Họa Quốc
Quyển 1 - Chương 34
“Cái gì? Sỡ dĩ Phan Phương thua vì hắn muốn cứu Di Thù”.
Cũng lúc đó, trong một căn phòng khác của dịch trạm, kết luận tương tự cũng được nói ra từ miệng một người khác.
Trong căn phòng bố trí đơn giản nhưng cực kỳ thoải mái, nam tử mặc áo tím mỉm cười: “Không sai, chính là để cứu người”.
Như Ý bĩu môi: “Sao có thể thế được? Khi đó rõ ràng thần nhìn thấy hắn không thể trốn được…”.
“Trước đó, có phải Di Thù đã dùng chiêu Phi Long Quy Hải, còn Phan Phương dùng thương chặn lại, mượn lực thuận thế bay lên?”.
Như Ý cả kinh: “Không phải thành thượng không có mặt ở đó hay sao? Làm sao người biết được?”.
Cát Tường được thể xen vào: “Phì, trên đời có chuyện gì mà thành thượng không biết?”.
Người áo tím chỉ cười cười: “Phan Phương ở giữa không trung, không sức chống đỡ, toàn thân sơ hở, vốn là thời cơ tuyệt vời, nhưng phải biết rằng, không phải tất cả mọi người đều có thể dễ dàng lách khỏi ngọn thương của Di Thù, đặc biệt là chiêu Phi Long Quy Hải tinh diệu như thế, chiêu đó muốn thi triển, hẳn phải dùng ít nhất tám thành công lực, hơn nữa đã đâm là phái trúng, nếu không nội lực sẽ phản lại làm bản thân bị thương. Di Thù dùng chiêu này, vốn tưởng đã giành chắc phần thắng, không ngờ Phan Phương lại dễ dàng hóa giải. Nàng ta thấy Phan Phương bay lên, không nỡ bỏ qua thời cơ tốt, vì thế gấp rút tấn công, không màng đến nội lực phản lại, thương đi nửa chừng, nếu phía trước không có chỗ dụng lực sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Phan Phương vì không muốn nàng ta bị thương, bèn dùng cánh tay đỡ lấy một thương, đây cũng là nguyên nhân vì sao mũi thương gãy rời”.
Như Ý vò đầu, nói: “Ra là thế sao…”.
Cát Tường cốc vào đầu hắn: “Cái gì như thế sao? Lời thánh thượng nói, ngươi còn dám hoài nghi, đúng là ngày càng không biết phép tắc!”.
Người áo tím cười ha ha: “Ngươi theo ta gần hai năm rồi, học văn không thành, học võ cũng chỉ hời hợt, nên nghiêm túc xem lại bản thân”.
Như Ý cúi đầu, đáp:”Mới chưa đến hai năm đã mong nô tài tiến bộ vượt bậc, cũng quá nghiêm khắc, nô tài không phải Tiết Thái của Bích quốc… Ai da!”. Nói đến đây, bị Cát
Tường nhéo một cái đau điếng.
Nụ cười trên gương mặt người áo tím biến mất, dõi trông bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Tiết Thái…”.
Nơi chân trời, ráng chiều như gấm, thế nhưng nó cách phàm trần tục thế quá xa, xa không thể với tới được.
Mà dưới dáng chiều xa thẳm áy, Khương Trầm Ngư nói: “Trong lòng công chúa cũng rất rõ là tướng quân cứu nàng ta, nên vẻ mặt mới kỳ quái như vậy?”.
Phan Phương “ừm” một tiếng, “Có điều, ta còn có một chuyện không hiểu”.
“Xin tướng quân cứ nói”.
Phan Phương chỉ mũi thương đó, nói: “Thương này chế tạo tinh xảo không cần nhắc đến, nhưng chất liệu của nó là loại sắt hiếm tám màu thượng đẳng, tuy nhẹ nhưng cực kỳ cứng. Nhưng theo ta biết trong khắp Trình quốc, không nơi nào có loại sắt này”.
“Ý của tướng quân là loại sắt này mua từ nước khác về?”.
Phan Phương gật đầu: “Trình quốc nước nhỏ đất cằn, khoáng sản không nhiều, nhưng họ lại có vũ khí mạnh nhất, hơn nữa số lượng dồi dào, chất lượng tuyệt đỉnh, vượt xa các nước khác. Thế là vì sao? Là ai bán sắt cho bọn họ?”.
Đáp án đầu tiên mà Khương Trầm Ngư nghĩ tới chính là: “Nghi vương?”.
Phan Phương lắc đầu: “Nghi quốc cũng không có loại sắt này”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày.
Sắc mặt Phan Phương nghiêm nghị, nén thấp giọng nói: “Loại sắt này chỉ có Quyển Nhĩ sơn ở Hồng Diệp Hương trong Bích quốc mới có, vì số lượng cực kỳ ít nên vô cùng quý hiếm, chỉ dùng để tiến cống, cấm mua bán trong dân gian.
Lòng Khương Trầm Ngư trầm xuống, cuối cùng ý thức được sự nghiêm trọng của sự việc – Sắt tiến cống của Bích quốc biến thành vũ khí của công chúa Trình quốc, là biếu tặng? Hay là mua bán? Là ai có quyền đem tặng và mua bán?
Chỉ một mũi thương nho nhỏ, đột nhiên trở nên nặng tựa ngàn cân. Trong vụ giao dịch này, thứ bán đi chỉ là sắt hay là…
“Tiểu thư, tiểu thư bảo em lưu ý tên Mê Điệp đó, hôm nay hắn lại tặng thuốc nữa”.
Trong phòng ngủ, Hoài Cẩn cầm mở trang danh sách quà tặng mới đến bên Khương Trầm Ngư.
Khương Trầm Ngư cầm lấy tờ danh sách.
Hôm qua, khi nàng nhìn thấy một người tên “Mê Điệp”, trong danh sách liền cảm thấy có gì đó bất thường, nên bảo Hoài Cẩn phàm có người nào đến tặng lễ thì cứ thu nhận,quả nhiên không ngoài dự đoán, hôm nay người đó lại tặng thuốc. Cứ như thế, đối phương liên tục tặng hai mươi chín loại thuốc trong vòng ba ngày.
Hai mươi chín… nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất có liên hệ đến con số này chỉ có ngày sinh của Trình vương – hai chín tháng sáu.
Khương Trầm Ngư đặt mấy tờ danh sách cách nhau để đối chiếu, hai mươi mốt loại thuốc đó không phải là loại thuốc quý báu gì, phần lớn là thuốc thanh nhiệt tiêu viêm, bổ gân cót, nhưng nếu như bỏ đuôi bỏ đầu một số trong đó, thì sẽ biến thành:
Cúc (cứ) Oa, nhất điểm ( điểm) hồng, trạch tả (tiết), lộc (lộ) giác sương, đâu linh (lân), tố (tố) hinh hoa, tỏa (sở) dương, ngũ vị (vi) tử, kim (cẩn) kiều mạch, phòng (phòng) phong, nhẫn đông (đông), hậu (hầu)bổ, thác bàn (phán) cân, ngư (ngư) tinh thảo, thục (tốc) địa, dương quy (quy (*).
(*) Dùng tên các loại thuốc để viết mật mã, tên các loại thuốc gồm ba chữ, truyền thông điệp có chữ phát âm tương tự chữ ở giữa
“Cứ điểm tiết lộ, Lân Tố sở vi.Cẩn phòng Đông hầu, phán Ngư tốc quy”.
(Cứ điểm bị bại lỗ, là do Lân Tố làm. Cẩn thận đề phòng Đông Bích hầu, mong Trầm Ngư mau quay về.)
Tay Khương Trầm Ngư khẽ run rẩy, một tờ giấy trong số đó rơi khỏi tay, liệng vòng rơi xuống khỏi mặt đất. Ánh mắt nàng dừng lại trên trang giấy dưới chân, mãi không thốt nên lời.
Nếu như nói, việc bọn mai phục trong cửa hiệu Sái gia là thủ hạ của Lân Tố đã đủ khiến người ta kinh ngạc, vậy thì câu thứ hai càng khiến nàng lạnh buốt đến tận tâm can.
Phu thân bảo nàng… đề phòng Gian Vãn Y.
Giang Vãn Y.
Chính là người mỉm cười nói với nàng đừng sợ hãi khi nàng chìm trong cơn ác mộng, chính là người trên danh nghĩa là sư huynh của nàng, chính là người mà nàng hao phí tâm sức tìm cách cứu…
Tại sao lại là hắn?
Nàng nhặt tờ danh sách lên, đọc đi đọc lại mấy lần, những mong tìm ra ý tứ thứ hai để bác bỏ kết quả này, thế nhưng, bút tích trước mắt vô cùng rõ ràng mà tàn nhẫn nhắc nhở nàng, những việc đã phát sinh trong mấy ngày nay:
Ngày mùng một tháng sáu, Tây cung, Giang Vãn Y bị phát hiện đêm khuya xuất hiện trong tẩm cung của La quý phi;
Ngày mùng hai tháng sáu, khi Di Phi thẩm tra Giang Vãn Y và La Phi, Lân Tố bất ngờ xuất hiện;
Ngày mùng ba tháng sáu, Di Thù nói với nàng đêm đó Giang Vãn Y gặp một người khác ở Tây cung; mà cùng ngày nàng phát hiện cứ điểm của phụ thân bị tiêu diệt;
Bây giờ, ngày mùng bảy tháng sáu, phụ thân sai người báo cho nàng, phải đề phòng Giang Vãn Y…
Tại sao? Tại sao?
Lẽ nào người Giang Vãn Y gặp đêm đó là Lân Tố? Hắn đã tiết lộ thân phận của nàng cho Lân Tố? Vì thế Lân Tố bắt đầu triệt để điều tra kinh đô, tróc nã những quân cờ ngầm của Khương gia, lại đặt cạm bẫy đợi nàng chui đầu vào rọ? Thế nhưng, chẳng phải nàng cùng Giang Vãn Y chung thuyền sao? Bán đứng nàng có lợi gì cho Giang Vãn Y?
Tại sao phụ thân không nói rõ một chút? Tại sao trước mắt trùng trùng mây mù, không những không rõ ràng, ngược lại càng lúc càng mơ hồ?
Khương Trầm Ngư bắt đầu hồi tưởng lại hết thảy các sự việc liên quan đến vị sư huynh trên danh nghĩa này: Hắn là con trai độc nhất của Giang Hoài, ba năm trước vì tranh chấp với phụ thân, bỏ nhà ra đi, lưu lạc nhân gian, trong ba năm, cứu người vô số, được dân chúng phong làm thần y. Sau đó, hắn đột nhiên quay về, trở thành môn khách của công tử, việc đầu tiên khi quay về kinh thành là trị bệnh cho Hy Hòa phu nhân. Hắn có y thuật tinh thâm, chữa đâu khỏi đó, vì thế Hy Hòa phu nhân và hắn nhận tổ quy tong, phong thưởng tước hầu, lại phái đi sứ Trình quốc, chữa bệnh cho Trình vương.
Không sai, đó chính là lai lịch của Giang Vãn Y.
Là sư muội đồng hành, có quan hệ mật thiết với hắn, còn thấy được nhiều hơn:
Hắn tính tình ôn hòa, cực kỳ quan tâm người dưới, không hề kiêu ngạo.
Hắn cẩn thận chu đáo, luôn toàn tâm toàn lực quên ăn quên ngủ chữa bệnh cho người khác.
Hắn còn có một trái tim vô cùng dịu dàng, vô cùng từ bi, ôm hoài bão tế thế cứu người, không phân sang hèn, coi mọi người bệnh như nhau…
Một người như thế, một người như thế….Nếu tất cả đều là giả tạo…
Thật là đáng sợ.
Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, muốn kiềm chế bản thân giữ bình tĩnh, nhưng ngón tay nàng run mãi run mãi, không sao dừng lại được.
Bình tĩnh, bình tĩnh, đừng hỗn loạn, từ từ nghĩ, chắc chắn, chắc chắn có thứ gì đó bị bỏ qua hoặc quên mất, bình tĩnh nào, nghĩ kỹ xem, có thể làm được, nhất định có thể…
Nàng nhắm mắt, hít thở thật sâu, hít vào thở ra mười lần mới mở mắt. Hoài Cẩn lo lắng nhìn nàng, “Tiểu thư, tiểu thư không sao chứ?”.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư đậu trên tay Hoài Cẩn: “Trên cổ tay ngươi buộc cái gì đó?”.
Hoài Cẩn sững sờ, giơ tay lên: “TIểu thư nói sợi dây đỏ này à? Là năm ngoái em theo phu nhân đến ĐỊnh Quốc tự lễ Phật xin được đấy”.
“Có thể tháo ra cho ta xem không?”.
Hoài Cẩn lập tức cởi sợi dây đó ra, Khương Trầm Ngư cầm lấy, tỉ mỉ xem xét, mấy sợi chỉ bện xoắn, xỏ qua châu trắng một hạt châu đỏ, bện rất tinh xảo. Đôi mắt nàng từ đậm sang nhạt, lại từ nhạt sang đậm. Cứ thế sau một thời gian dài, nàng bỗng kêu lên thất thanh, trong mắt như có một ngọn lửa bùng lên, sáng rỡ lạ thường: “Hóa ra là thế!”.
“Tiểu thư! Cái gì là thế”.
Khương Trầm Ngư đứng dậy, vì kích động nên bước mấy bước về phía trước, lẩm bẩm: “Hóa ra là thế! thực sự là như thế sao?”.
“Tiểu thư?”.
Khương Trầm Ngư nắm chặt sợi dây đỏ, hôm này là ngày mùng bảy tháng sáu, còn hai mươi ngày là đến sinh nhật Trình vương. Mệnh lệnh của Chiêu Doãn là đánh cắp bí mật và cưới được công chúa. Nhưng bây giờ xem ra tình huống rõ ràng trở nên phức tạp hơn nhiều.
Khương Trầm Ngư hạ rèm mi, còn hai mươi hai ngày…
Ngoài cửa có người gõ cửa.
Hoài Cẩn mở cửa ra, thấy Lý Khánh khom mình bẩm: “Ngu cô nương, có thiếp mời gửi tới”.
Hoài cẩn tò mò hỏi: “Ấy, trong cung lại thiết yến à?”
Lý Khánh đáp: “Đúng là mời dự yến, nhưng không phải trong cung, mà là…”.
Lão còn chưa nói hết, Khương Trầm Ngư đã quay lại mỉm cười, tiếp lời với một vẻ điềm tĩnh như đã đoán trước được, nói: “Mà là Di Thù công chúa, đúng không?”.
Hoài Cẩn nhận thiếp mời, chỗ lạc khoản, trên trang giấy màu hồng đào, quả nhiên viết hai chữ “Di Thù”.
Di Thù mời hai người là nàng và Phan Phương.
Vì được Trình vương bội phần sủng ái, cho nên vị công chúa này cũng có phủ đệ riêng như mấy vị ca ca, chỉ có điều, khi xe ngựa dừng lại ở cuối con ngõ nhỏ, phu xe nói trước mặt là phủ công chúa, Khương Trầm Ngư vẫn hơi ngạc nhiên một chút.
Một con nhỏ rất bình thường, ngoài sạch sẽ và yên tĩnh hơn nhưng con ngõ bình thường khác thì không có điểm nào đặc biệt cả.
Hai cánh cửa phủ sơn son, mép cửa còn bong sơn, vòng đồng sáng loáng. Một lão già lưng gù dáng dấp như quản gia đang đứng trước bật thềm khom lưng chờ đợi, thấy họ tới cũng không nhiều lời, hành lễ xong liền quay lưng lại dẫn đường.
Bước qua cánh cửa là một bức tường vẽ tranh màu, không phải là long phượng hoa cỏ thường thấy mà là hình Nữ Oa và Phục Hy đầu người thân rắn.
Qua thềm chắn gió, lọt vào tầm mắt là một khu vườn rộng rãi, sáng sủa, mấy gian nhà tre thấp thoáng giữa rừng sâu hồ biếc, hoa dại không biết tên nở đầy trước cửa, khiến người ta như lạc vào chốn nông gia, phong vị đồng quê dạt dào.
Tuy đều là những kiến trúc độc đáo, nhưng Di Thù và Di Phi không giống nhau, Di Phi ở một phủ đệ không làm người khác kinh ngạc không chịu thôi, còn Di Thù rõ ràng kín đáo, giản dị hơn nhiều.
Lão quản gia không dẫn hộ vào trong nhà mà đi đến rừng trúc ở sau nhà, từ xa đã nghe thấy tiếng giao đấu và tiếng cổ cầm. Sauk hi đi vòng qua căn nhà liền thấy trên khoảng đất trống ở hậu viện có bày mấy chiếc bàn ghế, một thiếu nữ ăn vận như tì nữ đang gãy đàn, cách đó vài trượng, hai người đang tỉ võ, một người dùng trường thường, một người dùng trường đao.
Không cần nói, người dùng thương chính là Dù Thù, còn người dùng đao lại là Hàm Kỳ.
Hai người họ nếu nói là đang tỉ võ, chẳng thà nói là biểu diễn thì đúng hơn. Thương tới đao đi, mang theo tiết tấu tao nhã, hợp thành một thể với tiếng đàn, ánh trăng chiếu rọi lên hai người, trùm lên họ một màn ngân quang bằng bạc, phối hợp với binh khí vút lên xé gió, đánh rất đẹp mắt. Cho dù Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, cũng cảm thấy cảnh tượng đẹp mắt, trong lòng khoan khoái. Nhất thời cao hứng, không kìm được bước đến vỗ vai người chơi đàn, ra dấu tay với nàng ta.
Thiếu nữ chơi đàn hiểu ý, im lặng đứng dậy nhường chỗ. Mà nàng ta mới vừa rời tay, Khương Trầm Ngư đã thay nàng.
Dây rung, âm khởi, gió động.
Trong sân đao thương càng nhanh hơn, hồng bào áo đỏ tung bay phấp phới, phóng khoáng như nước chảy mây trôi.
Phan Phương yên lặng chăm chú nhìn chiêu thức của hai người, bỗng mặt biến sắc, gần như trong cùng một giây, trường thương trong tay Di Thù bay khỏi tay, vạch một đường cong trong không trung rồi cắm phập xuống đất, thân thương không ngừng rùg rung.
Khương Trầm Ngư vội dừng ty đứng dậy, nói gấp: “A Ngu nhất thời vui mừng quá hóa vô lễ, đàn quá khích động, tội đáng muôn chết!”. Nói đoạn định quỳ xuống, nhưng Di Thù giơ tay ngăn lại.
Di Thù cười nói: “Là ta võ nghệ không bằng người, bị đánh rớt binh khí, may mà thương bay về phía bên kia, không làm các ngươi bị thương”.
Khương Trầm Ngư áy náy nhìn Hàm Kỳ, thấy hắn im lặng ngẩn nhìn trường đao trong tay, sau đó ngẩng đầu nhìn nàng.
Những tin đồn tai tiếng nhỏ nhen có thù tất báo liên quan đến người này dội lên trong đầu, sắc mặt Khương Trầm Ngư trở nên hơi nhợt nhạt, nhưng không ngờ Hàm Kỳ không hề giận dữ, chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi đàn khá lắm”.
Di Thù xùy một tiếng, nhếch môi hỏi: “Nhị hoàng huynh bắt đầu hiểu những chuyện phong hoa tuyết nguyệt này từ lúc nào vậy? Ngu cô nương đàn thế nào, huynh có nghe ra không?”.
Hàm Kỳ không thèm đếm xỉa đến lời châm chọc của nàng ta, dán mắt nhìn Khương Trầm Ngư, hỏi: “Ngươi khỏi bệnh chưa?”.
Khương Trầm Ngư còn chưa kịp đáp lời, Di Thù lại cười ha ha: “Nhị hoàng huynh quan tâm người ta, luôn lo lắng cho bệnh của người ta”.
Khương Trầm Ngư nghe ra trong lời nói như có ẩn ý, có một cảm giác rất vi diệu, không kìm được khẽ chau mày. May mà Di Thù không lằng nhằng ở chủ đề này lâu, nói: “Thực ra vừa nãy ta và nhị hoàng huynh chỉ khởi động, chờ hai vị tới”.
Khương Trầm Ngư tỏ vẻ không hiểu.
Di Thù nói: “Nhị hoàng huynh nghe kể chuyện ta tỉ võ với Phan tướng quân xong, trong lòng ngứa ngáy không thôi, cũng muốn tỉ thí với tướng quân một phen”. Nói đoạn cười tươi roi rói.
Khương Trầm Ngư không khỏi nhớ tới Tần nương.
Trong ký ức của nàng, Tần nương chỉ có thể kể chuyện mới tương cười rực rỡ, thần thái vui tươi, mà sau khi tiếng phách vang lên, câu chuyện kết thúc, vẻ mặt nàng lập tức ủ dột. Cho dù đối diện với lời cầu thân của Phan Phương, giọng nói cũng vẫn nặng nề, không động thanh sắc.
Còn Di Thù lại khác, Di Thù hay cười hay nói, vẻ mặt không có một giây nào tĩnh lặng, mày liễu giương lên, khóe môi khép mở, trăm ngàn tư thế, hết mực phong tình.
Thực ra họ rất khác nhau.
Khi đã hiểu rõ điểm này, trong lòng Khương Trầm Ngư khe khẽ thở dài, quay sang nhìn Phan Phương, Phann Phương đang đối mắt với Hàm Kỳ, Hàm Kỳ tuy đã hết sức kìm chế, nhưng đáy mắt vẫn lỗ vẻ hưng phấn khó mà giấu diếm, kích động vì sắp được tỉ võ với một đối thủ như Phan Phương. Xem ra, vị hoàng tử này quả nhiên là một người cuồng võ.
Im lặng đối mắt một lúc, Hàm Kỳ giơ một tay lên, trầm giọng nói: “Mời chỉ giáo”.
Di Thù chạy đi nhỏ cây trường thương cắm trên đất lên. Ném về phía Phan Phương: “Phan tướng quân, dùng cây thương của ta đi!”.
Trước tình thế đó, Phan Phương đành giơ tay lên, đón lấy cây thương kia.
Như vậy, y không đấu cũng phải đấu.
Khương Trầm Ngư nhìn y, lại nhìn Di Thù, trong mắt lóe lên một tia dị sắc nhưng không nói gì, chủ động lui lại vài bước, tránh đến lúc tỉ thí làm mình bị thương.
So với sự trấn tĩnh của nàng, Di Thù rõ ràng cực kỳ kích động, hét lớn: “Đem trống lên!”.
Hai tên thị vệ lập tức bê một chiếc trống da trâu cao bằng thân người tới, Di Thù đích thân cầm dùi, dùi thứ nhất gõ xuống, tựa như sấm rền; dùi thứ hai gõ xuống, mưa lớn sầm sập. Cùng với tiết tấu càng lúc càng nhanh, bầu không khí phấn khích ngút trời cũng đột nhiên như cuồng phong bạo vũ quét qua toàn bộ hậu viện.
Mà trong tiếng trống phấn khích đó, Hàm Kỳ vung đao.
Ngân quang như chớp. chỉ lóe lên một cái, lưỡi đao lạnh buốt đã tới trước mắt Phan Phương.
Phan Phương buộc phải lùi lại một bước, giơ thương đỡ đao. Y còn chưa đứng vững, đao thứ hai đã gấp rút đuổi tới.
“Hảo đao pháp!”, Di Thù hô to, đánh trống càng hăng hơn.
Khương Trầm Ngư đứng cách đó rất xa, nhìn cuộc tỉ võ đối với người hiểu võ mà nói là trăm năm mới gặp một lần này, trái tim từ từ chùng xuống.
Một giọng nói từ sâu thẳm trong nội tâm vang lên: “Ngăn lại đi…”.
Một giọng nói khác lập tức phản bác: “Không được”.
“Sẽ xảy ra chuyện, ngươi biết mà…”.
“Đợi thêm chút nữa”.
“Không thể đợi được nữa, đến khi xáy ra chuyện thật thì tất cả đã muộn rồi!”.
“Không, đợi thêm chút nữa!”.
Hai giọng nói này càng nói càng nhanh, càng nói càng cuống, mà tiếng trống cũng càng lúc càng gấp, từng tiếng từng tiếng như gõ vào tim nàng. Khương Trầm Ngư không kìm được kêu lên một tiếng, đến bản thân cũng không hiểu nó nghĩa là gì, chính lúc đó, một đạo hàn quang từ xa bắn tới, ting một tiếng, không thiên không lệch, va đúng cán thương của Phan Phương, tay Phan Phương hơi run run, đầu thương đi lệch, sượt qua bên tai Hàm Kỳ.
Hai người lập tức dừng lại, một tia máu nhỏ trào ra trên má phải Hàm Kỳ, chảy rịn xuống dưới.
Phan Phương lập tức vứt trường thương, quỳ gối: “Tại hạ nhất thời bất cẩn, ngộ thương điện hạ, xin điện hạ thứ tội!”.
Sắc mặt Hàm Kỳ vô cùng, vô cùng khó coi, hắn đưa tay sờ mặt mình, nhìn thấy máu trên tay xong, mắt càng thêm u tối.
Di Thù đã ngừng gõ trống, quay người nhìn về một hướng, sắc mặt cũng không dễ coi, lạnh lùng nói: “Ta nói là ai, dám ngang nhiên can thiệp lúc nhị hoàng huynh và Phan tướng quân tỉ võ…”.
Một giọng cười nói: “Nếu như vừa nãy ta không ra tay, e rằng bây giờ nhị ca đã ngã lăn ra rồi. Muội nói xem, rốt cuộc ra có nên ra tay không?”.
Trên thế gian này có vô số điệu cười, nhưng chỉ có một điệu cười có thể thối tha, giảo hoạt, khiến người ta giận dữ đến mức hận không thể xong tới đá cho gã mấy cước thật mạnh.
Đó chính là – điệu cười của Di Phi.
Khương Trầm Ngư quay đầu lại, quả nhiên Di Phi đã tới.
Ánh mắt Di Phi lướt qua mặt nàng, ý cười càng đậm, bước chân không dừng, đi qua cúi người nhặt một chiếc nhân trên mặt đất lên, thổi bụi đất bám trên bề mặt, đeo lại vào ngón tay. Hóa ra, thứ đánh chệch trường thương của Phan Phương ban nãy chính là chiếc nhẫn của gã.
Khương Trầm Ngư trong lòng cả kinh. Tuy đã biết vị tam hoàng tử này không phải là hạng vô dụng, nhưng cho dù là tình báo của phụ thân cung cấp hay là trong tin tức lưu truyền của Trình quốc, đều nghe nói vị tam hoàng tử này không biết võ công. Thế nhưng, lúc nãy gã chỉ dùng một chiếc nhẫn đã có thể khiến hai người đang giao chiến kịch liệt dừng tay, công lực của gã thật là đáng sợ!
Bây giờ gã không hề che giấu bí mật này là vì mục đích gì?
Phía bên kia, Di Thù sầm mặt nói: “Tam hoàng huynh có ý gì? Lẽ nào Phan tướng quân định hại nhị hoàng huynh?”.
“Quả thực Phan tướng quân vô tâm…”, Di Phi thản nhiên cười, “Chỉ có điều, lỗi lầm vô tâm mới là đáng sợ nhất… phải không, nhị ca?”.
Hàm Kỳ vẫn đứng yên không nhúc nhích, tựa như không hề nghe thấy gã nói gì.
Di Phi lại lần nữa cúi người, nhặt trường thương lên, cầm bằng hai tay, đưa đến trước mặt Phan Phương: “Vừa nãy sự tình khẩn cấp, tự tiện xen vào cuộc tỉ thí của hai vị, mong tướng quân không trách”.
Phan Phương nhìn gã chăm chú, giơ tay nhận thương: “Đa tạ tam hoàng tử”.
Di Thù bực bội hỏi:”Huynh không mời mà đến là có chuyện gì?”.
“Sao? Bây giờ muội muội trở nên quan trọng, thân phận cao quý, oai phong, đến phủ công chúa ta cũng không được đến sao?”. Di Phi châm chọc, khiến Di Thù mặt trắng bệch, giậm chân nói: “Ai nói với huynh như thế! Muội, muội… không thèm để ý đến huynh nữa…”, nói đoạn quay đầu bỏ đi, để lại một đám người đối mặt nhìn nhau.
Di Phi cũng không để tâm, đến trước bọn Khương Trầm Ngư cười nói: “Vừa nãy ta có ghế qua nhà bếp, đồ ăn chuẩn bị gần xong rồi, chúng ta đừng ở đây nữa, vào trong nhà dùng bữa thôi. Không phải ta nói chứ, phủ công chúa cái gì cũng rách nát, duy chỉ có đầu bếp là thượng đẳng”.
Gã hớn hở phơi phới, đổi khách thành chủ,,mời mọi người bắt đầu yến tiệc. Mà người hầu trong phủ hình như cũng không cảm thấy có gì không thỏa đáng, ngoan ngoãn nghe theo, đem mỹ tửu sơn hào hải vị, hết món này đến món khác lên. Tuy không khí quái dị, nhưng đúng như DI Phi nói, tài nghệ của đầu bếp thực sự xuất sắc, đặc biệt là món Ngũ Hầu Chinh, vào miệng là tan ra, tươi ngon đến mức dường như muốn nuốt luôn cả lưỡi. Khương Trầm Ngư ăn mấy miếng liền.
Vừa mới buông đũa, liền cảm thấy một cái nhìn bỏng rát, nàng quay đầu lại nhìn, DI Phi đang cười híp mắt nhìn nàng, nói: “Ngu cô nương khẩu vị không tồi, có thể thấy bệnh đã gần khỏi rồi”.
Khương Trầm Ngư cười nhạt: “Vẫn phải đa tạ thuốc của tam điện hạ”.
“Nếu nàng thích món Ngũ Hầu Chinh này, lát nữa còn món Phượng Xuyên Mẫu Đơn cũng rất có tiếng, có thể thử xem sao”. Vừa nói thức ăn liền bưng lên, Di Phi tự mình múc một bát, bê tới trước mặt nàng. Khương Trầm Ngư vội vã đứng dậy nhận bát, Di Phi bỗng bấm vào hai ngón tay nàng, mắt lóe sáng kỳ dị, nửa cười nửa không.
Khương Trầm Ngư vô thức muốn rút tay ra, nhưng lực độ trên ngón tay nhìn có vẻ nhẹ nhàng, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, cho dù nàng dùng lực thế nào vẫn không hề nhúc nhích, đang lúc giằng co, một tay Di Phi bỗng nhẹ nhàng xoay lại, biến ra một đóa mẫu đơn, cài lên mái tóc nàng rồi mới thu tay, lùi lại mấy bước, ngắm kỹ rồi nói: “Danh hoa mỹ nhân, đúng là cùng khoe sắc”.
Khương Trầm Ngư nhất thời không biết làm thế nào, nhìn xung quanh, Phan Phương, Hàm Kỳ và đám nô bộc có mặt đều nhìn nàng, chỉ có Phan Phương lộ vẻ kinh ngạc, Hàm Kỳ nhíu mày trầm tư, còn những kẻ khác không hề có chút biểu cảm nào.
Một buổi dạ yến lớn như thế lại yên tĩnh đến mức đáng sợ.
Nàng cắn môi, đứng im hồi lâu mới gượng gạo giơ tay, gỡ đóa mẫu đơn đó xuống.
Mẫu đơn trong tay còn ngậm sương, cũng không biết Di Phi tìm ở đâu ra, màu sắc cực kỳ tươi tắn, dưới ánh đèn, đỏ như máu tươi.
Bàn tay nàng từ từ xiết chặt, cánh hoa bị bóp nát trong lòng bàn tay, sau đó nàng ném mạnh một cái, trúng mặt Di Phi.
Không thèm xem mọi người phản ứng như thế nào, Khương Trầm Ngư lập tức quay người rảo bước, khi đi ngang qua chỗ Phan Phương, chưa kịp mở miệng, Phan Phương đã chủ động đứng dậy đi theo.
Hai người cứ thế bỏ lại đám người sau lưng mà ra về. Dọc đường gặp mấy nô bộc, họ chỉ mải làm việc của mình, không hề ngăn cản.
Sau khi nhảy lên xe ngựa, Khương Trầm Ngư cuống quýt kêu: " Đến hoàng cung! Không, về dịch trạm! Không, vẫn nên đến hoàng cung... đợi đã...", lời nói hoảng loạng, nàng tự biết mình luống cuống, thở dài thườn thượt xong liền đưa tay bưng mặt.
Phan Phương trước sau vẫn.im lặng nhìn nàng, bỗng ấn nhẹ lên mu bàn tay nàng: "Bình tĩnh".
Vốn Khương Trầm Ngư đang cứng đờ người, bị y vỗ một cái, toàn thân run bắn, hơn nữa càng lúc càng run mạnh hơn, cuối cùng nàng buông tay xuống, ngước mắt lên đăm đăm nhìn y: "Phan tướng quân, chúng ta trốn mau".
Phan Phương kinh ngạc.
Khương Trầm Ngư tóm chặt lấy tay y, nói gấp: "Chúng ta mau về dịch trạm, phái người đến hoàng cung thông báo cho sư huynh tập hợp ở bến cảng... Ôi không, không kịp nữa rồi! Chúng ta đến thẳng hoàng cung, đón sư huynh rồi đi, ngay lập tức! Ngay bây giờ!".
Phan Phương trầm giọng hỏi: "Sao vậy? Trầm Ngư? Xảy ra chuyện gì?".
Hết thảy nỗi sợ hãi thấp thoáng của Khương Trầm Ngư ngưng kết trong khoảnh khắc, sau đó nàng lộ vẻ hoang mang, ánh mắt nàng không có tiêu cự, dừng trên.thành xe, thì thầm: "Canh hai đêm nay, Ngũ hầu khởi loạn, nếu chúng ta không muốn bị cuốn vào trong đó, chỉ có cách trốn...".
Vừa nói đến đây, xe ngựa đang chạy đột ngột dừng lại, tuấn mã lồng lên, hí lên những tiếng chói tai. Khương Trầm Ngư vội vã vén rèm, nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài xong, sắc.mặt tái mét: "Hỏng rồi, đã muộn rồi...".
Phan Phương nhìn theo nàng, thấy cách đó ba mươi trượng, mấy ngàn binh sĩ đứng sừng sững ở đầu con phố.
Gió thổi qua, lá quân kỳ tung bay, trên lá cờ màu hoa hạnh thêu đồ đằng chín con rắn, một chữ lớn thêu bằng chỉ đỏ như máu nổi.bần bật: "Tố".
Vị tướng quân thân mang ngân tỏa khôi giáp, chừng ba chục.tuổi quất ngựa đi tới trước xe, trầm giọng quát: "Xuống xe".
Khương Trầm Ngư cắn răng, quả quyết mở toang cửa xe, nhìn hắn nói: "Đây là xe của sứ thần Bích quốc, tướng quân đường đột ngăn cản là vì cớ gì?".
Nam tử đó mặt không cảm xúc, nói: "Nửa canh giờ trước, trong cung truyền tin Giang Vãn Y mất tích".
"Sư huynh ta mất tích?". Nàng sững sờ, lập tức hỏi lại: "Vậy tướng quân phải đến dịch quán tìm, sao lại cản đường chúng ta?".
Nam tử kia lộ điệu cười châm biếm, cực kỳ lạnh lùng thâm hiểm nói: "Hơn.nữa, hắn còn dẫn theo hoàng thượng cùng biến mất".
"Cái gì?". Khương Trầm Ngư và Phan Phương gần như đồng thanh kêu lên, đồng thời cùng nhìn thấy vẻ kinh ngạc sợ hãi trên gương mặt đối phương.
Bây giờ đúng là thiên hạ đại loạn...
Là bó tay chịu trói hay gắng sức phản kháng? Trong giây láy, vô số ý nghĩ xuất hiện trong đầu Khương Trầm Ngư, vẫn còn.chưa quyết định, chỉ nghe gió rít bên tai, Phan Phương ra tay nhanh như chớp, một tay bóp cổ tên tướng quân kia, lôi hắn từ trên ngựa vào trong xe.
Tên tướng quân đó kêu lên kinh hãi, ngay lập tức, Phan Phương điểm huyệt hắn, chỉ thấy hắn mặt mày sợ hãi, đỏ dựng lên, nhưng không nói được đến nửa lời.
Hành động nhanh như điện xẹt, vừa bất ngờ vừa nhanh nhạy, vì thế, khi quân đội đứng chờ ở phía xa kia phản ứng lại, Phan Phương đã rút đao, kề vào cổ tướng quân nọ, lạnh lùng ra lệnh: "Các ngươi nhúc nhích, hắn chết".
Mấy tên dẫn đầu còn lại chần chừ nhìn nhau. Không đợi chúng chọn lựa, Phan Phương lệnh cho phu xe:"Quay đầu, về phủ công chúa".
Phu xe sợ đến mức mặt cắt không còn giọt máu, vội vàng kéo dây cương, quay đầu xe. Ngựa vừa khua vó chạy, quân đội đã đuổi theo sau. Phan Phương đâm vào mông ngựa, tuấn mã bị đau, hí lên một tiếng rồi chạy như điên.
Thế nhưng, tốc độ xe ngựa vẫn không bì được với đơn kỵ (*), thấy khoảng cách càng ngày càng bị thu hẹp, tuy đối phương nhất thời sợ ném chuột vỡ bình, không dám bắn tên, nhưng cứ tiếp tục thế này sớm muộn gì cũng bị bao vây bắt sống, Khương Trầm Ngư nghĩ đến đây, hô lên: “Sư Tẩu”.
(*) Đơn kỵ: Một người cưỡi một ngựa
Ám vệ từ dưới gầm xe nhô lên nửa người, tay trái vung lên, chỉ nghe một tiếng bịch, một vật nào đó rơi xuống đất nổ tung, khỏi vàng lan ra, che khuất tầm nhìn của đối phương.
Phan Phương chớp thời cơ quyết đoán vứt tên tướng quân đã bị điểm huyệt sang một bên, ôm Trầm Ngư nhảy qua cửa sổ, nhờ sự che dấu của màn khói ù mịt lăn dưới đất một vòng, rồi nhảy lên mái nhà bên cạnh đường, lại nhảy thêm mấy cái, trốn sau một mái nhà.
Xe ngựa vẫn lao về phía trước với tốc độ điên cuồng, khói dần tản đi, thiết kỵ tiếp tục truy đuổi. Cứ thế kẻ trước người sau chạy qua con phố dài.
Khương Trầm Ngư nấp trên mái nhà, nhìn thấy hết thảy, trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Không phải là sợ hãi nhưng hoang mang lạ lùng.
“Tiếp theo đi đâu?”. Phan Phương quay đầu khẽ hỏi, sau đó rút cánh tay đang ôm eo nàng lại.
Đi đâu?
Phủ công chúa tuy có Di Phi, nhưng bây giờ gã và Lâm Tố như lửa với nước, hơn nữa, vừa nãy Di Phi để mặc nàng bỏ đi không ngăn cản, cho thấy muốn nàng tự nghĩ cách.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư hơi sầm xuống, mau chóng đưa ra quyết định: “Đến phố Hoa Tân”.
Đi tìm Hách Dịch.
Phố Hoa Tân thuộc phạm vi thế lực của Nghi quốc, Hách Dịch xét cả về công lẫn tư, đều sẽ không thấy chết không cứu, hơn nữa nơi đó là phố chợ, cũng dễ dàng ẩn náu.
Phan Phương gật đầu, nói: “Mạo phạm rồi”, lại lần nữa ôm nàng nhảy khỏi mái nhà không một tiếng động, chạy thẳng về hướng phố Hoa Tân.
Khương Trầm Ngư không kìm được gọi: “Sư Tẩu?”.
Một giọng nói đáp lại: “Chủ nhân, có thuộc hạ”.
Rất tốt, hắn cũng đi theo. Khương Trầm Ngư bấy giờ mới an tâm, sau đó bắt đầu sắp xếp trong đầu một lần nữa tất cả các sự kiện. Đúng lúc đó, Phan Phương hỏi: “Làm sao nàng biết xảy ra chuyện? Là Di Phi ám hiệu cho nàng?”.
“Đúng”. Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ, nói: “Phan tướng quân, khi ngài và Hàm Kỳ tỉ võ, tiếng trông đó… rất cổ quái đúng không?”.
Phan Phương im lặng giây lát mới gật đầu: “Ừ. Tiếng trống có sát khí”.
Quả nhiên là thế…
Khương Trầm Ngư biết rõ tính cách Phan Phương, một cuộc tỉ võ cần thận trọng như thế tất phải nương tay vài phần, nhưng vừa nãy nếu không phải Di Phi xen vào, một thương đó có khả năng sẽ đâm trúng tim Hàm Kỳ, nghĩ đi nghĩ lại, chắc chắn là do tiếng trống kia giở trò, đến một người không hiểu võ công như nàng đứng bên nghe còn cảm thấy tim đập thình thịch, kích động vô cớ, huống hồ là Phan Phương thân trong trận chiến?
Như thế vẫn đề là: Di Thù gõ trống là vô tình hay cố ý?
Khương Trầm Ngư nheo mắt, căn bản không cần nghĩ cũng biết là cố ý!
Vị công chúa này nhìn có vẻ phóng khoáng hào sảng, không có chút thẹn thùng yểu điệu của tiểu nữ nhi, nhất cử nhất động đều chiếm thiện cảm của người khác. Nhưng, nếu nghĩ kỹ, từng hành động lại cực kỳ đáng sợ, có dụng ý sâu xa.
Đầu tiên, nàng ta lấy danh nghĩa tặng thuốc đến dịch trạm thăm Trầm Ngư, mục đích là tỉ võ với Phan Phương. Khi đó chỉ nói là một kẻ cuồng võ, nhưng giờ nghĩ lại, có lẽ nàng ta muốn thăm dò võ công của Phan Phương rốt cuộc ra sao, có đủ để giết Hàm Kỳ hay không.
Còn Phan Phương quả nhiên không phụ kỳ vọng, võ công vượt xa nàng ta, vì thế nàng ta mời họ đến phủ công chúa dự yến, sắp xếp Phan Phương tỉ võ với Hàm Kỳ.
Khương Trầm Ngư cảm thấy mình giống như một người mò mẫm tìm đường trong hầm tối quá lâu, cuối cùng đã nhìn thấy chút ánh sáng phía trước, vội vã mải miết suy nghĩ.
Cũng lúc đó, trong một căn phòng khác của dịch trạm, kết luận tương tự cũng được nói ra từ miệng một người khác.
Trong căn phòng bố trí đơn giản nhưng cực kỳ thoải mái, nam tử mặc áo tím mỉm cười: “Không sai, chính là để cứu người”.
Như Ý bĩu môi: “Sao có thể thế được? Khi đó rõ ràng thần nhìn thấy hắn không thể trốn được…”.
“Trước đó, có phải Di Thù đã dùng chiêu Phi Long Quy Hải, còn Phan Phương dùng thương chặn lại, mượn lực thuận thế bay lên?”.
Như Ý cả kinh: “Không phải thành thượng không có mặt ở đó hay sao? Làm sao người biết được?”.
Cát Tường được thể xen vào: “Phì, trên đời có chuyện gì mà thành thượng không biết?”.
Người áo tím chỉ cười cười: “Phan Phương ở giữa không trung, không sức chống đỡ, toàn thân sơ hở, vốn là thời cơ tuyệt vời, nhưng phải biết rằng, không phải tất cả mọi người đều có thể dễ dàng lách khỏi ngọn thương của Di Thù, đặc biệt là chiêu Phi Long Quy Hải tinh diệu như thế, chiêu đó muốn thi triển, hẳn phải dùng ít nhất tám thành công lực, hơn nữa đã đâm là phái trúng, nếu không nội lực sẽ phản lại làm bản thân bị thương. Di Thù dùng chiêu này, vốn tưởng đã giành chắc phần thắng, không ngờ Phan Phương lại dễ dàng hóa giải. Nàng ta thấy Phan Phương bay lên, không nỡ bỏ qua thời cơ tốt, vì thế gấp rút tấn công, không màng đến nội lực phản lại, thương đi nửa chừng, nếu phía trước không có chỗ dụng lực sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Phan Phương vì không muốn nàng ta bị thương, bèn dùng cánh tay đỡ lấy một thương, đây cũng là nguyên nhân vì sao mũi thương gãy rời”.
Như Ý vò đầu, nói: “Ra là thế sao…”.
Cát Tường cốc vào đầu hắn: “Cái gì như thế sao? Lời thánh thượng nói, ngươi còn dám hoài nghi, đúng là ngày càng không biết phép tắc!”.
Người áo tím cười ha ha: “Ngươi theo ta gần hai năm rồi, học văn không thành, học võ cũng chỉ hời hợt, nên nghiêm túc xem lại bản thân”.
Như Ý cúi đầu, đáp:”Mới chưa đến hai năm đã mong nô tài tiến bộ vượt bậc, cũng quá nghiêm khắc, nô tài không phải Tiết Thái của Bích quốc… Ai da!”. Nói đến đây, bị Cát
Tường nhéo một cái đau điếng.
Nụ cười trên gương mặt người áo tím biến mất, dõi trông bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Tiết Thái…”.
Nơi chân trời, ráng chiều như gấm, thế nhưng nó cách phàm trần tục thế quá xa, xa không thể với tới được.
Mà dưới dáng chiều xa thẳm áy, Khương Trầm Ngư nói: “Trong lòng công chúa cũng rất rõ là tướng quân cứu nàng ta, nên vẻ mặt mới kỳ quái như vậy?”.
Phan Phương “ừm” một tiếng, “Có điều, ta còn có một chuyện không hiểu”.
“Xin tướng quân cứ nói”.
Phan Phương chỉ mũi thương đó, nói: “Thương này chế tạo tinh xảo không cần nhắc đến, nhưng chất liệu của nó là loại sắt hiếm tám màu thượng đẳng, tuy nhẹ nhưng cực kỳ cứng. Nhưng theo ta biết trong khắp Trình quốc, không nơi nào có loại sắt này”.
“Ý của tướng quân là loại sắt này mua từ nước khác về?”.
Phan Phương gật đầu: “Trình quốc nước nhỏ đất cằn, khoáng sản không nhiều, nhưng họ lại có vũ khí mạnh nhất, hơn nữa số lượng dồi dào, chất lượng tuyệt đỉnh, vượt xa các nước khác. Thế là vì sao? Là ai bán sắt cho bọn họ?”.
Đáp án đầu tiên mà Khương Trầm Ngư nghĩ tới chính là: “Nghi vương?”.
Phan Phương lắc đầu: “Nghi quốc cũng không có loại sắt này”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày.
Sắc mặt Phan Phương nghiêm nghị, nén thấp giọng nói: “Loại sắt này chỉ có Quyển Nhĩ sơn ở Hồng Diệp Hương trong Bích quốc mới có, vì số lượng cực kỳ ít nên vô cùng quý hiếm, chỉ dùng để tiến cống, cấm mua bán trong dân gian.
Lòng Khương Trầm Ngư trầm xuống, cuối cùng ý thức được sự nghiêm trọng của sự việc – Sắt tiến cống của Bích quốc biến thành vũ khí của công chúa Trình quốc, là biếu tặng? Hay là mua bán? Là ai có quyền đem tặng và mua bán?
Chỉ một mũi thương nho nhỏ, đột nhiên trở nên nặng tựa ngàn cân. Trong vụ giao dịch này, thứ bán đi chỉ là sắt hay là…
“Tiểu thư, tiểu thư bảo em lưu ý tên Mê Điệp đó, hôm nay hắn lại tặng thuốc nữa”.
Trong phòng ngủ, Hoài Cẩn cầm mở trang danh sách quà tặng mới đến bên Khương Trầm Ngư.
Khương Trầm Ngư cầm lấy tờ danh sách.
Hôm qua, khi nàng nhìn thấy một người tên “Mê Điệp”, trong danh sách liền cảm thấy có gì đó bất thường, nên bảo Hoài Cẩn phàm có người nào đến tặng lễ thì cứ thu nhận,quả nhiên không ngoài dự đoán, hôm nay người đó lại tặng thuốc. Cứ như thế, đối phương liên tục tặng hai mươi chín loại thuốc trong vòng ba ngày.
Hai mươi chín… nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất có liên hệ đến con số này chỉ có ngày sinh của Trình vương – hai chín tháng sáu.
Khương Trầm Ngư đặt mấy tờ danh sách cách nhau để đối chiếu, hai mươi mốt loại thuốc đó không phải là loại thuốc quý báu gì, phần lớn là thuốc thanh nhiệt tiêu viêm, bổ gân cót, nhưng nếu như bỏ đuôi bỏ đầu một số trong đó, thì sẽ biến thành:
Cúc (cứ) Oa, nhất điểm ( điểm) hồng, trạch tả (tiết), lộc (lộ) giác sương, đâu linh (lân), tố (tố) hinh hoa, tỏa (sở) dương, ngũ vị (vi) tử, kim (cẩn) kiều mạch, phòng (phòng) phong, nhẫn đông (đông), hậu (hầu)bổ, thác bàn (phán) cân, ngư (ngư) tinh thảo, thục (tốc) địa, dương quy (quy (*).
(*) Dùng tên các loại thuốc để viết mật mã, tên các loại thuốc gồm ba chữ, truyền thông điệp có chữ phát âm tương tự chữ ở giữa
“Cứ điểm tiết lộ, Lân Tố sở vi.Cẩn phòng Đông hầu, phán Ngư tốc quy”.
(Cứ điểm bị bại lỗ, là do Lân Tố làm. Cẩn thận đề phòng Đông Bích hầu, mong Trầm Ngư mau quay về.)
Tay Khương Trầm Ngư khẽ run rẩy, một tờ giấy trong số đó rơi khỏi tay, liệng vòng rơi xuống khỏi mặt đất. Ánh mắt nàng dừng lại trên trang giấy dưới chân, mãi không thốt nên lời.
Nếu như nói, việc bọn mai phục trong cửa hiệu Sái gia là thủ hạ của Lân Tố đã đủ khiến người ta kinh ngạc, vậy thì câu thứ hai càng khiến nàng lạnh buốt đến tận tâm can.
Phu thân bảo nàng… đề phòng Gian Vãn Y.
Giang Vãn Y.
Chính là người mỉm cười nói với nàng đừng sợ hãi khi nàng chìm trong cơn ác mộng, chính là người trên danh nghĩa là sư huynh của nàng, chính là người mà nàng hao phí tâm sức tìm cách cứu…
Tại sao lại là hắn?
Nàng nhặt tờ danh sách lên, đọc đi đọc lại mấy lần, những mong tìm ra ý tứ thứ hai để bác bỏ kết quả này, thế nhưng, bút tích trước mắt vô cùng rõ ràng mà tàn nhẫn nhắc nhở nàng, những việc đã phát sinh trong mấy ngày nay:
Ngày mùng một tháng sáu, Tây cung, Giang Vãn Y bị phát hiện đêm khuya xuất hiện trong tẩm cung của La quý phi;
Ngày mùng hai tháng sáu, khi Di Phi thẩm tra Giang Vãn Y và La Phi, Lân Tố bất ngờ xuất hiện;
Ngày mùng ba tháng sáu, Di Thù nói với nàng đêm đó Giang Vãn Y gặp một người khác ở Tây cung; mà cùng ngày nàng phát hiện cứ điểm của phụ thân bị tiêu diệt;
Bây giờ, ngày mùng bảy tháng sáu, phụ thân sai người báo cho nàng, phải đề phòng Giang Vãn Y…
Tại sao? Tại sao?
Lẽ nào người Giang Vãn Y gặp đêm đó là Lân Tố? Hắn đã tiết lộ thân phận của nàng cho Lân Tố? Vì thế Lân Tố bắt đầu triệt để điều tra kinh đô, tróc nã những quân cờ ngầm của Khương gia, lại đặt cạm bẫy đợi nàng chui đầu vào rọ? Thế nhưng, chẳng phải nàng cùng Giang Vãn Y chung thuyền sao? Bán đứng nàng có lợi gì cho Giang Vãn Y?
Tại sao phụ thân không nói rõ một chút? Tại sao trước mắt trùng trùng mây mù, không những không rõ ràng, ngược lại càng lúc càng mơ hồ?
Khương Trầm Ngư bắt đầu hồi tưởng lại hết thảy các sự việc liên quan đến vị sư huynh trên danh nghĩa này: Hắn là con trai độc nhất của Giang Hoài, ba năm trước vì tranh chấp với phụ thân, bỏ nhà ra đi, lưu lạc nhân gian, trong ba năm, cứu người vô số, được dân chúng phong làm thần y. Sau đó, hắn đột nhiên quay về, trở thành môn khách của công tử, việc đầu tiên khi quay về kinh thành là trị bệnh cho Hy Hòa phu nhân. Hắn có y thuật tinh thâm, chữa đâu khỏi đó, vì thế Hy Hòa phu nhân và hắn nhận tổ quy tong, phong thưởng tước hầu, lại phái đi sứ Trình quốc, chữa bệnh cho Trình vương.
Không sai, đó chính là lai lịch của Giang Vãn Y.
Là sư muội đồng hành, có quan hệ mật thiết với hắn, còn thấy được nhiều hơn:
Hắn tính tình ôn hòa, cực kỳ quan tâm người dưới, không hề kiêu ngạo.
Hắn cẩn thận chu đáo, luôn toàn tâm toàn lực quên ăn quên ngủ chữa bệnh cho người khác.
Hắn còn có một trái tim vô cùng dịu dàng, vô cùng từ bi, ôm hoài bão tế thế cứu người, không phân sang hèn, coi mọi người bệnh như nhau…
Một người như thế, một người như thế….Nếu tất cả đều là giả tạo…
Thật là đáng sợ.
Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, muốn kiềm chế bản thân giữ bình tĩnh, nhưng ngón tay nàng run mãi run mãi, không sao dừng lại được.
Bình tĩnh, bình tĩnh, đừng hỗn loạn, từ từ nghĩ, chắc chắn, chắc chắn có thứ gì đó bị bỏ qua hoặc quên mất, bình tĩnh nào, nghĩ kỹ xem, có thể làm được, nhất định có thể…
Nàng nhắm mắt, hít thở thật sâu, hít vào thở ra mười lần mới mở mắt. Hoài Cẩn lo lắng nhìn nàng, “Tiểu thư, tiểu thư không sao chứ?”.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư đậu trên tay Hoài Cẩn: “Trên cổ tay ngươi buộc cái gì đó?”.
Hoài Cẩn sững sờ, giơ tay lên: “TIểu thư nói sợi dây đỏ này à? Là năm ngoái em theo phu nhân đến ĐỊnh Quốc tự lễ Phật xin được đấy”.
“Có thể tháo ra cho ta xem không?”.
Hoài Cẩn lập tức cởi sợi dây đó ra, Khương Trầm Ngư cầm lấy, tỉ mỉ xem xét, mấy sợi chỉ bện xoắn, xỏ qua châu trắng một hạt châu đỏ, bện rất tinh xảo. Đôi mắt nàng từ đậm sang nhạt, lại từ nhạt sang đậm. Cứ thế sau một thời gian dài, nàng bỗng kêu lên thất thanh, trong mắt như có một ngọn lửa bùng lên, sáng rỡ lạ thường: “Hóa ra là thế!”.
“Tiểu thư! Cái gì là thế”.
Khương Trầm Ngư đứng dậy, vì kích động nên bước mấy bước về phía trước, lẩm bẩm: “Hóa ra là thế! thực sự là như thế sao?”.
“Tiểu thư?”.
Khương Trầm Ngư nắm chặt sợi dây đỏ, hôm này là ngày mùng bảy tháng sáu, còn hai mươi ngày là đến sinh nhật Trình vương. Mệnh lệnh của Chiêu Doãn là đánh cắp bí mật và cưới được công chúa. Nhưng bây giờ xem ra tình huống rõ ràng trở nên phức tạp hơn nhiều.
Khương Trầm Ngư hạ rèm mi, còn hai mươi hai ngày…
Ngoài cửa có người gõ cửa.
Hoài Cẩn mở cửa ra, thấy Lý Khánh khom mình bẩm: “Ngu cô nương, có thiếp mời gửi tới”.
Hoài cẩn tò mò hỏi: “Ấy, trong cung lại thiết yến à?”
Lý Khánh đáp: “Đúng là mời dự yến, nhưng không phải trong cung, mà là…”.
Lão còn chưa nói hết, Khương Trầm Ngư đã quay lại mỉm cười, tiếp lời với một vẻ điềm tĩnh như đã đoán trước được, nói: “Mà là Di Thù công chúa, đúng không?”.
Hoài Cẩn nhận thiếp mời, chỗ lạc khoản, trên trang giấy màu hồng đào, quả nhiên viết hai chữ “Di Thù”.
Di Thù mời hai người là nàng và Phan Phương.
Vì được Trình vương bội phần sủng ái, cho nên vị công chúa này cũng có phủ đệ riêng như mấy vị ca ca, chỉ có điều, khi xe ngựa dừng lại ở cuối con ngõ nhỏ, phu xe nói trước mặt là phủ công chúa, Khương Trầm Ngư vẫn hơi ngạc nhiên một chút.
Một con nhỏ rất bình thường, ngoài sạch sẽ và yên tĩnh hơn nhưng con ngõ bình thường khác thì không có điểm nào đặc biệt cả.
Hai cánh cửa phủ sơn son, mép cửa còn bong sơn, vòng đồng sáng loáng. Một lão già lưng gù dáng dấp như quản gia đang đứng trước bật thềm khom lưng chờ đợi, thấy họ tới cũng không nhiều lời, hành lễ xong liền quay lưng lại dẫn đường.
Bước qua cánh cửa là một bức tường vẽ tranh màu, không phải là long phượng hoa cỏ thường thấy mà là hình Nữ Oa và Phục Hy đầu người thân rắn.
Qua thềm chắn gió, lọt vào tầm mắt là một khu vườn rộng rãi, sáng sủa, mấy gian nhà tre thấp thoáng giữa rừng sâu hồ biếc, hoa dại không biết tên nở đầy trước cửa, khiến người ta như lạc vào chốn nông gia, phong vị đồng quê dạt dào.
Tuy đều là những kiến trúc độc đáo, nhưng Di Thù và Di Phi không giống nhau, Di Phi ở một phủ đệ không làm người khác kinh ngạc không chịu thôi, còn Di Thù rõ ràng kín đáo, giản dị hơn nhiều.
Lão quản gia không dẫn hộ vào trong nhà mà đi đến rừng trúc ở sau nhà, từ xa đã nghe thấy tiếng giao đấu và tiếng cổ cầm. Sauk hi đi vòng qua căn nhà liền thấy trên khoảng đất trống ở hậu viện có bày mấy chiếc bàn ghế, một thiếu nữ ăn vận như tì nữ đang gãy đàn, cách đó vài trượng, hai người đang tỉ võ, một người dùng trường thường, một người dùng trường đao.
Không cần nói, người dùng thương chính là Dù Thù, còn người dùng đao lại là Hàm Kỳ.
Hai người họ nếu nói là đang tỉ võ, chẳng thà nói là biểu diễn thì đúng hơn. Thương tới đao đi, mang theo tiết tấu tao nhã, hợp thành một thể với tiếng đàn, ánh trăng chiếu rọi lên hai người, trùm lên họ một màn ngân quang bằng bạc, phối hợp với binh khí vút lên xé gió, đánh rất đẹp mắt. Cho dù Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, cũng cảm thấy cảnh tượng đẹp mắt, trong lòng khoan khoái. Nhất thời cao hứng, không kìm được bước đến vỗ vai người chơi đàn, ra dấu tay với nàng ta.
Thiếu nữ chơi đàn hiểu ý, im lặng đứng dậy nhường chỗ. Mà nàng ta mới vừa rời tay, Khương Trầm Ngư đã thay nàng.
Dây rung, âm khởi, gió động.
Trong sân đao thương càng nhanh hơn, hồng bào áo đỏ tung bay phấp phới, phóng khoáng như nước chảy mây trôi.
Phan Phương yên lặng chăm chú nhìn chiêu thức của hai người, bỗng mặt biến sắc, gần như trong cùng một giây, trường thương trong tay Di Thù bay khỏi tay, vạch một đường cong trong không trung rồi cắm phập xuống đất, thân thương không ngừng rùg rung.
Khương Trầm Ngư vội dừng ty đứng dậy, nói gấp: “A Ngu nhất thời vui mừng quá hóa vô lễ, đàn quá khích động, tội đáng muôn chết!”. Nói đoạn định quỳ xuống, nhưng Di Thù giơ tay ngăn lại.
Di Thù cười nói: “Là ta võ nghệ không bằng người, bị đánh rớt binh khí, may mà thương bay về phía bên kia, không làm các ngươi bị thương”.
Khương Trầm Ngư áy náy nhìn Hàm Kỳ, thấy hắn im lặng ngẩn nhìn trường đao trong tay, sau đó ngẩng đầu nhìn nàng.
Những tin đồn tai tiếng nhỏ nhen có thù tất báo liên quan đến người này dội lên trong đầu, sắc mặt Khương Trầm Ngư trở nên hơi nhợt nhạt, nhưng không ngờ Hàm Kỳ không hề giận dữ, chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi đàn khá lắm”.
Di Thù xùy một tiếng, nhếch môi hỏi: “Nhị hoàng huynh bắt đầu hiểu những chuyện phong hoa tuyết nguyệt này từ lúc nào vậy? Ngu cô nương đàn thế nào, huynh có nghe ra không?”.
Hàm Kỳ không thèm đếm xỉa đến lời châm chọc của nàng ta, dán mắt nhìn Khương Trầm Ngư, hỏi: “Ngươi khỏi bệnh chưa?”.
Khương Trầm Ngư còn chưa kịp đáp lời, Di Thù lại cười ha ha: “Nhị hoàng huynh quan tâm người ta, luôn lo lắng cho bệnh của người ta”.
Khương Trầm Ngư nghe ra trong lời nói như có ẩn ý, có một cảm giác rất vi diệu, không kìm được khẽ chau mày. May mà Di Thù không lằng nhằng ở chủ đề này lâu, nói: “Thực ra vừa nãy ta và nhị hoàng huynh chỉ khởi động, chờ hai vị tới”.
Khương Trầm Ngư tỏ vẻ không hiểu.
Di Thù nói: “Nhị hoàng huynh nghe kể chuyện ta tỉ võ với Phan tướng quân xong, trong lòng ngứa ngáy không thôi, cũng muốn tỉ thí với tướng quân một phen”. Nói đoạn cười tươi roi rói.
Khương Trầm Ngư không khỏi nhớ tới Tần nương.
Trong ký ức của nàng, Tần nương chỉ có thể kể chuyện mới tương cười rực rỡ, thần thái vui tươi, mà sau khi tiếng phách vang lên, câu chuyện kết thúc, vẻ mặt nàng lập tức ủ dột. Cho dù đối diện với lời cầu thân của Phan Phương, giọng nói cũng vẫn nặng nề, không động thanh sắc.
Còn Di Thù lại khác, Di Thù hay cười hay nói, vẻ mặt không có một giây nào tĩnh lặng, mày liễu giương lên, khóe môi khép mở, trăm ngàn tư thế, hết mực phong tình.
Thực ra họ rất khác nhau.
Khi đã hiểu rõ điểm này, trong lòng Khương Trầm Ngư khe khẽ thở dài, quay sang nhìn Phan Phương, Phann Phương đang đối mắt với Hàm Kỳ, Hàm Kỳ tuy đã hết sức kìm chế, nhưng đáy mắt vẫn lỗ vẻ hưng phấn khó mà giấu diếm, kích động vì sắp được tỉ võ với một đối thủ như Phan Phương. Xem ra, vị hoàng tử này quả nhiên là một người cuồng võ.
Im lặng đối mắt một lúc, Hàm Kỳ giơ một tay lên, trầm giọng nói: “Mời chỉ giáo”.
Di Thù chạy đi nhỏ cây trường thương cắm trên đất lên. Ném về phía Phan Phương: “Phan tướng quân, dùng cây thương của ta đi!”.
Trước tình thế đó, Phan Phương đành giơ tay lên, đón lấy cây thương kia.
Như vậy, y không đấu cũng phải đấu.
Khương Trầm Ngư nhìn y, lại nhìn Di Thù, trong mắt lóe lên một tia dị sắc nhưng không nói gì, chủ động lui lại vài bước, tránh đến lúc tỉ thí làm mình bị thương.
So với sự trấn tĩnh của nàng, Di Thù rõ ràng cực kỳ kích động, hét lớn: “Đem trống lên!”.
Hai tên thị vệ lập tức bê một chiếc trống da trâu cao bằng thân người tới, Di Thù đích thân cầm dùi, dùi thứ nhất gõ xuống, tựa như sấm rền; dùi thứ hai gõ xuống, mưa lớn sầm sập. Cùng với tiết tấu càng lúc càng nhanh, bầu không khí phấn khích ngút trời cũng đột nhiên như cuồng phong bạo vũ quét qua toàn bộ hậu viện.
Mà trong tiếng trống phấn khích đó, Hàm Kỳ vung đao.
Ngân quang như chớp. chỉ lóe lên một cái, lưỡi đao lạnh buốt đã tới trước mắt Phan Phương.
Phan Phương buộc phải lùi lại một bước, giơ thương đỡ đao. Y còn chưa đứng vững, đao thứ hai đã gấp rút đuổi tới.
“Hảo đao pháp!”, Di Thù hô to, đánh trống càng hăng hơn.
Khương Trầm Ngư đứng cách đó rất xa, nhìn cuộc tỉ võ đối với người hiểu võ mà nói là trăm năm mới gặp một lần này, trái tim từ từ chùng xuống.
Một giọng nói từ sâu thẳm trong nội tâm vang lên: “Ngăn lại đi…”.
Một giọng nói khác lập tức phản bác: “Không được”.
“Sẽ xảy ra chuyện, ngươi biết mà…”.
“Đợi thêm chút nữa”.
“Không thể đợi được nữa, đến khi xáy ra chuyện thật thì tất cả đã muộn rồi!”.
“Không, đợi thêm chút nữa!”.
Hai giọng nói này càng nói càng nhanh, càng nói càng cuống, mà tiếng trống cũng càng lúc càng gấp, từng tiếng từng tiếng như gõ vào tim nàng. Khương Trầm Ngư không kìm được kêu lên một tiếng, đến bản thân cũng không hiểu nó nghĩa là gì, chính lúc đó, một đạo hàn quang từ xa bắn tới, ting một tiếng, không thiên không lệch, va đúng cán thương của Phan Phương, tay Phan Phương hơi run run, đầu thương đi lệch, sượt qua bên tai Hàm Kỳ.
Hai người lập tức dừng lại, một tia máu nhỏ trào ra trên má phải Hàm Kỳ, chảy rịn xuống dưới.
Phan Phương lập tức vứt trường thương, quỳ gối: “Tại hạ nhất thời bất cẩn, ngộ thương điện hạ, xin điện hạ thứ tội!”.
Sắc mặt Hàm Kỳ vô cùng, vô cùng khó coi, hắn đưa tay sờ mặt mình, nhìn thấy máu trên tay xong, mắt càng thêm u tối.
Di Thù đã ngừng gõ trống, quay người nhìn về một hướng, sắc mặt cũng không dễ coi, lạnh lùng nói: “Ta nói là ai, dám ngang nhiên can thiệp lúc nhị hoàng huynh và Phan tướng quân tỉ võ…”.
Một giọng cười nói: “Nếu như vừa nãy ta không ra tay, e rằng bây giờ nhị ca đã ngã lăn ra rồi. Muội nói xem, rốt cuộc ra có nên ra tay không?”.
Trên thế gian này có vô số điệu cười, nhưng chỉ có một điệu cười có thể thối tha, giảo hoạt, khiến người ta giận dữ đến mức hận không thể xong tới đá cho gã mấy cước thật mạnh.
Đó chính là – điệu cười của Di Phi.
Khương Trầm Ngư quay đầu lại, quả nhiên Di Phi đã tới.
Ánh mắt Di Phi lướt qua mặt nàng, ý cười càng đậm, bước chân không dừng, đi qua cúi người nhặt một chiếc nhân trên mặt đất lên, thổi bụi đất bám trên bề mặt, đeo lại vào ngón tay. Hóa ra, thứ đánh chệch trường thương của Phan Phương ban nãy chính là chiếc nhẫn của gã.
Khương Trầm Ngư trong lòng cả kinh. Tuy đã biết vị tam hoàng tử này không phải là hạng vô dụng, nhưng cho dù là tình báo của phụ thân cung cấp hay là trong tin tức lưu truyền của Trình quốc, đều nghe nói vị tam hoàng tử này không biết võ công. Thế nhưng, lúc nãy gã chỉ dùng một chiếc nhẫn đã có thể khiến hai người đang giao chiến kịch liệt dừng tay, công lực của gã thật là đáng sợ!
Bây giờ gã không hề che giấu bí mật này là vì mục đích gì?
Phía bên kia, Di Thù sầm mặt nói: “Tam hoàng huynh có ý gì? Lẽ nào Phan tướng quân định hại nhị hoàng huynh?”.
“Quả thực Phan tướng quân vô tâm…”, Di Phi thản nhiên cười, “Chỉ có điều, lỗi lầm vô tâm mới là đáng sợ nhất… phải không, nhị ca?”.
Hàm Kỳ vẫn đứng yên không nhúc nhích, tựa như không hề nghe thấy gã nói gì.
Di Phi lại lần nữa cúi người, nhặt trường thương lên, cầm bằng hai tay, đưa đến trước mặt Phan Phương: “Vừa nãy sự tình khẩn cấp, tự tiện xen vào cuộc tỉ thí của hai vị, mong tướng quân không trách”.
Phan Phương nhìn gã chăm chú, giơ tay nhận thương: “Đa tạ tam hoàng tử”.
Di Thù bực bội hỏi:”Huynh không mời mà đến là có chuyện gì?”.
“Sao? Bây giờ muội muội trở nên quan trọng, thân phận cao quý, oai phong, đến phủ công chúa ta cũng không được đến sao?”. Di Phi châm chọc, khiến Di Thù mặt trắng bệch, giậm chân nói: “Ai nói với huynh như thế! Muội, muội… không thèm để ý đến huynh nữa…”, nói đoạn quay đầu bỏ đi, để lại một đám người đối mặt nhìn nhau.
Di Phi cũng không để tâm, đến trước bọn Khương Trầm Ngư cười nói: “Vừa nãy ta có ghế qua nhà bếp, đồ ăn chuẩn bị gần xong rồi, chúng ta đừng ở đây nữa, vào trong nhà dùng bữa thôi. Không phải ta nói chứ, phủ công chúa cái gì cũng rách nát, duy chỉ có đầu bếp là thượng đẳng”.
Gã hớn hở phơi phới, đổi khách thành chủ,,mời mọi người bắt đầu yến tiệc. Mà người hầu trong phủ hình như cũng không cảm thấy có gì không thỏa đáng, ngoan ngoãn nghe theo, đem mỹ tửu sơn hào hải vị, hết món này đến món khác lên. Tuy không khí quái dị, nhưng đúng như DI Phi nói, tài nghệ của đầu bếp thực sự xuất sắc, đặc biệt là món Ngũ Hầu Chinh, vào miệng là tan ra, tươi ngon đến mức dường như muốn nuốt luôn cả lưỡi. Khương Trầm Ngư ăn mấy miếng liền.
Vừa mới buông đũa, liền cảm thấy một cái nhìn bỏng rát, nàng quay đầu lại nhìn, DI Phi đang cười híp mắt nhìn nàng, nói: “Ngu cô nương khẩu vị không tồi, có thể thấy bệnh đã gần khỏi rồi”.
Khương Trầm Ngư cười nhạt: “Vẫn phải đa tạ thuốc của tam điện hạ”.
“Nếu nàng thích món Ngũ Hầu Chinh này, lát nữa còn món Phượng Xuyên Mẫu Đơn cũng rất có tiếng, có thể thử xem sao”. Vừa nói thức ăn liền bưng lên, Di Phi tự mình múc một bát, bê tới trước mặt nàng. Khương Trầm Ngư vội vã đứng dậy nhận bát, Di Phi bỗng bấm vào hai ngón tay nàng, mắt lóe sáng kỳ dị, nửa cười nửa không.
Khương Trầm Ngư vô thức muốn rút tay ra, nhưng lực độ trên ngón tay nhìn có vẻ nhẹ nhàng, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, cho dù nàng dùng lực thế nào vẫn không hề nhúc nhích, đang lúc giằng co, một tay Di Phi bỗng nhẹ nhàng xoay lại, biến ra một đóa mẫu đơn, cài lên mái tóc nàng rồi mới thu tay, lùi lại mấy bước, ngắm kỹ rồi nói: “Danh hoa mỹ nhân, đúng là cùng khoe sắc”.
Khương Trầm Ngư nhất thời không biết làm thế nào, nhìn xung quanh, Phan Phương, Hàm Kỳ và đám nô bộc có mặt đều nhìn nàng, chỉ có Phan Phương lộ vẻ kinh ngạc, Hàm Kỳ nhíu mày trầm tư, còn những kẻ khác không hề có chút biểu cảm nào.
Một buổi dạ yến lớn như thế lại yên tĩnh đến mức đáng sợ.
Nàng cắn môi, đứng im hồi lâu mới gượng gạo giơ tay, gỡ đóa mẫu đơn đó xuống.
Mẫu đơn trong tay còn ngậm sương, cũng không biết Di Phi tìm ở đâu ra, màu sắc cực kỳ tươi tắn, dưới ánh đèn, đỏ như máu tươi.
Bàn tay nàng từ từ xiết chặt, cánh hoa bị bóp nát trong lòng bàn tay, sau đó nàng ném mạnh một cái, trúng mặt Di Phi.
Không thèm xem mọi người phản ứng như thế nào, Khương Trầm Ngư lập tức quay người rảo bước, khi đi ngang qua chỗ Phan Phương, chưa kịp mở miệng, Phan Phương đã chủ động đứng dậy đi theo.
Hai người cứ thế bỏ lại đám người sau lưng mà ra về. Dọc đường gặp mấy nô bộc, họ chỉ mải làm việc của mình, không hề ngăn cản.
Sau khi nhảy lên xe ngựa, Khương Trầm Ngư cuống quýt kêu: " Đến hoàng cung! Không, về dịch trạm! Không, vẫn nên đến hoàng cung... đợi đã...", lời nói hoảng loạng, nàng tự biết mình luống cuống, thở dài thườn thượt xong liền đưa tay bưng mặt.
Phan Phương trước sau vẫn.im lặng nhìn nàng, bỗng ấn nhẹ lên mu bàn tay nàng: "Bình tĩnh".
Vốn Khương Trầm Ngư đang cứng đờ người, bị y vỗ một cái, toàn thân run bắn, hơn nữa càng lúc càng run mạnh hơn, cuối cùng nàng buông tay xuống, ngước mắt lên đăm đăm nhìn y: "Phan tướng quân, chúng ta trốn mau".
Phan Phương kinh ngạc.
Khương Trầm Ngư tóm chặt lấy tay y, nói gấp: "Chúng ta mau về dịch trạm, phái người đến hoàng cung thông báo cho sư huynh tập hợp ở bến cảng... Ôi không, không kịp nữa rồi! Chúng ta đến thẳng hoàng cung, đón sư huynh rồi đi, ngay lập tức! Ngay bây giờ!".
Phan Phương trầm giọng hỏi: "Sao vậy? Trầm Ngư? Xảy ra chuyện gì?".
Hết thảy nỗi sợ hãi thấp thoáng của Khương Trầm Ngư ngưng kết trong khoảnh khắc, sau đó nàng lộ vẻ hoang mang, ánh mắt nàng không có tiêu cự, dừng trên.thành xe, thì thầm: "Canh hai đêm nay, Ngũ hầu khởi loạn, nếu chúng ta không muốn bị cuốn vào trong đó, chỉ có cách trốn...".
Vừa nói đến đây, xe ngựa đang chạy đột ngột dừng lại, tuấn mã lồng lên, hí lên những tiếng chói tai. Khương Trầm Ngư vội vã vén rèm, nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài xong, sắc.mặt tái mét: "Hỏng rồi, đã muộn rồi...".
Phan Phương nhìn theo nàng, thấy cách đó ba mươi trượng, mấy ngàn binh sĩ đứng sừng sững ở đầu con phố.
Gió thổi qua, lá quân kỳ tung bay, trên lá cờ màu hoa hạnh thêu đồ đằng chín con rắn, một chữ lớn thêu bằng chỉ đỏ như máu nổi.bần bật: "Tố".
Vị tướng quân thân mang ngân tỏa khôi giáp, chừng ba chục.tuổi quất ngựa đi tới trước xe, trầm giọng quát: "Xuống xe".
Khương Trầm Ngư cắn răng, quả quyết mở toang cửa xe, nhìn hắn nói: "Đây là xe của sứ thần Bích quốc, tướng quân đường đột ngăn cản là vì cớ gì?".
Nam tử đó mặt không cảm xúc, nói: "Nửa canh giờ trước, trong cung truyền tin Giang Vãn Y mất tích".
"Sư huynh ta mất tích?". Nàng sững sờ, lập tức hỏi lại: "Vậy tướng quân phải đến dịch quán tìm, sao lại cản đường chúng ta?".
Nam tử kia lộ điệu cười châm biếm, cực kỳ lạnh lùng thâm hiểm nói: "Hơn.nữa, hắn còn dẫn theo hoàng thượng cùng biến mất".
"Cái gì?". Khương Trầm Ngư và Phan Phương gần như đồng thanh kêu lên, đồng thời cùng nhìn thấy vẻ kinh ngạc sợ hãi trên gương mặt đối phương.
Bây giờ đúng là thiên hạ đại loạn...
Là bó tay chịu trói hay gắng sức phản kháng? Trong giây láy, vô số ý nghĩ xuất hiện trong đầu Khương Trầm Ngư, vẫn còn.chưa quyết định, chỉ nghe gió rít bên tai, Phan Phương ra tay nhanh như chớp, một tay bóp cổ tên tướng quân kia, lôi hắn từ trên ngựa vào trong xe.
Tên tướng quân đó kêu lên kinh hãi, ngay lập tức, Phan Phương điểm huyệt hắn, chỉ thấy hắn mặt mày sợ hãi, đỏ dựng lên, nhưng không nói được đến nửa lời.
Hành động nhanh như điện xẹt, vừa bất ngờ vừa nhanh nhạy, vì thế, khi quân đội đứng chờ ở phía xa kia phản ứng lại, Phan Phương đã rút đao, kề vào cổ tướng quân nọ, lạnh lùng ra lệnh: "Các ngươi nhúc nhích, hắn chết".
Mấy tên dẫn đầu còn lại chần chừ nhìn nhau. Không đợi chúng chọn lựa, Phan Phương lệnh cho phu xe:"Quay đầu, về phủ công chúa".
Phu xe sợ đến mức mặt cắt không còn giọt máu, vội vàng kéo dây cương, quay đầu xe. Ngựa vừa khua vó chạy, quân đội đã đuổi theo sau. Phan Phương đâm vào mông ngựa, tuấn mã bị đau, hí lên một tiếng rồi chạy như điên.
Thế nhưng, tốc độ xe ngựa vẫn không bì được với đơn kỵ (*), thấy khoảng cách càng ngày càng bị thu hẹp, tuy đối phương nhất thời sợ ném chuột vỡ bình, không dám bắn tên, nhưng cứ tiếp tục thế này sớm muộn gì cũng bị bao vây bắt sống, Khương Trầm Ngư nghĩ đến đây, hô lên: “Sư Tẩu”.
(*) Đơn kỵ: Một người cưỡi một ngựa
Ám vệ từ dưới gầm xe nhô lên nửa người, tay trái vung lên, chỉ nghe một tiếng bịch, một vật nào đó rơi xuống đất nổ tung, khỏi vàng lan ra, che khuất tầm nhìn của đối phương.
Phan Phương chớp thời cơ quyết đoán vứt tên tướng quân đã bị điểm huyệt sang một bên, ôm Trầm Ngư nhảy qua cửa sổ, nhờ sự che dấu của màn khói ù mịt lăn dưới đất một vòng, rồi nhảy lên mái nhà bên cạnh đường, lại nhảy thêm mấy cái, trốn sau một mái nhà.
Xe ngựa vẫn lao về phía trước với tốc độ điên cuồng, khói dần tản đi, thiết kỵ tiếp tục truy đuổi. Cứ thế kẻ trước người sau chạy qua con phố dài.
Khương Trầm Ngư nấp trên mái nhà, nhìn thấy hết thảy, trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Không phải là sợ hãi nhưng hoang mang lạ lùng.
“Tiếp theo đi đâu?”. Phan Phương quay đầu khẽ hỏi, sau đó rút cánh tay đang ôm eo nàng lại.
Đi đâu?
Phủ công chúa tuy có Di Phi, nhưng bây giờ gã và Lâm Tố như lửa với nước, hơn nữa, vừa nãy Di Phi để mặc nàng bỏ đi không ngăn cản, cho thấy muốn nàng tự nghĩ cách.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư hơi sầm xuống, mau chóng đưa ra quyết định: “Đến phố Hoa Tân”.
Đi tìm Hách Dịch.
Phố Hoa Tân thuộc phạm vi thế lực của Nghi quốc, Hách Dịch xét cả về công lẫn tư, đều sẽ không thấy chết không cứu, hơn nữa nơi đó là phố chợ, cũng dễ dàng ẩn náu.
Phan Phương gật đầu, nói: “Mạo phạm rồi”, lại lần nữa ôm nàng nhảy khỏi mái nhà không một tiếng động, chạy thẳng về hướng phố Hoa Tân.
Khương Trầm Ngư không kìm được gọi: “Sư Tẩu?”.
Một giọng nói đáp lại: “Chủ nhân, có thuộc hạ”.
Rất tốt, hắn cũng đi theo. Khương Trầm Ngư bấy giờ mới an tâm, sau đó bắt đầu sắp xếp trong đầu một lần nữa tất cả các sự kiện. Đúng lúc đó, Phan Phương hỏi: “Làm sao nàng biết xảy ra chuyện? Là Di Phi ám hiệu cho nàng?”.
“Đúng”. Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ, nói: “Phan tướng quân, khi ngài và Hàm Kỳ tỉ võ, tiếng trông đó… rất cổ quái đúng không?”.
Phan Phương im lặng giây lát mới gật đầu: “Ừ. Tiếng trống có sát khí”.
Quả nhiên là thế…
Khương Trầm Ngư biết rõ tính cách Phan Phương, một cuộc tỉ võ cần thận trọng như thế tất phải nương tay vài phần, nhưng vừa nãy nếu không phải Di Phi xen vào, một thương đó có khả năng sẽ đâm trúng tim Hàm Kỳ, nghĩ đi nghĩ lại, chắc chắn là do tiếng trống kia giở trò, đến một người không hiểu võ công như nàng đứng bên nghe còn cảm thấy tim đập thình thịch, kích động vô cớ, huống hồ là Phan Phương thân trong trận chiến?
Như thế vẫn đề là: Di Thù gõ trống là vô tình hay cố ý?
Khương Trầm Ngư nheo mắt, căn bản không cần nghĩ cũng biết là cố ý!
Vị công chúa này nhìn có vẻ phóng khoáng hào sảng, không có chút thẹn thùng yểu điệu của tiểu nữ nhi, nhất cử nhất động đều chiếm thiện cảm của người khác. Nhưng, nếu nghĩ kỹ, từng hành động lại cực kỳ đáng sợ, có dụng ý sâu xa.
Đầu tiên, nàng ta lấy danh nghĩa tặng thuốc đến dịch trạm thăm Trầm Ngư, mục đích là tỉ võ với Phan Phương. Khi đó chỉ nói là một kẻ cuồng võ, nhưng giờ nghĩ lại, có lẽ nàng ta muốn thăm dò võ công của Phan Phương rốt cuộc ra sao, có đủ để giết Hàm Kỳ hay không.
Còn Phan Phương quả nhiên không phụ kỳ vọng, võ công vượt xa nàng ta, vì thế nàng ta mời họ đến phủ công chúa dự yến, sắp xếp Phan Phương tỉ võ với Hàm Kỳ.
Khương Trầm Ngư cảm thấy mình giống như một người mò mẫm tìm đường trong hầm tối quá lâu, cuối cùng đã nhìn thấy chút ánh sáng phía trước, vội vã mải miết suy nghĩ.
Bình luận truyện