Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
Quyển 5 - Chương 1: Mây trắng giăng trời
Tôi không ngất đi, thân thể được Cận Tịch vừa chạy vội vào phòng hoang mang đỡ lấy, rồi nàng ta và Ôn Thực Sơ cùng dìu tôi tới nằm xuống giường. Ôn Thực Sơ lộ rõ vẻ xót xa và hối hận, khuôn mặt tái mét, nắm chặt lấy bàn tay tôi, miệng lẩm bẩm: “Hoàn muội muội, là ta không tốt, ta không nên đột ngột nói với muội chuyện này, ta…”
Tôi mơ màng hé miệng, trong cơn chấn động, giọng nói đã trở nên khản đặc đến nỗi ngay chính bản thân tôi cũng không tin nổi: “Tại sao huynh ấy lại chết? Đang yên đang lành, tại sao lại lật thuyền đến nỗi không tìm được thi thể?”
Ôn Thực Sơ trầm giọng nói: “Đã tìm được xác của chiếc thuyền mà Thanh Hà Vương ngồi rồi, chiếc thuyền ấy long cốt không khác gì thuyền thường nhưng ván ở đáy thuyền lại không đóng bằng đinh sắt mà chỉ được dùng dây mây tươi buộc lại, lúc thuyền ở im một chỗ thì không sao nhưng sau khi đi được một đoạn, dây mây tươi sẽ bị tuột ra, thuyền cũng theo đó mà chìm.”
Tôi nhớ lại cảnh mình tiễn y ở sông Bá hôm đó, giữa làn sóng nước, con thuyền vẫn nhẹ nhàng lướt đi mà chẳng có việc gì, bèn nói: “Nhưng hôm huynh ấy đi cũng ngồi con thuyền đó, vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra!”
“Đúng thế, con thuyền y ngồi hôm đi không có vấn đề gì. Theo lời của những người thợ đóng thuyền, thân của con thuyền đó tuy giống với con thuyền mà họ làm ra, nhưng đáy thuyền thì lại khác. Qua đó có thể thấy thuyền đã bị đánh tráo trong lúc dừng bên bờ sông Đằng Sa.”
Tôi càng nghe lại càng kinh hãi. “Ai muốn hại huynh ấy? Là ai muốn hại huynh ấy?”
Ôn Thực Sơ giữ chặt không cho tôi giãy giụa, nôn nóng nói: “Chuyện đã xảy ra rồi, là ai làm còn chưa biết được. Hiện giờ Hoàng thượng đã sai người thông báo tin tức này cho thân mẫu của Thanh Hà Vương, nhưng trước khi tìm được thi thể của Thanh Hà Vương, ý của Hoàng thượng là tạm thời chưa phát tang vội.”
Lúc này lòng tôi kích động tột cùng, chỉ cần thoáng nghĩ tới việc Huyền Thanh không còn trên đời nữa là bụng tôi lại râm rứt đau. Tôi gần như không dám suy nghĩ tiếp, chỉ biết lắc đầu thật mạnh. “Muội không tin! Muội không tin! Thi thể đến giờ vẫn chưa tìm được, huynh ấy sẽ không chết đâu!”
Ôn Thực Sơ cố gắng giữ chặt thân thể tôi, trầm giọng nói: “Hoàn Nhi, muội hãy bình tĩnh một chút. Nước sông Đằng Sa chảy xiết như thế, cho dù có tìm được thi thể thì cũng khó mà nhận dạng được.”
Tôi đau đến nỗi túa đầy mồ hôi lạnh, không kìm được đưa tay ôm bụng. Cận Tịch vội vàng giúp tôi lau mồ hôi, đồng thời oán trách Ôn Thực Sơ: “Ôn đại nhân thực là không biết nặng nhẹ gì hết, vào lúc này còn nói ra mấy lời đó làm gì. Nương tử giờ đang mang thai, chuyện như thế cho dù muốn nói thì cũng phải đợi sau khi nương tử sinh nở xong rồi hẵng nói. Ôn đại nhân xưa nay vẫn luôn quan tâm tới nương tử như cha như anh, sao bây giờ lại hồ đồ đến thế chứ?”
Ôn Thực Sơ giậm chân, nói: “Ta không đành lòng nhìn muội ấy vất vả đợi chờ một người không thể trở về được nữa.” Bàn tay đang giữ lấy cánh tay tôi của hắn dùng sức rất mạnh, thế nhưng giọng nói lại hết mực dịu dàng, dịu dàng tới mức khiến người ta chỉ muốn nép vào người hắn. “Tuy muội đang thương tâm nhưng có một số chuyện không thể không bắt đầu tính toán. Nếu muội nhất quyết muốn sinh đứa bé này ra, ta vẫn sẽ đưa muội uống Thất nhật thất hồn tán, để Cận Tịch và Hoán Bích báo lên là muội đã mắc bệnh qua đời. Sau đó, ta sẽ đưa muội rời khỏi nơi này rồi chúng ta cùng tìm lấy một nơi vắng vẻ nào đó mà sống những tháng ngày bình lặng bên nhau.” Trong mắt hắn lúc này đã lấp lánh ánh lệ. “Hoàn muội muội, ta sẽ đối xử với muội thật tốt, coi con của muội như con của chính ta. Muội hãy tin ta, điều Thanh Hà Vương làm được, ta cũng có thể làm được.”
Nước mắt tôi tuôn rơi lã chã, trong khoảnh khắc hay tin về cái chết của Huyền Thanh, sức lực toàn thân bỗng như bị rút cạn, trở nên tột cùng yếu ớt. Lời của hắn, tôi coi như không nghe thấy, chỉ ngẩn ngơ rơi lệ không ngừng.
Cận Tịch buồn bã nói: “Bây giờ Ôn đại nhân nói những lời này với nương tử cũng chỉ uổng công thôi, chỉ e nương tử chẳng nghe lọt tai được câu nào, cứ đợi nương tử tỉnh táo lại rồi hẵng nói.”
Hoán Bích khóc nức nở, bò đến bên gi, gạt bàn tay đang giữ tay tôi của Ôn Thực Sơ ra, ôm chặt cánh tay của tôi vào lòng. Hoán Bích đau buồn khôn xiết, khóc lóc trách cứ Ôn Thực Sơ: “Đại nhân có thể coi con của Vương gia như con của mình sao? Có thể làm những việc mà Vương gia có thể làm sao? Ngài có thể so sánh với Vương gia sao?” Nói xong, muội ấy chẳng buồn để ý tới Ôn Thực Sơ lúc này đang đỏ mặt tía tai, ôm cánh tay tôi mà khóc nỉ non, như một con thú nhỏ đang bị thương vậy. “Trưởng tỷ, muội chỉ mong có thể nhìn y từ xa, ngày ngày được thấy y cười… Không! Không cần ngày ngày, chỉ thỉnh thoảng thôi cũng được, cho dù y không cười với muội, muội cũng hài lòng lắm rồi!” Tiếng khóc của muội ấy giống như lưỡi dao sắc bén đâm vào trái tim tôi, khiến tôi lại càng đau đớn, khó có thể nói nổi lời nào, chỉ nghe muội ấy nghẹn ngào nói tiếp: “Nhưng y đã chết rồi, sau này, cả đời này, muội sẽ không thể gặp lại y nữa…”
Tiếng khóc của Hoán Bích khiến ruột gan tôi như tan nát. Huyền Thanh, người tình lang thấu hiểu tôi, thương yêu tôi, không ngờ lại rời bỏ tôi mà đi, không thể thực hiện lời hứa “tay nắm tay, bên nhau đến bạc đầu” kia nữa.
Lồng ngực tôi bỗng nhói đau, vội nhào về phía trước, chừng như muốn nôn ra máu. Cận Tịch vội vàng bịt miệng Hoán Bích, sợ muội ấy lại nói ra những lời làm tôi thương tâm, sau đó liền ngoảnh đầu sang nói với Ôn Thực Sơ: “Ban nãy Hoán Bích cô nương bị nước thuốc bắn vào người, xin Ôn đại nhân kiểm tra giúp xem có vấn đề gì không.”
Ôn Thực Sơ vội vén ống quần Hoán Bích lên, chỉ thấy trên cẳng chân muội ấy đã nổi đầy bọng nước. Nhưng muội ấy không hề kêu đau, cũng chẳng quan tâm xem Ôn Thực Sơ bôi thuốc cho mình thế nào, chỉ một mực khóc sụt sùi.
Ôn Thực Sơ nôn nóng đến nỗi mồ hôi lạnh túa ra đầy đầu, một mặt bôi thuốc và băng bó cho Hoán Bích, một mặt kêu Cận Tịch cho tôi uống thuốc an thần để tôi nghỉ ngơi.
Khi tôi tỉnh lại thì đã là nửa đêm, lúc này đầu óc tôi vẫn còn mơ mơ màng màng, trên người nhớp nháp mồ hôi, khiến chiếc áo lót ướt nhẹp, dính sát vào lưng, mang tới cảm giác lạnh toát, tựa như có một con quỷ rùng rợn đang bám vào người tôi vậy. Trong lúc nửa mê nửa tỉnh, tôi cứ ngỡ mình đang nằm mộng, và việc Ôn Thực Sơ nói với tôi về cái chết của Huyền Thanh chỉ diễn ra trong giấc mộng mà thôi. Thế nhưng rất nhanh sau đó, tiếng khóc của Hoán Bích đã vọng vào tai tôi, nghe như tiếng gào khóc nghẹn ngào của lũ cô hỮ dã quỷ, liên miên không dứt, khiến tôi biết được rằng Huyền Thanh thực sự không còn trên đời này nữa.
Tôi hơi hé mắt nhưng nước mắt không tuôn trào nữa mà chỉ có cảm giác bỏng rát do nước mắt cạn khô mang lại, nhắc nhở tôi về nỗi mất mát và thương tâm của bản thân.
Cận Tịch thấy tôi tỉnh lại, vội vàng bưng một bát thuốc tới, nói: “Ôn đại nhân nói nương tử vừa rồi quá kích động nên ảnh hưởng đến thai khí, nhất định không được thương tâm thêm nữa. Nương tử tạm uống bát thuốc an thai này đi, ngày mai Ôn đại nhân sẽ lại tới thăm nương tử.” Tôi ngẩn ngơ đón lấy bát thuốc từ trong tay nàng ta rồi uống một hơi cạn sạch, uống xong lại tựa người vào tường mà tiếp tục ngẩn ngơ.
Ngày đó trong Cẩn Thân điện, tôi vì nhớ Lung Nguyệt mà phủ phục xuống đất khóc nức nở, y từ phía sau bước tới, đỡ tôi dậy, cất giọng ôn tồn và ấm áp như ánh mặt trời, xoa dịu trái tim đang nhỏ máu của tôi: “Không việc gì nữa rồi! Không việc gì nữa rồi!”
Nước sông cuồn cuộn, tu mười năm mới có cái duyên ngồi cùng thuyền. Y nói: “Lúc này hãy cùng ngồi với nhau ở đây, ngắm mây trên trời, nhẹ nhàng trò chuyện, hoặc chỉ lặng im thôi, hưởng thụ sự bình yên trong khoảnh khắc ngắn ngủi này.”
Y áp tay lên mu bàn tay tôi, mang tới một cảm giác ấm áp khó tả. Y nói: “Ta trước giờ vẫn luôn tin tưởng vào cái gọi là tâm ý tương thông.”
Y cất giọng buồn bã nhưng kiên định: “Ta sẽ đợi nàng, đợi ngọn gió trong lòng nàng lại thổi về phía ta lần nữa. Chỉ cần nàng bằng lòng, ta sẽ mãi đi bên cạnh nàng, chỉ cần nàng ngoảnh đầu là lập tức có thể nhìn thấy.”
Đứng trong Tiêu Nhàn quán, mở cửa sổ nhìn ra, lòng tôi như nở rộ vì những cây mai xanh mà y dốc lòng chuẩn bị cho tôi.
Giữa làn mưa đêm, nước mưa từ trên mặt y chảy xuống. Y ôm tôi trong lòng, cơ hồ không thể tin nổi, lẩm bẩm nói: “Hoàn Nhi… Là nàng đó sao?”
Y trả lời một cách trịnh trọng mà kiên định: “Trong lòng ta, nàng chính là cả bầu trời.”
Y nói: “Ta cứ luôn nghĩ rằng, cả cuộc đời này, thứ mà ta có thể giữ lại được chỉ có duy nhất bức tranh cắt ấy mà thôi.”
Y viết ra những lời chứa chan tình cảm: “Trên đồng hoa nở, nàng cứ chầm chậm quay về.”
“Cho dù tiền đồ chẳng biết thế nào thì đấy cũng là tâm ý chân thành nhất của ta.” Y nói giọng nghẹn ngào: “Hoàn Nhi, trên thế gian này, ta chỉ cần mình nàng thôi.”
Y gật đầu thật mạnh, cất giọng kiên định nói: “Đợi ta quay về, ta và nàng sẽ không bao giờ chia ly nữa.”
Trên tấm thiệp hợp hôn màu đỏ, Huyền Thanh tay trái nắm lấy tay tôi, tay phải cầm bút, chậm rãi viết từng nét.
Huyền Thanh – Chân Hoàn
Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.
Tôi cầm bút viết tiếp vào sau mấy chữ của Huyền Thanh trên tấm thiệp: “Nguyện cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.”
Tấm thiệp hợp hôn còn chưa kịp mang ra dùng, mọi sự đẹp tươi đều đang chờ phía trước, chỉ cần y quay về… Nhưng y lại vĩnh viễn không bao giờ về nữa. Nơi đáy sông Đằng Sa lạnh lẽo, thi thể của y cô độc, không bao giờ trở lại bên tôi.
Đôi hàng lông mày hơi cau lại của y lúc ngủ, cặp mắt màu hổ phách sâu sắc của y, bộ dạng tinh nghịch của y khi nhéo mũi tôi nói cười, những tia dịu dàng khó tả lúc y nở nụ cười mỉm, dáng vẻ nghiêm túc và kiên định của y khi nói ra những lời chứa chan tình cảm kia…
Tôi không bao giờ còn có thể nhìn thấy nữa rồi!
Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…
Lời ca của A Nô vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng Huyền Thanh thì lại chẳng bao giờ trở về nữa rồi, dù rằng lòng tôi ngày ngày đều thắm thiết nhớ nhung.
Ngoảnh đầu liếc thấy bảy sợi dây đàn của Trường tương tư phản chiếu lại những tia sáng lạnh băng, lòng tôi tột cùng đau đớn. Trường tương tư vẫn còn đấy, nhưng Trường tương thủ lại vĩnh viễn không thể trở về được nữa!
Tôi ngẩn ngơ ôm gối ngồi yên một chỗ, mặc kệ cho vầng trăng hết mọc rồi lặn, tôi không ngủ không nghỉ, chẳng ăn uống gì. Không biết đã qua bao lâu, tiếng khóc của Hoán Bích dường như đã dừng lại, Ôn Thực Sơ từng tới mấy lần, tôi cũng không hay biết.
Lần này là Cận Tịch bước tới lay cánh tay tôi, nàng ta bưng theo một bát thuốc đen ngòm, mùi thuốc phả tới hơi hăng hăng, không phải là loại thuốc an thai mà tôi thường uống.
Vẻ mặt Cận Tịch hết sức bình tĩnh, không có lấy một tia xao động. “Thuốc này là do nô tỳ xin Ôn đại nhân đặc biệt cắt cho nương tử, bên trong có phụ tử, mộc thông, ngũ linh chi, thiên liên đằng, bán chi liên, xuyên sơn long, miết giáp và thích tật lê, đều là những loại thuốc tốt có công hiệu hoạt huyết hóa ứ. Ngoài ra còn có cả hồng hoa, nương tử chỉ cần uống vào là sự phiền não trong bụng sẽ lập tức tan biến. Dù sao thì bây giờ nương tử cũng không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, chắc là chẳng cần tính mạng nữa rồi, chi bằng hãy để cho nghiệp chướng trong bụng kia đi sớm một bước, không cần phải theo nương tử chịu khổ nữa.”
Nàng ta nói với giọng rất điềm nhiên, như thế đó chỉ là một bát thuốc bình thường chứ không phải thứ thuốc trụy thai có thể tước đoạt tính mạng của đứa bé trong bụng tôi. Mùi thuốc hơi hăng khiến đầu óc người ta choáng váng, Cận Tịch lại nói tiếp với giọng xúi giục: “Thuốc này cực kỳ hữu hiệu, chỉ cần uống vào là đứa bé sẽ chết chắc. Có điều sẽ không đau lắm đâu, y thuật của Ôn đại nhân thế nào nương tử hẳn cũng biết rõ.” Nàng ta đưa bát thuốc tới bên môi tôi. “Nương tử xin hãy uống đi!”
Tôi vội ngoảnh đầu qua một bên, hai tay giữ chặt bụng mình. Sao tôi có thể uống được? Đấy là con của tôi và Thanh, tôi không thể để nó bị hồng hoa đẩy ra khỏi thân thể được… Nó là máu mủ của tôi, là cốt nhục của tôi.
Tôi sợ hãi vung tay đẩy bát thuổc đi, bày ra tư thế của một con thú mẹ đang bảo vệ đứa con của mình, gằn giọng nói: “Ta không uống!”
Bát thuốc rơi xuống đất vỡ tan, vang lên tiêng “xoảng” chói tai. Lúc này Hoán Bích đã chạy tới, ôm chặt lấy đôi chân tôi mà gào lên thê thảm: “Trưởng tỷ! Tỷ không thể bỏ đứa bé này đi!” Muội ấy gục đầu xuống đất, khóc nức nở: “Đấy là cốt nhục duy nhất mà Vương gia để lại, tỷ không được bỏ nó đi!”
Tôi đưa bàn tay trái tới khẽ vuốt ve khuôn mặt vì thương tâm quá độ mà trở nên gầy guộc, vàng vọt của Hoán Bích, bụng bỗng hơi nhói đau, tôi liền từ từ nhắm mắt lại. Trong gian thiền phòng tĩnh lặng đến đáng sợ, một tiếng “cạch” bất thình lình vang lên, tôi vô thức cúi xuống nhìn, thì ra một chiếc móng tay đã bị gãy giữa lòng bàn tay tôi.
Tôi cố điều chỉnh lại hơi thở, bình tĩnh nói: “Cận Tịch, ta sẽ không uống thứ thuốc trụy thai này đâu. Ta muốn sinh đứa bé này ra!” Hít sâu một hơi, tôi nói tiếp: “Không chỉ có đứa bé này, còn cả huynh trưởng và người nhà của ta nữa, ta phải bảo vệ tất cả bọn họ.” Tôi không rơi nước mắt thêm nữa, bởi nước mắt của tôi đã chảy hết trong hôm biết tin y chết rồi. “Thanh chết rồi. Không còn ai bảo vệ ta nữa, ta phải tự bảo vệ mình, bảo vệ tất cả những người mà ta muốn bảo vệ.”
Cận Tịch mặt lộ nét mừng, khom người một cái thật sâu, trầm giọng cất tiếng: “Đấy mới đúng là Chân Hoàn mà nô tỳ quen biết.”
Mỗi lần hít thở, tôi đều cảm thấy đau đớn vô cùng, như thể trái tim bị cắt lìa từng đoạn. Nhưng dù có đau đớ đến mấy, tôi vẫn phải sống tiếp. Vì đứa bé còn chưa ra đời của tôi, tôi không thể chết; vì cha mẹ, anh em của tôi, tôi không thế chết; vì Huyền Thanh đã chết một cách oan uổng, tôi không thể chết.
Tôi phải sống, nhất định phải sống cho thật tốt.
Cận Tịch nắm chặt bàn tay tôi, mỉm cười, nói: “Nô tỳ thấy nương tử không ăn không uống, sợ nương tử nghĩ quẩn, do đó mới nghĩ ra hạ sách này để kích động nương tử một chút.”
Trong đầu tôi như có một cây kim sắc bén cắm ngập vào rồi lại rút ra, đau đớn đến tột cùng! Thế nhưng càng đau đớn tôi lại càng tỉnh táo hơn, tôi đã không còn là Chân Hoàn vì thương tâm mà tự ruồng rẫy mình như xưa nữa.
Tôi lẳng lặng ngồi thẳng người dậy, đón lấy bát thuốc an thai mà Hoán Bích bưng tới, ngẩng đầu uống một hơi cạn sạch, ánh mắt vốn xám xịt, chết chóc dần bừng lên ánh sáng. Tôi bình tĩnh nói: “Hai người yên tâm, ta sẽ không tự hủy hoại mình nữa đâu.”
Cận Tịch khẽ nở nụ cười. “Nương tử có từng nghe thấy những lời khuyên nhủ chứa chan tình cảm của Ôn đại nhân mấy ngày qua không? Cứ như nô tỳ thấy, nương tử đi theo Ôn đại nhân, sống một cuộc đời bình lặng cũng là một lựa chọn không tồi.”
Tôi lắc đầu, nói: “Cận Tịch, ngươi hiểu ta rõ nhất, việc gì còn phải thử ta như vậy? Ta sẽ không chấp nhận Ôn Thực Sơ đâu.” Lòng tôi trào dâng một nỗi thê lương. “Ca ca ta thần trí thất thường, lại chỉ có một thân một mình ở đất Lĩnh Nam, xung quanh không có người thân nào chăm sóc. Những việc mà trước đấy Thanh làm cho ta, bây giờ ta sẽ phải gánh vác một mình.” Tôi khẽ nói tiếp: “Cận Tịch, việc ta muốn làm Ôn Thực Sơ không thể giúp được ta, mà ta cũng không muốn dựa dẫm vào y cả đời, ta chỉ có thể dựa vào chính mình thôi.”
Nụ cười của Cận Tịch lại càng trở nên rạng rỡ. “Nương tử tâm ý đã quyết, nô tỳ và Bích cô nương nhất định sẽ đi theo nương tử, không để nương tử phải cô độc đâu. Nhưng chẳng hay nương tử định làm thế nào?”
Sau một thoáng trầm ngâm, tôi chậm rãi nói từng từ: “Cái chết của Thanh rất có vấn đề, ta không thể để yên được. Trước khi đi Điền Nam, y từng nói với ta, Điền Nam là chốn trọng địa của nhà binh, lại cung cấp một nửa lương thảo cho Đại Chu, người Hách Hách xưa nay luôn chực chờ thôn tính, thường cho gian tế lẻn vào. Y bất ngờ gặp chuyện như thế là do loạn dân Điền Nam gây ra hay là do người Hách Hách bày trò còn chưa thể biết rõ, thậm chí việc này còn có thể liên quan tới người nào đó trong cung. Nhưng bất kể là tình huống nào, với sức của một mình ta thì không thể báo thù cho y được.” Dòng suy nghĩ của tôi càng lúc càng trở nên rõ ràng. “Đứa bé trong bụng ta có số mồ côi từ lúc chưa ra đời, nhưng dòng dõi Thanh Hà Vương không thể đứt đoạn vì ta, ta nhất định phải để nó trưởng thành với một danh phận đàng hoàng. Còn có cha anh của ta nữa, trước đấy ta cố gắng kìm nén chỉ vì hy vọng bọn họ được bình an, nhưng bây giờ ca ca ta đã bị người ta ép đến phát điên rồi… Cố Giai Nghi lại ở ngay trước mắt, ta không thể trơ mắt nhìn bọn họ…”
Tôi nghiến răng ken két nhưng không nói gì thêm. Cận Tịch đã hiểu ra, ngạc nhiên bật thốt: “Nương tử muốn làm những việc này, trên đời e là chỉ có một người giúp được…”
“Đúng vậy!” Ánh mắt tôi bỗng chốc trở nên sắc bén như dao, giọng nói lạnh lùng tột độ, ngay đến trái tim cũng băng giá hoàn toàn.
Tôi lặng im không nói, Huyền Lăng, đấy là cái tên đã từng gắn liền với những nỗi mừng vui và vinh dự, đau khổ và tuyệt vọng của tôi, đấy là cái tên mà tôi từng nghĩ sẽ không bao giờ phải gọi lại, bởi nó có thể khơi dậy những ký ức về cuộc sống trong cung thuở nào, mà quãng thời gian ấy chính là những tháng ngày thanh xuân tươi đẹp nhất trong sinh mệnh của tôi.
Một sủng phi từng được sủng ái hết mực nơi hậu cung Đại Chu, không ngờ cũng có ngày phải mặc áo xám vải thô mà tụng niệm kinh văn trước ngọn đèn dầu. Bây giờ, khi nghĩ về cái tên ấy mà thầm bày mưu tính kế, tôi bỗng giật mình phát giác, số mệnh của tôi rốt cuộc vẫn không thể tránh khỏi những sự tranh đấu khốc liệt năm xưa.
Tôi cố kìm nén cảm giác tang thương nơi đáy lòng, chậm rãi nói: “Thanh kể với ta, y từng gọi tên ta trong giấc mộng. Tuy còn chưa thể nắm chắc mười phần nhưng ta sẽ cố hết sức để thử. Ta phải mượn bàn tay và quyền lực của y để báo thù, để bảo vệ những người mà ta muốn bảo vệ.”
Cận Tịch hít một hơi thật sâu, trầm giọng hỏi: “Con đường này vô cùng gian nan, nguy hiểm, nương tử đã suy nghĩ kĩ chưa?”
Tôi khẽ “hừ” một tiếng, lạnh lùng nói: “Ngươi cho rằng ta còn con đường nào khác để đi sao?” Không kìm nổi nỗi bi thương nơi đáy lòng, tôi lại tiếp: “Y đã chết rồi, ta bây giờ chỉ còn lại một mình, có gì phải e ngại nữa đây?”
Hoán Bích bỗng ngẩng lên, trong mắt chiếu ra những tia sáng rực, kinh hãi nói: “Tiểu thư muốn nối lại tình xưa với Hoàng thượng sao? Nhưng nếu tiểu thư và Hoàng thượng gặp gỡ ở đây, dù có mấy phen mưa móc để giấu trời qua biển nhưng một khi kinh động đến người ở trong cung, khiến kẻ nào đó nổi sát cơ, e là chúng ta chỉ có thể ngồi yên chờ chết.”
Nỗi đau đớn không ngừng trào dâng trong lòng, tôi cố giữ bình tình, chậm rãi nói: “Ta sẽ hồi cung!”
Hoán Bích buồn bã nói: “Bây giờ hồi cung đúng là cách tốt nhất nhưng tiểu thư định làm thế nào đây? Chính như tiểu thư từng nói, các phế phi của Đại Chu đều chết già bên ngoài cung, không có ai ngoại lệ.” Rồi lại không kìm được, muội ấy lộ rõ vẻ xót xa và không đành lòng. “Hoàng đế đối xử với tiểu thư như vậy, tiểu thư còn có thể về bên cạnh y nữa sao? Huống chi một khi tiểu thư về cung, sự tranh đấu ắt sẽ càng khốc liệt hơn ngày trước, nỗi khó khăn, vất vả trong đó tiểu thư đâu phải chưa từng trải qua.”
Tôi hơi cúi đầu, lạnh lùng cười thành tiếng. “Tranh đấu khốc liệt ư? Ta là người đã chết một lần rồi, còn sợ gì chuyện tranh đấu nữa. Cho dù có phải chết trong cung, chỉ cần có thể bảo vệ được những người mà ta muốn bảo vệ, ta chẳng sợ gì hết.” Thoáng dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Nối lại tình xưa chẳng qua là tính toán cơ bản nhất thôi, điểm mấu chốt là phải làm thế nào để không lộ dấu vết và không khiến y nghi ngờ.”
Sắc mặt Hoán Bích trắng bệch, đôi mắt thoáng lộ vẻ sắc bén, muội ấy cắn chặt môi, nói: “Hoán Bích kiếp này sẽ không thành thân với ai, tiểu thư đi, nô tỳ sẽ đi theo đó.”
Tôi không nói gì thêm, đón lấy bát cháo Cận Tịch vừa mang tới, chậm rãi xúc từng miếng lên ăn.
Cận Tịch lại bưng một bát thuốc an thần tới cho tôi uống, rồi khẽ nói: “Nương tử nên ngủ một giấc đi đã, đợi sau khi tỉnh lại hãy bày mưu tính kế cũng chưa muộn.”
Tôi nhắm mắt lại, chuẩn bị ngủ một giấc ngon lành. Sau giấc ngủ này, là tôi sẽ không còn được ngủ ngon thêm lần nào nữa.
Khi Ôn Thực Sơ tới, tôi đang ngồi trước bàn soi gương, cũng không nói gì nhiều với hắn, chỉ khẽ hỏi: “Nhìn muội bây giờ rất khó coi đúng không?”
Hắn có vẻ hơi ngạc nhiên, không biết tại sao vào lúc này rồi mà tôi vẫn còn tâm trạng để ý tới dung mạo của mình, thế nhưng vẫn điềm nhiên đáp: “Muội rất đẹp, chỉ là mấy ngày nay khí huyết không đủ nên sắc mặt mới ảm đạm như vậy.”
Tôi hờ hững nói: “Muội đang có thai, khí huyết không đủ sẽ không tốt với đứa bé, phiền huynh hãy kê một ít thuốc ích khí bổ huyết cho muội. Ngoài ra, huynh còn Thần Tiên Ngọc Nữ phấn trước đây không?”
Hắn lại càng ngạc nhiên. “Đang yên đang lành sao tự nhiên muội lại nghĩ tới Thần Tiên Ngọc Nữ phấn vậy?”
Hoán Bích đứng bên cạnh đáp thay tôi: “Tiểu thư đã quyết tâm sinh đứa bé này ra nhưng bây giờ trông tiểu thư tiều tụy như vậy, đứa bé sinh ra sao có thể xinh xắn, đáng yêu được chứ? Do đó mới phải uống thuốc ích khí bổ huyết để bồi bổ khí huyết, lại bôi thêm Thần Tiên Ngọc Nữ phấn cho dung nhan khôi phục lại.”
Ôn Thực Sơ lặng im một lát rồi mừng rỡ nói: “Muội chịu như vậy là tốt rồi. Muốn ích khí bổ huyết thì cứ dùng dược thiện là hữu hiệu nhất, ta sẽ chuẩn bị sẵn rồi mang tới cho Cận Tịch mỗi ngày.” Giọng nói của hắn vô cùng trầm ấm: “Mấy việc này cứ giao cho ta, muội chỉ cần an tâm tĩnh dưỡng là được!”
Tôi hờ hững nói: “Dược thiện ích khí bổ huyết phải là loại có công hiệu nhanh mới được, muội chẳng thích nhìn bộ dạng bệnh tật, ốm yếu này của mình chút nào.” Thấy Ôn Thực Sơ đã rời đi, tôi mới nói với Hoán Bích và Cận Tịch: “Tạm thời đừng để y biết vội.”
Hai người cùng đáp “vâng” một tiếng. Hoán Bích khẽ nói: “Ôn đại nhân mà biết tiểu thư có tính toán này, chỉ e sẽ nổi xung lên mà ngăn cản tiểu thư mất.”
Tôi khẽ gật đầu. “Cho y biết chỉ khiến y thêm phiền não mà thôi!”
Vì Cận Tịch nói hoa đào có thể làm mềm da mặt, khiến nhan sắc mỹ miều hơn, lúc này lại đang là mùa xuân trăm hoa đua nở, cây đào già ngoài sân cũng đang nở hoa rực rỡ, thế là mỗi ngày Cận Tịch và Hoán Bích đều hái rất nhiều hoa đào về giã nát, đắp mặt cho tôi. Ôn Thực Sơ thì dặn Cận Tịch hái hoa đào, hoa hạnh và hoa hòe về nấu cháo, lại ngày ngày hầm canh gà ác cho tôi ăn.
Huyền Lăng xưa nay luôn yêu mỹ sắc, đấy cũng là vốn liếng duy nhất mà tôi có thể dựa vào. Dù không cam tâm đến mấy, rốt cuộc tôi vẫn phải làm cái việc dùng nhan sắc để lấy lòng người khác này.
Cứ như vậy chừng hơn mười ngày, dù nơi đáy lòng vẫn ngợp nỗi tang thương nhưng dung mạo tôi đã phần nào hồi phục.
Tôi buồn bã nghĩ, thì ra trái tim và khuôn mặt của con người không giống nhau, khuôn mặt có thể khôi phục lại rất nhanh nhưng trái tim đã tổn thương thì không cách nào bù đắp được, bất kể thời gian có trôi qua bao lâu, vết thương ở đó vẫn sẽ không ngừng rỉ máu, không thuốc gì chữa nổi.
Hoán Bích thường xuyên bầu bạn bên tôi, thỉnh thoảng lại hơi ngẩn ngơ, khẽ hỏi: “Mới đó mà tiểu thư đã không còn thương tâm nữa rồi sao?”
Tôi buồn bã ngoảnh đầu nhìn qua. “Hoán Bích, ta bây giờ không có thời gian để thương tâm.” Tôi cúi đầu, vuốt ve bụng mình, lẩm bẩm cất tiếng: “Trước khi đứa bé này lộ rõ, ta nhất định phải xử lý xong xuôi mọi việc.”
Hoán Bích khẽ thở dài một tiếng, ủ rũ nói: “Nô tỳ hiểu.”
Ban đêm khi hầu hạ tôi tắm rửa, Cận Tịch dịu dàng khuyên: “Những lời của Hoán Bích cô nương hôm nay, nương tử chớ để vào lòng.”
Tôi nói: “Ta hiểu mà, nỗi thương tâm của muội ấy không kém gì ta.”
Cận Tịch khẽ thở dài một tiếng. “Nỗi thương tâm của nương tử đều được giấu nơi đáy lòng. Có lúc, nỗi thương tâm không thể nói ra còn khiến người ta cảm thấy đau khổ hơn nhiều.”
Tôi buồn bã cúi đầu. “Có lẽ Hoán Bích cảm thấy nỗi thương tâm của ta không nhiều bằng muội ấy, tình cảm mà ta dành cho Thanh cũng không nhiều bằng muội ấy.” Tôi gục đầu xuống bàn trang điểm, cất giọng yếu ớt: “Cận Tịch, có lúc ngay đến bản thân ta cũng cảm thấy như vậy.”
Cận Tịch nhẹ nhàng chải tóc cho tôi, nhỏ nhẹ nói: “Đúng là Hoán Bích cô nương rất thương tâm, nhưng đó chỉ là vì bản thân không thể gặp lại Vương gia nữa, còn nương tử, nương tử thương tâm đến nỗi ngay cả bản thân cũng có thể vứt bỏ.”
Màn đêm như dòng nước lạnh băng hắt thẳng lên mặt tôi, tôi gượng cười, nói: “Cận Tịch, ngươi trông đó, ta lại thương tâm rồi.” Tôi cố giữ cho lòng mình phẳng lặng, nói tiếp: “Bây giờ không phải là lúc ta được phép thương tâm. Hai chúng ta hãy cùng nhau nghĩ xem, trong cung bây giờ có ai có thể nói vài lời trước mặt Hoàng thượng đây nhỉ?”
Cận Tịch lẳng lặng suy nghĩ trong chốc lát, hai mắt chợt lóe lên những tia sáng rực, rồi nàng ta cất giọng kiên định, nói: “Hiện giờ người có thể nói được vài câu trước mặt Hoàng thượng chỉ có duy nhất Lý Trường thôi. Y từ nhỏ đã bầu bạn bên cạnh Hoàng thượng, hiểu rõ tính Hoàng thượng nhất. Bây giờ nương tử đang tìm cách hồi cung, nhất định phải có cơ hội giáp mặt Hoàng thượng mới được.”
Nghe thấy những lời này, đầu óc tôi lập tức như bừng sáng. “Ý của ngươi ta rõ rồi, ta muốn hồi cung thì không thể thiếu người đưa đường chỉ lối được. Ta vốn còn đang nghĩ xem có nên đi tìm Phương Nhược không cơ.”
Cận Tịch thoáng trầm ngâm rồi mới nói: “Không được, Phương Nhược hiện đang hầu hạ bên cạnh Thái hậu chứ không phải Hoàng thượng, thứ nhất là tin tức truyền đi không được mau chóng, thứ hai là không thể thường xuyên quan sát tâm ý của Hoàng thượng, rất dễ xảy ra sai sót.”
Dưới ánh nến đỏ, sắc mặt tôi trở nên hết sức nặng nề. “Phương Nhược không được, vậy chỉ có thể chọn Lý Trường thôi. Hồi ở trong cung, tuy ta đã từng cho Lý Trường không ít lợi lộc, nhưng bây giờ ta thất thế đến mức này, cơ hội hồi cung gần như bằng không, Lý Trường là người thông minh như thế, liệu có chịu ra tay giúp đỡ ta không?”
Cận Tịch tỏ ra hết sức bình tĩnh và tỉnh táo. “Cho dù Lý Trường không chịu giúp chúng ta, chúng ta cũng phải nghĩ cách để khiến y chịu giúp. Bởi không chỉ trong chuyện an bài cho nương tử và Hoàng thượng gặp mặt, sau này về cung rồi hầu như mọi chuyện chúng ta đều cần tới y cả.” Đã rất lâu rồi tôi không nhìn thấy Cận Tịch như vậy, thậm chí tôi còn cảm thấy, một Cận Tịch có thể bày mưu tính kế cho tôi trong mọi việc như hồi còn ở trong cung thế này mới là Cận Tịch mà tôi quen biết. Nàng ta nói tiếp: “Nếu Hoàng hậu biết nương tử có thể sẽ được hồi cung khi đã mang thai trong người thì ắt sẽ tìm cách ngăn cản, có lẽ còn giấu giếm tin tức nương tử mang thai. Nếu Thái hậu không biết nương tử có thai, thái độ trong việc nương tử hồi cung nhất định sẽ không rõ ràng. Mà cho dù Thái hậu có biết, rồi vì lòng quan tâm đến con cháu mà có ý muốn đón nương tử về cung, cũng rất có khả năng Hoàng hậu sẽ bày trò gì đó để khiến việc bị chậm lại hay thậm chí là chìm vào quên lãng. Mà mỹ nhân trong cung nhiều vô kể, nếu Hoàng thượng nhất thời bị ai đó làm cho mê đắm rồi quên mất nương tử, nô tỳ chỉ nói là nhất thời thôi, nhưng chỉ cần có cái sự nhất thời này, Hoàng hậu cũng sẽ có vô số cách để khiến đứa bé trong bụng nương tử ‘vô duyên vô cớ’ biến mất. Nếu chuyện đó xảy ra, nương tử đã trải qua nên hẳn biết rõ Hoàng thượng coi trọng bề con cái đến mức nào, một khi trong bụng không còn đứa bé, nương tử thực sự chẳng có chỗ chôn thây đâu.” Nói tới đấy, giọng nàng ta bất giác mang theo mấy phần quyết liệt: “Bây giờ nương tử đang ở ngoài cung, muốn khiến Hoàng thượng nghĩ tới việc đi gặp nương tử, rồi tương lai lúc nào cũng nhớ tới nương tử v đứa con trong bụng nương tử, muốn đón nương tử về cung, cách tốt nhất chính là nhờ một người nào đó ở bên cạnh Hoàng thượng thường xuyên nhắc nhở, theo như nô tỳ thấy, người đó… chỉ có thể là Lý Trường. Mà cách tốt nhất để mua chuộc Lý Trường kỳ thực không phải là dùng vàng bạc hay châu báu, cũng không phải là lấy lợi để dụ.”
Tôi loáng thoáng đoán ra được điều gì, trong lòng bất giác trào dâng một chút sợ hãi, vốn chỉ là một chút nhưng sau khi trên mặt Cận Tịch lộ ra nét cười thê lương và bất lực, sự sợ hãi trong tôi càng lúc càng rõ rệt hơn. Tôi nắm chặt bàn tay Cận Tịch, run giọng nói: “Cận Tịch, ngươi muốn làm gì…”
Bàn tay Cận Tịch lạnh vô cùng, tay tôi thì rất ấm nhưng lại không thể sưởi ấm cho bàn tay nàng ta được. Tôi mơ màng nhớ tới cây bút mà Thái hậu thường dùng để chép kinh Phật, phần cán bút dường như được làm bằng đá hoa cương, vừa cứng vừa bóng loáng, không ngừng tỏa ra những tia giá lạnh. Giữa mùa đông, chỉ cần cầm cây bút đó một lát thôi, lập tức sẽ phải áp tay vào lò sưởi để sưởi ấm. Cận Tịch hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười chua chát. “Thái giám vốn là những người thân thể có khiếm khuyết, không thể cưới vợ sinh con chính là nỗi đau lớn nhất cuộc đời, dù có bao nhiêu tiền tài cũng không thể nào bù đắp được. Do đó bọn họ thường lén thành đôi thành cặp với các cung nữ, gọi là ‘đối thực[1]’, coi như méo mó có hơn không, lấy đó để xoa dịu nỗi đau trong lòng.”
[1] Đối thực vốn mang nghĩa là góp gạo thổi cơm chung, về sau thường dùng chỉ việc cung nữ với cung nữ, hoặc cung nữ với thái giám, kết thành “vợ chồng” – ND.
Tôi bất giác rùng mình, cơ hồ không dám tin, mồ hôi lạnh nơi sống lưng không ngừng cuồn cuộn túa ra, đoạn lớn tiếng nói: “Cận Tịch, ta không cho phép ngươi vì ta mà làm chuyện như thế?”
Bóng dáng Cận Tịch lúc này trông mỏng manh vô cùng, nàng ta hờ hững nói: “Đấy là biện pháp tốt nhất. Nô tỳ tuy đã gần bốn mươi tuổi nhưng bộ dạng cũng không đến nỗi là già lắm. Loại thái giám đã có tuổi như Lý Trường không thích các cung nữ trẻ tuổi, hơn nữa nô tỳ và Lý Trường vốn là đồng hương, khi mới vào cung từng được y chiếu cố rất nhiều, sau bao năm quen biết, y chưa chắc đã không có ý, mà nô tỳ cũng bằng lòng thử xem sao.”
Tôi gần như không chút nghĩ ngợi, lập tức cự tuyệt: “Cận Tịch, ngươi đi theo ta đã phải chịu quá nhiều nỗi vất vả, bây giờ lại còn vì ta mà…” Tôi không thể nói tiếp nữa, cảm thấy khó lòng hé miệng, đành nói: “Đối thực là việc thường thấy trong cung, các cung nữ thái giám lén đi lại với nhau cũng không phải điều gì quá đáng. Chỉ là y dù sao cũng không phải nam nhân, ngươi…”
Cận Tịch nhẹ nhàng gạt tay tôi ra, sắc mặt đã trở lại bình tĩnh như thường, chậm rãi nói: “Nô tỳ đã suy nghĩ rất kĩ, nương tử có khuyên nhủ thêm nữa cũng vô ích thôi. Cận Tịch thân là nô tỳ, vốn là hạng người hèn mọn, không có tự do, lần này xin nương tử hãy cho nô tỳ một cơ hội được tự mình quyết định. Còn về chuyện sau này… không thử thì làm sao mà biết được. Lỡ như gặp may, nói không chừng Lý Trường lại là người mà nô tỳ có thể nương tựa cả đời.”
Ánh trăng xuyên qua lớp giấy dán cửa sổ mỏng manh chiếu lên người Cận Tịch, khuôn mặt nàng ta lúc này trắng đến nỗi gần như trong suốt, chẳng có chút huyết sắc nào. Nàng ta chậm rãi đứng dậy, nhẹ nhàng gạt đi chút bụi dính trên váy, xoay người cất bước ra ngoài.
Tôi kinh hãi thốt lên: “Cận Tịch, ngươi đi đâu vậy…”
Cận Tịch xoay người lại, khẽ mỉm cười. “Lý Trường có một trang viện nhỏ bên ngoài cung, nô tỳ biết nó nằm ở nơi nào, cũng tự tin là sẽ gặp được y.”
Tôi biết rõ nàng ta đi như thế có nghĩa là gì, bèn cố gắng khuyên nhủ: “Cận Tịch, ngươi thực sự không cần vì ta mà làm như vậy đâu. Chúng ta còn có cách khác, đúng không nào?”
Cận Tịch thản nhiên cười, nói: “Việc nương tử về cung vốn không có hại gì cho Lý Trường, mà nếu nương tử đắc sủng thì còn rất có lợi cho y nữa, lại cộng thêm nô tỳ, nương tử cứ việc yên tâm.” Nàng ta gạt bàn tay đang cố níu giữ của tôi ra, nhẹ nhàng cất tiếng: “Nương tử nói bản thân giờ chỉ còn một mình, không có thứ gì không thể vứt bỏ. Còn nô tỳ thì sớm đã chỉ có một mình rồi, càng không phải sợ gì nữa.”
Nàng ta không để ý đến tôi nữa, chậm rãi bước ra khỏi phòng. Vầng trăng trên cao nhợt nhạt như một khuôn mặt tròn xoe, tỏa xuống đất những tia sáng vô cùng ảm đạm. Bên ngoài căn phòng, rặng núi đằng xa như vô số yêu ma quỷ quái, khiến người ta càng sợ hãi.
Lần đầu tiên tôi phát hiện, thì ra phía sau khuôn mặt hòa nhã kia của Cận Tịch lại có một vẻ ưu sầu sâu sắc đến nhường này. Nàng ta chậm rãi rời đi, mỗi bước chân đều rất vững vàng, dưới ánh trăng ảm đạm, cái bóng của nàng ta chừng như được kéo dài đến vô tận, đồng thời in sâu vào lòng tôi.
Tôi mơ màng hé miệng, trong cơn chấn động, giọng nói đã trở nên khản đặc đến nỗi ngay chính bản thân tôi cũng không tin nổi: “Tại sao huynh ấy lại chết? Đang yên đang lành, tại sao lại lật thuyền đến nỗi không tìm được thi thể?”
Ôn Thực Sơ trầm giọng nói: “Đã tìm được xác của chiếc thuyền mà Thanh Hà Vương ngồi rồi, chiếc thuyền ấy long cốt không khác gì thuyền thường nhưng ván ở đáy thuyền lại không đóng bằng đinh sắt mà chỉ được dùng dây mây tươi buộc lại, lúc thuyền ở im một chỗ thì không sao nhưng sau khi đi được một đoạn, dây mây tươi sẽ bị tuột ra, thuyền cũng theo đó mà chìm.”
Tôi nhớ lại cảnh mình tiễn y ở sông Bá hôm đó, giữa làn sóng nước, con thuyền vẫn nhẹ nhàng lướt đi mà chẳng có việc gì, bèn nói: “Nhưng hôm huynh ấy đi cũng ngồi con thuyền đó, vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra!”
“Đúng thế, con thuyền y ngồi hôm đi không có vấn đề gì. Theo lời của những người thợ đóng thuyền, thân của con thuyền đó tuy giống với con thuyền mà họ làm ra, nhưng đáy thuyền thì lại khác. Qua đó có thể thấy thuyền đã bị đánh tráo trong lúc dừng bên bờ sông Đằng Sa.”
Tôi càng nghe lại càng kinh hãi. “Ai muốn hại huynh ấy? Là ai muốn hại huynh ấy?”
Ôn Thực Sơ giữ chặt không cho tôi giãy giụa, nôn nóng nói: “Chuyện đã xảy ra rồi, là ai làm còn chưa biết được. Hiện giờ Hoàng thượng đã sai người thông báo tin tức này cho thân mẫu của Thanh Hà Vương, nhưng trước khi tìm được thi thể của Thanh Hà Vương, ý của Hoàng thượng là tạm thời chưa phát tang vội.”
Lúc này lòng tôi kích động tột cùng, chỉ cần thoáng nghĩ tới việc Huyền Thanh không còn trên đời nữa là bụng tôi lại râm rứt đau. Tôi gần như không dám suy nghĩ tiếp, chỉ biết lắc đầu thật mạnh. “Muội không tin! Muội không tin! Thi thể đến giờ vẫn chưa tìm được, huynh ấy sẽ không chết đâu!”
Ôn Thực Sơ cố gắng giữ chặt thân thể tôi, trầm giọng nói: “Hoàn Nhi, muội hãy bình tĩnh một chút. Nước sông Đằng Sa chảy xiết như thế, cho dù có tìm được thi thể thì cũng khó mà nhận dạng được.”
Tôi đau đến nỗi túa đầy mồ hôi lạnh, không kìm được đưa tay ôm bụng. Cận Tịch vội vàng giúp tôi lau mồ hôi, đồng thời oán trách Ôn Thực Sơ: “Ôn đại nhân thực là không biết nặng nhẹ gì hết, vào lúc này còn nói ra mấy lời đó làm gì. Nương tử giờ đang mang thai, chuyện như thế cho dù muốn nói thì cũng phải đợi sau khi nương tử sinh nở xong rồi hẵng nói. Ôn đại nhân xưa nay vẫn luôn quan tâm tới nương tử như cha như anh, sao bây giờ lại hồ đồ đến thế chứ?”
Ôn Thực Sơ giậm chân, nói: “Ta không đành lòng nhìn muội ấy vất vả đợi chờ một người không thể trở về được nữa.” Bàn tay đang giữ lấy cánh tay tôi của hắn dùng sức rất mạnh, thế nhưng giọng nói lại hết mực dịu dàng, dịu dàng tới mức khiến người ta chỉ muốn nép vào người hắn. “Tuy muội đang thương tâm nhưng có một số chuyện không thể không bắt đầu tính toán. Nếu muội nhất quyết muốn sinh đứa bé này ra, ta vẫn sẽ đưa muội uống Thất nhật thất hồn tán, để Cận Tịch và Hoán Bích báo lên là muội đã mắc bệnh qua đời. Sau đó, ta sẽ đưa muội rời khỏi nơi này rồi chúng ta cùng tìm lấy một nơi vắng vẻ nào đó mà sống những tháng ngày bình lặng bên nhau.” Trong mắt hắn lúc này đã lấp lánh ánh lệ. “Hoàn muội muội, ta sẽ đối xử với muội thật tốt, coi con của muội như con của chính ta. Muội hãy tin ta, điều Thanh Hà Vương làm được, ta cũng có thể làm được.”
Nước mắt tôi tuôn rơi lã chã, trong khoảnh khắc hay tin về cái chết của Huyền Thanh, sức lực toàn thân bỗng như bị rút cạn, trở nên tột cùng yếu ớt. Lời của hắn, tôi coi như không nghe thấy, chỉ ngẩn ngơ rơi lệ không ngừng.
Cận Tịch buồn bã nói: “Bây giờ Ôn đại nhân nói những lời này với nương tử cũng chỉ uổng công thôi, chỉ e nương tử chẳng nghe lọt tai được câu nào, cứ đợi nương tử tỉnh táo lại rồi hẵng nói.”
Hoán Bích khóc nức nở, bò đến bên gi, gạt bàn tay đang giữ tay tôi của Ôn Thực Sơ ra, ôm chặt cánh tay của tôi vào lòng. Hoán Bích đau buồn khôn xiết, khóc lóc trách cứ Ôn Thực Sơ: “Đại nhân có thể coi con của Vương gia như con của mình sao? Có thể làm những việc mà Vương gia có thể làm sao? Ngài có thể so sánh với Vương gia sao?” Nói xong, muội ấy chẳng buồn để ý tới Ôn Thực Sơ lúc này đang đỏ mặt tía tai, ôm cánh tay tôi mà khóc nỉ non, như một con thú nhỏ đang bị thương vậy. “Trưởng tỷ, muội chỉ mong có thể nhìn y từ xa, ngày ngày được thấy y cười… Không! Không cần ngày ngày, chỉ thỉnh thoảng thôi cũng được, cho dù y không cười với muội, muội cũng hài lòng lắm rồi!” Tiếng khóc của muội ấy giống như lưỡi dao sắc bén đâm vào trái tim tôi, khiến tôi lại càng đau đớn, khó có thể nói nổi lời nào, chỉ nghe muội ấy nghẹn ngào nói tiếp: “Nhưng y đã chết rồi, sau này, cả đời này, muội sẽ không thể gặp lại y nữa…”
Tiếng khóc của Hoán Bích khiến ruột gan tôi như tan nát. Huyền Thanh, người tình lang thấu hiểu tôi, thương yêu tôi, không ngờ lại rời bỏ tôi mà đi, không thể thực hiện lời hứa “tay nắm tay, bên nhau đến bạc đầu” kia nữa.
Lồng ngực tôi bỗng nhói đau, vội nhào về phía trước, chừng như muốn nôn ra máu. Cận Tịch vội vàng bịt miệng Hoán Bích, sợ muội ấy lại nói ra những lời làm tôi thương tâm, sau đó liền ngoảnh đầu sang nói với Ôn Thực Sơ: “Ban nãy Hoán Bích cô nương bị nước thuốc bắn vào người, xin Ôn đại nhân kiểm tra giúp xem có vấn đề gì không.”
Ôn Thực Sơ vội vén ống quần Hoán Bích lên, chỉ thấy trên cẳng chân muội ấy đã nổi đầy bọng nước. Nhưng muội ấy không hề kêu đau, cũng chẳng quan tâm xem Ôn Thực Sơ bôi thuốc cho mình thế nào, chỉ một mực khóc sụt sùi.
Ôn Thực Sơ nôn nóng đến nỗi mồ hôi lạnh túa ra đầy đầu, một mặt bôi thuốc và băng bó cho Hoán Bích, một mặt kêu Cận Tịch cho tôi uống thuốc an thần để tôi nghỉ ngơi.
Khi tôi tỉnh lại thì đã là nửa đêm, lúc này đầu óc tôi vẫn còn mơ mơ màng màng, trên người nhớp nháp mồ hôi, khiến chiếc áo lót ướt nhẹp, dính sát vào lưng, mang tới cảm giác lạnh toát, tựa như có một con quỷ rùng rợn đang bám vào người tôi vậy. Trong lúc nửa mê nửa tỉnh, tôi cứ ngỡ mình đang nằm mộng, và việc Ôn Thực Sơ nói với tôi về cái chết của Huyền Thanh chỉ diễn ra trong giấc mộng mà thôi. Thế nhưng rất nhanh sau đó, tiếng khóc của Hoán Bích đã vọng vào tai tôi, nghe như tiếng gào khóc nghẹn ngào của lũ cô hỮ dã quỷ, liên miên không dứt, khiến tôi biết được rằng Huyền Thanh thực sự không còn trên đời này nữa.
Tôi hơi hé mắt nhưng nước mắt không tuôn trào nữa mà chỉ có cảm giác bỏng rát do nước mắt cạn khô mang lại, nhắc nhở tôi về nỗi mất mát và thương tâm của bản thân.
Cận Tịch thấy tôi tỉnh lại, vội vàng bưng một bát thuốc tới, nói: “Ôn đại nhân nói nương tử vừa rồi quá kích động nên ảnh hưởng đến thai khí, nhất định không được thương tâm thêm nữa. Nương tử tạm uống bát thuốc an thai này đi, ngày mai Ôn đại nhân sẽ lại tới thăm nương tử.” Tôi ngẩn ngơ đón lấy bát thuốc từ trong tay nàng ta rồi uống một hơi cạn sạch, uống xong lại tựa người vào tường mà tiếp tục ngẩn ngơ.
Ngày đó trong Cẩn Thân điện, tôi vì nhớ Lung Nguyệt mà phủ phục xuống đất khóc nức nở, y từ phía sau bước tới, đỡ tôi dậy, cất giọng ôn tồn và ấm áp như ánh mặt trời, xoa dịu trái tim đang nhỏ máu của tôi: “Không việc gì nữa rồi! Không việc gì nữa rồi!”
Nước sông cuồn cuộn, tu mười năm mới có cái duyên ngồi cùng thuyền. Y nói: “Lúc này hãy cùng ngồi với nhau ở đây, ngắm mây trên trời, nhẹ nhàng trò chuyện, hoặc chỉ lặng im thôi, hưởng thụ sự bình yên trong khoảnh khắc ngắn ngủi này.”
Y áp tay lên mu bàn tay tôi, mang tới một cảm giác ấm áp khó tả. Y nói: “Ta trước giờ vẫn luôn tin tưởng vào cái gọi là tâm ý tương thông.”
Y cất giọng buồn bã nhưng kiên định: “Ta sẽ đợi nàng, đợi ngọn gió trong lòng nàng lại thổi về phía ta lần nữa. Chỉ cần nàng bằng lòng, ta sẽ mãi đi bên cạnh nàng, chỉ cần nàng ngoảnh đầu là lập tức có thể nhìn thấy.”
Đứng trong Tiêu Nhàn quán, mở cửa sổ nhìn ra, lòng tôi như nở rộ vì những cây mai xanh mà y dốc lòng chuẩn bị cho tôi.
Giữa làn mưa đêm, nước mưa từ trên mặt y chảy xuống. Y ôm tôi trong lòng, cơ hồ không thể tin nổi, lẩm bẩm nói: “Hoàn Nhi… Là nàng đó sao?”
Y trả lời một cách trịnh trọng mà kiên định: “Trong lòng ta, nàng chính là cả bầu trời.”
Y nói: “Ta cứ luôn nghĩ rằng, cả cuộc đời này, thứ mà ta có thể giữ lại được chỉ có duy nhất bức tranh cắt ấy mà thôi.”
Y viết ra những lời chứa chan tình cảm: “Trên đồng hoa nở, nàng cứ chầm chậm quay về.”
“Cho dù tiền đồ chẳng biết thế nào thì đấy cũng là tâm ý chân thành nhất của ta.” Y nói giọng nghẹn ngào: “Hoàn Nhi, trên thế gian này, ta chỉ cần mình nàng thôi.”
Y gật đầu thật mạnh, cất giọng kiên định nói: “Đợi ta quay về, ta và nàng sẽ không bao giờ chia ly nữa.”
Trên tấm thiệp hợp hôn màu đỏ, Huyền Thanh tay trái nắm lấy tay tôi, tay phải cầm bút, chậm rãi viết từng nét.
Huyền Thanh – Chân Hoàn
Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.
Tôi cầm bút viết tiếp vào sau mấy chữ của Huyền Thanh trên tấm thiệp: “Nguyện cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.”
Tấm thiệp hợp hôn còn chưa kịp mang ra dùng, mọi sự đẹp tươi đều đang chờ phía trước, chỉ cần y quay về… Nhưng y lại vĩnh viễn không bao giờ về nữa. Nơi đáy sông Đằng Sa lạnh lẽo, thi thể của y cô độc, không bao giờ trở lại bên tôi.
Đôi hàng lông mày hơi cau lại của y lúc ngủ, cặp mắt màu hổ phách sâu sắc của y, bộ dạng tinh nghịch của y khi nhéo mũi tôi nói cười, những tia dịu dàng khó tả lúc y nở nụ cười mỉm, dáng vẻ nghiêm túc và kiên định của y khi nói ra những lời chứa chan tình cảm kia…
Tôi không bao giờ còn có thể nhìn thấy nữa rồi!
Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…
Lời ca của A Nô vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng Huyền Thanh thì lại chẳng bao giờ trở về nữa rồi, dù rằng lòng tôi ngày ngày đều thắm thiết nhớ nhung.
Ngoảnh đầu liếc thấy bảy sợi dây đàn của Trường tương tư phản chiếu lại những tia sáng lạnh băng, lòng tôi tột cùng đau đớn. Trường tương tư vẫn còn đấy, nhưng Trường tương thủ lại vĩnh viễn không thể trở về được nữa!
Tôi ngẩn ngơ ôm gối ngồi yên một chỗ, mặc kệ cho vầng trăng hết mọc rồi lặn, tôi không ngủ không nghỉ, chẳng ăn uống gì. Không biết đã qua bao lâu, tiếng khóc của Hoán Bích dường như đã dừng lại, Ôn Thực Sơ từng tới mấy lần, tôi cũng không hay biết.
Lần này là Cận Tịch bước tới lay cánh tay tôi, nàng ta bưng theo một bát thuốc đen ngòm, mùi thuốc phả tới hơi hăng hăng, không phải là loại thuốc an thai mà tôi thường uống.
Vẻ mặt Cận Tịch hết sức bình tĩnh, không có lấy một tia xao động. “Thuốc này là do nô tỳ xin Ôn đại nhân đặc biệt cắt cho nương tử, bên trong có phụ tử, mộc thông, ngũ linh chi, thiên liên đằng, bán chi liên, xuyên sơn long, miết giáp và thích tật lê, đều là những loại thuốc tốt có công hiệu hoạt huyết hóa ứ. Ngoài ra còn có cả hồng hoa, nương tử chỉ cần uống vào là sự phiền não trong bụng sẽ lập tức tan biến. Dù sao thì bây giờ nương tử cũng không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, chắc là chẳng cần tính mạng nữa rồi, chi bằng hãy để cho nghiệp chướng trong bụng kia đi sớm một bước, không cần phải theo nương tử chịu khổ nữa.”
Nàng ta nói với giọng rất điềm nhiên, như thế đó chỉ là một bát thuốc bình thường chứ không phải thứ thuốc trụy thai có thể tước đoạt tính mạng của đứa bé trong bụng tôi. Mùi thuốc hơi hăng khiến đầu óc người ta choáng váng, Cận Tịch lại nói tiếp với giọng xúi giục: “Thuốc này cực kỳ hữu hiệu, chỉ cần uống vào là đứa bé sẽ chết chắc. Có điều sẽ không đau lắm đâu, y thuật của Ôn đại nhân thế nào nương tử hẳn cũng biết rõ.” Nàng ta đưa bát thuốc tới bên môi tôi. “Nương tử xin hãy uống đi!”
Tôi vội ngoảnh đầu qua một bên, hai tay giữ chặt bụng mình. Sao tôi có thể uống được? Đấy là con của tôi và Thanh, tôi không thể để nó bị hồng hoa đẩy ra khỏi thân thể được… Nó là máu mủ của tôi, là cốt nhục của tôi.
Tôi sợ hãi vung tay đẩy bát thuổc đi, bày ra tư thế của một con thú mẹ đang bảo vệ đứa con của mình, gằn giọng nói: “Ta không uống!”
Bát thuốc rơi xuống đất vỡ tan, vang lên tiêng “xoảng” chói tai. Lúc này Hoán Bích đã chạy tới, ôm chặt lấy đôi chân tôi mà gào lên thê thảm: “Trưởng tỷ! Tỷ không thể bỏ đứa bé này đi!” Muội ấy gục đầu xuống đất, khóc nức nở: “Đấy là cốt nhục duy nhất mà Vương gia để lại, tỷ không được bỏ nó đi!”
Tôi đưa bàn tay trái tới khẽ vuốt ve khuôn mặt vì thương tâm quá độ mà trở nên gầy guộc, vàng vọt của Hoán Bích, bụng bỗng hơi nhói đau, tôi liền từ từ nhắm mắt lại. Trong gian thiền phòng tĩnh lặng đến đáng sợ, một tiếng “cạch” bất thình lình vang lên, tôi vô thức cúi xuống nhìn, thì ra một chiếc móng tay đã bị gãy giữa lòng bàn tay tôi.
Tôi cố điều chỉnh lại hơi thở, bình tĩnh nói: “Cận Tịch, ta sẽ không uống thứ thuốc trụy thai này đâu. Ta muốn sinh đứa bé này ra!” Hít sâu một hơi, tôi nói tiếp: “Không chỉ có đứa bé này, còn cả huynh trưởng và người nhà của ta nữa, ta phải bảo vệ tất cả bọn họ.” Tôi không rơi nước mắt thêm nữa, bởi nước mắt của tôi đã chảy hết trong hôm biết tin y chết rồi. “Thanh chết rồi. Không còn ai bảo vệ ta nữa, ta phải tự bảo vệ mình, bảo vệ tất cả những người mà ta muốn bảo vệ.”
Cận Tịch mặt lộ nét mừng, khom người một cái thật sâu, trầm giọng cất tiếng: “Đấy mới đúng là Chân Hoàn mà nô tỳ quen biết.”
Mỗi lần hít thở, tôi đều cảm thấy đau đớn vô cùng, như thể trái tim bị cắt lìa từng đoạn. Nhưng dù có đau đớ đến mấy, tôi vẫn phải sống tiếp. Vì đứa bé còn chưa ra đời của tôi, tôi không thể chết; vì cha mẹ, anh em của tôi, tôi không thế chết; vì Huyền Thanh đã chết một cách oan uổng, tôi không thể chết.
Tôi phải sống, nhất định phải sống cho thật tốt.
Cận Tịch nắm chặt bàn tay tôi, mỉm cười, nói: “Nô tỳ thấy nương tử không ăn không uống, sợ nương tử nghĩ quẩn, do đó mới nghĩ ra hạ sách này để kích động nương tử một chút.”
Trong đầu tôi như có một cây kim sắc bén cắm ngập vào rồi lại rút ra, đau đớn đến tột cùng! Thế nhưng càng đau đớn tôi lại càng tỉnh táo hơn, tôi đã không còn là Chân Hoàn vì thương tâm mà tự ruồng rẫy mình như xưa nữa.
Tôi lẳng lặng ngồi thẳng người dậy, đón lấy bát thuốc an thai mà Hoán Bích bưng tới, ngẩng đầu uống một hơi cạn sạch, ánh mắt vốn xám xịt, chết chóc dần bừng lên ánh sáng. Tôi bình tĩnh nói: “Hai người yên tâm, ta sẽ không tự hủy hoại mình nữa đâu.”
Cận Tịch khẽ nở nụ cười. “Nương tử có từng nghe thấy những lời khuyên nhủ chứa chan tình cảm của Ôn đại nhân mấy ngày qua không? Cứ như nô tỳ thấy, nương tử đi theo Ôn đại nhân, sống một cuộc đời bình lặng cũng là một lựa chọn không tồi.”
Tôi lắc đầu, nói: “Cận Tịch, ngươi hiểu ta rõ nhất, việc gì còn phải thử ta như vậy? Ta sẽ không chấp nhận Ôn Thực Sơ đâu.” Lòng tôi trào dâng một nỗi thê lương. “Ca ca ta thần trí thất thường, lại chỉ có một thân một mình ở đất Lĩnh Nam, xung quanh không có người thân nào chăm sóc. Những việc mà trước đấy Thanh làm cho ta, bây giờ ta sẽ phải gánh vác một mình.” Tôi khẽ nói tiếp: “Cận Tịch, việc ta muốn làm Ôn Thực Sơ không thể giúp được ta, mà ta cũng không muốn dựa dẫm vào y cả đời, ta chỉ có thể dựa vào chính mình thôi.”
Nụ cười của Cận Tịch lại càng trở nên rạng rỡ. “Nương tử tâm ý đã quyết, nô tỳ và Bích cô nương nhất định sẽ đi theo nương tử, không để nương tử phải cô độc đâu. Nhưng chẳng hay nương tử định làm thế nào?”
Sau một thoáng trầm ngâm, tôi chậm rãi nói từng từ: “Cái chết của Thanh rất có vấn đề, ta không thể để yên được. Trước khi đi Điền Nam, y từng nói với ta, Điền Nam là chốn trọng địa của nhà binh, lại cung cấp một nửa lương thảo cho Đại Chu, người Hách Hách xưa nay luôn chực chờ thôn tính, thường cho gian tế lẻn vào. Y bất ngờ gặp chuyện như thế là do loạn dân Điền Nam gây ra hay là do người Hách Hách bày trò còn chưa thể biết rõ, thậm chí việc này còn có thể liên quan tới người nào đó trong cung. Nhưng bất kể là tình huống nào, với sức của một mình ta thì không thể báo thù cho y được.” Dòng suy nghĩ của tôi càng lúc càng trở nên rõ ràng. “Đứa bé trong bụng ta có số mồ côi từ lúc chưa ra đời, nhưng dòng dõi Thanh Hà Vương không thể đứt đoạn vì ta, ta nhất định phải để nó trưởng thành với một danh phận đàng hoàng. Còn có cha anh của ta nữa, trước đấy ta cố gắng kìm nén chỉ vì hy vọng bọn họ được bình an, nhưng bây giờ ca ca ta đã bị người ta ép đến phát điên rồi… Cố Giai Nghi lại ở ngay trước mắt, ta không thể trơ mắt nhìn bọn họ…”
Tôi nghiến răng ken két nhưng không nói gì thêm. Cận Tịch đã hiểu ra, ngạc nhiên bật thốt: “Nương tử muốn làm những việc này, trên đời e là chỉ có một người giúp được…”
“Đúng vậy!” Ánh mắt tôi bỗng chốc trở nên sắc bén như dao, giọng nói lạnh lùng tột độ, ngay đến trái tim cũng băng giá hoàn toàn.
Tôi lặng im không nói, Huyền Lăng, đấy là cái tên đã từng gắn liền với những nỗi mừng vui và vinh dự, đau khổ và tuyệt vọng của tôi, đấy là cái tên mà tôi từng nghĩ sẽ không bao giờ phải gọi lại, bởi nó có thể khơi dậy những ký ức về cuộc sống trong cung thuở nào, mà quãng thời gian ấy chính là những tháng ngày thanh xuân tươi đẹp nhất trong sinh mệnh của tôi.
Một sủng phi từng được sủng ái hết mực nơi hậu cung Đại Chu, không ngờ cũng có ngày phải mặc áo xám vải thô mà tụng niệm kinh văn trước ngọn đèn dầu. Bây giờ, khi nghĩ về cái tên ấy mà thầm bày mưu tính kế, tôi bỗng giật mình phát giác, số mệnh của tôi rốt cuộc vẫn không thể tránh khỏi những sự tranh đấu khốc liệt năm xưa.
Tôi cố kìm nén cảm giác tang thương nơi đáy lòng, chậm rãi nói: “Thanh kể với ta, y từng gọi tên ta trong giấc mộng. Tuy còn chưa thể nắm chắc mười phần nhưng ta sẽ cố hết sức để thử. Ta phải mượn bàn tay và quyền lực của y để báo thù, để bảo vệ những người mà ta muốn bảo vệ.”
Cận Tịch hít một hơi thật sâu, trầm giọng hỏi: “Con đường này vô cùng gian nan, nguy hiểm, nương tử đã suy nghĩ kĩ chưa?”
Tôi khẽ “hừ” một tiếng, lạnh lùng nói: “Ngươi cho rằng ta còn con đường nào khác để đi sao?” Không kìm nổi nỗi bi thương nơi đáy lòng, tôi lại tiếp: “Y đã chết rồi, ta bây giờ chỉ còn lại một mình, có gì phải e ngại nữa đây?”
Hoán Bích bỗng ngẩng lên, trong mắt chiếu ra những tia sáng rực, kinh hãi nói: “Tiểu thư muốn nối lại tình xưa với Hoàng thượng sao? Nhưng nếu tiểu thư và Hoàng thượng gặp gỡ ở đây, dù có mấy phen mưa móc để giấu trời qua biển nhưng một khi kinh động đến người ở trong cung, khiến kẻ nào đó nổi sát cơ, e là chúng ta chỉ có thể ngồi yên chờ chết.”
Nỗi đau đớn không ngừng trào dâng trong lòng, tôi cố giữ bình tình, chậm rãi nói: “Ta sẽ hồi cung!”
Hoán Bích buồn bã nói: “Bây giờ hồi cung đúng là cách tốt nhất nhưng tiểu thư định làm thế nào đây? Chính như tiểu thư từng nói, các phế phi của Đại Chu đều chết già bên ngoài cung, không có ai ngoại lệ.” Rồi lại không kìm được, muội ấy lộ rõ vẻ xót xa và không đành lòng. “Hoàng đế đối xử với tiểu thư như vậy, tiểu thư còn có thể về bên cạnh y nữa sao? Huống chi một khi tiểu thư về cung, sự tranh đấu ắt sẽ càng khốc liệt hơn ngày trước, nỗi khó khăn, vất vả trong đó tiểu thư đâu phải chưa từng trải qua.”
Tôi hơi cúi đầu, lạnh lùng cười thành tiếng. “Tranh đấu khốc liệt ư? Ta là người đã chết một lần rồi, còn sợ gì chuyện tranh đấu nữa. Cho dù có phải chết trong cung, chỉ cần có thể bảo vệ được những người mà ta muốn bảo vệ, ta chẳng sợ gì hết.” Thoáng dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Nối lại tình xưa chẳng qua là tính toán cơ bản nhất thôi, điểm mấu chốt là phải làm thế nào để không lộ dấu vết và không khiến y nghi ngờ.”
Sắc mặt Hoán Bích trắng bệch, đôi mắt thoáng lộ vẻ sắc bén, muội ấy cắn chặt môi, nói: “Hoán Bích kiếp này sẽ không thành thân với ai, tiểu thư đi, nô tỳ sẽ đi theo đó.”
Tôi không nói gì thêm, đón lấy bát cháo Cận Tịch vừa mang tới, chậm rãi xúc từng miếng lên ăn.
Cận Tịch lại bưng một bát thuốc an thần tới cho tôi uống, rồi khẽ nói: “Nương tử nên ngủ một giấc đi đã, đợi sau khi tỉnh lại hãy bày mưu tính kế cũng chưa muộn.”
Tôi nhắm mắt lại, chuẩn bị ngủ một giấc ngon lành. Sau giấc ngủ này, là tôi sẽ không còn được ngủ ngon thêm lần nào nữa.
Khi Ôn Thực Sơ tới, tôi đang ngồi trước bàn soi gương, cũng không nói gì nhiều với hắn, chỉ khẽ hỏi: “Nhìn muội bây giờ rất khó coi đúng không?”
Hắn có vẻ hơi ngạc nhiên, không biết tại sao vào lúc này rồi mà tôi vẫn còn tâm trạng để ý tới dung mạo của mình, thế nhưng vẫn điềm nhiên đáp: “Muội rất đẹp, chỉ là mấy ngày nay khí huyết không đủ nên sắc mặt mới ảm đạm như vậy.”
Tôi hờ hững nói: “Muội đang có thai, khí huyết không đủ sẽ không tốt với đứa bé, phiền huynh hãy kê một ít thuốc ích khí bổ huyết cho muội. Ngoài ra, huynh còn Thần Tiên Ngọc Nữ phấn trước đây không?”
Hắn lại càng ngạc nhiên. “Đang yên đang lành sao tự nhiên muội lại nghĩ tới Thần Tiên Ngọc Nữ phấn vậy?”
Hoán Bích đứng bên cạnh đáp thay tôi: “Tiểu thư đã quyết tâm sinh đứa bé này ra nhưng bây giờ trông tiểu thư tiều tụy như vậy, đứa bé sinh ra sao có thể xinh xắn, đáng yêu được chứ? Do đó mới phải uống thuốc ích khí bổ huyết để bồi bổ khí huyết, lại bôi thêm Thần Tiên Ngọc Nữ phấn cho dung nhan khôi phục lại.”
Ôn Thực Sơ lặng im một lát rồi mừng rỡ nói: “Muội chịu như vậy là tốt rồi. Muốn ích khí bổ huyết thì cứ dùng dược thiện là hữu hiệu nhất, ta sẽ chuẩn bị sẵn rồi mang tới cho Cận Tịch mỗi ngày.” Giọng nói của hắn vô cùng trầm ấm: “Mấy việc này cứ giao cho ta, muội chỉ cần an tâm tĩnh dưỡng là được!”
Tôi hờ hững nói: “Dược thiện ích khí bổ huyết phải là loại có công hiệu nhanh mới được, muội chẳng thích nhìn bộ dạng bệnh tật, ốm yếu này của mình chút nào.” Thấy Ôn Thực Sơ đã rời đi, tôi mới nói với Hoán Bích và Cận Tịch: “Tạm thời đừng để y biết vội.”
Hai người cùng đáp “vâng” một tiếng. Hoán Bích khẽ nói: “Ôn đại nhân mà biết tiểu thư có tính toán này, chỉ e sẽ nổi xung lên mà ngăn cản tiểu thư mất.”
Tôi khẽ gật đầu. “Cho y biết chỉ khiến y thêm phiền não mà thôi!”
Vì Cận Tịch nói hoa đào có thể làm mềm da mặt, khiến nhan sắc mỹ miều hơn, lúc này lại đang là mùa xuân trăm hoa đua nở, cây đào già ngoài sân cũng đang nở hoa rực rỡ, thế là mỗi ngày Cận Tịch và Hoán Bích đều hái rất nhiều hoa đào về giã nát, đắp mặt cho tôi. Ôn Thực Sơ thì dặn Cận Tịch hái hoa đào, hoa hạnh và hoa hòe về nấu cháo, lại ngày ngày hầm canh gà ác cho tôi ăn.
Huyền Lăng xưa nay luôn yêu mỹ sắc, đấy cũng là vốn liếng duy nhất mà tôi có thể dựa vào. Dù không cam tâm đến mấy, rốt cuộc tôi vẫn phải làm cái việc dùng nhan sắc để lấy lòng người khác này.
Cứ như vậy chừng hơn mười ngày, dù nơi đáy lòng vẫn ngợp nỗi tang thương nhưng dung mạo tôi đã phần nào hồi phục.
Tôi buồn bã nghĩ, thì ra trái tim và khuôn mặt của con người không giống nhau, khuôn mặt có thể khôi phục lại rất nhanh nhưng trái tim đã tổn thương thì không cách nào bù đắp được, bất kể thời gian có trôi qua bao lâu, vết thương ở đó vẫn sẽ không ngừng rỉ máu, không thuốc gì chữa nổi.
Hoán Bích thường xuyên bầu bạn bên tôi, thỉnh thoảng lại hơi ngẩn ngơ, khẽ hỏi: “Mới đó mà tiểu thư đã không còn thương tâm nữa rồi sao?”
Tôi buồn bã ngoảnh đầu nhìn qua. “Hoán Bích, ta bây giờ không có thời gian để thương tâm.” Tôi cúi đầu, vuốt ve bụng mình, lẩm bẩm cất tiếng: “Trước khi đứa bé này lộ rõ, ta nhất định phải xử lý xong xuôi mọi việc.”
Hoán Bích khẽ thở dài một tiếng, ủ rũ nói: “Nô tỳ hiểu.”
Ban đêm khi hầu hạ tôi tắm rửa, Cận Tịch dịu dàng khuyên: “Những lời của Hoán Bích cô nương hôm nay, nương tử chớ để vào lòng.”
Tôi nói: “Ta hiểu mà, nỗi thương tâm của muội ấy không kém gì ta.”
Cận Tịch khẽ thở dài một tiếng. “Nỗi thương tâm của nương tử đều được giấu nơi đáy lòng. Có lúc, nỗi thương tâm không thể nói ra còn khiến người ta cảm thấy đau khổ hơn nhiều.”
Tôi buồn bã cúi đầu. “Có lẽ Hoán Bích cảm thấy nỗi thương tâm của ta không nhiều bằng muội ấy, tình cảm mà ta dành cho Thanh cũng không nhiều bằng muội ấy.” Tôi gục đầu xuống bàn trang điểm, cất giọng yếu ớt: “Cận Tịch, có lúc ngay đến bản thân ta cũng cảm thấy như vậy.”
Cận Tịch nhẹ nhàng chải tóc cho tôi, nhỏ nhẹ nói: “Đúng là Hoán Bích cô nương rất thương tâm, nhưng đó chỉ là vì bản thân không thể gặp lại Vương gia nữa, còn nương tử, nương tử thương tâm đến nỗi ngay cả bản thân cũng có thể vứt bỏ.”
Màn đêm như dòng nước lạnh băng hắt thẳng lên mặt tôi, tôi gượng cười, nói: “Cận Tịch, ngươi trông đó, ta lại thương tâm rồi.” Tôi cố giữ cho lòng mình phẳng lặng, nói tiếp: “Bây giờ không phải là lúc ta được phép thương tâm. Hai chúng ta hãy cùng nhau nghĩ xem, trong cung bây giờ có ai có thể nói vài lời trước mặt Hoàng thượng đây nhỉ?”
Cận Tịch lẳng lặng suy nghĩ trong chốc lát, hai mắt chợt lóe lên những tia sáng rực, rồi nàng ta cất giọng kiên định, nói: “Hiện giờ người có thể nói được vài câu trước mặt Hoàng thượng chỉ có duy nhất Lý Trường thôi. Y từ nhỏ đã bầu bạn bên cạnh Hoàng thượng, hiểu rõ tính Hoàng thượng nhất. Bây giờ nương tử đang tìm cách hồi cung, nhất định phải có cơ hội giáp mặt Hoàng thượng mới được.”
Nghe thấy những lời này, đầu óc tôi lập tức như bừng sáng. “Ý của ngươi ta rõ rồi, ta muốn hồi cung thì không thể thiếu người đưa đường chỉ lối được. Ta vốn còn đang nghĩ xem có nên đi tìm Phương Nhược không cơ.”
Cận Tịch thoáng trầm ngâm rồi mới nói: “Không được, Phương Nhược hiện đang hầu hạ bên cạnh Thái hậu chứ không phải Hoàng thượng, thứ nhất là tin tức truyền đi không được mau chóng, thứ hai là không thể thường xuyên quan sát tâm ý của Hoàng thượng, rất dễ xảy ra sai sót.”
Dưới ánh nến đỏ, sắc mặt tôi trở nên hết sức nặng nề. “Phương Nhược không được, vậy chỉ có thể chọn Lý Trường thôi. Hồi ở trong cung, tuy ta đã từng cho Lý Trường không ít lợi lộc, nhưng bây giờ ta thất thế đến mức này, cơ hội hồi cung gần như bằng không, Lý Trường là người thông minh như thế, liệu có chịu ra tay giúp đỡ ta không?”
Cận Tịch tỏ ra hết sức bình tĩnh và tỉnh táo. “Cho dù Lý Trường không chịu giúp chúng ta, chúng ta cũng phải nghĩ cách để khiến y chịu giúp. Bởi không chỉ trong chuyện an bài cho nương tử và Hoàng thượng gặp mặt, sau này về cung rồi hầu như mọi chuyện chúng ta đều cần tới y cả.” Đã rất lâu rồi tôi không nhìn thấy Cận Tịch như vậy, thậm chí tôi còn cảm thấy, một Cận Tịch có thể bày mưu tính kế cho tôi trong mọi việc như hồi còn ở trong cung thế này mới là Cận Tịch mà tôi quen biết. Nàng ta nói tiếp: “Nếu Hoàng hậu biết nương tử có thể sẽ được hồi cung khi đã mang thai trong người thì ắt sẽ tìm cách ngăn cản, có lẽ còn giấu giếm tin tức nương tử mang thai. Nếu Thái hậu không biết nương tử có thai, thái độ trong việc nương tử hồi cung nhất định sẽ không rõ ràng. Mà cho dù Thái hậu có biết, rồi vì lòng quan tâm đến con cháu mà có ý muốn đón nương tử về cung, cũng rất có khả năng Hoàng hậu sẽ bày trò gì đó để khiến việc bị chậm lại hay thậm chí là chìm vào quên lãng. Mà mỹ nhân trong cung nhiều vô kể, nếu Hoàng thượng nhất thời bị ai đó làm cho mê đắm rồi quên mất nương tử, nô tỳ chỉ nói là nhất thời thôi, nhưng chỉ cần có cái sự nhất thời này, Hoàng hậu cũng sẽ có vô số cách để khiến đứa bé trong bụng nương tử ‘vô duyên vô cớ’ biến mất. Nếu chuyện đó xảy ra, nương tử đã trải qua nên hẳn biết rõ Hoàng thượng coi trọng bề con cái đến mức nào, một khi trong bụng không còn đứa bé, nương tử thực sự chẳng có chỗ chôn thây đâu.” Nói tới đấy, giọng nàng ta bất giác mang theo mấy phần quyết liệt: “Bây giờ nương tử đang ở ngoài cung, muốn khiến Hoàng thượng nghĩ tới việc đi gặp nương tử, rồi tương lai lúc nào cũng nhớ tới nương tử v đứa con trong bụng nương tử, muốn đón nương tử về cung, cách tốt nhất chính là nhờ một người nào đó ở bên cạnh Hoàng thượng thường xuyên nhắc nhở, theo như nô tỳ thấy, người đó… chỉ có thể là Lý Trường. Mà cách tốt nhất để mua chuộc Lý Trường kỳ thực không phải là dùng vàng bạc hay châu báu, cũng không phải là lấy lợi để dụ.”
Tôi loáng thoáng đoán ra được điều gì, trong lòng bất giác trào dâng một chút sợ hãi, vốn chỉ là một chút nhưng sau khi trên mặt Cận Tịch lộ ra nét cười thê lương và bất lực, sự sợ hãi trong tôi càng lúc càng rõ rệt hơn. Tôi nắm chặt bàn tay Cận Tịch, run giọng nói: “Cận Tịch, ngươi muốn làm gì…”
Bàn tay Cận Tịch lạnh vô cùng, tay tôi thì rất ấm nhưng lại không thể sưởi ấm cho bàn tay nàng ta được. Tôi mơ màng nhớ tới cây bút mà Thái hậu thường dùng để chép kinh Phật, phần cán bút dường như được làm bằng đá hoa cương, vừa cứng vừa bóng loáng, không ngừng tỏa ra những tia giá lạnh. Giữa mùa đông, chỉ cần cầm cây bút đó một lát thôi, lập tức sẽ phải áp tay vào lò sưởi để sưởi ấm. Cận Tịch hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười chua chát. “Thái giám vốn là những người thân thể có khiếm khuyết, không thể cưới vợ sinh con chính là nỗi đau lớn nhất cuộc đời, dù có bao nhiêu tiền tài cũng không thể nào bù đắp được. Do đó bọn họ thường lén thành đôi thành cặp với các cung nữ, gọi là ‘đối thực[1]’, coi như méo mó có hơn không, lấy đó để xoa dịu nỗi đau trong lòng.”
[1] Đối thực vốn mang nghĩa là góp gạo thổi cơm chung, về sau thường dùng chỉ việc cung nữ với cung nữ, hoặc cung nữ với thái giám, kết thành “vợ chồng” – ND.
Tôi bất giác rùng mình, cơ hồ không dám tin, mồ hôi lạnh nơi sống lưng không ngừng cuồn cuộn túa ra, đoạn lớn tiếng nói: “Cận Tịch, ta không cho phép ngươi vì ta mà làm chuyện như thế?”
Bóng dáng Cận Tịch lúc này trông mỏng manh vô cùng, nàng ta hờ hững nói: “Đấy là biện pháp tốt nhất. Nô tỳ tuy đã gần bốn mươi tuổi nhưng bộ dạng cũng không đến nỗi là già lắm. Loại thái giám đã có tuổi như Lý Trường không thích các cung nữ trẻ tuổi, hơn nữa nô tỳ và Lý Trường vốn là đồng hương, khi mới vào cung từng được y chiếu cố rất nhiều, sau bao năm quen biết, y chưa chắc đã không có ý, mà nô tỳ cũng bằng lòng thử xem sao.”
Tôi gần như không chút nghĩ ngợi, lập tức cự tuyệt: “Cận Tịch, ngươi đi theo ta đã phải chịu quá nhiều nỗi vất vả, bây giờ lại còn vì ta mà…” Tôi không thể nói tiếp nữa, cảm thấy khó lòng hé miệng, đành nói: “Đối thực là việc thường thấy trong cung, các cung nữ thái giám lén đi lại với nhau cũng không phải điều gì quá đáng. Chỉ là y dù sao cũng không phải nam nhân, ngươi…”
Cận Tịch nhẹ nhàng gạt tay tôi ra, sắc mặt đã trở lại bình tĩnh như thường, chậm rãi nói: “Nô tỳ đã suy nghĩ rất kĩ, nương tử có khuyên nhủ thêm nữa cũng vô ích thôi. Cận Tịch thân là nô tỳ, vốn là hạng người hèn mọn, không có tự do, lần này xin nương tử hãy cho nô tỳ một cơ hội được tự mình quyết định. Còn về chuyện sau này… không thử thì làm sao mà biết được. Lỡ như gặp may, nói không chừng Lý Trường lại là người mà nô tỳ có thể nương tựa cả đời.”
Ánh trăng xuyên qua lớp giấy dán cửa sổ mỏng manh chiếu lên người Cận Tịch, khuôn mặt nàng ta lúc này trắng đến nỗi gần như trong suốt, chẳng có chút huyết sắc nào. Nàng ta chậm rãi đứng dậy, nhẹ nhàng gạt đi chút bụi dính trên váy, xoay người cất bước ra ngoài.
Tôi kinh hãi thốt lên: “Cận Tịch, ngươi đi đâu vậy…”
Cận Tịch xoay người lại, khẽ mỉm cười. “Lý Trường có một trang viện nhỏ bên ngoài cung, nô tỳ biết nó nằm ở nơi nào, cũng tự tin là sẽ gặp được y.”
Tôi biết rõ nàng ta đi như thế có nghĩa là gì, bèn cố gắng khuyên nhủ: “Cận Tịch, ngươi thực sự không cần vì ta mà làm như vậy đâu. Chúng ta còn có cách khác, đúng không nào?”
Cận Tịch thản nhiên cười, nói: “Việc nương tử về cung vốn không có hại gì cho Lý Trường, mà nếu nương tử đắc sủng thì còn rất có lợi cho y nữa, lại cộng thêm nô tỳ, nương tử cứ việc yên tâm.” Nàng ta gạt bàn tay đang cố níu giữ của tôi ra, nhẹ nhàng cất tiếng: “Nương tử nói bản thân giờ chỉ còn một mình, không có thứ gì không thể vứt bỏ. Còn nô tỳ thì sớm đã chỉ có một mình rồi, càng không phải sợ gì nữa.”
Nàng ta không để ý đến tôi nữa, chậm rãi bước ra khỏi phòng. Vầng trăng trên cao nhợt nhạt như một khuôn mặt tròn xoe, tỏa xuống đất những tia sáng vô cùng ảm đạm. Bên ngoài căn phòng, rặng núi đằng xa như vô số yêu ma quỷ quái, khiến người ta càng sợ hãi.
Lần đầu tiên tôi phát hiện, thì ra phía sau khuôn mặt hòa nhã kia của Cận Tịch lại có một vẻ ưu sầu sâu sắc đến nhường này. Nàng ta chậm rãi rời đi, mỗi bước chân đều rất vững vàng, dưới ánh trăng ảm đạm, cái bóng của nàng ta chừng như được kéo dài đến vô tận, đồng thời in sâu vào lòng tôi.
Bình luận truyện