lời không hay đó.”
Tôi chỉ nói: “Có thai hay không thì chuyện cũng đã xảy ra rồi, còn sợ phải nghe sao?”
Hồ Thái Dịch lúc này trong veo, xanh biếc, giữa những gợn sóng lăn tăn là vô số bóng mặt trời bé nhỏ, khiến người ta cảm thấy vừa rực rỡ vừa hư ảo. Ngồi lâu, tôi cảm thấy thân thể hơi lạnh, bèn chống tay đứng dậy. “Đi đâu đó tản bộ một chút thôi, ngồi lâu rồi, ta thấy hơi lạnh.” Phương Nhược vâng lời, cùng Hoán Bích mỗi người một bên đỡ lấy tôi.
Tôi rất muốn đi thăm My Trang nhưng mỗi lần Phương Nhược đều để ý cẩn thận, thành ra chẳng thể. Mà cứ mỗi khi My Trang đến gần tôi trong phạm vi ba trượng, Phương Nhược đều hòa nhã mời tỷ ấy tránh đi. Tuy rằng hòa nhã nhưng lại có ý chỉ của Huyền Lăng, do đó My Trang chỉ có thể đứng từ xa nhìn tôi trong chốc lát, sau đó liền xoay người rời đi.
Tôi chậm rãi bước đi dọc theo bờ hồ Thái Dịch, trời thu như vẽ, lá sen nhô cao, còn chưa có vẻ gì là sẽ tàn. Thượng Lâm uyển luôn đẹp đẽ như vậy, mùa xuân tươi mới, mùa hạ tưng bừng, mùa thu đậm hương hoa, đến cả mùa đông cũng được điểm xuyết bằng vô số bông hoa giả làm từ lụa là gấm vóc, hệt như những nữ tử xinh đẹp trong cung, nhóm này già rồi thì lại có nhóm mới vào, bờ môi thắm tươi, đôi má mịn màng bóng bẩy, ánh mắt đung đưa, thân hình yểu điệu, tựa như những bông hoa xuân chẳng bao giờ nở hết. Nhớ thuở xưa, tôi cũng từng là một bông hoa diễm lệ nhất trong Thượng Lâm uyển này.
Chiếc đu tôi từng ngồi ngày đó vẫn còn đây, chỉ là dây tử đằng và cỏ đỗ nhược trên dây đu sớm đã khô héo, chỉ còn lại những sợi vàng vọt, mà chiếc đu cũng trống trải và phủ đầy bụi, hình như đã lâu lắm rồi chưa có người dùng, còn cây hạnh vốn nở hoa rực rỡ ngay gần đó lúc này cũng đã úa vàng. Tôi thoáng ngây người trong khoảnh khắc, dường như những ngày tháng xưa cũ đó vẫn còn đây, tôi ngẫu nhiên ngoảnh đầu lại, nhìn thấy thân thể cao lớn của Huyền Lăng. Tất cả mọi việc, tôi đều không thể tránh khỏi, và cứ thế bắt đầu một cách đẹp đẽ. Tôi vẫn loáng thoáng nhớ được lời của bản thân năm xưa: “Hoa hạnh tuy đẹp nhưng lại kết ra quả hạnh rất chua, hạt lại đắng chát. Nếu con người sống trên đời cũng như vậy, mở đầu đẹp đẽ nhưng kết cục lại thảm thương, vậy thì còn ý nghĩa gì nữa? Chẳng được như tùng bách, quanh năm xanh tươi, tuy không hoa chẳng quả nhưng vẫn tốt hơn nhiều.”
Quả đúng là nói chơi mà cuối cùng thành thật, đang lúc tôi ngơ ngẩn, Hoán Bích nhắc nhở: “Nương nương nên về rồi. Nhà bếp đã làm xong món hạnh hầm chim ngói, ăn vào lúc này là bổ nhất đấy!”
Tôi nghe thấy thế thì bất giác gượng cười một tiếng. “Hạnh hầm chim ngói? Hoa hạnh nếu đã nở rồi thì thôi hãy bỏ đi.”
Hoán Bích thoáng suy nghĩ, lập tức hiểu ra, khuôn mặt bất giác đỏ bừng. Tôi thấy Hoán Bích có vẻ lúng túng liền nói: “Đúng lúc ta đang đói, chúng ta cùng về đi!”
Vừa định đứng dậy, tôi bỗng thấy Huyền Thanh dẫn theo mấy tên thái giám đang đi tới từ phía trước, bèn thỉnh an: “Vương gia an hảo!” Huyền Lăng chắc chưa dặn dò Phương Nhược việc nếu gặp hoàng thân quốc thích thì có cần ngăn cản hay không, thành ra Phương Nhược nhất thời không kịp phản ứng, để cho Huyền Thanh bước tới gần, cất tiếng chào tôi: “Lâu lắm không gặp Quý tần rồi!” Khi nhìn về phía bụng tôi, trong mắt y thoáng qua một tia mừng rỡ và bất lực, ất nhanh đã nói: “Tiểu vương còn chưa kịp chúc mừng Quý tần, xin có lời tại đây.”
Tôi khẽ mỉm cười. “Vương gia khách sáo rồi!” Dừng một chút lại hỏi: “Vương gia chuẩn bị đi thỉnh an Thái hậu sao?”
“Ta vừa từ chỗ hoàng huynh tới đây, đang định đi thăm Thái hậu.” Trên mặt y xuất hiện một nét cười hiền hòa. “Đến đây vội quá, ta chưa kịp chuẩn bị quà mừng cho Quý tần.”
Tôi cười, nói: “Đa tạ vương gia!” Ánh mắt vô tình lướt qua cây sáo mà y đeo bên hông, tôi tiện miệng nói: “Đã lâu rồi không được nghe tiếng nhạc, bản cung cảm thấy mồm miệng nhạt nhẽo, chẳng có chút hứng thú ăn uống.”
Y hiểu ý, nói: “Nương nương thích nghe bài gì? Bản vương xin được dùng tiếng nhạc làm quà mừng.”
“Hạnh hoa thiên ảnh[3].” Tôi buột miệng nói, ngay sau đó lập tức hối hận. Khúc nhạc này tôi từng thổi trong lần đầu gặp Huyền Lăng, bây giờ nghe lại, làm gì còn chút ý nghĩa nào nữa.
[3] Tên một điệu từ, do Khương Quỳ người thời Tống sáng tác.
Huyền Thanh cúi xuống, lấy cây sáo ra đưa lên bên môi, chậm rãi cất tiếng thổi. Tôi lùi về phía sau hai bước, lặng lẽ lắng nghe. Hồi đó, tôi còn ít tuổi, chỉ cảm thấy khúc nhạc này rất hay, nhưng cái thâm ý bên trong thì lại không hiểu rõ hoàn toàn. Đợi đến bây giờ hiểu rõ, tôi mới hay bên trong khúc nhạc là một nỗi sầu mênh mang, cảnh đẹp thương không dài, nỗi bi thương ngợp khắp nơi nơi.
Vẻ mặt Huyền Thanh nghiêm túc mà chăm chú, tôi dường như đã từng nhìn thấy ở đâu rồi. Ánh mắt tôi lướt qua khuôn mặt y, lần đầu tiên nổi lên một suy nghĩ thế này, người mà tôi vừa ý rốt cuộc là Huyền Lăng trong địa vị của kẻ đế vương, hay là nam tử nho nhã đi ra từ giữa những bông hoa hạnh lất phất bay đầy trời kia?
Khúc nhạc còn chưa hết, tôi đã khẽ cất tiếng cắt ngang: “Vương gia chắc đang nôn nóng đi thỉnh an Thái hậu, bản cung không làm phiền nữa. Mời Vương gia!”
Trong mắt y lóe lên một tia sáng kỳ dị, dường như ẩn đầy nỗi xót thương. “Mời Quý tần!” Y tỏ vẻ vô tình nói với gã thái giám bên cạnh: “Nghe nói sau khi vào thu, Thái hậu ăn gì cũng chẳng thấy ngon, trong phủ bản vương thường dùng ngân nhĩ và cẩu kỷ hầm thành canh tẩm bổ, đợi lát nữa sẽ sai người về vương phủ lấy một ít đưa tới đây.” Y thể hiện vẻ quan tâm một cách kín đáo vô cùng, tôi chỉ hờ hững đứng nhìn từ xa.
Gã thái giám kia vội cười, nói: “Vương gia không cần phải như vậy đâu, lát nữa cứ bảo phủ Nội vụ chọn loại thượng hảo đưa tới cho Thái hậu là được mà.”
Một gã thái giám khác nói: “Đó là lòng hiếu thảo của Vương gia đối với Thái hậu, những thứ trong phủ Nội vụ có thể so bì được sao?”
Huyền Thanh khẽ mỉm cười, cuối cùng chỉ nói: “Quý tần xin hãy bảo trọng!” Sau đó liền vội vã rời đi.
Về đến Đường Lê cung, tôi nằm trên giường nghỉ ngơi. Hoán Bích ngồi bên cạnh phẩy quạt cho tôi. “Không biết có phải nô tỳ cả nghĩ không, vừa rồi cứ luôn cảm thấy bộ dạng của Kỳ Tần tiểu chủ có vẻ hơi cổ quái.”
Tôi ngồi dậy, một tay chống cằm, một tay lật xem những bộ quần áo nhỏ mà các cung nhân chuẩn bị cho đứa bé sắp ra đời, khẽ “ồ” một tiếng, hỏi: “Tức là sao?”
Hoán Bích nghiêm túc suy nghĩ một chút rồi đáp: “Đây chỉ là sự nghi ngờ của nô tỳ thôi. Mùa đông năm ngoái, khi công tử vào cung từng nhắc đến việc nhị ca Quản Khê của Kỳ tần tiểu chủ sẽ cưới nhị tiểu thư vào dịp Trùng Dương năm nay, tại sao bây giờ đã là tháng Tám rồi mà vẫn chẳng có chút động tĩnh nào?”
Tôi không để ý lắm, chỉ thầm nghĩ nếu cái thai lần trước của tôi thật sự bị Hoàng hậu và Lăng Dung làm hại, vậy tại sao lần này lại chẳng có chút động tĩnh nào như thế, dù rằng tôi đã xin Huyền Lăng hạ chỉ cho Hoàng hậu phụ trách việc sinh
Bình luận truyện