Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
Quyển 4 - Chương 13: Tuyệt đại giai nhân
Khu vực quanh chùa Cam Lộ đã dần trở nên quen thuộc với tôi, tôi bắt đầu đi xa hơn một chút trong những lần cắt cỏ.
Có lúc Tịnh Bạch cau mày, trách mắng tôi: “Đừng có lười nhác, tưởng mình còn là lá ngọc cành vàng như trước sao? Đi cắt cỏ nhớ đi xa một chút!”
Thế là ngay cả đỉnh Lăng Vân hay hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, tôi cũng thường hay lui tới.
Chỉ duy có đỉnh Phiêu Miểu, nơi có biệt viện Thanh Lương Đài của Huyền Thanh là tôi nhất quyết không tới bao giờ. Không phải bởi nguyên nhân gì khác, chỉ là vì khi tôi trèo lên cao, nhìn thấy Thanh Lương Đài tường xanh ngói đỏ ở phía xa, tâm trạng liền trở nên bình yên khó tả, cảm thấy chỉ cần nhìn xa như vậy là được. Một khi lại gần, trong lòng tôi liền thấp thoáng trào dâng cảm giác sợ hãi.
Hôm ấy, tôi tới hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, nơi đây đường hẹp cây nhiều, cành lá rậm rạp, những bông hoa dại mọc lác đác giữa bụi cỏ, thoang thoảng hương thơm, tôi nhất thời nhìn mà say đắm, liền bước vào sâu trong khu rừng, nơi mình chưa từng đặt chân tới. Chỉ thấy xung quanh là một vùng xanh biếc, hoàn toàn che hết ánh mặt trời nóng nực, văng vẳng đâu đây còn có tiếng chim hót véo von, vui tai vô cùng, thời tiết tháng Năm cũng theo đó mà trở nên mát mẻ. Càng vào sâu trong núi lại càng xuất hiện nhiều mạch suối, không khí trở nên sảng khoái, dễ chịu hơn, toàn thân tôi không có chỗ nào là không thoải mái.
Đi tới giữa rừng, một con đường ruột dê lát đá cuội hiện ra trước mắt, chẳng biết dẫn về nơi nào, dường như đang mời gọi người ta đi tiếp. Men theo đó mà đi, chỉ thấy có mấy ngôi nhà cũ quây quần một chỗ, màu sắc ban đầu của tường ngói sớm đã bị gió núi xóa nhòa, chỉ còn lại một vẻ cũ kĩ, hòa vào màu xanh biếc của khung cảnh xung quanh, không có lấy một chút sinh khí, cũng chẳng có gì bắt mắt.
Đi tới gần, tôi thấy trên cổng của khu nhà đó có một tấm biển nhỏ, sơn vàng quá nửa đã bị bong tróc, thêm vào đó, lúc này sắc trời u ám, phải nhìn một lúc lâu tôi mới nhận ra đó là ba chữ lớn “An Tê Quán”.
Tôi nhất thời tò mò, lại cảm thấy mồm miệng khát khô, thầm nghĩ cánh cửa gỗ màu xám kia đang khép hờ, hẳn là có người ở trong. Thế là tôi bèn đưa tay đẩy khẽ, cánh cửa “két” một tiếng mở ra.
Xuất hiện trước mắt tôi là một chiếc sân nhỏ cùng một gian chính đường kiểu dáng bình thường, sau chính đường là sân giữa, sau nữa lại có ba gian thiền phòng nhỏ, tất cả đều vô cùng sạch sẽ, chỉnh tề. Điều đáng chú ý là ở nơi đây, giữa những lùm cỏ xanh biếc có một nguồn suối từ giữa khe đá chảy ra, hết sức thú vị. Quanh sân trồng đầy những cây ngô đồng nhỏ, khiến khung cảnh càng trở nên thanh tịnh và đẹp đẽ.
Giữa rừng tĩnh lặng, gió mát vi vu thổi tới khiến tôi không khỏi cảm thấy hơi lành lạnh, thế là không còn khát như trước nữa.
Một giọng nói dịu dàng, điềm đạm chợt vang lên: “Cô đang tìm ai sao?”
Tôi nhìn theo hướng phát ra âm thanh, thấy một nữ tử ăn mặc theo lối đạo cô đang đứng giữa ánh ráng chiều, tay xách một thùng nước, lẳng lặng nhìn tôi.
Vì đứng ngược sáng nên tôi không thể nhìn rõ dung mạo bà ta, chỉ cảm thấy giọng nói của bà ta rất ôn hòa và động lòng người. Tôi biết mình tự tiện tiến vào thế này là vô cùng thất lễ, liền vội khom người, áy náy cười, nói: “Ta khát nước quá, do đó mới mạo muội vào đây định xin miếng nước.”
Bà ta nghe vậy liền khẽ nở nụ cười, vẫy tay nói với tôi: “Nước ở đó là nước lã, không uống được đâu. Theo ta vào đây đi, để ta lấy nước cho cô.” Tôi vội vã cảm tạ rồi mới đi tới bên cạnh bà ta.
Đi tới gần, tôi mới thấy đạo cô này chỉ chừng xấp xỉ bốn mươi tuổi, trông không đến mức quá diễm lệ nhưng khuôn mặt lại rất thanh tú và điềm đạm, còn có mấy phần quen thuộc. Từ trong đôi mắt của bà ta toát ra một vẻ dịu dàng, uyển chuyển khó mà diễn tả bằng lời, tựa một bài Tống từ tinh tế nhất. Lúc này sắc trời đang tối dần, ánh hoàng hôn lập lòe chừng như sắp tắt đến nơi. Tấm dung nhan đột nhiên xuất hiện của bàa tựa một vầng trăng sáng treo cao trên trời, chiếu xuống vô số tia sáng dìu dịu, lại như bông tuyết đầu tiên rơi xuống giữa trời mùa đông, thuần khiết, thanh tân.
Tôi nhất thời cảm thấy ánh mắt mơ màng, mồm miệng khô khốc. Sự khô khốc đó không phải do cơn khát vừa rồi gây ra, mà là bởi tâm tư tôi đã không còn ở trong đầu mình mà dừng lại hết trên người bà ta, không sao dời đi được.
Bà ta cười tủm tỉm, đưa cho tôi một chén nước, nói: “Uống đi, trà này vừa mới nguội, chính là lúc ngon nhất đấy!”
Tôi vẫn còn đang ngơ ngẩn, chẳng đưa tay ra đón. Bà ta khẽ giục hai câu, tôi mới giật mình bừng tỉnh, ngượng ngùng nói: “Đã thất lễ rồi!”
Bà ta khẽ lắc đầu, không trách cứ gì. Tôi vội đưa tay đón lấy chén nước, thầm tự trách mình, tôi không phải là một nam tử háo sắc, lúc ở trong cung cũng từng thấy đủ loại nữ tử xinh đẹp rồi, thậm chí có cả người diễm lệ tuyệt trần như Hoa Phi. Đạo cô trước mắt này không thể tính là mỹ nhân tuyệt sắc, nhưng lại có thể khiến người ta không kìm được, sinh lòng đắm say.
Tôi thầm khen lạ, uống một ngụm nước rồi hỏi: “Không biết phải xưng hô với sư phụ thế nào?”
Bà ta cười, ôn tồn nói: “Cứ gọi ta là Xung Tĩnh.”
Xung Tĩnh? Tôi thầm ngơ ngẩn, cảm thấy hình như mình từng nghe thấy cái tên này ở đâu rồi. Mà điều khiến tôi nghi hoặc nhất là chùa Cam Lộ vốn thờ Phật, là nơi ở của các ni cô, tại sao ngay trong ngọn núi gần chùa Cam Lộ lại có một tòa đạo quán chẳng mấy nổi danh thế này?
Xung Tĩnh, tôi cẩn thận suy nghĩ nhưng rốt cuộc vẫn không nhớ ra được từng nghe thấy cái tên này ở đâu. Thế nhưng, tôi biết rõ cái tên này rất quen.
Đương nghĩ ngợi, bà ta chợt hỏi tôi: “Cô là ni cô ở chùa Cam Lộ sao?” Tôi khẽ gật đầu. Bà ta lại hỏi: “Cô là người mới tới à? Sao muộn thế này rồi mà vẫn còn ở bên ngoài?”
Tôi thấp giọng đáp: “Dạ phải. Chỉ vì còn chưa cắt đủ cỏ, vãn bối mới ở lại bên ngoài này nhưng cũng chuẩn bị về ngay đây.”
Bà ta khẽ nở nụ cười, trong mắt thấp thoáng một tia xót thương. “Thực vất vả cho cô rồi!”
Tôi không muốn để người khác thương hại nên chỉ im lặng không đáp lời. Thấy bà ta chỉ có một mình, tôi bèn hỏi: “Sư phụ ở đây một mình sao?”
Bà ta ngó nhìn xung quanh một chút, mỉm cười nói: “Ta ở cùng với một người thị nữ.”
Tôi không khỏi thầm kinh ngạc, như vậy thực hiu quạnh quá, nhưng cũng không tiện hỏi bà ta sao lại ở đây, chỉ cúi đầu, lẳng lặng uống nước.
Đương trò chuyện, cánh cửa gỗ chợt mở ra lần nữa, một giọng nói khẽ vang lên: “Úi chao, có người lạ ở đây sao?”
Tôi ngoảnh đầu lại, nhìn thấy một người ăn mặc theo lối thị nữ, chắc hẳn chính là người thị nữ mà Xung Tĩnh vừa nhắc tới, bèn nói: “Đã làm phiền rồi!”
Bà ta tuổi tác tương đương với đạo cô kia, đặt thứ đồ trong tay xuống, nở một nụ cười sảng khoái. “Thái phi còn không thấy bị làm phiền, sao ta có thể có cảm giác ấy được?”
Tôi ngẩn ra, trong đầu như lóe lên một tia sáng. Vị đạo cô dáng vẻ hiền hòa trước mắt này được thị nữ gọi là “Thái phi”, nơi này lại ở ngay gần Thanh Lương Đài của Huyền Thanh, mà nhìn khí chất điềm tĩnh nơi khóe mắt bà ta còn không phải giống hệt với Huyền Thanh đó sao? Thứ khí độ cao quý kia, một đạo cô bình thường sao mà có được?
Không ngờ đạo cô trước mắt tôi đây lại chính là Thư Quý thái phi, mẹ ruột của Huyền Thanh, người năm xưa từng làm chấn động kinh thành, đến bây giờ vẫn còn được vô số người trong cung nhắc tới.
Xung Tĩnh, giờ tôi mới nhớ ra lúc xưa Huyền Lăng đã sắc phong cho Thư Quý thái phi làm “Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ”.
Không ngờ vị Thư Quý thái phi năm xưa từng khiến sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son bây giờ lại sống trong một tòa đạo quán vắng vẻ thế này.
Tôi nhất thời kinh hãi, ngẩn ngơ chẳng nói được gì, lát sau mới buột miệng thốt lên: “Thư Quý thái phi?”
Bà ta hơi cau đôi mày ngài, nhìn tôi vẻ nghi hoặc. “Cô biết ta?”
Nghe bà ta nói như vậy, tôi lại càng khẳng định phán đoán của mọi người.
Trong lời đồn đại của mọi người và trong sự tưởng tượng của tôi, Thư Quý thái phi được tiên đế rất mực sủng ái nhất định phải là một nữ tử xinh đẹp vô ngần, rạng rỡ tựa vầng dương chính ngọ, nhưng đạo cô trước mặt tôi đây lại hết sức dịu dàng, tính tình điềm đạm như hoa cúc, hoàn toàn không có vẻ sắc bén của một nữ tử đã từng sống mấy chục năm ở nơi cung đình
Tôi khẽ gật đầu, cung kính hành lễ. “Dạ phải! Bây giờ nên gọi người là Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ rồi.”
Danh hiệu này là do Hoàng đế đích thân ban phong, không phải ai trong thiên hạ cũng biết. Lúc này tôi buột miệng nói ra, bà ta cũng đoán được điều gì, sau khi quan sát tôi hồi lâu bèn hỏi: “Cô là người từ trong cung ra?”
Tôi thoáng ngượng ngùng, nhanh chóng đáp: “Thái phi nói không sai.”
Bà ta lặng lẽ đứng trước mặt tôi, khóe miệng thấp thoáng một nụ cười mỉm. Giữa nơi u ám, nụ cười ấy thực rạng rỡ vô cùng, khiến lòng người ấm áp. Lúc này trời đã tối hẳn, trên trời thấp thoáng những vì sao mịt mờ, đạo bào của Thư Quý thái phi bị gió núi thổi bay lất phất, tựa một bông hoa lê thuần khiết vô ngần, càng tôn lên thân hình yểu điệu tựa một tiên tử đang đứng ngắm trăng của bà ta.
Tôi nhìn mà thầm chấn động, cơ hồ không mở mắt ra nổi. Bà ta kỳ thực không quá diễm lệ nhưng điểm động lòng người kia thì lại khó ai có thể so sánh. Tôi từ nhỏ đã tự phụ rằng dung mạo mình chẳng thua kém ai nhưng đứng trước mặt bà ta lại thấp thoáng có cảm giác tự thẹn kém người.
Khí chất dịu dàng, linh động này thực sự vô cùng đặc biệt, có thể thu hút bất cứ người nào, tôi chưa từng được thấy ở bất kỳ ai khác trong cung. Thư Quý thái phi sống nơi thâm cung mấy chục năm mà khí chất không thay đổi, chẳng trách tiên đế lại thích bà ta đến mức đó, gần như chẳng để ý đến bất cứ nữ tử nào khác. Cũng khó trách mẫu thân của Kỳ Sơn Vương lại từng lén mắng bà ta là “hồ ly lẳng lơ”, nhưng đó kỳ thực không phải lẳng lơ, mà là một sự dịu dàng, ấm áp có thể khiến cả nữ nhân mê đắm.
Bà ta nhìn tôi, cười, nói: “Thanh Nhi từng nói với ta, trong cung có một vị Hoàn Quý tần phụng chỉ tới chùa Cam Lộ tu hành, chắc hẳn chính là cô rồi.”
Tôi có chút ngượng ngùng, đoạn khẽ đáp: “Quý tần đã là lối xưng hô của ngày xưa rồi, Thái phi cứ gọi vãn bối là Mạc Sầu.”
“Mạc Sầu?” Bà ta thoáng trầm ngâm, cười hỏi: “Cô vốn họ gì?”
Tôi đáp: “Dạ, họ Chân.”
Bà ta nhìn mái tóc dài buông xõa qua vai của tôi, mỉm cười nói: “Vậy ta sẽ gọi cô là Chân nương tử.”
Tôi nói: “Thái phi khách sáo quá rồi!”
Thư Quý thái phi cười, dịu dàng nói: “Vừa rồi đúng là ta đã nhìn nhầm rồi, khí độ của Chân nương tử, những ni cô bình thường trong chùa miếu tất nhiên không thể nào có được, vậy mà ta nhất thời lại không thể nhận ra, thực sơ suất quá!” Nói rồi bà ta liền mời tôi ngồi xuống, chỉ tay về phía người thị nữ vừa rồi. “Đây là thị nữ hầu cận của ta, tên gọi Tích Vân”, sau đó lại bảo Tích Vân tới hành lễ.
Tôi vội khiêm tốn nói: “Người hầu hạ Thái phi tất nhiên là cô cô, mà vãn bối bây giờ chỉ là thứ dân, sao có thể nhận lễ của một vị cô cô chứ.”
Thái phi vội kéo tôi lại, nghiêm túc nói: “Giờ chúng ta đều không còn ở trong cung, hà tất phải giữ lễ số trong cung làm gì. Ta coi cô như vãn bối, mà Tích Vân là thị nữ của ta, hành lễ một chút cũng là việc nên làm.”
Tôi nghe Thái phi nói năng thân mật như vậy thì cũng không tiện cự tuyệt, đành để im cho Tích Vân hành lễ. Tích Vân tính tình rất thẳng thắn, sảng khoái, cười hì hì nói với tôi: “Vừa rồi nghe Thái phi nói nương tử là ni cô trong chùa Cam Lộ, ta không khỏi giật nẩy mình, nghĩ thầm làm gì có ni cô nào xinh đẹp như vậy, nhất định là Thái phi nói dối ta.”
Tôi thấy bà ta nói năng không hề câu nệ, không kìm được nhìn qua phía Thái phi. Quả nhiên Thái phi chẳng để bụng chút nào, cười nói: “Thị từ nhỏ đã lớn lên cùng ta, nói năng lúc nào cũng như vậy cả, nương tử đừng trách.”
Tôi cười, nói: “Tất nhiên rồi. Vãn bối thực sự thích lối nói chuyện thẳng thắn như vậy, không mệt mỏi như ở trong cung.”
Tích Vân đi tới gần tôi, tôi ngước mắt nhìn, bất giác cả kinh, đôi mắt của thị giống Thư Quý thái phi, đều có màu hổ phách. Tôi không kìm được, hỏi: “Mắt của hai người…”
Thư Quý thái phi cười tủm tỉm nói: “Tích Vân giống ta, đều là người Bãi Di, do đó mắt của bọn ta không giống với người Hán các cô.”
Bãi Di là một tộc nhỏ ở phía nam của Nam Chiếu, vốn tự hình thành một thể, hằng năm xưng thần triều cống Nam Chiếu. Năm Long Khánh thứ ba, tiên đế sai Phủ Viễn Đại tướng quân bình định Nam Chiếu, nhân tiện đạp bằng mấy tộc nhỏ phụ thuộcNam Chiếu như Bãi Di, Thương Nam, cuối cùng mấy tộc đó đều quy hàng, trở thành chư hầu của Đại Chu.
Trong sách sử có viết Thư Quý thái phi là con gái của Tri sự bình chương Nguyễn Diên Niên, cũng coi như xuất thân thế gia thư hương, sao lại là người Bãi Di? Lẽ nào mẫu thân của Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di?
Tích Vân thấy tôi nghĩ ngợi, bèn cười tủm tỉm, nói: “Chân nương tử, ta biết cô đang suy nghĩ chuyện gì. Cô nhất định đang nghĩ tại sao Thái phi lại là người Bãi Di đúng không?”
Tôi bị đoán trúng tâm tư thì không khỏi có chút ngượng ngùng, không tiện giấu giếm, liền dứt khoát nói: “Trong Chu sử đâu có viết như vậy, rõ ràng nói Thái phi là thiên kim của Tri sự bình chương Nguyễn đại nhân…”
Thư Quý thái phi thản nhiên nói: “Trước đây ở trong cung tất nhiên có nhiều điều kiêng kỵ, bây giờ nói ra cũng không sao. Nguyễn đại nhân là dưỡng phụ của ta, năm xưa tiên đế muốn ta vào cung thuận tiện hơn, do đó mới để ta nhận Nguyễn đại nhân làm dưỡng phụ. Ta quả thực chính là con gái Bãi Di, phụ mẫu đều là người Bãi Di chính gốc.” Bà ta thoáng lộ vẻ ngẩn ngơ. “Non nước Bãi Di mới thực sự là cố hương của ta.”
Nghe bà ta nói năng chân thành, không hề giấu giếm, tôi không khỏi thầm cảm động, bất giác thấy gần gũi với bà ta hơn rất nhiều.
Thư Quý thái phi cười, nói: “Ta đã nói nhiều quá rồi, nương tử có lẽ cũng chẳng thích nghe. Đúng là con người ta già rồi thì thường hay nhiều lời.”
Trong mắt bà ta ánh lên vẻ thương yêu. “Chỉ là vừa nhìn thấy nương tử, ta đã có cảm giác gần gũi, mong nương tử chớ trách.”
Tôi vội nói: “Sao có thể chứ, được Thái phi thương yêu là niềm vinh hạnh của vãn bối.”
Thư Quý thái phi cười tủm tỉm. “Trước đây, ta từng nghe Thanh Nhi nhắc đến nương tử mấy lần, lần nào cũng không ngớt lời khen. Khi đó, ta chỉ nghe rồi bỏ ngoài tai, bây giờ gặp rồi mới biết nương tử thực đẹp như tiên nữ ở trên núi tuyết A Nặc của người Bãi Di bọn ta.”
Tích Vân cũng cười, nói: “Phải rồi, trước đây những người già trong tộc thường hay kể, tiên nữ trên núi tuyết A Nặc là người đẹp nhất trên thế gian đấy!”
Tôi vội nói: “Thái phi cứ khen mãi như vậy, vãn bối thực chẳng biết giấu mặt vào đâu. Phong tư của Thái phi, Chân Hoàn cũng đã ngưỡng mộ từ lâu rồi.”
Thái phi đưa mắt liếc qua, mỉm cười hỏi: “Chân Hoàn? Đây là tên của nương tử sao?”
Tôi gật đầu cười, đáp: “Dạ, là khuê danh trước đây của vãn bối.”
Thái phi gật đầu, quay sang nói với Tích Vân: “Ta đã nói rồi mà, tên của con gái người Hán là hay nhất. Chân Hoàn, nào có như ở Bãi Di, cái tên đều do cha mẹ tùy ý đặt.”
Tích Vân pha trà mang tới, cười trách: “Thái phi đúng là, nương tử đã tới đây lâu như vậy rồi mà chẳng mời lấy một chén trà, còn bắt người ta ở ngoài hầu chuyện.”
Thư Quý thái phi bật cười vui vẻ, đưa mắt liếc qua phía thị. “Phải rồi, phải rồi, là ta không đúng. Nhưng sao ngươi cũng chỉ đứng một bên chẳng làm gì vậy, còn không phải là thất lễ với khách sao?”
Tôi thấy bọn họ nói cười thân mật, không hề phân chia chủ tớ, bất giác cảm thấy thật thân thiết, gần gũi vô cùng, nói: “Vừa rồi vãn bối khát nước, tùy tiện vào đây, Thái phi không những không trách tội, còn đích thân rót nước cho vãn bối, thực đã làm vãn bối tổn thọ rồi.”
Tích Vân đưa cho tôi và Thư Quý thái phi mỗi người một chén trà, cười nói: “Trước đây ở Bãi Di, tên của Thái phi là Di Quang, còn tên ta là A Vân, cái tên Tích Vận này là về sau mới đổi.”
Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Thứ cho vãn bối mạo muội, hình như trước đây vãn bối có nghe nói phương danh của Thái phi là…” Tôi cố sức suy nghĩ nhưng nhất thời nôn nóng không sao nhớ ra được.
Thư Quý thái phi nói: “Là Yên Nhiên, Nguyễn Yên Nhiên.” Dừng một chút, bà ta cười, nói tiếp: “Ta vốn tên Di Quang, cái tên Yên Nhiên sau khi tới Đại Chu mới đổi, là do tiên đế đích thân đặt cho ta.”
Tôi thấy bà ta tâm tư thẳng thắn, có gì nói nấy, ngay cả khuê danh cũng chẳng giấu giếm, không khỏi càng hào hứng, sinh lòng muốn kết giao. “Duyên phận giữa vãn bối và Thái phi đúng là không cạn, tạm chưa xét tới việc hôm nay tình cờ gặp mặt, vãn bối còn có một cây đàn tên gọi Trường tương tư, cũng chính là vật mà ngày trước Thái phi từng dùng.”
Thư Quý thái phi “ồ” lên một tiếng, hai mắt đột nhiên sáng rực, mừng rỡ nói: “Thật thế sao?”
Tôi gật đầu, đáp: “Lúc rời khỏi cung, vãn bối chỉ mang theo duy nhất cây đàn Trường tương tư đó, bây giờ đang để ở chùa Cam Lộ.”
Thư Quý thái phi không kìm được cất lời cảm khái: “Ngày đó khi rời khỏi cung, ta đã để lại Trường tương tư và Trường tương thủ trong cung, chỉ bởi vì tiên đế đã qua đời ta có giữ lại hai thứ ấy cũng chẳng để làm gì. Không ngờ bây giờ Trường tương tư lại ở trong tay nương tử, chắc nương tử cũng là người tinh thông âm luật.” Bà ta nhìn tôi chăm chú. “Thoắt cái đã chia lìa hai vật ấy mười mấy năm, nếu nương tử bằng lòng, xin hãy mang nó tới đây một chuyến.”
Tôi áy náy nói: “Vốn nên mang nó tới cho Thái phi xem, chỉ là mấy tháng trước, vãn bối gảy đàn không cẩn thận, đã làm đứt mất một sợi dây đàn…”
Tôi hơi cúi đầu, thầm nghĩ Trường tương tư là vật mà Thư Quý thái phi yêu quý, mình nhất định sẽ bị trách móc mấy câu. Thế nhưng Thư Quý thái phi lại chỉ cười sảng khoái, hòa nhã nói: “Làm gì có ai gảy đàn mà không làm đứt dây đàn bao giờ? Nếu nương tử tin tưởng, chi bằng hãy mang nó tới đây cho ta xem thử, ta sẽ cố sửa lại xem.”
Tôi cả mừng, vội vàng đứng dậy. “Như vậy thì thật tốt quá! Thái phi là chủ nhân cũ của Trường tương tư, tất nhiên biết rõ nên sửa thế nào.”
Thái phi mím môi nói: “Tạm thời đừng cảm ơn ta vội, lối cài dây của Trường tương tư khác với những cây đàn bình thường, muốn sửa được ít nhất cũng cần vài ba tháng. Nếu thật sự không thể nối dây, ta phải bảo Thanh nhi về cung mang lông đuôi ngựa, Băng tuyết tàm ti và Kim ti tới đây, e là mấy thứ ấy đều không dễ tìm.”
Tôi vội cười, nói: “Việc này giao cho Thái phi là vãn bối yên tâm rồi. Nếu thật sự không sửa được, vậy chỉ đành than tiếc là không thể nghe thấy tiếng đàn tuyệt diệu của Trường tương tư nữa thôi.”
Thái phi mỉm cười, ánh mắt toát lên vẻ hiền từ vô hạn. “Vậy lần sau tới đây nương tử hãy ngồi lại lâu một chút, nhân tiện mang Trường tương tư tới luôn. Ta thực sự rất thích trò chuyện cùng nương tử đấy!”
Đã lâu tôi không được nói chuyện thoải mái với người khác như vậy, do đó cũng rất mừng rỡ. “Thái phi đã có thịnh tình, sao vãn bối dám không tuân lệnh?”
Lúc tôi quay về đến chùa Cam Lộ thì đã rất muộn, Hoán Bích và Cận Tịch đều nôn nóng không thôi nhưng lại không dám khua chiêng gióng trống ra ngoài tìm, đành đứng ngoài cửa, nghển cổ chờ tôi. Thấy tôi quay về, Hoán Bích mừng rỡ kéo tay tôi lại, đồng thời không kìm được oán trách: “Tiểu thư đi đâu vậy, mãi bây giờ mới quay về, làm người ta lo lắng chết đi được. Nếu tiểu thư còn chưa về, nô tỳ và Cận Tịch đành phải bẩm việc này với trụ trì, xin trụ trì cho người ra ngoài tìm tiểu thư thôi.”
Cận Tịch đón lấy sọt cỏ trong tay tôi, dịu dàng nói: “Nương tử đi đường chắc cũng vất vả rồi, cơm canh đã được hâm nóng, nương tử mau vào ăn đi thôi!”
Hai người bọn họ mang nước đến cho tôi rửa mặt rồi ngồi xuống cạnh tôi, nghe tôi kể lại mọi việc đã gặp trong ngày hôm nay.
Cận Tịch hơi cau mày, trầm giọng nói: “Quả như lời nương tử nói, người nương tử gặp hôm nay chính là Thư Quý thái phi. Khi nô tỳ vào cung thì đã là năm Long Khánh cuối cùng, thành ra chỉ được gặp Thư Quý thái phi mấy lần. Thế nhưng phong thái của Thư Quý thái phi, bất cứ ai từng gặp, cả đời đều khó mà quên được.”
Tôi dừng đũa, nghi hoặc hỏi: “Năm xưa Thư Quý thái phi phụng chỉ xuất gia theo đạo, sao lại tu hành ngay gần chùa Cam Lộ thế này, bà ấy đáng lẽ phải đến một đạo quán nào đó tu hành mới đúng chứ?”
Cận Tịch đáp: “Thư Quý thái phi quả thực tu hành trong đạo quán, cũng chính là An Tề quán mà bà ấy hiện đang ở.” Cận Tịch hơi hạ thấp giọng: “Bởi vì Thái hậu nói tu hành cần thanh tịnh mới có thể tập trung, do đó bên cạnh Thư Quý thái phi chỉ có duy nhất một người thị nữ để sai bảo.”
Hoán Bích không kìm được ngạc nhiên “úi chao” một tiếng, tôi vội dùng ánh mắt ra hiệu bảo nàng ta im lặng.
Hoán Bích không dám nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhìn Cận Tịch, chờ nghe kể tiếp. Cận Tịch thở dài một tiếng, cất giọng đầy vẻ xót xa: “Trước lúc tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi là người đắc sủng nhất, gần như chiếm trọn sự sủng ái của tiên đế, không ai có thể sánh được. Có điều, tuy trên danh nghĩa bà ấy là con nuôi của Tri sự bình chương Nguyễn Diên Niên nhưng thực chất việc này chỉ là để che tai mắt thiên hạ, các phi tần trong cung đều biết rõ bà ấy là người dị tộc, hết sức coi thường, sau khi bà ấy được phong làm phi cũng chỉ một mực ở trong Thái Bình hành cung, không qua lại với các phi tần khác. Thế nhưng về sau, Thư Quý thái phi sinh được Lục Hoàng tử, cũng chính là Thanh Hà Vương bây giờ, tiên đế hết sức yêu quý Lục Hoàng tử thông minh sáng dạ, liền bất chấp sự phản đối của Thái hậu, sắc phong Thư Phi khi đó làm Thư Quý phi, từ đó bà ấy nhảy vọt lên thành người đứng đầu các phi tần. Nếu chỉ có vậy thì thôi cũng đành nhưng trước khi chết, Ngọc Ách phu nhân vẫn còn oán hận Thư Quý thái phi vô cùng, Hoàng hậu cũng vì Thư Quý thái phi mà bị phế, ngay đến Chiêu Hiến Thái hậu năm xưa cũng chẳng thích bà ấy chút nào, không ngừng làm khó. Trong tình cảnh như vậy, tuy được tiên đế vô cùng sủng ái nhưng cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung vẫn hết sức khó khăn. Duy có Thái hậu bây giờ, tức là Lâm phi nương nương năm xưa giao hảo với bà ấy, hai người thân mật vô cùng, chẳng khác nào chị em ruột. Có mấy lần Thư Quý thái phichịu ấm ức, đều là Lâm Phi nương nương ra mặt giúp đỡ. Vậy nên ngay đến tiên đế cũng khá thương yêu Thái hậu bây giờ, sau khi Hoàng hậu chết liền để cho Thái hậu bây giờ chấp chưởng hậu cung, tới khi đó cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung mới thoải mái hơn một chút.”
Sự sủng ái của tiên đế với Thư Quý thái phi bỗng khiến tôi nhớ lại lời cảm khái của Huyền Thanh lúc ở trên đài Đồng Hoa: “Thực ra có người chia sẻ sủng ái cũng là chuyện tốt, nếu không, ba ngàn sủng ái ôm trọn vào thân, trở thành mục tiêu oán trách của cả lục cung, khi đó Huyền Thanh quả thực phải khóc than thay cho Tiệp dư rồi!”
Lời cảm thán đó của y là vì tôi, cũng là vì cuộc đời của mẫu thân y, Thư Quý thái phi.
Ôm trọn sủng ái vào người cũng là ôm trọn mọi sự oán hận vào người. Quá được sủng ái, con người ta chẳng khác nào như phải ở trên lò lửa!
Nghe kể về tình cảm giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, tôi hết sức cảm động, lại nhớ tới My Trang còn ở trong cung, thế là càng thổn thức không thôi.
Lời của Cận Tịch dường như là đang khen ngợi tình tỷ muội giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, thế nhưng lại chẳng liên quan chút nào tới câu hỏi của tôi.
Cận Tịch cũng hiểu sự nghi hoặc của tôi, cặp mắt thoáng đong đưa, mỉm cười, nói: “Sau khi tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi khóc lóc sầu thảm không thôi, có mấy lần còn muốn tự vẫn đi theo tiên đế, may mà được các cung nhân kịp thời phát giác và cứu sống. Phi tần trong cung tuy trước đây đều oán hận Thư Quý thái phi nhưng thấy vậy thì vô cùng cảm động, ngay cả các thần tử bên ngoài cũng biết được việc này, liền hết lời khen ngợi Thư Quý thái phi. Thái hậu hết sức cảm động, lúc này Thư Quý thái phi lại xin được xuất gia để cầu phúc cho tiên đế, đồng thời giao phó Lục Vương gia cho Thái hậu nuôi dưỡng. Thái hậu cảm tấm lòng thành của Thư Quý thái phi, lại nói Thái phi sống thoải mái đã quen, tất nhiên không thể ở cùng với các ni cô trong chùa Cam Lộ, liền đặc biệt cho xây dựng An Tê quán để Thư Quý thái phi ở một mình, sau đó lệnh cho bà ấy xuất gia tu đạo chứ không phải vào chùa Cam Lộ tu hành. Thái hậu sợ người ngoài hầu hạ không quen sẽ làm Thái phi tức giận, liền để thị nữ hầu cận của Thái phi đi theo hầu hạ, đây cũng là vì suy nghĩ cho Thư Quý thái phi. Tất nhiên, nếu không có việc gì quan trọng, Thư Quý thái phi cũng không thể tự tiện rời khỏi An Tê quán một bước.”
Cận Tịch nói với giọng vô cùng mềm mỏng nhưng dù có mềm mỏng đến mấy, tôi cũng đã hiểu được ý tứ bên trong.
Thư Quý thái phi xuất gia tu đạo, mà chùa Cam Lộ lại là nơi cửa Phật, hai bên tất nhiên sẽ nước sông không phạm nước giếng, không qua lại với nhau, mà bên cạnh bà ta lại chỉ có một thị tỳ hầu hạ… Lòng tôi thầm máy động, như vậy coi như Thư Quý thái phi đã bị cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài rồi.
Tôi mặt không đổi sắc, chỉ chậm rãi đưa đũa gắp lấy một cọng rau xanh. Cọng rau xanh ấy đã được nấu chín, rất mềm, chỉ có thể để mặc người ta gắp đi gắp lại. Tôi thản nhiên nói: “Nghe nói lúc sinh tiền, tiên đế hết sức yêu quý Thanh Hà vương, có mấy bận còn muốn lập y làm thái tử.”
Cận Tịch cúi đầu, cung kính đứng một bên, nhìn xuống mũi bàn chân mình, nói với giọng đều đều, không có lấy một tia xao động: “Xuất thân của Thư Quý thái phi bị người ta bàn tán rất nhiều, việc lập Thanh Hà vương làm thái tử, ngay đến các triều thần cũng cực lực phản đối. Bên trên Thanh Hà Vương còn có mấy vị vương gia, tuy triều ta chủ trương lập người hiền, không lập con trưởng, Hoàng hậu cũng không sinh được con trai nhưng mấy vị vương gia khác, ví như đương kim Hoàng thượng, cũng đều vô cùng xuất sắc, mà khi đó ở trong cung, Lâm Phi nương nương bất kể là về địa vị hay sự sủng ái đều chỉ thua kém một mình Thư Quý phi, xuất thân lại cao quý hơn một chút, còn nắm quyền quản lý hậu cung. Vậy là cuối cùng, tiên đế đành quyết định lùi một bước, lập đương kim Thánh thượng làm thái tử, ấy cũng là việc hợp tình hợp lý.” Câu cuối cùng, Cận Tịch nói rất khẽ, tựa như đang kể về một chuyện chẳng hề quan trọng, nhưng tôi vẫn nghe được rõ ràng: “Huống chi, có sự ủng hộ của Nhiếp Chính Vương năm xưa, đương kim Thánh thượng kế thừa ngôi thiên tử cũng là lẽ thường tình.”
Tôi bất giác cảm thấy lòng mình rét buốt từng cơn, đồng thời sau nháy mắt đã hiểu ra được rất nhiều điều.
Nhiếp Chính Vương, có lẽ y mới là điểm mấu chốt để Huyền Lăng được kế thừa ngôi báu.
Thế nhưng, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại.
Đó chỉ là những việc xưa cũ mà thôi, đều là ân oán của đời trước rồi. Bây giờ, người ngồi vững trên ngai vàng ở Tử Áo Thành, tay nắm càn khôn, ngạo nghễ cúi đầu nhìn thiên hạ đã là Huyền Lăng rồi.
Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều là vật hy sinh trong cuộc chiến đoạt hoàng quyền, dù không cam tâm đến mấy thì sự thực cũng đã là như vậy, chẳng thể thay đổi.
Nhưng bất kể sự thực như thế nào, việc tôi qua lại với Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều không liên quan gì tới hoàng quyền, dù sao bây giờ tôi cũng đã là người xuất gia rồi.
Tôi lẩm bẩm nói: “Mọi sự phân tranh kỳ thực đều bắt nguồn từ việc Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di thôi.”
Hoán Bích vốn luôn im lặng lắng nghe, nhưng khi nghe đến chỗ này, bát cơm trong tay chợt “cạch” một tiếng rơi xuống bàn, lăn tròn một lúc mới dừng lại. Tôi vội giúp nàng ta giữ chiếc bát lại, lo lắng hỏi: “Sao thế?”
Trong mắt thoáng qua một nét hoang mang, Hoán Bích vội cười, nói: “Nô tỳ chỉ có chút tò mò, Thư Quý thái phi thật sự là nữ tử Bãi Di sao?”
“Ừm.”
Hoán Bích đưa tay gạt nhẹ lọn tóc mai bên thái dương, thấp giọng nói: “Sau khi bị chinh phục, Bãi Di đã trở thành thuộc quốc của Đại Chu, thế nhưng dù sao cũng là dị tộc, Thư Quý thái phi có thể leo lên địa vị như vậy với xuất thân dị tộc quả là không dễ dàng gì.”
Tôi nghe vậy bèn ngoảnh đầu qua, hỏi: “Hoán Bích, hình như muội khá hiểu về Bãi Di thì phải?”
Hoán Bích khẽ “a” một tiếng, hờ nói: “Chẳng qua nô tỳ chỉ được nghe nói một chút chuyện bên ngoài mà thôi.” Sau đó nàng ta lại khẩn khoản nhìn tôi. “Tiểu thư, vừa rồi tiểu thư nói định mang Trường tương tư tới chỗ Thái phi, khi đó đưa nô tỳ theo cùng được không?”
Tôi ôn tồn nói: “Muội cũng rất muốn gặp Thái phi sao? Vừa hay có thể để muội ôm đàn, rồi chúng ta cùng tới đó.”
Trên khuôn mặt xuất hiện nét mừng rỡ như trẻ con được quà, Hoán Bích gật đầu thật mạnh.
Có lúc Tịnh Bạch cau mày, trách mắng tôi: “Đừng có lười nhác, tưởng mình còn là lá ngọc cành vàng như trước sao? Đi cắt cỏ nhớ đi xa một chút!”
Thế là ngay cả đỉnh Lăng Vân hay hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, tôi cũng thường hay lui tới.
Chỉ duy có đỉnh Phiêu Miểu, nơi có biệt viện Thanh Lương Đài của Huyền Thanh là tôi nhất quyết không tới bao giờ. Không phải bởi nguyên nhân gì khác, chỉ là vì khi tôi trèo lên cao, nhìn thấy Thanh Lương Đài tường xanh ngói đỏ ở phía xa, tâm trạng liền trở nên bình yên khó tả, cảm thấy chỉ cần nhìn xa như vậy là được. Một khi lại gần, trong lòng tôi liền thấp thoáng trào dâng cảm giác sợ hãi.
Hôm ấy, tôi tới hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, nơi đây đường hẹp cây nhiều, cành lá rậm rạp, những bông hoa dại mọc lác đác giữa bụi cỏ, thoang thoảng hương thơm, tôi nhất thời nhìn mà say đắm, liền bước vào sâu trong khu rừng, nơi mình chưa từng đặt chân tới. Chỉ thấy xung quanh là một vùng xanh biếc, hoàn toàn che hết ánh mặt trời nóng nực, văng vẳng đâu đây còn có tiếng chim hót véo von, vui tai vô cùng, thời tiết tháng Năm cũng theo đó mà trở nên mát mẻ. Càng vào sâu trong núi lại càng xuất hiện nhiều mạch suối, không khí trở nên sảng khoái, dễ chịu hơn, toàn thân tôi không có chỗ nào là không thoải mái.
Đi tới giữa rừng, một con đường ruột dê lát đá cuội hiện ra trước mắt, chẳng biết dẫn về nơi nào, dường như đang mời gọi người ta đi tiếp. Men theo đó mà đi, chỉ thấy có mấy ngôi nhà cũ quây quần một chỗ, màu sắc ban đầu của tường ngói sớm đã bị gió núi xóa nhòa, chỉ còn lại một vẻ cũ kĩ, hòa vào màu xanh biếc của khung cảnh xung quanh, không có lấy một chút sinh khí, cũng chẳng có gì bắt mắt.
Đi tới gần, tôi thấy trên cổng của khu nhà đó có một tấm biển nhỏ, sơn vàng quá nửa đã bị bong tróc, thêm vào đó, lúc này sắc trời u ám, phải nhìn một lúc lâu tôi mới nhận ra đó là ba chữ lớn “An Tê Quán”.
Tôi nhất thời tò mò, lại cảm thấy mồm miệng khát khô, thầm nghĩ cánh cửa gỗ màu xám kia đang khép hờ, hẳn là có người ở trong. Thế là tôi bèn đưa tay đẩy khẽ, cánh cửa “két” một tiếng mở ra.
Xuất hiện trước mắt tôi là một chiếc sân nhỏ cùng một gian chính đường kiểu dáng bình thường, sau chính đường là sân giữa, sau nữa lại có ba gian thiền phòng nhỏ, tất cả đều vô cùng sạch sẽ, chỉnh tề. Điều đáng chú ý là ở nơi đây, giữa những lùm cỏ xanh biếc có một nguồn suối từ giữa khe đá chảy ra, hết sức thú vị. Quanh sân trồng đầy những cây ngô đồng nhỏ, khiến khung cảnh càng trở nên thanh tịnh và đẹp đẽ.
Giữa rừng tĩnh lặng, gió mát vi vu thổi tới khiến tôi không khỏi cảm thấy hơi lành lạnh, thế là không còn khát như trước nữa.
Một giọng nói dịu dàng, điềm đạm chợt vang lên: “Cô đang tìm ai sao?”
Tôi nhìn theo hướng phát ra âm thanh, thấy một nữ tử ăn mặc theo lối đạo cô đang đứng giữa ánh ráng chiều, tay xách một thùng nước, lẳng lặng nhìn tôi.
Vì đứng ngược sáng nên tôi không thể nhìn rõ dung mạo bà ta, chỉ cảm thấy giọng nói của bà ta rất ôn hòa và động lòng người. Tôi biết mình tự tiện tiến vào thế này là vô cùng thất lễ, liền vội khom người, áy náy cười, nói: “Ta khát nước quá, do đó mới mạo muội vào đây định xin miếng nước.”
Bà ta nghe vậy liền khẽ nở nụ cười, vẫy tay nói với tôi: “Nước ở đó là nước lã, không uống được đâu. Theo ta vào đây đi, để ta lấy nước cho cô.” Tôi vội vã cảm tạ rồi mới đi tới bên cạnh bà ta.
Đi tới gần, tôi mới thấy đạo cô này chỉ chừng xấp xỉ bốn mươi tuổi, trông không đến mức quá diễm lệ nhưng khuôn mặt lại rất thanh tú và điềm đạm, còn có mấy phần quen thuộc. Từ trong đôi mắt của bà ta toát ra một vẻ dịu dàng, uyển chuyển khó mà diễn tả bằng lời, tựa một bài Tống từ tinh tế nhất. Lúc này sắc trời đang tối dần, ánh hoàng hôn lập lòe chừng như sắp tắt đến nơi. Tấm dung nhan đột nhiên xuất hiện của bàa tựa một vầng trăng sáng treo cao trên trời, chiếu xuống vô số tia sáng dìu dịu, lại như bông tuyết đầu tiên rơi xuống giữa trời mùa đông, thuần khiết, thanh tân.
Tôi nhất thời cảm thấy ánh mắt mơ màng, mồm miệng khô khốc. Sự khô khốc đó không phải do cơn khát vừa rồi gây ra, mà là bởi tâm tư tôi đã không còn ở trong đầu mình mà dừng lại hết trên người bà ta, không sao dời đi được.
Bà ta cười tủm tỉm, đưa cho tôi một chén nước, nói: “Uống đi, trà này vừa mới nguội, chính là lúc ngon nhất đấy!”
Tôi vẫn còn đang ngơ ngẩn, chẳng đưa tay ra đón. Bà ta khẽ giục hai câu, tôi mới giật mình bừng tỉnh, ngượng ngùng nói: “Đã thất lễ rồi!”
Bà ta khẽ lắc đầu, không trách cứ gì. Tôi vội đưa tay đón lấy chén nước, thầm tự trách mình, tôi không phải là một nam tử háo sắc, lúc ở trong cung cũng từng thấy đủ loại nữ tử xinh đẹp rồi, thậm chí có cả người diễm lệ tuyệt trần như Hoa Phi. Đạo cô trước mắt này không thể tính là mỹ nhân tuyệt sắc, nhưng lại có thể khiến người ta không kìm được, sinh lòng đắm say.
Tôi thầm khen lạ, uống một ngụm nước rồi hỏi: “Không biết phải xưng hô với sư phụ thế nào?”
Bà ta cười, ôn tồn nói: “Cứ gọi ta là Xung Tĩnh.”
Xung Tĩnh? Tôi thầm ngơ ngẩn, cảm thấy hình như mình từng nghe thấy cái tên này ở đâu rồi. Mà điều khiến tôi nghi hoặc nhất là chùa Cam Lộ vốn thờ Phật, là nơi ở của các ni cô, tại sao ngay trong ngọn núi gần chùa Cam Lộ lại có một tòa đạo quán chẳng mấy nổi danh thế này?
Xung Tĩnh, tôi cẩn thận suy nghĩ nhưng rốt cuộc vẫn không nhớ ra được từng nghe thấy cái tên này ở đâu. Thế nhưng, tôi biết rõ cái tên này rất quen.
Đương nghĩ ngợi, bà ta chợt hỏi tôi: “Cô là ni cô ở chùa Cam Lộ sao?” Tôi khẽ gật đầu. Bà ta lại hỏi: “Cô là người mới tới à? Sao muộn thế này rồi mà vẫn còn ở bên ngoài?”
Tôi thấp giọng đáp: “Dạ phải. Chỉ vì còn chưa cắt đủ cỏ, vãn bối mới ở lại bên ngoài này nhưng cũng chuẩn bị về ngay đây.”
Bà ta khẽ nở nụ cười, trong mắt thấp thoáng một tia xót thương. “Thực vất vả cho cô rồi!”
Tôi không muốn để người khác thương hại nên chỉ im lặng không đáp lời. Thấy bà ta chỉ có một mình, tôi bèn hỏi: “Sư phụ ở đây một mình sao?”
Bà ta ngó nhìn xung quanh một chút, mỉm cười nói: “Ta ở cùng với một người thị nữ.”
Tôi không khỏi thầm kinh ngạc, như vậy thực hiu quạnh quá, nhưng cũng không tiện hỏi bà ta sao lại ở đây, chỉ cúi đầu, lẳng lặng uống nước.
Đương trò chuyện, cánh cửa gỗ chợt mở ra lần nữa, một giọng nói khẽ vang lên: “Úi chao, có người lạ ở đây sao?”
Tôi ngoảnh đầu lại, nhìn thấy một người ăn mặc theo lối thị nữ, chắc hẳn chính là người thị nữ mà Xung Tĩnh vừa nhắc tới, bèn nói: “Đã làm phiền rồi!”
Bà ta tuổi tác tương đương với đạo cô kia, đặt thứ đồ trong tay xuống, nở một nụ cười sảng khoái. “Thái phi còn không thấy bị làm phiền, sao ta có thể có cảm giác ấy được?”
Tôi ngẩn ra, trong đầu như lóe lên một tia sáng. Vị đạo cô dáng vẻ hiền hòa trước mắt này được thị nữ gọi là “Thái phi”, nơi này lại ở ngay gần Thanh Lương Đài của Huyền Thanh, mà nhìn khí chất điềm tĩnh nơi khóe mắt bà ta còn không phải giống hệt với Huyền Thanh đó sao? Thứ khí độ cao quý kia, một đạo cô bình thường sao mà có được?
Không ngờ đạo cô trước mắt tôi đây lại chính là Thư Quý thái phi, mẹ ruột của Huyền Thanh, người năm xưa từng làm chấn động kinh thành, đến bây giờ vẫn còn được vô số người trong cung nhắc tới.
Xung Tĩnh, giờ tôi mới nhớ ra lúc xưa Huyền Lăng đã sắc phong cho Thư Quý thái phi làm “Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ”.
Không ngờ vị Thư Quý thái phi năm xưa từng khiến sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son bây giờ lại sống trong một tòa đạo quán vắng vẻ thế này.
Tôi nhất thời kinh hãi, ngẩn ngơ chẳng nói được gì, lát sau mới buột miệng thốt lên: “Thư Quý thái phi?”
Bà ta hơi cau đôi mày ngài, nhìn tôi vẻ nghi hoặc. “Cô biết ta?”
Nghe bà ta nói như vậy, tôi lại càng khẳng định phán đoán của mọi người.
Trong lời đồn đại của mọi người và trong sự tưởng tượng của tôi, Thư Quý thái phi được tiên đế rất mực sủng ái nhất định phải là một nữ tử xinh đẹp vô ngần, rạng rỡ tựa vầng dương chính ngọ, nhưng đạo cô trước mặt tôi đây lại hết sức dịu dàng, tính tình điềm đạm như hoa cúc, hoàn toàn không có vẻ sắc bén của một nữ tử đã từng sống mấy chục năm ở nơi cung đình
Tôi khẽ gật đầu, cung kính hành lễ. “Dạ phải! Bây giờ nên gọi người là Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ rồi.”
Danh hiệu này là do Hoàng đế đích thân ban phong, không phải ai trong thiên hạ cũng biết. Lúc này tôi buột miệng nói ra, bà ta cũng đoán được điều gì, sau khi quan sát tôi hồi lâu bèn hỏi: “Cô là người từ trong cung ra?”
Tôi thoáng ngượng ngùng, nhanh chóng đáp: “Thái phi nói không sai.”
Bà ta lặng lẽ đứng trước mặt tôi, khóe miệng thấp thoáng một nụ cười mỉm. Giữa nơi u ám, nụ cười ấy thực rạng rỡ vô cùng, khiến lòng người ấm áp. Lúc này trời đã tối hẳn, trên trời thấp thoáng những vì sao mịt mờ, đạo bào của Thư Quý thái phi bị gió núi thổi bay lất phất, tựa một bông hoa lê thuần khiết vô ngần, càng tôn lên thân hình yểu điệu tựa một tiên tử đang đứng ngắm trăng của bà ta.
Tôi nhìn mà thầm chấn động, cơ hồ không mở mắt ra nổi. Bà ta kỳ thực không quá diễm lệ nhưng điểm động lòng người kia thì lại khó ai có thể so sánh. Tôi từ nhỏ đã tự phụ rằng dung mạo mình chẳng thua kém ai nhưng đứng trước mặt bà ta lại thấp thoáng có cảm giác tự thẹn kém người.
Khí chất dịu dàng, linh động này thực sự vô cùng đặc biệt, có thể thu hút bất cứ người nào, tôi chưa từng được thấy ở bất kỳ ai khác trong cung. Thư Quý thái phi sống nơi thâm cung mấy chục năm mà khí chất không thay đổi, chẳng trách tiên đế lại thích bà ta đến mức đó, gần như chẳng để ý đến bất cứ nữ tử nào khác. Cũng khó trách mẫu thân của Kỳ Sơn Vương lại từng lén mắng bà ta là “hồ ly lẳng lơ”, nhưng đó kỳ thực không phải lẳng lơ, mà là một sự dịu dàng, ấm áp có thể khiến cả nữ nhân mê đắm.
Bà ta nhìn tôi, cười, nói: “Thanh Nhi từng nói với ta, trong cung có một vị Hoàn Quý tần phụng chỉ tới chùa Cam Lộ tu hành, chắc hẳn chính là cô rồi.”
Tôi có chút ngượng ngùng, đoạn khẽ đáp: “Quý tần đã là lối xưng hô của ngày xưa rồi, Thái phi cứ gọi vãn bối là Mạc Sầu.”
“Mạc Sầu?” Bà ta thoáng trầm ngâm, cười hỏi: “Cô vốn họ gì?”
Tôi đáp: “Dạ, họ Chân.”
Bà ta nhìn mái tóc dài buông xõa qua vai của tôi, mỉm cười nói: “Vậy ta sẽ gọi cô là Chân nương tử.”
Tôi nói: “Thái phi khách sáo quá rồi!”
Thư Quý thái phi cười, dịu dàng nói: “Vừa rồi đúng là ta đã nhìn nhầm rồi, khí độ của Chân nương tử, những ni cô bình thường trong chùa miếu tất nhiên không thể nào có được, vậy mà ta nhất thời lại không thể nhận ra, thực sơ suất quá!” Nói rồi bà ta liền mời tôi ngồi xuống, chỉ tay về phía người thị nữ vừa rồi. “Đây là thị nữ hầu cận của ta, tên gọi Tích Vân”, sau đó lại bảo Tích Vân tới hành lễ.
Tôi vội khiêm tốn nói: “Người hầu hạ Thái phi tất nhiên là cô cô, mà vãn bối bây giờ chỉ là thứ dân, sao có thể nhận lễ của một vị cô cô chứ.”
Thái phi vội kéo tôi lại, nghiêm túc nói: “Giờ chúng ta đều không còn ở trong cung, hà tất phải giữ lễ số trong cung làm gì. Ta coi cô như vãn bối, mà Tích Vân là thị nữ của ta, hành lễ một chút cũng là việc nên làm.”
Tôi nghe Thái phi nói năng thân mật như vậy thì cũng không tiện cự tuyệt, đành để im cho Tích Vân hành lễ. Tích Vân tính tình rất thẳng thắn, sảng khoái, cười hì hì nói với tôi: “Vừa rồi nghe Thái phi nói nương tử là ni cô trong chùa Cam Lộ, ta không khỏi giật nẩy mình, nghĩ thầm làm gì có ni cô nào xinh đẹp như vậy, nhất định là Thái phi nói dối ta.”
Tôi thấy bà ta nói năng không hề câu nệ, không kìm được nhìn qua phía Thái phi. Quả nhiên Thái phi chẳng để bụng chút nào, cười nói: “Thị từ nhỏ đã lớn lên cùng ta, nói năng lúc nào cũng như vậy cả, nương tử đừng trách.”
Tôi cười, nói: “Tất nhiên rồi. Vãn bối thực sự thích lối nói chuyện thẳng thắn như vậy, không mệt mỏi như ở trong cung.”
Tích Vân đi tới gần tôi, tôi ngước mắt nhìn, bất giác cả kinh, đôi mắt của thị giống Thư Quý thái phi, đều có màu hổ phách. Tôi không kìm được, hỏi: “Mắt của hai người…”
Thư Quý thái phi cười tủm tỉm nói: “Tích Vân giống ta, đều là người Bãi Di, do đó mắt của bọn ta không giống với người Hán các cô.”
Bãi Di là một tộc nhỏ ở phía nam của Nam Chiếu, vốn tự hình thành một thể, hằng năm xưng thần triều cống Nam Chiếu. Năm Long Khánh thứ ba, tiên đế sai Phủ Viễn Đại tướng quân bình định Nam Chiếu, nhân tiện đạp bằng mấy tộc nhỏ phụ thuộcNam Chiếu như Bãi Di, Thương Nam, cuối cùng mấy tộc đó đều quy hàng, trở thành chư hầu của Đại Chu.
Trong sách sử có viết Thư Quý thái phi là con gái của Tri sự bình chương Nguyễn Diên Niên, cũng coi như xuất thân thế gia thư hương, sao lại là người Bãi Di? Lẽ nào mẫu thân của Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di?
Tích Vân thấy tôi nghĩ ngợi, bèn cười tủm tỉm, nói: “Chân nương tử, ta biết cô đang suy nghĩ chuyện gì. Cô nhất định đang nghĩ tại sao Thái phi lại là người Bãi Di đúng không?”
Tôi bị đoán trúng tâm tư thì không khỏi có chút ngượng ngùng, không tiện giấu giếm, liền dứt khoát nói: “Trong Chu sử đâu có viết như vậy, rõ ràng nói Thái phi là thiên kim của Tri sự bình chương Nguyễn đại nhân…”
Thư Quý thái phi thản nhiên nói: “Trước đây ở trong cung tất nhiên có nhiều điều kiêng kỵ, bây giờ nói ra cũng không sao. Nguyễn đại nhân là dưỡng phụ của ta, năm xưa tiên đế muốn ta vào cung thuận tiện hơn, do đó mới để ta nhận Nguyễn đại nhân làm dưỡng phụ. Ta quả thực chính là con gái Bãi Di, phụ mẫu đều là người Bãi Di chính gốc.” Bà ta thoáng lộ vẻ ngẩn ngơ. “Non nước Bãi Di mới thực sự là cố hương của ta.”
Nghe bà ta nói năng chân thành, không hề giấu giếm, tôi không khỏi thầm cảm động, bất giác thấy gần gũi với bà ta hơn rất nhiều.
Thư Quý thái phi cười, nói: “Ta đã nói nhiều quá rồi, nương tử có lẽ cũng chẳng thích nghe. Đúng là con người ta già rồi thì thường hay nhiều lời.”
Trong mắt bà ta ánh lên vẻ thương yêu. “Chỉ là vừa nhìn thấy nương tử, ta đã có cảm giác gần gũi, mong nương tử chớ trách.”
Tôi vội nói: “Sao có thể chứ, được Thái phi thương yêu là niềm vinh hạnh của vãn bối.”
Thư Quý thái phi cười tủm tỉm. “Trước đây, ta từng nghe Thanh Nhi nhắc đến nương tử mấy lần, lần nào cũng không ngớt lời khen. Khi đó, ta chỉ nghe rồi bỏ ngoài tai, bây giờ gặp rồi mới biết nương tử thực đẹp như tiên nữ ở trên núi tuyết A Nặc của người Bãi Di bọn ta.”
Tích Vân cũng cười, nói: “Phải rồi, trước đây những người già trong tộc thường hay kể, tiên nữ trên núi tuyết A Nặc là người đẹp nhất trên thế gian đấy!”
Tôi vội nói: “Thái phi cứ khen mãi như vậy, vãn bối thực chẳng biết giấu mặt vào đâu. Phong tư của Thái phi, Chân Hoàn cũng đã ngưỡng mộ từ lâu rồi.”
Thái phi đưa mắt liếc qua, mỉm cười hỏi: “Chân Hoàn? Đây là tên của nương tử sao?”
Tôi gật đầu cười, đáp: “Dạ, là khuê danh trước đây của vãn bối.”
Thái phi gật đầu, quay sang nói với Tích Vân: “Ta đã nói rồi mà, tên của con gái người Hán là hay nhất. Chân Hoàn, nào có như ở Bãi Di, cái tên đều do cha mẹ tùy ý đặt.”
Tích Vân pha trà mang tới, cười trách: “Thái phi đúng là, nương tử đã tới đây lâu như vậy rồi mà chẳng mời lấy một chén trà, còn bắt người ta ở ngoài hầu chuyện.”
Thư Quý thái phi bật cười vui vẻ, đưa mắt liếc qua phía thị. “Phải rồi, phải rồi, là ta không đúng. Nhưng sao ngươi cũng chỉ đứng một bên chẳng làm gì vậy, còn không phải là thất lễ với khách sao?”
Tôi thấy bọn họ nói cười thân mật, không hề phân chia chủ tớ, bất giác cảm thấy thật thân thiết, gần gũi vô cùng, nói: “Vừa rồi vãn bối khát nước, tùy tiện vào đây, Thái phi không những không trách tội, còn đích thân rót nước cho vãn bối, thực đã làm vãn bối tổn thọ rồi.”
Tích Vân đưa cho tôi và Thư Quý thái phi mỗi người một chén trà, cười nói: “Trước đây ở Bãi Di, tên của Thái phi là Di Quang, còn tên ta là A Vân, cái tên Tích Vận này là về sau mới đổi.”
Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Thứ cho vãn bối mạo muội, hình như trước đây vãn bối có nghe nói phương danh của Thái phi là…” Tôi cố sức suy nghĩ nhưng nhất thời nôn nóng không sao nhớ ra được.
Thư Quý thái phi nói: “Là Yên Nhiên, Nguyễn Yên Nhiên.” Dừng một chút, bà ta cười, nói tiếp: “Ta vốn tên Di Quang, cái tên Yên Nhiên sau khi tới Đại Chu mới đổi, là do tiên đế đích thân đặt cho ta.”
Tôi thấy bà ta tâm tư thẳng thắn, có gì nói nấy, ngay cả khuê danh cũng chẳng giấu giếm, không khỏi càng hào hứng, sinh lòng muốn kết giao. “Duyên phận giữa vãn bối và Thái phi đúng là không cạn, tạm chưa xét tới việc hôm nay tình cờ gặp mặt, vãn bối còn có một cây đàn tên gọi Trường tương tư, cũng chính là vật mà ngày trước Thái phi từng dùng.”
Thư Quý thái phi “ồ” lên một tiếng, hai mắt đột nhiên sáng rực, mừng rỡ nói: “Thật thế sao?”
Tôi gật đầu, đáp: “Lúc rời khỏi cung, vãn bối chỉ mang theo duy nhất cây đàn Trường tương tư đó, bây giờ đang để ở chùa Cam Lộ.”
Thư Quý thái phi không kìm được cất lời cảm khái: “Ngày đó khi rời khỏi cung, ta đã để lại Trường tương tư và Trường tương thủ trong cung, chỉ bởi vì tiên đế đã qua đời ta có giữ lại hai thứ ấy cũng chẳng để làm gì. Không ngờ bây giờ Trường tương tư lại ở trong tay nương tử, chắc nương tử cũng là người tinh thông âm luật.” Bà ta nhìn tôi chăm chú. “Thoắt cái đã chia lìa hai vật ấy mười mấy năm, nếu nương tử bằng lòng, xin hãy mang nó tới đây một chuyến.”
Tôi áy náy nói: “Vốn nên mang nó tới cho Thái phi xem, chỉ là mấy tháng trước, vãn bối gảy đàn không cẩn thận, đã làm đứt mất một sợi dây đàn…”
Tôi hơi cúi đầu, thầm nghĩ Trường tương tư là vật mà Thư Quý thái phi yêu quý, mình nhất định sẽ bị trách móc mấy câu. Thế nhưng Thư Quý thái phi lại chỉ cười sảng khoái, hòa nhã nói: “Làm gì có ai gảy đàn mà không làm đứt dây đàn bao giờ? Nếu nương tử tin tưởng, chi bằng hãy mang nó tới đây cho ta xem thử, ta sẽ cố sửa lại xem.”
Tôi cả mừng, vội vàng đứng dậy. “Như vậy thì thật tốt quá! Thái phi là chủ nhân cũ của Trường tương tư, tất nhiên biết rõ nên sửa thế nào.”
Thái phi mím môi nói: “Tạm thời đừng cảm ơn ta vội, lối cài dây của Trường tương tư khác với những cây đàn bình thường, muốn sửa được ít nhất cũng cần vài ba tháng. Nếu thật sự không thể nối dây, ta phải bảo Thanh nhi về cung mang lông đuôi ngựa, Băng tuyết tàm ti và Kim ti tới đây, e là mấy thứ ấy đều không dễ tìm.”
Tôi vội cười, nói: “Việc này giao cho Thái phi là vãn bối yên tâm rồi. Nếu thật sự không sửa được, vậy chỉ đành than tiếc là không thể nghe thấy tiếng đàn tuyệt diệu của Trường tương tư nữa thôi.”
Thái phi mỉm cười, ánh mắt toát lên vẻ hiền từ vô hạn. “Vậy lần sau tới đây nương tử hãy ngồi lại lâu một chút, nhân tiện mang Trường tương tư tới luôn. Ta thực sự rất thích trò chuyện cùng nương tử đấy!”
Đã lâu tôi không được nói chuyện thoải mái với người khác như vậy, do đó cũng rất mừng rỡ. “Thái phi đã có thịnh tình, sao vãn bối dám không tuân lệnh?”
Lúc tôi quay về đến chùa Cam Lộ thì đã rất muộn, Hoán Bích và Cận Tịch đều nôn nóng không thôi nhưng lại không dám khua chiêng gióng trống ra ngoài tìm, đành đứng ngoài cửa, nghển cổ chờ tôi. Thấy tôi quay về, Hoán Bích mừng rỡ kéo tay tôi lại, đồng thời không kìm được oán trách: “Tiểu thư đi đâu vậy, mãi bây giờ mới quay về, làm người ta lo lắng chết đi được. Nếu tiểu thư còn chưa về, nô tỳ và Cận Tịch đành phải bẩm việc này với trụ trì, xin trụ trì cho người ra ngoài tìm tiểu thư thôi.”
Cận Tịch đón lấy sọt cỏ trong tay tôi, dịu dàng nói: “Nương tử đi đường chắc cũng vất vả rồi, cơm canh đã được hâm nóng, nương tử mau vào ăn đi thôi!”
Hai người bọn họ mang nước đến cho tôi rửa mặt rồi ngồi xuống cạnh tôi, nghe tôi kể lại mọi việc đã gặp trong ngày hôm nay.
Cận Tịch hơi cau mày, trầm giọng nói: “Quả như lời nương tử nói, người nương tử gặp hôm nay chính là Thư Quý thái phi. Khi nô tỳ vào cung thì đã là năm Long Khánh cuối cùng, thành ra chỉ được gặp Thư Quý thái phi mấy lần. Thế nhưng phong thái của Thư Quý thái phi, bất cứ ai từng gặp, cả đời đều khó mà quên được.”
Tôi dừng đũa, nghi hoặc hỏi: “Năm xưa Thư Quý thái phi phụng chỉ xuất gia theo đạo, sao lại tu hành ngay gần chùa Cam Lộ thế này, bà ấy đáng lẽ phải đến một đạo quán nào đó tu hành mới đúng chứ?”
Cận Tịch đáp: “Thư Quý thái phi quả thực tu hành trong đạo quán, cũng chính là An Tề quán mà bà ấy hiện đang ở.” Cận Tịch hơi hạ thấp giọng: “Bởi vì Thái hậu nói tu hành cần thanh tịnh mới có thể tập trung, do đó bên cạnh Thư Quý thái phi chỉ có duy nhất một người thị nữ để sai bảo.”
Hoán Bích không kìm được ngạc nhiên “úi chao” một tiếng, tôi vội dùng ánh mắt ra hiệu bảo nàng ta im lặng.
Hoán Bích không dám nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhìn Cận Tịch, chờ nghe kể tiếp. Cận Tịch thở dài một tiếng, cất giọng đầy vẻ xót xa: “Trước lúc tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi là người đắc sủng nhất, gần như chiếm trọn sự sủng ái của tiên đế, không ai có thể sánh được. Có điều, tuy trên danh nghĩa bà ấy là con nuôi của Tri sự bình chương Nguyễn Diên Niên nhưng thực chất việc này chỉ là để che tai mắt thiên hạ, các phi tần trong cung đều biết rõ bà ấy là người dị tộc, hết sức coi thường, sau khi bà ấy được phong làm phi cũng chỉ một mực ở trong Thái Bình hành cung, không qua lại với các phi tần khác. Thế nhưng về sau, Thư Quý thái phi sinh được Lục Hoàng tử, cũng chính là Thanh Hà Vương bây giờ, tiên đế hết sức yêu quý Lục Hoàng tử thông minh sáng dạ, liền bất chấp sự phản đối của Thái hậu, sắc phong Thư Phi khi đó làm Thư Quý phi, từ đó bà ấy nhảy vọt lên thành người đứng đầu các phi tần. Nếu chỉ có vậy thì thôi cũng đành nhưng trước khi chết, Ngọc Ách phu nhân vẫn còn oán hận Thư Quý thái phi vô cùng, Hoàng hậu cũng vì Thư Quý thái phi mà bị phế, ngay đến Chiêu Hiến Thái hậu năm xưa cũng chẳng thích bà ấy chút nào, không ngừng làm khó. Trong tình cảnh như vậy, tuy được tiên đế vô cùng sủng ái nhưng cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung vẫn hết sức khó khăn. Duy có Thái hậu bây giờ, tức là Lâm phi nương nương năm xưa giao hảo với bà ấy, hai người thân mật vô cùng, chẳng khác nào chị em ruột. Có mấy lần Thư Quý thái phichịu ấm ức, đều là Lâm Phi nương nương ra mặt giúp đỡ. Vậy nên ngay đến tiên đế cũng khá thương yêu Thái hậu bây giờ, sau khi Hoàng hậu chết liền để cho Thái hậu bây giờ chấp chưởng hậu cung, tới khi đó cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung mới thoải mái hơn một chút.”
Sự sủng ái của tiên đế với Thư Quý thái phi bỗng khiến tôi nhớ lại lời cảm khái của Huyền Thanh lúc ở trên đài Đồng Hoa: “Thực ra có người chia sẻ sủng ái cũng là chuyện tốt, nếu không, ba ngàn sủng ái ôm trọn vào thân, trở thành mục tiêu oán trách của cả lục cung, khi đó Huyền Thanh quả thực phải khóc than thay cho Tiệp dư rồi!”
Lời cảm thán đó của y là vì tôi, cũng là vì cuộc đời của mẫu thân y, Thư Quý thái phi.
Ôm trọn sủng ái vào người cũng là ôm trọn mọi sự oán hận vào người. Quá được sủng ái, con người ta chẳng khác nào như phải ở trên lò lửa!
Nghe kể về tình cảm giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, tôi hết sức cảm động, lại nhớ tới My Trang còn ở trong cung, thế là càng thổn thức không thôi.
Lời của Cận Tịch dường như là đang khen ngợi tình tỷ muội giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, thế nhưng lại chẳng liên quan chút nào tới câu hỏi của tôi.
Cận Tịch cũng hiểu sự nghi hoặc của tôi, cặp mắt thoáng đong đưa, mỉm cười, nói: “Sau khi tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi khóc lóc sầu thảm không thôi, có mấy lần còn muốn tự vẫn đi theo tiên đế, may mà được các cung nhân kịp thời phát giác và cứu sống. Phi tần trong cung tuy trước đây đều oán hận Thư Quý thái phi nhưng thấy vậy thì vô cùng cảm động, ngay cả các thần tử bên ngoài cũng biết được việc này, liền hết lời khen ngợi Thư Quý thái phi. Thái hậu hết sức cảm động, lúc này Thư Quý thái phi lại xin được xuất gia để cầu phúc cho tiên đế, đồng thời giao phó Lục Vương gia cho Thái hậu nuôi dưỡng. Thái hậu cảm tấm lòng thành của Thư Quý thái phi, lại nói Thái phi sống thoải mái đã quen, tất nhiên không thể ở cùng với các ni cô trong chùa Cam Lộ, liền đặc biệt cho xây dựng An Tê quán để Thư Quý thái phi ở một mình, sau đó lệnh cho bà ấy xuất gia tu đạo chứ không phải vào chùa Cam Lộ tu hành. Thái hậu sợ người ngoài hầu hạ không quen sẽ làm Thái phi tức giận, liền để thị nữ hầu cận của Thái phi đi theo hầu hạ, đây cũng là vì suy nghĩ cho Thư Quý thái phi. Tất nhiên, nếu không có việc gì quan trọng, Thư Quý thái phi cũng không thể tự tiện rời khỏi An Tê quán một bước.”
Cận Tịch nói với giọng vô cùng mềm mỏng nhưng dù có mềm mỏng đến mấy, tôi cũng đã hiểu được ý tứ bên trong.
Thư Quý thái phi xuất gia tu đạo, mà chùa Cam Lộ lại là nơi cửa Phật, hai bên tất nhiên sẽ nước sông không phạm nước giếng, không qua lại với nhau, mà bên cạnh bà ta lại chỉ có một thị tỳ hầu hạ… Lòng tôi thầm máy động, như vậy coi như Thư Quý thái phi đã bị cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài rồi.
Tôi mặt không đổi sắc, chỉ chậm rãi đưa đũa gắp lấy một cọng rau xanh. Cọng rau xanh ấy đã được nấu chín, rất mềm, chỉ có thể để mặc người ta gắp đi gắp lại. Tôi thản nhiên nói: “Nghe nói lúc sinh tiền, tiên đế hết sức yêu quý Thanh Hà vương, có mấy bận còn muốn lập y làm thái tử.”
Cận Tịch cúi đầu, cung kính đứng một bên, nhìn xuống mũi bàn chân mình, nói với giọng đều đều, không có lấy một tia xao động: “Xuất thân của Thư Quý thái phi bị người ta bàn tán rất nhiều, việc lập Thanh Hà vương làm thái tử, ngay đến các triều thần cũng cực lực phản đối. Bên trên Thanh Hà Vương còn có mấy vị vương gia, tuy triều ta chủ trương lập người hiền, không lập con trưởng, Hoàng hậu cũng không sinh được con trai nhưng mấy vị vương gia khác, ví như đương kim Hoàng thượng, cũng đều vô cùng xuất sắc, mà khi đó ở trong cung, Lâm Phi nương nương bất kể là về địa vị hay sự sủng ái đều chỉ thua kém một mình Thư Quý phi, xuất thân lại cao quý hơn một chút, còn nắm quyền quản lý hậu cung. Vậy là cuối cùng, tiên đế đành quyết định lùi một bước, lập đương kim Thánh thượng làm thái tử, ấy cũng là việc hợp tình hợp lý.” Câu cuối cùng, Cận Tịch nói rất khẽ, tựa như đang kể về một chuyện chẳng hề quan trọng, nhưng tôi vẫn nghe được rõ ràng: “Huống chi, có sự ủng hộ của Nhiếp Chính Vương năm xưa, đương kim Thánh thượng kế thừa ngôi thiên tử cũng là lẽ thường tình.”
Tôi bất giác cảm thấy lòng mình rét buốt từng cơn, đồng thời sau nháy mắt đã hiểu ra được rất nhiều điều.
Nhiếp Chính Vương, có lẽ y mới là điểm mấu chốt để Huyền Lăng được kế thừa ngôi báu.
Thế nhưng, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại.
Đó chỉ là những việc xưa cũ mà thôi, đều là ân oán của đời trước rồi. Bây giờ, người ngồi vững trên ngai vàng ở Tử Áo Thành, tay nắm càn khôn, ngạo nghễ cúi đầu nhìn thiên hạ đã là Huyền Lăng rồi.
Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều là vật hy sinh trong cuộc chiến đoạt hoàng quyền, dù không cam tâm đến mấy thì sự thực cũng đã là như vậy, chẳng thể thay đổi.
Nhưng bất kể sự thực như thế nào, việc tôi qua lại với Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều không liên quan gì tới hoàng quyền, dù sao bây giờ tôi cũng đã là người xuất gia rồi.
Tôi lẩm bẩm nói: “Mọi sự phân tranh kỳ thực đều bắt nguồn từ việc Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di thôi.”
Hoán Bích vốn luôn im lặng lắng nghe, nhưng khi nghe đến chỗ này, bát cơm trong tay chợt “cạch” một tiếng rơi xuống bàn, lăn tròn một lúc mới dừng lại. Tôi vội giúp nàng ta giữ chiếc bát lại, lo lắng hỏi: “Sao thế?”
Trong mắt thoáng qua một nét hoang mang, Hoán Bích vội cười, nói: “Nô tỳ chỉ có chút tò mò, Thư Quý thái phi thật sự là nữ tử Bãi Di sao?”
“Ừm.”
Hoán Bích đưa tay gạt nhẹ lọn tóc mai bên thái dương, thấp giọng nói: “Sau khi bị chinh phục, Bãi Di đã trở thành thuộc quốc của Đại Chu, thế nhưng dù sao cũng là dị tộc, Thư Quý thái phi có thể leo lên địa vị như vậy với xuất thân dị tộc quả là không dễ dàng gì.”
Tôi nghe vậy bèn ngoảnh đầu qua, hỏi: “Hoán Bích, hình như muội khá hiểu về Bãi Di thì phải?”
Hoán Bích khẽ “a” một tiếng, hờ nói: “Chẳng qua nô tỳ chỉ được nghe nói một chút chuyện bên ngoài mà thôi.” Sau đó nàng ta lại khẩn khoản nhìn tôi. “Tiểu thư, vừa rồi tiểu thư nói định mang Trường tương tư tới chỗ Thái phi, khi đó đưa nô tỳ theo cùng được không?”
Tôi ôn tồn nói: “Muội cũng rất muốn gặp Thái phi sao? Vừa hay có thể để muội ôm đàn, rồi chúng ta cùng tới đó.”
Trên khuôn mặt xuất hiện nét mừng rỡ như trẻ con được quà, Hoán Bích gật đầu thật mạnh.
Bình luận truyện