Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
Quyển 7 - Chương 1: Đêm đằng đẵng chầy canh điểm trống[1] (thượng)
[1]
Trích Trường hận ca, Bạch Cư Dị. Dịch thơ: Nguyễn Mỹ Tài. Nguyên văn Hán Việt:
Trì trì chung cổ sơ trường dạ - Người dịch (ND).
Trời dần về hoàng hôn, các cung nữ nối đuôi nhau đi vào thắp đèn, ánh đèn ấm áp cùng với tiếng đi lại loạt soạt mà các cung nữ phát ra vẫn không cách nào xua tan được bầu không khí nặng nề trong đại điện lúc này. Một lát sau, các cung nữ lại nhất loạt lui xuống. Huyền Lăng đưa tay chống cằm, tựa hờ vào chiếc ghế chạm khắc hình chín con rồng sau lưng, Hoàng hậu thì tỏ ra đoan trang rất mực, dưới ánh đèn chiếu tới lại càng toát lên vẻ nghiêm túc vô cùng. Đoan Phi dường như đã mệt, chỉ ngồi đó nhắm mắt trầm tư. Những người khác trong điện không ngừng đưa mắt nhìn nhau, thầm phán đoán tình hình hiện tại, nguyên một tòa cung điện rộng lớn mà lại chẳng có tiếng người, chỉ có tiếng đồng hồ nước “tí tách” vang lên không ngớt, để lại dư âm vất vưởng.
Trên đường tới đây, chắc Ôn Thực Sơ đã nghe phong phanh tin tức, khuôn mặt vốn hiền hòa nay có vẻ u ám vô cùng, song vẫn cung kính hành lễ. Hắn lén đưa mắt liếc qua phía tôi, tôi ngồi yên một chỗ, không hề động đậy.
Tường Tần tinh mắt, bèn cất giọng the thé nói: “Ôn thái y đúng là quan tâm đến Thục phi quá, vừa đi vào đã liếc nhìn xem thân thể Thục phi có được an lành không, chắc chỉ hận không thể lập tức đi tới bắt mạch bình an cho Thục phi ấy nhỉ!”
Ôn Thực Sơ coi như không nghe thấy, chỉ bình tĩnh nói: “Tường Tần tiểu chủ có vẻ dễ nóng nảy, giọng nói thì the thé, chắc là hư hỏa vượng quá rồi, đợi lát nữa vi thần sẽ nhờ Thái y viện đưa thuốc thanh hỏa tới, sau khi uống vào sẽ không còn bị thế này nữa đâu.”
Tôi thầm cảm thấy vui mừng vị sự thản nhiên và bình tĩnh ấy của hắn. Huyền Lăng khẽ hất hàm một cái, Lý Trường đi tới trước mặt Ôn Thực Sơ, nói một tiếng “đắc tội”, rồi bèn xắn cổ tay áo của hắn lên, không kìm được hít vào một hơi khí lạnh. Trên cổ tay áo của Ôn Thực Sơ quả nhiên có hình thêu năm chiếc lá trúc nhỏ như lời Phỉ Văn nói.
Huyền Lăng cất giọng hững hờ chẳng thể nghe ra mừng giận: “Hình thêu này trông cũng đặc biệt đấy, vẫn luôn ở đó sao?”
Ôn Thực Sơ không hiểu y có ý gì, đành đáp: “Mẫu thân của vi thần vốn thích cây trúc, do đó mỗi chiếc áo của vi thần, gia mẫu đều thêu mấy chiếc lá trúc nhỏ vào cổ tay áo, qua đó tỏ sự thương yêu.”
Ngay đến một chi tiết nhỏ như thế mà cũng hoàn toàn chính xác, mọi người bất giác lại càng tin thêm vài phần. Huyền Lăng “hừ” lạnh một tiếng, không nói gì thêm. Diệp Lan Y đứng bên cạnh Huyền Lăng chỉ lạnh lùng nhìn, ra vẻ hờ hững. Kính Phi lúc này chóp mũi đã lấm tấm mồ hôi, nhưng vẫn bình tĩnh nói: “Hoa văn trên cổ tay áo của Ôn thái y không phải mới gần đây mới có, nếu để ý từ trước thì muốn nhìn thấy chẳng hề khó khăn, nên tình tiết này thực không có gì đáng kể.”
Chu Tiệp dư vội vàng phụ họa theo: “Phải đấy, phải đấy, vừa rồi Ôn thái y cũng đã nói rồi mà, mỗi chiếc áo của y đều có hoa văn như vậy trên cổ tay áo.”
Kỳ Tần nhìn Chu Tiệp dư chăm chú, cất giọng âm u: “Vậy thì thực là lạ quá, một thái y nho nhỏ khi gặp Thục phi tất nhiên cần phải chú trọng lễ tiết, sao có thể xắn tay áo ngồi nói chuyện kiểu mặt đối mặt như ở nhà mình thế được. Nếu cứ tiếp tục thế này, về sau các thái y khi vào Nhu Nghi điện của Thục phi, người thì xắn tay áo, người thì cởi y phục, có việc gì mà không thể làm nữa đây?”
Ôn Thực Sơ càng nghe càng tức giận, nôn nóng nói: “Ngày đó Thục phi gọi vi thần đến là để hỏi về thai tượng của Thục viện, Thục phi và Thục viện trước giờ vẫn luôn giao hảo, nghe nói Thục viện thai tượng ổn định, không bao lâu nữa sẽ có thể bình an sinh nở, nên mới cao hứng ban trà cho vi thần. Vi thần khi uống trà quen xắn tay áo lên một chút, thành ra nhất thời quên mất lễ nghi.”
Kỳ Tần nhìn chằm chằm vào Ôn Thực Sơ bằng ánh mắt lạnh lùng, một lát sau mới chợt cười, nói: “Nếu không vì Thục phi coi trọng Ôn thái y, cớ sao ngoài ông ra lại không để bất kỳ người nào khác ở Thái y viện vào lòng, tại sao lại giao phó người tỷ muội thân thiết Thẩm Thục viện của nàng ta cho ông? Ta lúc trước chưa từng nghĩ tới điểm này, bây giờ xem ra tình cảm giữa Thục phi và Ôn thái y quả là không bình thường chút nào.”
Kỳ Tần vốn có sẵn sự chuẩn bị, mỗi một chiêu đều dồn dập không cho người ta có cơ hội thở lấy hơi, Ôn Thực Sơ nghe mà đỏ mặt tía tai, nói: “Tiểu chủ...” Dù sao cũng tôn ti khác biệt, Ôn Thực Sơ rốt cuộc đành nuốt lửa giận vào lòng, không để ý tới nàng ta nữa.
Nhưng Kỳ Tần lại không chịu bỏ qua, chỉ tay vào hắn, nói: “Có phải Ôn thái y chột dạ rồi không, bằng không sao lại đỏ mặt thế này?”
Huyền Lăng chậm rãi nhìn lướt qua mọi người một lượt, nhìn tới người nào là người đó vội vã cúi đầu. Y cất giọng uy nghiêm: “Trẫm chỉ muốn nghe chân tướng sự việc, nếu các ngươi còn ăn nói bốp chát như lũ đàn bà đanh đá nơi phố chợ nữa, chớ trách trẫm không nể tình!”
Y lúc này hẳn đã vô cùng giận dữ, vậy nhưng vẫn không đành lòng phát tác với tôi. Tôi bất giác thầm cảm kích, ngoảnh đầu qua lạnh lùng nhìn Phỉ Văn đang quỳ dưới đất, nói: “Phỉ Văn, ngươi tới cung của ta cũng được một thời gian rồi, thế mà bản cung lại không nhìn ra ngươi còn có bụng dạ như vậy đấy!”
Phỉ Văn không hề tỏ ra sợ hãi, thản nhiên ngẩng đầu, nói: “Nô tỳ không dám có bụng dạ gì cả! Nô tỳ hầu hạ nương nương, tất nhiên tâm tư phải đặt cả lên người nương nương rồi. Có điều bất kể là hầu hạ vị chủ tử nào, nô tỳ đều là người trong Tử Áo Thành, là người của Hoàng thượng. Xét cho cùng, nô tỳ chỉ có thể tận trung với một mình Hoàng thượng mà thôi. Nếu có chỗ nào đắc tội, mong nương nương lượng thứ.”
Thời gian vừa qua khi ở trước mặt tôi, thị vẫn luôn ra vẻ ngoan ngoãn nghe lời, tôi chưa từng để ý rằng thì ra thị cũng môi hồng răng trắng, rất có bộ dạng của một mỹ nhân. Có lẽ vì hôm nay diện thánh, do đó thị còn cố ý trang điểm kĩ càng một phen.
Vẻ mặt đó của thị khiến tôi lại càng thêm căm ghét. “Ngươi nói mình tận trung với Hoàng thượng tức là đắc tội với bản cung, vậy khác nào bảo bản cung là kẻ bất trung bất nghĩa?” Tôi đưa mắt nhìn qua phía Huyền Lăng. “Nếu Hoàng thượng còn tin tưởng vào sự trong sạch của thần thiếp, xin cho phép thần thiếp được hỏi Phỉ Văn mấy câu.”
Huyền Lăng chăm chú nhìn tôi một lát rồi mới khẽ gật đầu. “Nàng cứ hỏi đi.”
Tôi đi tới trước mặt Phỉ Văn. “Bản cung cho phép ngươi vào nội điện hầu hạ chỉ là chuyện từ một, hai tháng trước thôi đúng không?”
Phỉ Văn suy nghĩ một chút rồi đáp: “Cũng được một thời gian rồi.”
Tôi gật đầu. “Bản cung thấy ngươi có vẻ thông minh, lanh lợi, do đó mới cất nhắc ngươi như thế, hình như ngươi vào nội điện hầu hạ cũng được mấy lần rồi.”
“Tổng cộng là chừng năm, sáu lần.”
Tôi làm bộ thổn thức: “Phỉ Văn, bất kể chuyện hôm nay kết quả thế nào, sau này ngươi đều sẽ không thể trở về Nhu Nghi điện nữa, cũng không thể tiếp tục hầu hạ bản cung nữa rồi.”
Phỉ Văn khẽ nở nụ cười, dải tua ngọc đính dưới cây trâm bạc hình chim hỷ thước cài trên búi tóc đung đưa nhè nhẹ. “Chỉ cần còn ở trong cung, bất kể là hầu hạ vị chủ tử nào, nô tỳ cũng đều sẽ dốc hết sức mình, dù phải đi vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng không từ nan.”
Tôi gật đầu, nói: “Tốt xấu gì cũng từng là chủ tớ, hôm nay ngươi đứng ra vạch trần chuyện bí mật của bản cung, chắc cũng biết đây là lần cuối cùng hầu hạ bản cung rồi, việc trong phận sự của bản thân cần phải làm cho tốt mới được. Trước khi ngươi ra ngoài đã lau sạch bình hoa lưu ly đế hoa xanh trên chiếc bàn gỗ tử đàn ở chính điện chưa?”
Phỉ Văn không ngờ tôi lại hỏi như vậy, bất giác hơi ngẩn ra một chút, đáp: “Dạ, nô tỳ lau rồi.”
Cận Tịch bất giác vỗ tay một cái, thở dài than: “Cái đứa hồ đồ này, bình hoa lưu ly trên chiếc bàn gỗ tử đàn của nương nương đâu có đế hoa xanh, rõ ràng là đế mang hoa văn hình sóng biển.”
Phỉ Văn ra vẻ ngẩn ngơ, dường như đang cố hết sức suy nghĩ chuyện gì đó, một hồi lâu sau mới nói: “Vâng, chắc nô tỳ đã nhớ nhầm rồi, hình như đúng hoa văn hình sóng biển.”
Chu Tiệp dư không kìm được bật cười khúc khích một tiếng, che miệng nói: “Trí nhớ của Phỉ Văn hình như không được tốt lắm thì phải, thế mà lại nhớ được việc trên cổ tay áo của Ôn thái y có thêu hình mấy chiếc lá trúc, đúng là chẳng dễ dàng gì.”
Tới lúc này Phỉ Văn đã lộ rõ vẻ hoang mang. Tôi làm bộ giận dữ hỏi: “Phỉ Văn, ngươi cứ nghĩ kĩ lại xem, bình hoa lưu ly trên chiếc bàn gỗ tử đàn của bản cung rốt cuộc có đế hoa xanh hay là đế sóng biển?”
Huyền Lăng khẽ “ừm” một tiếng, bắt đầu cảm thấy nghi ngờ. Phỉ Văn đắn đo suy nghĩ, lại càng cảm thấy do dự hơn, một hồi lâu sau dường như đã hạ quyết tâm, nói: “Nô tỳ nhớ ra rồi, đúng là đế hoa xanh không sai.”
“Trên chiếc bàn gỗ tử đàn ở chính điện đó chỉ có một tấm gương thôi, chưa từng đặt bình hoa lưu ly nào cả. Ngươi là tiểu cung nữ mà bản cung ngầm xem trọng, cho phép vào nội điện hầu hạ, thế mà ngươi lại chẳng dụng tâm vào việc trong phận sự, ngày ngày đi để ý xem bàn tay của vị thái y nào đặt lên tay bản cung, trên cổ tay áo có hình thêu như thế nào. Người khác nếu thật sự bắt gặp tình cảnh như thế chỉ e sớm đã sợ hãi đến nỗi chẳng dám nhìn, cớ gì mà ngươi ngay đến một chi tiết nhỏ cũng nhớ rõ được như thế? Tâm tư của ngươi thực sự quá đáng ngờ!”
Tôi đột nhiên nói ra những lời dữ dằn như thế khiến Phỉ Văn lại càng thêm hoang mang, sau khi ngẩn ra một hồi lâu, thị chợt bật khóc nức nở, nghẹn ngào nói: “Nô tỳ chẳng qua chỉ bẩm báo theo đúng sự thực thôi, tại sao nương nương lại hung dữ như vậy chứ? Nô tỳ vốn ngu đần, ngốc nghếch, trong lòng bây giờ chỉ còn có duy nhất một việc lớn này thôi, đâu còn tâm tư mà để ý tới những điều khác nữa.”
Dư Dung Nương tử chợt cười “phì” một tiếng, chiếc nhẫn ngọc lưu ly đeo trên ngón tay trắng nõn tỏa ra những tia sáng rực rỡ, khiến dung nhan của nàng ta trông lại càng thêm diễm lệ. Hơi dừng một chút, nàng ta cười tủm tỉm, nói: “Từ lâu đã nghe nói Thục phi xử lý mọi việc đều ổn thỏa, trên dưới không ai là không phục, hôm nay mới biết quả đúng là trăm nghe không bằng một thấy, chắc hẳn thường ngày nương nương còn rất nhiều chỗ không được lòng người. Kỳ Tần thì chưa xét tới, nhưng Phỉ Văn còn là người trong cung của nương nương nữa đấy. Thần thiếp trộm nghĩ, bất kể Phỉ Văn có tâm tư thế nào, có thể kể lại sự việc một cách chi tiết và sống động như vậy, chắc hẳn không phải là giả đâu.”
Phỉ Văn vội vàng gật đầu lia lịa, miệng thì nói: “Nô tỳ quả thực không dám nói dối.”
Kính Phi hơi nhướng mày lên. “Dư Dung Nương tử nói vậy cũng không phải là không có lý, song ân oán giữa Kỳ Tần và Thục phi đã có từ lâu, Kỳ Tần cũng không phải mới lần đầu bất kính với Thục phi, việc này chúng ta đều biết cả. Còn Phỉ Văn ư? Thục phi tuy xem trọng thị nhưng cũng không phải là để thị ở trong nội điện hầu hạ thường xuyên, mấu chốt trong việc này...”
Kính Phi thoáng lộ vẻ trù trừ, khẽ lắc đầu mấy cái. Đoan Phi từ đầu tới giờ gần như không nói năng gì chậm rãi mở mắt ra, bình tĩnh nói: “Nếu thật sự đúng như lời Kính Phi nói, Phỉ Văn không thường xuyên vào nội điện hầu hạ, vậy cho dù Ôn thái y và Thục phi thật sự có tư tình thì cũng sẽ không hẹn hò trước mặt một người ở ngoại điện, việc như thế dù sao cũng phải đề phòng người ta, ấy thế mà thị lần nào cũng trùng hợp bắt gặp, lại còn nhìn thấy được rõ ràng như thế nữa. Chẳng lẽ thật sự là trời cao trao cho thị trách nhiệm lớn, muốn thị vạch trần chuyện xấu xa này? Hay là nha đầu này quá thông minh cơ trí, lúc nào cũng để ý kĩ càng từng hành vi, cử chỉ của chủ nhân?”
Kính Phi hít vào một hơi khí lạnh, chiếc hộ giáp đính ngọc bích gõ vào chiếc bàn gỗ sưa làm phát ra những tiếng “cộc cộc” nhè nhẹ. “Úi chao, lén lút theo dõi chủ nhân như thế không phải là tội danh nhỏ đâu. Có điều tại sao nha đầu này lại phải lén lút theo dõi Thục phi như thế chứ? Thị chỉ là một cung nữ nho nhỏ mà lại có chủ kiến riêng cùng lá gan lớn như vậy, lẽ nào thật sự có người đứng sau xúi bẩy?” Nói rồi nàng ta liền quỳ xuống, cất lời thỉnh cầu: “Việc này rất đáng ngờ, xin Hoàng thượng hãy điều tra cho kĩ. Nếu thật sự có người xúi bẩy, vậy lời của Phỉ Văn không thể tin tưởng hoàn toàn, chỉ e trong việc này có ẩn chứa một âm mưu rất lớn.”
Chu Bội Tiệp dư cũng quỳ xuống theo, níu tà áo Huyền Lăng, nói: “Thần thiếp hãy còn một điều nghi hoặc này. Kỳ Tần vốn trú tại Giao Lô quán, còn Phỉ Văn thì là thị tỳ ở Vị Ương cung. Trong cung ai ai cũng biết Kỳ Tần có thù oán với Thục phi, hai bên bất hòa, tại sao cung nữ của Vị Ương cung lại cùng Kỳ Tần chạy tới trước mặt Hoàng thượng vạch trần chuyện này chứ? Cớ gì không nói với Hoàng hậu trước?”
Dư Dung Nương tử nói: “Ai mà không biết thân thể Hoàng hậu vừa mới khỏe lại, nhất thời không có sức để ý tới quá nhiều chuyện. Nhỡ điều mà Phỉ Văn lo lắng thật sự xảy ra, một hôm nào đó Thục phi đột nhiên ra tay diệt khẩu, Hoàng hậu thì không phát hiện, vậy há chẳng phải là việc dâm loạn đáng khinh này sẽ bị ỉm đi, rồi bọn họ lại tiếp tục làm bừa làm bậy với nhau ư?”
Khang Quý nhân vốn không thích Dư Dung Nương tử xuất thân thấp kém mà đắc sủng, bèn niệm một tiếng “A Di Đà Phật” rồi nói: “Ta nghe nói người ăn chay niệm Phật lòng dạ đều rất tốt, đến con kiến cũng không nỡ giẫm chết. Nương nương từng tu hành trong chùa Cam Lộ, cầu phúc cho xã tắc, sao có thể làm ra những chuyện dâm loạn như thế được.” Khang Quý nhân từng ở cùng với tôi, ít nhiều cũng còn niệm chút tình cũ, thêm vào đó sau khi tôi được phong làm thục phi, nàng ta cũng qua lại hết sức ân cần. Chỉ là Huyền Lăng xưa nay không cho phép các phi tần tự tiện nhắc lại việc tôi xuất cung năm đó, thành ra những lời này của nàng ta nghe có hơi kỳ quặc.
An Lăng Dung cũng cất tiếng: “Phải đó, tỷ tỷ từng xuất cung lễ Phật mấy năm, tất nhiên lòng dạ lại càng thêm nhân hậu, hơn nữa còn có mối duyên sâu với Hoàng thượng, được Bồ Tát phù hộ cho có thai, thực là phúc trạch sâu dày.” Đoạn nàng ta ngoảnh đầu qua nhìn tôi. “Tỷ tỷ nói xem có đúng thế không?”
Kỳ Tần nghe thế thì hai mắt đột nhiên lóe sáng, nhìn chằm chằm vào tôi suốt một hồi lâu. Rồi nàng ta chậm rãi đứng dậy, chắc hẳn là vì đã quỳ quá lâu, khi đi lại có hơi loạng choạng, cứ thế bước thẳng tới trước mặt tôi, trầm giọng nói: “Cửa Phật là nơi thanh tịnh, vốn là nơi để người ta tĩnh tâm tu hành, thế mà Chân thị tính tình dâm tiện, không ngờ lại từng làm ra việc dâm loạn trong chùa Cam Lộ.” Giọng nàng ta nghe vừa dồn dập vừa trầm thấp, quỷ dị vô cùng, giống như một con dã thú chuẩn bị đã lâu lúc này sẵn sàng tung ra một đòn chí mạng.
Tôi nghe thấy ba chữ “chùa Cam Lộ” thì cảm thấy như bị sấm sét đánh xuống đầu, mồ hôi lạnh không ngớt tuôn ra, không kìm được lùi về phía sau một bước, trong tai hãy còn vang lên những tiếng ong ong, hai bàn tay nắm chặt.
Cận Tịch đỡ lấy tôi từ sau lưng, quát lớn: “Chùa Cam Lộ là thánh tự của triều Đại Chu ta, tiểu chủ ngậm máu phun người như thế, không sợ bị Bồ Tát trách phạt ư?” Nói rồi bèn ngầm dùng sức nắm chặt lấy bàn tay tôi, dường như muốn truyền sức mạnh của bản thân qua người tôi vậy.
Kỳ Tần dường như rất hài lòng với vẻ kinh hãi của tôi, đẩy bàn tay của ả thị nữ đang đỡ nàng ta ra, đi tới bên ghế của Huyền Lăng, níu lấy tà áo bào của y, cất giọng khẩn cầu: “Sau khi Thục phi bị đuổi khỏi cung, Ôn Thực Sơ từng rất nhiều lần tới chùa Cam Lộ, cô nam quả nữ thường xuyên ở chung một phòng suốt một hồi lâu. Hoàng thượng nếu không tin có thể truyền ni cô của chùa Cam Lộ tới đây hỏi thử.” Hơi dừng một chút, nàng ta đưa mắt nhìn qua phía Hoàng hậu. “Lúc này người đã ở trong Giao Lô quán của tần thiếp rồi.”
Hoàng hậu nhìn Huyền Lăng, nói: “Rốt cuộc có truyền hay không, mời Hoàng thượng làm chủ!”
Huyền Lăng chăm chú nhìn khuôn mặt đã hơi tái đi của Ôn Thực Sơ, hỏi: “Ôn thái y có ý kiến gì không?”
Hắn cung tay, nói: “Vi thần không thẹn với lòng, mọi việc đều xin nghe Hoàng thượng.”
Huyền Lăng lại nhìn qua phía tôi, trong vẻ xót thương không giấu được nét nghi hoặc. Tôi sao không biết y là loại người đa nghi, bèn khom lưng, nói: “Hoàng thượng có thể truyền người đó tới đây hỏi thử xem, không phải để chứng minh sự trong sạch của thần thiếp, mà là để giải mối hoài nghi trong lòng Hoàng thượng.” Hơi dừng lại một chút, tôi nói tiếp bằng giọng thương cảm: “Bằng không, sau này Hoàng thượng và thần thiếp ở bên nhau, giữa quân thần phu thê mà nảy sinh khúc mắc, đối với ai cũng đều không tốt.”
Huyền Lăng lộ vẻ khó xử, nếu truyền, vậy tức là không tin tưởng tôi; nếu không truyền, sự hoài nghi trong lòng khó mà xua đi được. Hồ Uẩn Dung cất tiếng khuyên nhủ: “Hoàng thượng cứ nên truyền đi, dù sao hôm nay Kỳ Tần cũng đã nói ra nhiều việc như thế rồi, nếu không truyền nhân chứng tới thì làm sao cam tâm được, chưa biết chừng sau này lại gây ra chuyện gì nữa ấy chứ.”
Huyền Lăng trầm ngâm một chút, cuối cùng lạnh lùng nói: “Truyền!”
Trời dần về hoàng hôn, các cung nữ nối đuôi nhau đi vào thắp đèn, ánh đèn ấm áp cùng với tiếng đi lại loạt soạt mà các cung nữ phát ra vẫn không cách nào xua tan được bầu không khí nặng nề trong đại điện lúc này. Một lát sau, các cung nữ lại nhất loạt lui xuống. Huyền Lăng đưa tay chống cằm, tựa hờ vào chiếc ghế chạm khắc hình chín con rồng sau lưng, Hoàng hậu thì tỏ ra đoan trang rất mực, dưới ánh đèn chiếu tới lại càng toát lên vẻ nghiêm túc vô cùng. Đoan Phi dường như đã mệt, chỉ ngồi đó nhắm mắt trầm tư. Những người khác trong điện không ngừng đưa mắt nhìn nhau, thầm phán đoán tình hình hiện tại, nguyên một tòa cung điện rộng lớn mà lại chẳng có tiếng người, chỉ có tiếng đồng hồ nước “tí tách” vang lên không ngớt, để lại dư âm vất vưởng.
Trên đường tới đây, chắc Ôn Thực Sơ đã nghe phong phanh tin tức, khuôn mặt vốn hiền hòa nay có vẻ u ám vô cùng, song vẫn cung kính hành lễ. Hắn lén đưa mắt liếc qua phía tôi, tôi ngồi yên một chỗ, không hề động đậy.
Tường Tần tinh mắt, bèn cất giọng the thé nói: “Ôn thái y đúng là quan tâm đến Thục phi quá, vừa đi vào đã liếc nhìn xem thân thể Thục phi có được an lành không, chắc chỉ hận không thể lập tức đi tới bắt mạch bình an cho Thục phi ấy nhỉ!”
Ôn Thực Sơ coi như không nghe thấy, chỉ bình tĩnh nói: “Tường Tần tiểu chủ có vẻ dễ nóng nảy, giọng nói thì the thé, chắc là hư hỏa vượng quá rồi, đợi lát nữa vi thần sẽ nhờ Thái y viện đưa thuốc thanh hỏa tới, sau khi uống vào sẽ không còn bị thế này nữa đâu.”
Tôi thầm cảm thấy vui mừng vị sự thản nhiên và bình tĩnh ấy của hắn. Huyền Lăng khẽ hất hàm một cái, Lý Trường đi tới trước mặt Ôn Thực Sơ, nói một tiếng “đắc tội”, rồi bèn xắn cổ tay áo của hắn lên, không kìm được hít vào một hơi khí lạnh. Trên cổ tay áo của Ôn Thực Sơ quả nhiên có hình thêu năm chiếc lá trúc nhỏ như lời Phỉ Văn nói.
Huyền Lăng cất giọng hững hờ chẳng thể nghe ra mừng giận: “Hình thêu này trông cũng đặc biệt đấy, vẫn luôn ở đó sao?”
Ôn Thực Sơ không hiểu y có ý gì, đành đáp: “Mẫu thân của vi thần vốn thích cây trúc, do đó mỗi chiếc áo của vi thần, gia mẫu đều thêu mấy chiếc lá trúc nhỏ vào cổ tay áo, qua đó tỏ sự thương yêu.”
Ngay đến một chi tiết nhỏ như thế mà cũng hoàn toàn chính xác, mọi người bất giác lại càng tin thêm vài phần. Huyền Lăng “hừ” lạnh một tiếng, không nói gì thêm. Diệp Lan Y đứng bên cạnh Huyền Lăng chỉ lạnh lùng nhìn, ra vẻ hờ hững. Kính Phi lúc này chóp mũi đã lấm tấm mồ hôi, nhưng vẫn bình tĩnh nói: “Hoa văn trên cổ tay áo của Ôn thái y không phải mới gần đây mới có, nếu để ý từ trước thì muốn nhìn thấy chẳng hề khó khăn, nên tình tiết này thực không có gì đáng kể.”
Chu Tiệp dư vội vàng phụ họa theo: “Phải đấy, phải đấy, vừa rồi Ôn thái y cũng đã nói rồi mà, mỗi chiếc áo của y đều có hoa văn như vậy trên cổ tay áo.”
Kỳ Tần nhìn Chu Tiệp dư chăm chú, cất giọng âm u: “Vậy thì thực là lạ quá, một thái y nho nhỏ khi gặp Thục phi tất nhiên cần phải chú trọng lễ tiết, sao có thể xắn tay áo ngồi nói chuyện kiểu mặt đối mặt như ở nhà mình thế được. Nếu cứ tiếp tục thế này, về sau các thái y khi vào Nhu Nghi điện của Thục phi, người thì xắn tay áo, người thì cởi y phục, có việc gì mà không thể làm nữa đây?”
Ôn Thực Sơ càng nghe càng tức giận, nôn nóng nói: “Ngày đó Thục phi gọi vi thần đến là để hỏi về thai tượng của Thục viện, Thục phi và Thục viện trước giờ vẫn luôn giao hảo, nghe nói Thục viện thai tượng ổn định, không bao lâu nữa sẽ có thể bình an sinh nở, nên mới cao hứng ban trà cho vi thần. Vi thần khi uống trà quen xắn tay áo lên một chút, thành ra nhất thời quên mất lễ nghi.”
Kỳ Tần nhìn chằm chằm vào Ôn Thực Sơ bằng ánh mắt lạnh lùng, một lát sau mới chợt cười, nói: “Nếu không vì Thục phi coi trọng Ôn thái y, cớ sao ngoài ông ra lại không để bất kỳ người nào khác ở Thái y viện vào lòng, tại sao lại giao phó người tỷ muội thân thiết Thẩm Thục viện của nàng ta cho ông? Ta lúc trước chưa từng nghĩ tới điểm này, bây giờ xem ra tình cảm giữa Thục phi và Ôn thái y quả là không bình thường chút nào.”
Kỳ Tần vốn có sẵn sự chuẩn bị, mỗi một chiêu đều dồn dập không cho người ta có cơ hội thở lấy hơi, Ôn Thực Sơ nghe mà đỏ mặt tía tai, nói: “Tiểu chủ...” Dù sao cũng tôn ti khác biệt, Ôn Thực Sơ rốt cuộc đành nuốt lửa giận vào lòng, không để ý tới nàng ta nữa.
Nhưng Kỳ Tần lại không chịu bỏ qua, chỉ tay vào hắn, nói: “Có phải Ôn thái y chột dạ rồi không, bằng không sao lại đỏ mặt thế này?”
Huyền Lăng chậm rãi nhìn lướt qua mọi người một lượt, nhìn tới người nào là người đó vội vã cúi đầu. Y cất giọng uy nghiêm: “Trẫm chỉ muốn nghe chân tướng sự việc, nếu các ngươi còn ăn nói bốp chát như lũ đàn bà đanh đá nơi phố chợ nữa, chớ trách trẫm không nể tình!”
Y lúc này hẳn đã vô cùng giận dữ, vậy nhưng vẫn không đành lòng phát tác với tôi. Tôi bất giác thầm cảm kích, ngoảnh đầu qua lạnh lùng nhìn Phỉ Văn đang quỳ dưới đất, nói: “Phỉ Văn, ngươi tới cung của ta cũng được một thời gian rồi, thế mà bản cung lại không nhìn ra ngươi còn có bụng dạ như vậy đấy!”
Phỉ Văn không hề tỏ ra sợ hãi, thản nhiên ngẩng đầu, nói: “Nô tỳ không dám có bụng dạ gì cả! Nô tỳ hầu hạ nương nương, tất nhiên tâm tư phải đặt cả lên người nương nương rồi. Có điều bất kể là hầu hạ vị chủ tử nào, nô tỳ đều là người trong Tử Áo Thành, là người của Hoàng thượng. Xét cho cùng, nô tỳ chỉ có thể tận trung với một mình Hoàng thượng mà thôi. Nếu có chỗ nào đắc tội, mong nương nương lượng thứ.”
Thời gian vừa qua khi ở trước mặt tôi, thị vẫn luôn ra vẻ ngoan ngoãn nghe lời, tôi chưa từng để ý rằng thì ra thị cũng môi hồng răng trắng, rất có bộ dạng của một mỹ nhân. Có lẽ vì hôm nay diện thánh, do đó thị còn cố ý trang điểm kĩ càng một phen.
Vẻ mặt đó của thị khiến tôi lại càng thêm căm ghét. “Ngươi nói mình tận trung với Hoàng thượng tức là đắc tội với bản cung, vậy khác nào bảo bản cung là kẻ bất trung bất nghĩa?” Tôi đưa mắt nhìn qua phía Huyền Lăng. “Nếu Hoàng thượng còn tin tưởng vào sự trong sạch của thần thiếp, xin cho phép thần thiếp được hỏi Phỉ Văn mấy câu.”
Huyền Lăng chăm chú nhìn tôi một lát rồi mới khẽ gật đầu. “Nàng cứ hỏi đi.”
Tôi đi tới trước mặt Phỉ Văn. “Bản cung cho phép ngươi vào nội điện hầu hạ chỉ là chuyện từ một, hai tháng trước thôi đúng không?”
Phỉ Văn suy nghĩ một chút rồi đáp: “Cũng được một thời gian rồi.”
Tôi gật đầu. “Bản cung thấy ngươi có vẻ thông minh, lanh lợi, do đó mới cất nhắc ngươi như thế, hình như ngươi vào nội điện hầu hạ cũng được mấy lần rồi.”
“Tổng cộng là chừng năm, sáu lần.”
Tôi làm bộ thổn thức: “Phỉ Văn, bất kể chuyện hôm nay kết quả thế nào, sau này ngươi đều sẽ không thể trở về Nhu Nghi điện nữa, cũng không thể tiếp tục hầu hạ bản cung nữa rồi.”
Phỉ Văn khẽ nở nụ cười, dải tua ngọc đính dưới cây trâm bạc hình chim hỷ thước cài trên búi tóc đung đưa nhè nhẹ. “Chỉ cần còn ở trong cung, bất kể là hầu hạ vị chủ tử nào, nô tỳ cũng đều sẽ dốc hết sức mình, dù phải đi vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng không từ nan.”
Tôi gật đầu, nói: “Tốt xấu gì cũng từng là chủ tớ, hôm nay ngươi đứng ra vạch trần chuyện bí mật của bản cung, chắc cũng biết đây là lần cuối cùng hầu hạ bản cung rồi, việc trong phận sự của bản thân cần phải làm cho tốt mới được. Trước khi ngươi ra ngoài đã lau sạch bình hoa lưu ly đế hoa xanh trên chiếc bàn gỗ tử đàn ở chính điện chưa?”
Phỉ Văn không ngờ tôi lại hỏi như vậy, bất giác hơi ngẩn ra một chút, đáp: “Dạ, nô tỳ lau rồi.”
Cận Tịch bất giác vỗ tay một cái, thở dài than: “Cái đứa hồ đồ này, bình hoa lưu ly trên chiếc bàn gỗ tử đàn của nương nương đâu có đế hoa xanh, rõ ràng là đế mang hoa văn hình sóng biển.”
Phỉ Văn ra vẻ ngẩn ngơ, dường như đang cố hết sức suy nghĩ chuyện gì đó, một hồi lâu sau mới nói: “Vâng, chắc nô tỳ đã nhớ nhầm rồi, hình như đúng hoa văn hình sóng biển.”
Chu Tiệp dư không kìm được bật cười khúc khích một tiếng, che miệng nói: “Trí nhớ của Phỉ Văn hình như không được tốt lắm thì phải, thế mà lại nhớ được việc trên cổ tay áo của Ôn thái y có thêu hình mấy chiếc lá trúc, đúng là chẳng dễ dàng gì.”
Tới lúc này Phỉ Văn đã lộ rõ vẻ hoang mang. Tôi làm bộ giận dữ hỏi: “Phỉ Văn, ngươi cứ nghĩ kĩ lại xem, bình hoa lưu ly trên chiếc bàn gỗ tử đàn của bản cung rốt cuộc có đế hoa xanh hay là đế sóng biển?”
Huyền Lăng khẽ “ừm” một tiếng, bắt đầu cảm thấy nghi ngờ. Phỉ Văn đắn đo suy nghĩ, lại càng cảm thấy do dự hơn, một hồi lâu sau dường như đã hạ quyết tâm, nói: “Nô tỳ nhớ ra rồi, đúng là đế hoa xanh không sai.”
“Trên chiếc bàn gỗ tử đàn ở chính điện đó chỉ có một tấm gương thôi, chưa từng đặt bình hoa lưu ly nào cả. Ngươi là tiểu cung nữ mà bản cung ngầm xem trọng, cho phép vào nội điện hầu hạ, thế mà ngươi lại chẳng dụng tâm vào việc trong phận sự, ngày ngày đi để ý xem bàn tay của vị thái y nào đặt lên tay bản cung, trên cổ tay áo có hình thêu như thế nào. Người khác nếu thật sự bắt gặp tình cảnh như thế chỉ e sớm đã sợ hãi đến nỗi chẳng dám nhìn, cớ gì mà ngươi ngay đến một chi tiết nhỏ cũng nhớ rõ được như thế? Tâm tư của ngươi thực sự quá đáng ngờ!”
Tôi đột nhiên nói ra những lời dữ dằn như thế khiến Phỉ Văn lại càng thêm hoang mang, sau khi ngẩn ra một hồi lâu, thị chợt bật khóc nức nở, nghẹn ngào nói: “Nô tỳ chẳng qua chỉ bẩm báo theo đúng sự thực thôi, tại sao nương nương lại hung dữ như vậy chứ? Nô tỳ vốn ngu đần, ngốc nghếch, trong lòng bây giờ chỉ còn có duy nhất một việc lớn này thôi, đâu còn tâm tư mà để ý tới những điều khác nữa.”
Dư Dung Nương tử chợt cười “phì” một tiếng, chiếc nhẫn ngọc lưu ly đeo trên ngón tay trắng nõn tỏa ra những tia sáng rực rỡ, khiến dung nhan của nàng ta trông lại càng thêm diễm lệ. Hơi dừng một chút, nàng ta cười tủm tỉm, nói: “Từ lâu đã nghe nói Thục phi xử lý mọi việc đều ổn thỏa, trên dưới không ai là không phục, hôm nay mới biết quả đúng là trăm nghe không bằng một thấy, chắc hẳn thường ngày nương nương còn rất nhiều chỗ không được lòng người. Kỳ Tần thì chưa xét tới, nhưng Phỉ Văn còn là người trong cung của nương nương nữa đấy. Thần thiếp trộm nghĩ, bất kể Phỉ Văn có tâm tư thế nào, có thể kể lại sự việc một cách chi tiết và sống động như vậy, chắc hẳn không phải là giả đâu.”
Phỉ Văn vội vàng gật đầu lia lịa, miệng thì nói: “Nô tỳ quả thực không dám nói dối.”
Kính Phi hơi nhướng mày lên. “Dư Dung Nương tử nói vậy cũng không phải là không có lý, song ân oán giữa Kỳ Tần và Thục phi đã có từ lâu, Kỳ Tần cũng không phải mới lần đầu bất kính với Thục phi, việc này chúng ta đều biết cả. Còn Phỉ Văn ư? Thục phi tuy xem trọng thị nhưng cũng không phải là để thị ở trong nội điện hầu hạ thường xuyên, mấu chốt trong việc này...”
Kính Phi thoáng lộ vẻ trù trừ, khẽ lắc đầu mấy cái. Đoan Phi từ đầu tới giờ gần như không nói năng gì chậm rãi mở mắt ra, bình tĩnh nói: “Nếu thật sự đúng như lời Kính Phi nói, Phỉ Văn không thường xuyên vào nội điện hầu hạ, vậy cho dù Ôn thái y và Thục phi thật sự có tư tình thì cũng sẽ không hẹn hò trước mặt một người ở ngoại điện, việc như thế dù sao cũng phải đề phòng người ta, ấy thế mà thị lần nào cũng trùng hợp bắt gặp, lại còn nhìn thấy được rõ ràng như thế nữa. Chẳng lẽ thật sự là trời cao trao cho thị trách nhiệm lớn, muốn thị vạch trần chuyện xấu xa này? Hay là nha đầu này quá thông minh cơ trí, lúc nào cũng để ý kĩ càng từng hành vi, cử chỉ của chủ nhân?”
Kính Phi hít vào một hơi khí lạnh, chiếc hộ giáp đính ngọc bích gõ vào chiếc bàn gỗ sưa làm phát ra những tiếng “cộc cộc” nhè nhẹ. “Úi chao, lén lút theo dõi chủ nhân như thế không phải là tội danh nhỏ đâu. Có điều tại sao nha đầu này lại phải lén lút theo dõi Thục phi như thế chứ? Thị chỉ là một cung nữ nho nhỏ mà lại có chủ kiến riêng cùng lá gan lớn như vậy, lẽ nào thật sự có người đứng sau xúi bẩy?” Nói rồi nàng ta liền quỳ xuống, cất lời thỉnh cầu: “Việc này rất đáng ngờ, xin Hoàng thượng hãy điều tra cho kĩ. Nếu thật sự có người xúi bẩy, vậy lời của Phỉ Văn không thể tin tưởng hoàn toàn, chỉ e trong việc này có ẩn chứa một âm mưu rất lớn.”
Chu Bội Tiệp dư cũng quỳ xuống theo, níu tà áo Huyền Lăng, nói: “Thần thiếp hãy còn một điều nghi hoặc này. Kỳ Tần vốn trú tại Giao Lô quán, còn Phỉ Văn thì là thị tỳ ở Vị Ương cung. Trong cung ai ai cũng biết Kỳ Tần có thù oán với Thục phi, hai bên bất hòa, tại sao cung nữ của Vị Ương cung lại cùng Kỳ Tần chạy tới trước mặt Hoàng thượng vạch trần chuyện này chứ? Cớ gì không nói với Hoàng hậu trước?”
Dư Dung Nương tử nói: “Ai mà không biết thân thể Hoàng hậu vừa mới khỏe lại, nhất thời không có sức để ý tới quá nhiều chuyện. Nhỡ điều mà Phỉ Văn lo lắng thật sự xảy ra, một hôm nào đó Thục phi đột nhiên ra tay diệt khẩu, Hoàng hậu thì không phát hiện, vậy há chẳng phải là việc dâm loạn đáng khinh này sẽ bị ỉm đi, rồi bọn họ lại tiếp tục làm bừa làm bậy với nhau ư?”
Khang Quý nhân vốn không thích Dư Dung Nương tử xuất thân thấp kém mà đắc sủng, bèn niệm một tiếng “A Di Đà Phật” rồi nói: “Ta nghe nói người ăn chay niệm Phật lòng dạ đều rất tốt, đến con kiến cũng không nỡ giẫm chết. Nương nương từng tu hành trong chùa Cam Lộ, cầu phúc cho xã tắc, sao có thể làm ra những chuyện dâm loạn như thế được.” Khang Quý nhân từng ở cùng với tôi, ít nhiều cũng còn niệm chút tình cũ, thêm vào đó sau khi tôi được phong làm thục phi, nàng ta cũng qua lại hết sức ân cần. Chỉ là Huyền Lăng xưa nay không cho phép các phi tần tự tiện nhắc lại việc tôi xuất cung năm đó, thành ra những lời này của nàng ta nghe có hơi kỳ quặc.
An Lăng Dung cũng cất tiếng: “Phải đó, tỷ tỷ từng xuất cung lễ Phật mấy năm, tất nhiên lòng dạ lại càng thêm nhân hậu, hơn nữa còn có mối duyên sâu với Hoàng thượng, được Bồ Tát phù hộ cho có thai, thực là phúc trạch sâu dày.” Đoạn nàng ta ngoảnh đầu qua nhìn tôi. “Tỷ tỷ nói xem có đúng thế không?”
Kỳ Tần nghe thế thì hai mắt đột nhiên lóe sáng, nhìn chằm chằm vào tôi suốt một hồi lâu. Rồi nàng ta chậm rãi đứng dậy, chắc hẳn là vì đã quỳ quá lâu, khi đi lại có hơi loạng choạng, cứ thế bước thẳng tới trước mặt tôi, trầm giọng nói: “Cửa Phật là nơi thanh tịnh, vốn là nơi để người ta tĩnh tâm tu hành, thế mà Chân thị tính tình dâm tiện, không ngờ lại từng làm ra việc dâm loạn trong chùa Cam Lộ.” Giọng nàng ta nghe vừa dồn dập vừa trầm thấp, quỷ dị vô cùng, giống như một con dã thú chuẩn bị đã lâu lúc này sẵn sàng tung ra một đòn chí mạng.
Tôi nghe thấy ba chữ “chùa Cam Lộ” thì cảm thấy như bị sấm sét đánh xuống đầu, mồ hôi lạnh không ngớt tuôn ra, không kìm được lùi về phía sau một bước, trong tai hãy còn vang lên những tiếng ong ong, hai bàn tay nắm chặt.
Cận Tịch đỡ lấy tôi từ sau lưng, quát lớn: “Chùa Cam Lộ là thánh tự của triều Đại Chu ta, tiểu chủ ngậm máu phun người như thế, không sợ bị Bồ Tát trách phạt ư?” Nói rồi bèn ngầm dùng sức nắm chặt lấy bàn tay tôi, dường như muốn truyền sức mạnh của bản thân qua người tôi vậy.
Kỳ Tần dường như rất hài lòng với vẻ kinh hãi của tôi, đẩy bàn tay của ả thị nữ đang đỡ nàng ta ra, đi tới bên ghế của Huyền Lăng, níu lấy tà áo bào của y, cất giọng khẩn cầu: “Sau khi Thục phi bị đuổi khỏi cung, Ôn Thực Sơ từng rất nhiều lần tới chùa Cam Lộ, cô nam quả nữ thường xuyên ở chung một phòng suốt một hồi lâu. Hoàng thượng nếu không tin có thể truyền ni cô của chùa Cam Lộ tới đây hỏi thử.” Hơi dừng một chút, nàng ta đưa mắt nhìn qua phía Hoàng hậu. “Lúc này người đã ở trong Giao Lô quán của tần thiếp rồi.”
Hoàng hậu nhìn Huyền Lăng, nói: “Rốt cuộc có truyền hay không, mời Hoàng thượng làm chủ!”
Huyền Lăng chăm chú nhìn khuôn mặt đã hơi tái đi của Ôn Thực Sơ, hỏi: “Ôn thái y có ý kiến gì không?”
Hắn cung tay, nói: “Vi thần không thẹn với lòng, mọi việc đều xin nghe Hoàng thượng.”
Huyền Lăng lại nhìn qua phía tôi, trong vẻ xót thương không giấu được nét nghi hoặc. Tôi sao không biết y là loại người đa nghi, bèn khom lưng, nói: “Hoàng thượng có thể truyền người đó tới đây hỏi thử xem, không phải để chứng minh sự trong sạch của thần thiếp, mà là để giải mối hoài nghi trong lòng Hoàng thượng.” Hơi dừng lại một chút, tôi nói tiếp bằng giọng thương cảm: “Bằng không, sau này Hoàng thượng và thần thiếp ở bên nhau, giữa quân thần phu thê mà nảy sinh khúc mắc, đối với ai cũng đều không tốt.”
Huyền Lăng lộ vẻ khó xử, nếu truyền, vậy tức là không tin tưởng tôi; nếu không truyền, sự hoài nghi trong lòng khó mà xua đi được. Hồ Uẩn Dung cất tiếng khuyên nhủ: “Hoàng thượng cứ nên truyền đi, dù sao hôm nay Kỳ Tần cũng đã nói ra nhiều việc như thế rồi, nếu không truyền nhân chứng tới thì làm sao cam tâm được, chưa biết chừng sau này lại gây ra chuyện gì nữa ấy chứ.”
Huyền Lăng trầm ngâm một chút, cuối cùng lạnh lùng nói: “Truyền!”
Bình luận truyện