Hoắc Loạn Giang Hồ
Quyển 1 - Chương 1: Máu đổ Tái Bắc
Đại mạc Tái Bắc, hai quân đánh nhau kịch liệt nhiều tháng, đại doanh quân Ung liên tiếp báo tin chiến thắng.
Ở gần nơi giao chiến, trên mặt đất cát dày cắm một cây cờ soái, trên vải cờ chỉ có một chữ hào hùng đậm mùi mực Tàu —— Hoắc. Ở địa giới này, gió thổi vù vù quanh năm, ngọn cờ tung bay trong gió, có một khí khái không thể miêu tả được.
Lúc này vừa qua giờ Ngọ, là thời điểm ánh mặt trời chói chang nhất, gió cũng gào thét rất khí thế, mà ở đằng xa kia, tiếng người át cả tiếng gió, còn lẫn theo tiếng những món đồ sắt va đập vào nhau. Binh lính của Đại Ung và người Đột Quyết chém giết kịch liệt, binh lính Đại Ung có thế hơn một chút, nhìn bằng mắt cũng thấy là sắp thắng rồi.
Người ta thường nói, nghe mùi son phấn biết đàn bà, mùi nhàn nhạt của phong lan là nữ nhi khuê các, vị thanh thanh của sơn trà là nha đầu nông thôn, mùi hương gai mũi thì chính là của các kỹ nữ chốn lầu xanh, còn trên chiến trường, giết người đến đỏ cả mắt, gầm rú đến phồng cả gân xanh, chỉ có thể xem khôi giáp để phân biệt quân hàm.
Ở chính giữa binh đoàn có một con ngựa đen sẫm cường tráng, chân đóng móng sắt, giẫm lên đất tạo ra một vết lõm, nam tử trên lưng ngựa mặt mày cương nghị, dù hàng lông mày nhíu chặt cũng cảm thấy uy nghiêm, mạnh mẽ mà không ác, không có một chút nét gian xảo nào.
Chàng mặc một bộ khôi giáp vàng óng, trước ngực đặt một miếng hộ tâm phản quang, khiến cả người cũng trở nên chói lòa. Khi giương cung bạt kiếm, trên cánh tay phất phới một tấm vải tím, khí thế đầy hăng hái, uy phong như thân phận chủ soái.
Còn nam tử dẫn đầu phe chém giết, trông còn trẻ tuổi, mặc áo giáp xám bạc, vì trên mặt bắn tóe máu, cố giấu đi ba phần anh tuấn, sức mạnh chém giết như dời núi lấp biển, phô bày khí thế anh dũng.
Trên cánh tay hắn cũng quấn vải, màu đỏ thấu, trông rất đẹp mắt trong màu cát vàng, tôn lên bộ khôi giáp màu lạnh cũng có chút hơi ấm. “Roẹt”, tiếng mũi kiếm đâm vào trong bụng, máu phụt ra tung tóe, còn có chất nhớp nháp của phế phủ đã nát bươm, rút kiếm ra, cuốn theo gió dính theo cát, mũi kiếm nặng hơn một chút.
Trận chiến vốn đang ác liệt, chiêu kiếm này khiến những người xung quanh phải ngừng thở, hóa ra là tướng quân Đột Quyết vừa bị đâm. Muốn bắt giặc thì phải bắt vua trước, người cầm đầu đã bỏ mạng, binh lính tức khắc sẽ càng hoang mang, mà hung ác hơn là, tướng quân Đột Quyết này bị một nhát kiếm cắt bỏ thủ cấp.
Tái Bắc tương truyền, tiểu tướng quân họ Hoắc triều nhà Ung rất thích chém đầu người, bất kì chiến dịch to nhỏ nào, khi giao chiến cũng phải chém đứt thủ cấp đối phương, còn muốn đi rêu rao khắp nơi. Nhìn thấy chưa, cái đầu còn nóng hổi máu tươi như một quả cầu máu, bị hắn treo trên yên ngựa, đơn giản như treo một miếng ngọc bội.
Gió nơi này chưa từng ngừng lại, cát vàng lại nhỏ, thổi không tiêu tan, máu chảy xuống như vũng nước hòa vào thành bùn. Tướng lĩnh đã chết, tàn binh thấy đại thế đã diệt, phàm là còn chân đi được thì đều trốn chạy sạch sành sanh.
Thắng rồi, chủ soái phất tay: “—— Bắt tù binh hồi doanh!”
Mệnh lệnh vừa phát ra, bất kể ai đang bị thương, đang mệt mỏi, đang hấp hối đều phải bỏ hết sát khí còn dư lại, nhưng không ngờ rằng, vị phó soái quấn vải đỏ kia lại bất chấp, mím chặt môi, không nói không rằng, hai chân kẹp bụng ngựa phóng đi truy sát tàn binh.
“Hoắc Lâm Phong!” Chủ soái rống lên, không có tiếng đáp lại, “Đứng lại!” lại rống lên lần nữa, nhưng chỉ thấy bóng lưng, bóng lưng ấy đã phóng đi xa đến nỗi chỉ còn lại một chấm ảnh.
Vó ngựa đạp lên máu, Hoắc Lâm Phong xách kiếm truy đuổi bảy, tám dặm, người ngồi trên yên vui sướng, còn có chút hoạt bát. Ánh mắt phóng tới, đội tàn binh bại tướng ở xa xa kia rồi, tổng cộng có ba mươi tư tên, đối phương thấy hắn đuổi đến, liếc nhau thương lượng, liền quyết tâm tử chiến đến cùng.
“Hu!” Hoắc Lâm Phong dừng lại cách đó ba mươi bước, chắc là vì chạy lâu nên nóng rồi, nhấc tay cởi mũ giáp xuống, mồ hôi chảy ròng ròng, đuôi ngựa cột cao, cái đầu hoàn toàn phơi ra trước ánh nắng. Hắn lau mặt, vệt máu bên tóc mai loang ra, bốc lên mùi tanh.
Đội tàn binh đã bước đến đường cùng, vung kiếm qua đầu, hạ quyết tâm: “Xông lên! Giết!” nhưng ánh mắt lại đang nói, “Ta đã chuẩn bị tâm lý sẽ chết rồi.”
Hoắc Lâm Phong phô ra ánh mắt như nhìn người chết, tung người thanh thoát, mũi giày đạp lên đầu ngựa, hắn biết về càng muộn thì chủ soái sẽ càng tức giận, nên hắn phải giải quyết thật nhanh.
Vì thế hắn khoa trương đến tột cùng, ra tay tung tuyệt chiêu, đốm lửa ánh kim giương cao giữa bầu trời cát vàng, hắn thao túng thế trận nghìn cân, một kiếm vung ra là lấy đi một mạng. Ngoại trừ âm thanh của những ngọn gió thét gào thì đều là những tiếng kêu thảm bị hắn chém tận giết tuyệt.
Đại mạc xa xôi gió táp vào mặt, một giây trước người sống còn kinh hoàng thét lên, một giây sau người chết đã cát vàng đắp xác, xoay người leo lên ngựa, ngay cả hài cốt cũng bị hắn cắn nuốt sạch sẽ.
Dắt cương về doanh trại, trên đường về không tránh khỏi những đống hỗn loạn, Hoắc Lâm Phong dừng lại ngâm lên một giai điệu, réo rắt nặng nề, là một khúc bi thương không tên. Sau mỗi một cuộc chiến, dù thua hay thắng hắn đều sẽ ngâm điệu khúc này, để an ủi bạch cốt cô hồn của những tướng sĩ đã hy sinh.
Hết một khúc, cưỡi ngựa về doanh trại, doanh trướng ở đằng xa xa, nhác thấy chủ soái đang đứng uy nghiêm ở phía trước. Một đám tiểu tốt đứng canh cổng doanh trại, túm chân kéo hắn xuống, “Úi!” Hắn nghẹn họng la lên, bị áp giải tới trước trướng, đối diện với gương mặt lạnh lùng như sắt đá của chủ soái.
“Thuộc hạ nguyện nhận trách phạt.” Hắn cất lời nhận sai trước để được khoan hồng, rồi bổ sung thêm, “Thuộc hạ tuyệt đối sẽ không tái phạm nữa.”
Chủ soái Hoắc Kinh Hải, huynh trưởng của Hoắc Lâm Phong, điềm tĩnh như đá ngầm dưới biển sâu, chính trực đến mức không thể bấu víu: “Thân là phó soái, đạo lý không đuổi giặc cùng đường, chẳng lẽ đệ không hiểu hay sao?” Nhận lỗi cũng vô hiệu, không thể thương lượng, “Làm trái mệnh lệnh của thượng cấp, xử theo quân pháp phạt sáu mươi trượng.”
Chuyện đã đến nước này, Hoắc Lâm Phong đành phải ngoan ngoãn chịu phạt, nếu như cho hắn chọn lại lần nữa, hắn nhất định vẫn sẽ đuổi theo đám tàn binh. Vừa biết chữ đã đọc binh thư, mười ba tuổi ra chiến trường, cho đến tận bây giờ, tính mạng chết trong tay hắn còn nhiều hơn cả số lương thực hắn ăn, đã dám truy đuổi thì dám chịu phạt.
Đám binh buông lỏng kìm hãm để hắn lột khôi giáp, cởi y phục, thân thể cường tráng chằng chịt vết sẹo lộ ra, nằm sấp xuống chịu trượng. Mười trượng hằn vết đỏ, ba mươi trượng sưng tấy như gò đất, hết sáu mươi trượng, nếu không phải hắn có võ công hộ thể thì đã sớm nát bấy da thịt.
Hoắc Lâm Phong chưa rên tiếng nào, nhưng cũng còn oán giận, hắn lén lườm Hoắc Kinh Hải một cái.
Trận ác chiến này kéo dài đến nửa năm, diễn ra ngắt quãng, thương vong khó mà đếm nổi. Trận này vừa thắng, phải nhanh chóng bẩm báo cho thiên tử Đại Ung, nơi biên thùy đã được dẹp loạn, sau khi thiên tử xem tấu thư liền phái người truyền tin phong thưởng.
Kiểu gì cũng phải đợi, không vội. Hoắc Lâm Phong lúc trước sắm vai lão hổ nhe nanh gầm gừ chinh phạt sa trường, bây giờ vừa thái bình thì lập tức trở thành chàng công tử bột lười nhác, tĩnh dưỡng trong trướng ba ngày, ở trần phơi lưng, tiểu tốt bị hắn sai khiến đến nỗi muốn đứt cả hai chân.
Vết thương kết vảy, cuối cùng hắn cũng chịu mặc quần áo, một bộ thường phục lam sẫm gần như đen, khép vạt áo bên phải lại rồi buộc dây, buộc tay áo, viền mép có hoa văn dệt, phối với phát quan (*) màu tối. Hắn chỉnh trang xong xuôi, xứng danh “ngọc thụ lâm phong”.
(*) phát quan: chữ quan ở đây có nghĩa là mũ mão, chứ không phải có nghĩa là quan viên, quan sai. Còn phát là mái tóc, tóm lại nó là cái mũ cài tóc, xin hãy nhìn chàng Mục Trần đáng iu bên dưới để dễ hình dung cái phát quan
Rời khỏi trướng đi tìm Hoắc Kinh Hải, “Đại ca.” Cơn tức tối vì bị mắng bị đánh đều đã tiêu tan hết, hắn gọi vô cùng thân mật, hân hoan lên ngựa, “Về thành thôi!”
Huynh đệ hai người rong ruổi về thành, bách tính trong thành đều vây quanh chào đón, náo nhiệt y như là gặp hỉ sự. Hoắc Lâm Phong mệt mỏi khi phải xã giao nên nói: “Đại ca, đệ đi trước đây.” Hắn bỏ huynh trưởng lại phía sau, kéo dây cương, lọc cọc đi mất.
Tái Bắc bao la, thành trì san sát nối tiếp nhau, phóng tầm mắt ra xa chẳng thấy điểm cuối. “Hu!” Đường rộng thênh thang, Hoắc Lâm Phong xuống ngựa, bậc tam cấp lát đá xanh, cột nhà sơn đỏ, xà nhà chạm trổ hoa văn, hộ vệ canh cửa chắp tay hành lễ, hắn gật đầu, tiến vào trong phủ nhà cao cửa rộng này.
Bức hoành gỗ mun treo cao trên cửa ghi —— Định Bắc Hầu phủ.
Bên trong gian nhỏ sau cánh cửa, lão quản gia hộ môn ló đầu ra: “Ô! Thiếu gia không bị thương! Lão bộc phải đi tạ lễ thần thôi!”
Bước chân Hoắc Lâm Phong dửng dưng, vừa đi qua, nghe thế quay đầu lại, giống như một cậu nhóc lỗ mãng ồn ào cáo trạng: “Sáu mươi quân trượng mới kết vảy, đại ca đích thân giám sát đấy.”
Những lời sau đó hắn không nghe kĩ, đi qua tiền viện, bị cảnh sắc ở mép hiên hấp dẫn. Một cây ngọc lan cao lớn vừa mới đâm chồi, tràn đầy sức sống, đầu cành phe phẩy trên đấu củng (*). Sau khi bị ngọc lan thu hút ánh nhìn, hắn tiến vào sảnh đầu, đi thẳng ra cửa nhỏ bên hông, vén lớp mành nặng trịch trên cửa ra, mành đung đưa qua lại một hồi.
(*) đấu củng: là những thanh xà chĩa ra như vậy nè
Các nha đầu giúp việc đang quét đất, vẩy nước, vừa nhìn thấy hắn liền dừng công việc lại, đồng loạt hô “Thiếu gia”, bà vú lớn tuổi nhác thấy: “Ai u!” Ba từ “Tiểu tổ tông” khoa trương vẫn chưa thốt lên thì người đã đi xa rồi, bà vuốt ngực rồi xoa xoa bóp bóp, “Già rồi, mắt cũng hoa thật rồi!”
Hầu phủ rất sâu, sảnh chính còn giấu kín hơn cả đại tiểu thư nhà quyền quý, lại đi qua một hành lang nữa, ánh mắt Hoắc Lâm Phong nhanh hơn cả bước chân, bước nhanh vào thính đường. “Cha.” Cửa để mở, không kiêng nể gì, hắn vừa cất lời lên thì ở góc nào cũng có thể nghe được, “Cha, con về rồi.” Vừa thấy cha, lại trở nên cung kính.
Đầu sảnh, thảm hoa dày tối màu tiêu trừ hết tiếng giày, trên lư đồng nạm tứ thiềm (*), giữa các lỗ hổng lượn lờ những khói, tôn lên bốn con cóc kia như muốn mọc cánh thành tiên. Ở giữa là một hộp gỗ lim bỏ mấy viên nến và miếng da hươu dùng để lau kiếm.
(*) tứ thiềm: bốn con cóc, hình ảnh con cóc là để chiêu tài, bốn con cóc giống như là trấn bốn phía để tiền không đổ ra ngoài
Trên ghế bành bên cạnh bàn có một người đang ngồi ngay ngắn, hai ba phần kiêu ngạo, bảy tám phần còn lại là uy nghiêm.
Huyền bào màu sắc u ám, đai lưng màu chàm, bên sườn hông treo một chiếc ngọc giác (*), sợi dây đỏ kết lại hơi ngổn ngang. Xiêm y tinh tế, con người cũng không dễ dãi, trên cằm có một búi râu, mi cốt và sống mũi ngay thẳng, cặp mắt thâm thúy, mái tóc đen nhánh sáng bóng, phát quan xa hoa mà phải cài cao thì mới tôn lên được thân phận.
(*) ngọc giác: là miếng ngọc tròn được khoét một cái lỗ bên trong và một cái rãnh như vậy nè
Người này hơn bốn mươi tuổi, cha của Hoắc Lâm Phong, Định Bắc Hầu Hoắc Chiêu.
Hoắc Chiêu đang lau bảo kiếm, mắt cũng không nhấc lên, không thèm nhìn con trai đã gầy đi bao nhiêu, cũng không xem thương tích thế nào. “Nghe nói…” Ánh mắt lạnh lẽo như thanh kiếm ấy, giọng trầm đục như tiếng chuông, “Con lại làm trái quân lệnh?”
Hoắc Lâm Phong ngồi xuống trước, nghiêng người dựa vào: “Con đã chịu phạt rồi.” Trả lời không đúng trọng tâm xong, hắn mở nắp hộp lên, bã đậu, lê hấp, mứt hoa đều được sắp gọn gàng. “Đại ca quá bảo thủ, quả thật là không nên đuổi giặc cùng đường, nhưng địch và ta thực lực chênh lệch, phải thừa thắng xông lên chứ.” Quy củ vẫn phải có, hắn đáp xong mới bốc một miếng lê hấp lên.
Nhắc Tào Tháo là Tào Tháo tới, Hoắc Kinh Hải quay về muộn, cũng chưa vào tới cửa đã gọi “Phụ thân”, hành lễ xong thì ngồi xuống bẩm báo quân tình.
Hoắc Lâm Phong nhai mứt hoa, ngọt thấu cả cổ họng, hắn hốc một ngụm trà lớn, cầm chén ngẩng đầu uống, vừa cúi đầu xuống thoáng thấy một khuôn mặt tròn ngoài cửa nhỏ. Tai đeo hạt châu, càng làm khuôn mặt thêm tròn, là nha hoàn Mai Tử của phu nhân.
Đang gọi hắn đây sao! Hắn bỏ chén xuống, chuồn đi, vừa ra đến cửa nhỏ đi thẳng đến đầu bên kia hành lang: “Mai Tử, ngươi ăn ít lại đi!” Nói móc tiểu nha đầu xong, đi qua thùy hoa môn, một chiếc chuông quấn vào thùy liên trụ (*), hắn nhảy lên vỗ vào, chuông liền kêu leng keng.
(*) thùy hoa môn, thùy liên trụ
Mai Tử che miệng cười: “Phu nhân bảo treo cho thiếu gia đó, người khác không được chạm vào đâu.”
Hoắc Lâm Phong thấy lạ, nói: “Ta đã hai mươi ba rồi, còn treo chuông cho ta chơi à?”
Mai Tử cười: “Đâu có, phu nhân nhớ thương thiếu gia, nên treo chuông để thiếu gia nhìn thấy, chắc chắn sẽ nhảy lên vỗ.” Đầu ngón tay nhấc lên, chỉ về nội viện, “Phu nhân nghe thấy, là biết thiếu gia đã về nhà.”
Chuông vẫn còn đang xoay mòng mòng, xoay đến độ tim Hoắc Lâm Phong nóng lên, bay thẳng vào nội viện, hạ nhân bên ngoài phật đường mời hắn vào trong. Trước mặt phật mà cao giọng thì sẽ bị mắng, hắn đè thấp giọng gọi một tiếng “Mẹ”.
Hoắc môn Bạch thị, khi còn trẻ bà là mỹ nhân đệ nhất, khi tuổi đã xế chiều, lại như chiếc trâm ngọc cài tóc, mài mòn đến độ đã lộ ra chất quý bên trong. Bà quay đầu lại liền thay đổi ngay dáng vẻ chủ mẫu không sợ sóng to gió lớn, chỉ nhìn con trai chăm chăm, vội vàng đứng dậy khỏi đệm cói.
Bàn thờ Phật ở trên, Hoắc Lâm Phong nói rất ngây thơ không kiêng kỵ gì: “Mẹ, con đã toàn thắng rồi, còn cúng Bồ Tát làm gì?”
Bạch thị cầm khăn lụa che miệng hắn lại: “Đó không phải khiêu khích đại ca con đâu, mà là xúc phạm Bồ Tát đấy.” Che một lát rồi dời đi, ôm lấy hai má Hoắc Lâm Phong, “Lương bổng không đủ ăn à, sao mà gầy đi nhiều thế?”
Hoắc Lâm Phong nói: “Ăn nhiều không cưỡi ngựa được, phải đói một chút thì mới giết địch lưu loát.”
Vì thấy mẹ thương xót, còn chưa tới giờ dùng bữa, không kiêng nể ai hết, hắn gọi người chuẩn bị tiệc rượu xa hoa. Hoắc Lâm Phong ăn cùng với Bạch thị, vui cười la rầy cũng không hề gì, đợi đến khi Bạch thị muốn xem vết thương của hắn, hắn liền nhanh chân chuồn đi.
Phòng ngủ của hắn ở một viện riêng, mấy tháng không về, đột kích tới xem đám hạ nhân có làm càn làm ẩu hay không, lặng lẽ thăm dò, lại nhìn thấy sân trước được quét tước cẩn thận tỉ mỉ. “Thiếu gia!” Bất thình lình có người gọi, hắn nhìn theo, là tên đầy tớ thân cận của hắn, Đỗ Tranh.
Vóc người Đỗ Tranh thấp bé, gầy gò, chỉ có mỗi một mẩu, Hoắc Lâm Phong nhỏ hơn cậu ta hai tuổi, có ơn cứu mạng cậu ta. “Thiếu gia! Thiếu gia!” Cậu ta gọi liền ba tiếng, chạy lạc cả hơi, nhưng lại cười hềnh hệch, “Thiếu gia, hí hí.”
Dáng vẻ khờ khạo này khiến Hoắc Lâm Phong nhức cả đầu, hắn quay đầu về phòng, cởi bỏ kiếm, nằm soài lên giường không thèm câu nệ. Đỗ Tranh ngồi xổm bên giường đấm bóp chân cho hắn, thịt chắc xương cứng, hắn chẳng có cảm giác gì, mà bàn tay thô ráp của Đỗ Tranh đã đỏ bừng trước rồi.
“Thiếu gia, trận này có sảng khoái không?” Đỗ Tranh hỏi.
Hoắc Lâm Phong trả lời: “Bảo vệ bách tính, chuyện liên lụy đến mạng người, sao mà bàn đến sảng khoái được.” Dáng vẻ nghiêm túc, trong con ngươi có gì đó lắng đọng lại. Thu lại nết bướng bỉnh, không khoe mẽ với cha và huynh trưởng, không làm nũng với mẹ, giọng điệu và thần thái này, là Hoắc tướng quân quấn vải đỏ phi mã trên cát.
“Thái bình rồi.” Hắn nhìn vọng ra quang cảnh ngoài cửa sổ, “Không có chuyện gì khác thì thật tốt.”
Trời dần tối, một người cao gầy trong đám nha hoàn đi đốt một nén hương, lết váy thắp một dọc đèn dầu. Mấy tên đầy tớ tay thô không làm được, đi mãi chưa hết hành lang thì hương đã cháy sạch rồi.
Đến khi thắp hết bốn góc sân, chao đèn sáng ngời, nha hoàn ấy đi đun nước hãm trà, rót trà cho chủ tử xong mới đi. Hoắc Lâm Phong thấy ngón tay trắng nõn sơn đỏ, lật một trang sách rồi nói: “Chỗ của ta không cần thắp đèn đâu.” Lười biếng phân phó, ngụ ý của hắn là ngại người ta làm phiền chỗ thanh vắng của hắn.
Nha hoàn tên Bão Nguyệt, giọng dịu dàng nói: “Phu nhân bảo nô tỳ coi sóc cẩn thận, làm mất nhã hứng của thiếu gia, mong thiếu gia đừng trách tội.”
Im lặng đi là được rồi, sao lại còn trình bày nguyên nhân nữa? Hoắc Lâm Phong phất tay: “Sau này không cần làm vậy nữa đâu, ngươi đi làm chuyện của mình đi.”
Bão Nguyệt xách váy đi, eo lắc lư, dáng vẻ khoan thai đó, xem ra là một nha đầu được sủng ái. “Thiếu gia.” Đỗ Tranh nhảy ra, dâng trà lên, cầm đèn tới gần hơn một chút, “Hí hí.” Gương mặt hiền lành chân thật hiếm khi hiện lên vẻ láu cá.
Hoắc Lâm Phong ghét bỏ nói: “Sao cả ngày ngươi đều cười hềnh hệch ra thế?”
Đỗ Tranh đáp: “Có chuyện tốt mà, đương nhiên phải cười chứ.” Cậu ta không thể đợi được muốn làm Cát Quan báo hỉ (*), to gan ghé lại gần, “Nghe Mai Tử nói, từ lâu phu nhân đã không gọi Bão Nguyệt làm việc nặng nhọc rồi, thưởng cho lược ngọc cài tóc, định để cho thiếu gia thu nhận làm tiểu thiếp đấy!”
(*) Cát Quan: Cát là may mắn, quan là quan viên
Còn chưa kết hôn, thu nhận một hai nha đầu vừa ý cũng là chuyện thường tình. Bẹp, Hoắc Lâm Phong gập sách lại, duỗi lưng đẩy Đỗ Tranh ra, chẳng có gì thú vị, thu nhận một đứa nha đầu về làm thiếp mà gọi là hỉ sự cái gì chứ? Nghĩ đi nghĩ lại, cho phép cô ta thắp đèn thì được hơn.
Hoắc Lâm Phong đi về phòng, đi đánh trận xong, trong lồng ngực cứ thấy không dễ chịu, dứt khoát thổi tắt một loạt ánh nến trên đường. Đỗ Tranh đi phía sau, mí mắt nhíu lại: “Thiếu gia, sao lại thổi hết nến thế…” Như là hiểu ra, mí mắt trợn trừng, “Người không thích Bão Nguyệt à! Bích Trâm thì sao? Tôi thấy Vãn Sênh cũng được lắm…”
Rầm, cánh cửa chạm trổ hoa văn rúng động, Hoắc Lâm Phong cáu lên rồi. Đỗ Tranh không dám hé miệng nữa, lấy một cái đệm cói đặt sát bên cửa, ngồi khoanh chân, đút tay vào tay áo, yên phận trông coi.
Cậu ta thầm nhủ, mong là chủ tử đừng có nhắm trúng Mai Tử, vì cậu ta thích Mai Tử…
Hoắc Lâm Phong không biết nội tâm đầy tớ của mình, lăn lộn trên giường, gối tơ tằm trơn nhẵn, cảm giác không quen lắm. Quân doanh đơn sơ, phản thì cứng, đệm chăn thì thô ráp, ruột gối không biết dùng loại hạt gì, khi tình hình chiến đấu cấp bách đến cả khôi giáp cũng không cởi mà cũng có thể nằm như xác chết được.
Hai ba tháng đóng quân ở đại mạc, đêm đến nhóm lửa trại, các tướng sĩ dựa vào nhau nghỉ ngơi. Không được nằm, vì nửa đêm sẽ bị gió cát chôn vùi, cứ hai người một tấm khiên, vừa lạnh vừa vất vả.
Hoắc Lâm Phong nhớ lại những chuyện này, trở mình ngồi tựa vào giường, tấm chăn hoa văn tròn (*) phủ trên người hắn, hắn vén rèm lên, khoảng không bên ngoài tối như hũ nút không có chút ánh sáng. Hắn nghĩ, có nên nhận một người về bầu bạn hay chăng? Có phải vào lúc này, ngay dưới ánh mắt hắn, người đó sẽ nằm trong lòng hắn, nghe hắn kể chuyện, chỉnh lại gối đầu méo xẹo của hắn không?
(*) hoa văn tròn:
Trong đầu óc, trong tim hắn cũng tối đen như mực vậy, không có hình dáng cụ thể, không có gương mặt sinh động nào. Hắn chỉ chắc chắn rằng, Bão Nguyệt không được, Bích Trâm không được, Vãn Sênh cũng không được, Mai Tử, con nha đầu mặt tròn đó, chỉ cần ăn quà vặt là đủ rồi, cần gì phải có đàn ông… Hắn muốn có một người, có thể khiến hắn nguyện bày tỏ lòng mình.
Người đó dáng vẻ như thế nào, ở chân trời hay là góc bể, nghe hắn kể chuyện xong buồn ngủ đến díp cả mắt, hay là bô bô gọi “tiểu hầu gia”, hắn hoàn toàn không biết.
Yên vui sinh phiền não, hắn bỏ màn xuống, sờ sờ vết thương cách lớp áo, một lớp vảy tróc ra, vẫn nên nghĩ về quân đội vậy.
Hoắc Lâm Phong ở nhà tĩnh dưỡng rất kĩ, không có gì ngoài việc nghị sự cùng Hoắc Chiêu, Hoắc Kinh Hải và ra ngoài chơi bời lêu lổng. Trước tiên là dòm ngó cây ngọc lan, tước đi một cành, đem về biệt uyển (vườn riêng) của mình. Đến câu lan (*) gặp được một tên lính đã nghỉ hưu, gã là ông chủ ở đây, gọi đào kép đến đàn mấy bài hành khúc, đối ẩm vài canh giờ.
(*) câu lan: nơi hát múa và diễn kịch thời nhà Tống, Nguyên
Tên gác cổng thay ca: “Mùi rượu nồng thế, ai mà lại không biết tiết chế như vậy.” Từ xa đã ngửi thấy mùi rồi, đến khi lại gần, gã sợ đến nỗi nín lặng, “Thiếu gia, sao lại là ngài, để tôi bảo người đi hầm canh chua!”
Hoắc Lâm Phong nói: “Ta không có say, không cần phải tỉnh rượu.” Ba vò lớn, nhưng ánh mắt vẫn tinh tường như hai dòng suối sâu thẳm. Đi vào hiên nhà nội viện, Bạch thị nghe thấy hắn tới, ngoắc tay như gọi trẻ con, hắn kéo ghế ra ngồi xuống: “Mẹ, con có uống chút rượu.”
Bạch thị lấy khăn lụa bịt mũi và miệng lại, bị mùi rượu trên người hắn xông vào, lại vẫy tay: “Bão Nguyệt, đi nấu bát canh chua cho thiếu gia đi.”
Hoắc Lâm Phong chưa từ chối, mười ngón tay đan xen, ngón cái vuốt ngón trỏ, canh chua nấu xong rồi, lớp da ở chỗ đó bị vuốt đến nóng lên. Hắn khuấy bát canh lên, húp một ngụm, nâng đuôi mắt lên cũng giống như là đang làm khổ thân phận cao quý của hắn vậy.
“Canh chua, nhưng mà không được chua lắm.” Hắn lườm Bão Nguyệt, Bão Nguyệt đứng bên cạnh, chiếc váy màu hồng cánh sen phối cùng gương mặt hồng hào, bị hắn chê một tiếng, gương mặt hồng hào ấy lập tức trở nên xanh ngắt.
Hắn chỉ húp một hớp rồi đứng dậy: “Canh chua của ngươi không đủ chua, tẻ nhạt vô vị, sau này không cần nấu nữa, chỉ thắp đèn là được rồi.” Nói xong, nhìn vào đôi mắt đầy tiếc nuối của Bạch Thị, “Mẹ, vết thương của con khỏi rồi, sáng mai con về quân doanh luyện binh.”
Hoắc Lâm Phong hành sự lưu loát, nói dứt lời liền quay về thu xếp đồ đạc. Chỉ có một ít xiêm y, vớ vải, gói vào tay nải xong, thấy cửa sổ hơi hé mở, ánh trăng len lỏi chui vào. Hắn đi tới đóng cửa lại, mượn ánh sáng lau lại Quyết Minh kiếm, món bảo bối đệ nhất của hắn.
Có tiếng bước chân, Đỗ Tranh lại tới canh cửa đêm, lát sau, lại có tiếng bước chân khác uyển chuyển hơn, không biết được là ai. “… Không dám tức giận, sao cô ta dám tức giận chứ?” Tiếng ồn ào của Mai Tử, sau đó lại kể cho Đỗ Tranh, “Bọn người Bích Trâm đều đang cười nhạo cô ta, quái thật, bọn họ đến cả cơ hội nấu canh chua cũng không có, còn không bằng được Bão Nguyệt.”
Đỗ Tranh nói: “Thiếu gia nói không chua, Bão Nguyệt đáng lẽ nên bưng một dĩa giấm chua lên luôn chứ!”
Hai người che miệng cười khanh khách, ngồi dưới cửa sổ cười đến nỗi sắp nở hoa. Hoắc Lâm Phong lau xong, thò đầu ra lườm: “Còn có pha trò gây cười nữa à? Nếu không có, thì ta đang nghỉ ngơi đấy.”
Đỗ Tranh sợ hãi ngẩng mặt lên, gương mặt tròn xoe của Mai Tử cũng đỏ bừng, đã ngồi lê đôi mách với đầy tớ còn bị chủ tử tóm được, chọc phải ông trời rồi… Trong tim Hoắc Lâm Phong xẹt qua một chút ý nghĩ xấu xa, cảm giác như hai người này đang bị bắt gian vậy. Nhưng không thể nói ra, nếu như nói ra, trong một canh giờ Mai Tử chắc chắn sẽ nhảy xuống hồ mất.
“Hết chuyện rồi chứ gì?” Hắn hỏi, sau đó phất tay, “Vậy giải tán đi, ta mệt rồi.”
Ở gần nơi giao chiến, trên mặt đất cát dày cắm một cây cờ soái, trên vải cờ chỉ có một chữ hào hùng đậm mùi mực Tàu —— Hoắc. Ở địa giới này, gió thổi vù vù quanh năm, ngọn cờ tung bay trong gió, có một khí khái không thể miêu tả được.
Lúc này vừa qua giờ Ngọ, là thời điểm ánh mặt trời chói chang nhất, gió cũng gào thét rất khí thế, mà ở đằng xa kia, tiếng người át cả tiếng gió, còn lẫn theo tiếng những món đồ sắt va đập vào nhau. Binh lính của Đại Ung và người Đột Quyết chém giết kịch liệt, binh lính Đại Ung có thế hơn một chút, nhìn bằng mắt cũng thấy là sắp thắng rồi.
Người ta thường nói, nghe mùi son phấn biết đàn bà, mùi nhàn nhạt của phong lan là nữ nhi khuê các, vị thanh thanh của sơn trà là nha đầu nông thôn, mùi hương gai mũi thì chính là của các kỹ nữ chốn lầu xanh, còn trên chiến trường, giết người đến đỏ cả mắt, gầm rú đến phồng cả gân xanh, chỉ có thể xem khôi giáp để phân biệt quân hàm.
Ở chính giữa binh đoàn có một con ngựa đen sẫm cường tráng, chân đóng móng sắt, giẫm lên đất tạo ra một vết lõm, nam tử trên lưng ngựa mặt mày cương nghị, dù hàng lông mày nhíu chặt cũng cảm thấy uy nghiêm, mạnh mẽ mà không ác, không có một chút nét gian xảo nào.
Chàng mặc một bộ khôi giáp vàng óng, trước ngực đặt một miếng hộ tâm phản quang, khiến cả người cũng trở nên chói lòa. Khi giương cung bạt kiếm, trên cánh tay phất phới một tấm vải tím, khí thế đầy hăng hái, uy phong như thân phận chủ soái.
Còn nam tử dẫn đầu phe chém giết, trông còn trẻ tuổi, mặc áo giáp xám bạc, vì trên mặt bắn tóe máu, cố giấu đi ba phần anh tuấn, sức mạnh chém giết như dời núi lấp biển, phô bày khí thế anh dũng.
Trên cánh tay hắn cũng quấn vải, màu đỏ thấu, trông rất đẹp mắt trong màu cát vàng, tôn lên bộ khôi giáp màu lạnh cũng có chút hơi ấm. “Roẹt”, tiếng mũi kiếm đâm vào trong bụng, máu phụt ra tung tóe, còn có chất nhớp nháp của phế phủ đã nát bươm, rút kiếm ra, cuốn theo gió dính theo cát, mũi kiếm nặng hơn một chút.
Trận chiến vốn đang ác liệt, chiêu kiếm này khiến những người xung quanh phải ngừng thở, hóa ra là tướng quân Đột Quyết vừa bị đâm. Muốn bắt giặc thì phải bắt vua trước, người cầm đầu đã bỏ mạng, binh lính tức khắc sẽ càng hoang mang, mà hung ác hơn là, tướng quân Đột Quyết này bị một nhát kiếm cắt bỏ thủ cấp.
Tái Bắc tương truyền, tiểu tướng quân họ Hoắc triều nhà Ung rất thích chém đầu người, bất kì chiến dịch to nhỏ nào, khi giao chiến cũng phải chém đứt thủ cấp đối phương, còn muốn đi rêu rao khắp nơi. Nhìn thấy chưa, cái đầu còn nóng hổi máu tươi như một quả cầu máu, bị hắn treo trên yên ngựa, đơn giản như treo một miếng ngọc bội.
Gió nơi này chưa từng ngừng lại, cát vàng lại nhỏ, thổi không tiêu tan, máu chảy xuống như vũng nước hòa vào thành bùn. Tướng lĩnh đã chết, tàn binh thấy đại thế đã diệt, phàm là còn chân đi được thì đều trốn chạy sạch sành sanh.
Thắng rồi, chủ soái phất tay: “—— Bắt tù binh hồi doanh!”
Mệnh lệnh vừa phát ra, bất kể ai đang bị thương, đang mệt mỏi, đang hấp hối đều phải bỏ hết sát khí còn dư lại, nhưng không ngờ rằng, vị phó soái quấn vải đỏ kia lại bất chấp, mím chặt môi, không nói không rằng, hai chân kẹp bụng ngựa phóng đi truy sát tàn binh.
“Hoắc Lâm Phong!” Chủ soái rống lên, không có tiếng đáp lại, “Đứng lại!” lại rống lên lần nữa, nhưng chỉ thấy bóng lưng, bóng lưng ấy đã phóng đi xa đến nỗi chỉ còn lại một chấm ảnh.
Vó ngựa đạp lên máu, Hoắc Lâm Phong xách kiếm truy đuổi bảy, tám dặm, người ngồi trên yên vui sướng, còn có chút hoạt bát. Ánh mắt phóng tới, đội tàn binh bại tướng ở xa xa kia rồi, tổng cộng có ba mươi tư tên, đối phương thấy hắn đuổi đến, liếc nhau thương lượng, liền quyết tâm tử chiến đến cùng.
“Hu!” Hoắc Lâm Phong dừng lại cách đó ba mươi bước, chắc là vì chạy lâu nên nóng rồi, nhấc tay cởi mũ giáp xuống, mồ hôi chảy ròng ròng, đuôi ngựa cột cao, cái đầu hoàn toàn phơi ra trước ánh nắng. Hắn lau mặt, vệt máu bên tóc mai loang ra, bốc lên mùi tanh.
Đội tàn binh đã bước đến đường cùng, vung kiếm qua đầu, hạ quyết tâm: “Xông lên! Giết!” nhưng ánh mắt lại đang nói, “Ta đã chuẩn bị tâm lý sẽ chết rồi.”
Hoắc Lâm Phong phô ra ánh mắt như nhìn người chết, tung người thanh thoát, mũi giày đạp lên đầu ngựa, hắn biết về càng muộn thì chủ soái sẽ càng tức giận, nên hắn phải giải quyết thật nhanh.
Vì thế hắn khoa trương đến tột cùng, ra tay tung tuyệt chiêu, đốm lửa ánh kim giương cao giữa bầu trời cát vàng, hắn thao túng thế trận nghìn cân, một kiếm vung ra là lấy đi một mạng. Ngoại trừ âm thanh của những ngọn gió thét gào thì đều là những tiếng kêu thảm bị hắn chém tận giết tuyệt.
Đại mạc xa xôi gió táp vào mặt, một giây trước người sống còn kinh hoàng thét lên, một giây sau người chết đã cát vàng đắp xác, xoay người leo lên ngựa, ngay cả hài cốt cũng bị hắn cắn nuốt sạch sẽ.
Dắt cương về doanh trại, trên đường về không tránh khỏi những đống hỗn loạn, Hoắc Lâm Phong dừng lại ngâm lên một giai điệu, réo rắt nặng nề, là một khúc bi thương không tên. Sau mỗi một cuộc chiến, dù thua hay thắng hắn đều sẽ ngâm điệu khúc này, để an ủi bạch cốt cô hồn của những tướng sĩ đã hy sinh.
Hết một khúc, cưỡi ngựa về doanh trại, doanh trướng ở đằng xa xa, nhác thấy chủ soái đang đứng uy nghiêm ở phía trước. Một đám tiểu tốt đứng canh cổng doanh trại, túm chân kéo hắn xuống, “Úi!” Hắn nghẹn họng la lên, bị áp giải tới trước trướng, đối diện với gương mặt lạnh lùng như sắt đá của chủ soái.
“Thuộc hạ nguyện nhận trách phạt.” Hắn cất lời nhận sai trước để được khoan hồng, rồi bổ sung thêm, “Thuộc hạ tuyệt đối sẽ không tái phạm nữa.”
Chủ soái Hoắc Kinh Hải, huynh trưởng của Hoắc Lâm Phong, điềm tĩnh như đá ngầm dưới biển sâu, chính trực đến mức không thể bấu víu: “Thân là phó soái, đạo lý không đuổi giặc cùng đường, chẳng lẽ đệ không hiểu hay sao?” Nhận lỗi cũng vô hiệu, không thể thương lượng, “Làm trái mệnh lệnh của thượng cấp, xử theo quân pháp phạt sáu mươi trượng.”
Chuyện đã đến nước này, Hoắc Lâm Phong đành phải ngoan ngoãn chịu phạt, nếu như cho hắn chọn lại lần nữa, hắn nhất định vẫn sẽ đuổi theo đám tàn binh. Vừa biết chữ đã đọc binh thư, mười ba tuổi ra chiến trường, cho đến tận bây giờ, tính mạng chết trong tay hắn còn nhiều hơn cả số lương thực hắn ăn, đã dám truy đuổi thì dám chịu phạt.
Đám binh buông lỏng kìm hãm để hắn lột khôi giáp, cởi y phục, thân thể cường tráng chằng chịt vết sẹo lộ ra, nằm sấp xuống chịu trượng. Mười trượng hằn vết đỏ, ba mươi trượng sưng tấy như gò đất, hết sáu mươi trượng, nếu không phải hắn có võ công hộ thể thì đã sớm nát bấy da thịt.
Hoắc Lâm Phong chưa rên tiếng nào, nhưng cũng còn oán giận, hắn lén lườm Hoắc Kinh Hải một cái.
Trận ác chiến này kéo dài đến nửa năm, diễn ra ngắt quãng, thương vong khó mà đếm nổi. Trận này vừa thắng, phải nhanh chóng bẩm báo cho thiên tử Đại Ung, nơi biên thùy đã được dẹp loạn, sau khi thiên tử xem tấu thư liền phái người truyền tin phong thưởng.
Kiểu gì cũng phải đợi, không vội. Hoắc Lâm Phong lúc trước sắm vai lão hổ nhe nanh gầm gừ chinh phạt sa trường, bây giờ vừa thái bình thì lập tức trở thành chàng công tử bột lười nhác, tĩnh dưỡng trong trướng ba ngày, ở trần phơi lưng, tiểu tốt bị hắn sai khiến đến nỗi muốn đứt cả hai chân.
Vết thương kết vảy, cuối cùng hắn cũng chịu mặc quần áo, một bộ thường phục lam sẫm gần như đen, khép vạt áo bên phải lại rồi buộc dây, buộc tay áo, viền mép có hoa văn dệt, phối với phát quan (*) màu tối. Hắn chỉnh trang xong xuôi, xứng danh “ngọc thụ lâm phong”.
(*) phát quan: chữ quan ở đây có nghĩa là mũ mão, chứ không phải có nghĩa là quan viên, quan sai. Còn phát là mái tóc, tóm lại nó là cái mũ cài tóc, xin hãy nhìn chàng Mục Trần đáng iu bên dưới để dễ hình dung cái phát quan
Rời khỏi trướng đi tìm Hoắc Kinh Hải, “Đại ca.” Cơn tức tối vì bị mắng bị đánh đều đã tiêu tan hết, hắn gọi vô cùng thân mật, hân hoan lên ngựa, “Về thành thôi!”
Huynh đệ hai người rong ruổi về thành, bách tính trong thành đều vây quanh chào đón, náo nhiệt y như là gặp hỉ sự. Hoắc Lâm Phong mệt mỏi khi phải xã giao nên nói: “Đại ca, đệ đi trước đây.” Hắn bỏ huynh trưởng lại phía sau, kéo dây cương, lọc cọc đi mất.
Tái Bắc bao la, thành trì san sát nối tiếp nhau, phóng tầm mắt ra xa chẳng thấy điểm cuối. “Hu!” Đường rộng thênh thang, Hoắc Lâm Phong xuống ngựa, bậc tam cấp lát đá xanh, cột nhà sơn đỏ, xà nhà chạm trổ hoa văn, hộ vệ canh cửa chắp tay hành lễ, hắn gật đầu, tiến vào trong phủ nhà cao cửa rộng này.
Bức hoành gỗ mun treo cao trên cửa ghi —— Định Bắc Hầu phủ.
Bên trong gian nhỏ sau cánh cửa, lão quản gia hộ môn ló đầu ra: “Ô! Thiếu gia không bị thương! Lão bộc phải đi tạ lễ thần thôi!”
Bước chân Hoắc Lâm Phong dửng dưng, vừa đi qua, nghe thế quay đầu lại, giống như một cậu nhóc lỗ mãng ồn ào cáo trạng: “Sáu mươi quân trượng mới kết vảy, đại ca đích thân giám sát đấy.”
Những lời sau đó hắn không nghe kĩ, đi qua tiền viện, bị cảnh sắc ở mép hiên hấp dẫn. Một cây ngọc lan cao lớn vừa mới đâm chồi, tràn đầy sức sống, đầu cành phe phẩy trên đấu củng (*). Sau khi bị ngọc lan thu hút ánh nhìn, hắn tiến vào sảnh đầu, đi thẳng ra cửa nhỏ bên hông, vén lớp mành nặng trịch trên cửa ra, mành đung đưa qua lại một hồi.
(*) đấu củng: là những thanh xà chĩa ra như vậy nè
Các nha đầu giúp việc đang quét đất, vẩy nước, vừa nhìn thấy hắn liền dừng công việc lại, đồng loạt hô “Thiếu gia”, bà vú lớn tuổi nhác thấy: “Ai u!” Ba từ “Tiểu tổ tông” khoa trương vẫn chưa thốt lên thì người đã đi xa rồi, bà vuốt ngực rồi xoa xoa bóp bóp, “Già rồi, mắt cũng hoa thật rồi!”
Hầu phủ rất sâu, sảnh chính còn giấu kín hơn cả đại tiểu thư nhà quyền quý, lại đi qua một hành lang nữa, ánh mắt Hoắc Lâm Phong nhanh hơn cả bước chân, bước nhanh vào thính đường. “Cha.” Cửa để mở, không kiêng nể gì, hắn vừa cất lời lên thì ở góc nào cũng có thể nghe được, “Cha, con về rồi.” Vừa thấy cha, lại trở nên cung kính.
Đầu sảnh, thảm hoa dày tối màu tiêu trừ hết tiếng giày, trên lư đồng nạm tứ thiềm (*), giữa các lỗ hổng lượn lờ những khói, tôn lên bốn con cóc kia như muốn mọc cánh thành tiên. Ở giữa là một hộp gỗ lim bỏ mấy viên nến và miếng da hươu dùng để lau kiếm.
(*) tứ thiềm: bốn con cóc, hình ảnh con cóc là để chiêu tài, bốn con cóc giống như là trấn bốn phía để tiền không đổ ra ngoài
Trên ghế bành bên cạnh bàn có một người đang ngồi ngay ngắn, hai ba phần kiêu ngạo, bảy tám phần còn lại là uy nghiêm.
Huyền bào màu sắc u ám, đai lưng màu chàm, bên sườn hông treo một chiếc ngọc giác (*), sợi dây đỏ kết lại hơi ngổn ngang. Xiêm y tinh tế, con người cũng không dễ dãi, trên cằm có một búi râu, mi cốt và sống mũi ngay thẳng, cặp mắt thâm thúy, mái tóc đen nhánh sáng bóng, phát quan xa hoa mà phải cài cao thì mới tôn lên được thân phận.
(*) ngọc giác: là miếng ngọc tròn được khoét một cái lỗ bên trong và một cái rãnh như vậy nè
Người này hơn bốn mươi tuổi, cha của Hoắc Lâm Phong, Định Bắc Hầu Hoắc Chiêu.
Hoắc Chiêu đang lau bảo kiếm, mắt cũng không nhấc lên, không thèm nhìn con trai đã gầy đi bao nhiêu, cũng không xem thương tích thế nào. “Nghe nói…” Ánh mắt lạnh lẽo như thanh kiếm ấy, giọng trầm đục như tiếng chuông, “Con lại làm trái quân lệnh?”
Hoắc Lâm Phong ngồi xuống trước, nghiêng người dựa vào: “Con đã chịu phạt rồi.” Trả lời không đúng trọng tâm xong, hắn mở nắp hộp lên, bã đậu, lê hấp, mứt hoa đều được sắp gọn gàng. “Đại ca quá bảo thủ, quả thật là không nên đuổi giặc cùng đường, nhưng địch và ta thực lực chênh lệch, phải thừa thắng xông lên chứ.” Quy củ vẫn phải có, hắn đáp xong mới bốc một miếng lê hấp lên.
Nhắc Tào Tháo là Tào Tháo tới, Hoắc Kinh Hải quay về muộn, cũng chưa vào tới cửa đã gọi “Phụ thân”, hành lễ xong thì ngồi xuống bẩm báo quân tình.
Hoắc Lâm Phong nhai mứt hoa, ngọt thấu cả cổ họng, hắn hốc một ngụm trà lớn, cầm chén ngẩng đầu uống, vừa cúi đầu xuống thoáng thấy một khuôn mặt tròn ngoài cửa nhỏ. Tai đeo hạt châu, càng làm khuôn mặt thêm tròn, là nha hoàn Mai Tử của phu nhân.
Đang gọi hắn đây sao! Hắn bỏ chén xuống, chuồn đi, vừa ra đến cửa nhỏ đi thẳng đến đầu bên kia hành lang: “Mai Tử, ngươi ăn ít lại đi!” Nói móc tiểu nha đầu xong, đi qua thùy hoa môn, một chiếc chuông quấn vào thùy liên trụ (*), hắn nhảy lên vỗ vào, chuông liền kêu leng keng.
(*) thùy hoa môn, thùy liên trụ
Mai Tử che miệng cười: “Phu nhân bảo treo cho thiếu gia đó, người khác không được chạm vào đâu.”
Hoắc Lâm Phong thấy lạ, nói: “Ta đã hai mươi ba rồi, còn treo chuông cho ta chơi à?”
Mai Tử cười: “Đâu có, phu nhân nhớ thương thiếu gia, nên treo chuông để thiếu gia nhìn thấy, chắc chắn sẽ nhảy lên vỗ.” Đầu ngón tay nhấc lên, chỉ về nội viện, “Phu nhân nghe thấy, là biết thiếu gia đã về nhà.”
Chuông vẫn còn đang xoay mòng mòng, xoay đến độ tim Hoắc Lâm Phong nóng lên, bay thẳng vào nội viện, hạ nhân bên ngoài phật đường mời hắn vào trong. Trước mặt phật mà cao giọng thì sẽ bị mắng, hắn đè thấp giọng gọi một tiếng “Mẹ”.
Hoắc môn Bạch thị, khi còn trẻ bà là mỹ nhân đệ nhất, khi tuổi đã xế chiều, lại như chiếc trâm ngọc cài tóc, mài mòn đến độ đã lộ ra chất quý bên trong. Bà quay đầu lại liền thay đổi ngay dáng vẻ chủ mẫu không sợ sóng to gió lớn, chỉ nhìn con trai chăm chăm, vội vàng đứng dậy khỏi đệm cói.
Bàn thờ Phật ở trên, Hoắc Lâm Phong nói rất ngây thơ không kiêng kỵ gì: “Mẹ, con đã toàn thắng rồi, còn cúng Bồ Tát làm gì?”
Bạch thị cầm khăn lụa che miệng hắn lại: “Đó không phải khiêu khích đại ca con đâu, mà là xúc phạm Bồ Tát đấy.” Che một lát rồi dời đi, ôm lấy hai má Hoắc Lâm Phong, “Lương bổng không đủ ăn à, sao mà gầy đi nhiều thế?”
Hoắc Lâm Phong nói: “Ăn nhiều không cưỡi ngựa được, phải đói một chút thì mới giết địch lưu loát.”
Vì thấy mẹ thương xót, còn chưa tới giờ dùng bữa, không kiêng nể ai hết, hắn gọi người chuẩn bị tiệc rượu xa hoa. Hoắc Lâm Phong ăn cùng với Bạch thị, vui cười la rầy cũng không hề gì, đợi đến khi Bạch thị muốn xem vết thương của hắn, hắn liền nhanh chân chuồn đi.
Phòng ngủ của hắn ở một viện riêng, mấy tháng không về, đột kích tới xem đám hạ nhân có làm càn làm ẩu hay không, lặng lẽ thăm dò, lại nhìn thấy sân trước được quét tước cẩn thận tỉ mỉ. “Thiếu gia!” Bất thình lình có người gọi, hắn nhìn theo, là tên đầy tớ thân cận của hắn, Đỗ Tranh.
Vóc người Đỗ Tranh thấp bé, gầy gò, chỉ có mỗi một mẩu, Hoắc Lâm Phong nhỏ hơn cậu ta hai tuổi, có ơn cứu mạng cậu ta. “Thiếu gia! Thiếu gia!” Cậu ta gọi liền ba tiếng, chạy lạc cả hơi, nhưng lại cười hềnh hệch, “Thiếu gia, hí hí.”
Dáng vẻ khờ khạo này khiến Hoắc Lâm Phong nhức cả đầu, hắn quay đầu về phòng, cởi bỏ kiếm, nằm soài lên giường không thèm câu nệ. Đỗ Tranh ngồi xổm bên giường đấm bóp chân cho hắn, thịt chắc xương cứng, hắn chẳng có cảm giác gì, mà bàn tay thô ráp của Đỗ Tranh đã đỏ bừng trước rồi.
“Thiếu gia, trận này có sảng khoái không?” Đỗ Tranh hỏi.
Hoắc Lâm Phong trả lời: “Bảo vệ bách tính, chuyện liên lụy đến mạng người, sao mà bàn đến sảng khoái được.” Dáng vẻ nghiêm túc, trong con ngươi có gì đó lắng đọng lại. Thu lại nết bướng bỉnh, không khoe mẽ với cha và huynh trưởng, không làm nũng với mẹ, giọng điệu và thần thái này, là Hoắc tướng quân quấn vải đỏ phi mã trên cát.
“Thái bình rồi.” Hắn nhìn vọng ra quang cảnh ngoài cửa sổ, “Không có chuyện gì khác thì thật tốt.”
Trời dần tối, một người cao gầy trong đám nha hoàn đi đốt một nén hương, lết váy thắp một dọc đèn dầu. Mấy tên đầy tớ tay thô không làm được, đi mãi chưa hết hành lang thì hương đã cháy sạch rồi.
Đến khi thắp hết bốn góc sân, chao đèn sáng ngời, nha hoàn ấy đi đun nước hãm trà, rót trà cho chủ tử xong mới đi. Hoắc Lâm Phong thấy ngón tay trắng nõn sơn đỏ, lật một trang sách rồi nói: “Chỗ của ta không cần thắp đèn đâu.” Lười biếng phân phó, ngụ ý của hắn là ngại người ta làm phiền chỗ thanh vắng của hắn.
Nha hoàn tên Bão Nguyệt, giọng dịu dàng nói: “Phu nhân bảo nô tỳ coi sóc cẩn thận, làm mất nhã hứng của thiếu gia, mong thiếu gia đừng trách tội.”
Im lặng đi là được rồi, sao lại còn trình bày nguyên nhân nữa? Hoắc Lâm Phong phất tay: “Sau này không cần làm vậy nữa đâu, ngươi đi làm chuyện của mình đi.”
Bão Nguyệt xách váy đi, eo lắc lư, dáng vẻ khoan thai đó, xem ra là một nha đầu được sủng ái. “Thiếu gia.” Đỗ Tranh nhảy ra, dâng trà lên, cầm đèn tới gần hơn một chút, “Hí hí.” Gương mặt hiền lành chân thật hiếm khi hiện lên vẻ láu cá.
Hoắc Lâm Phong ghét bỏ nói: “Sao cả ngày ngươi đều cười hềnh hệch ra thế?”
Đỗ Tranh đáp: “Có chuyện tốt mà, đương nhiên phải cười chứ.” Cậu ta không thể đợi được muốn làm Cát Quan báo hỉ (*), to gan ghé lại gần, “Nghe Mai Tử nói, từ lâu phu nhân đã không gọi Bão Nguyệt làm việc nặng nhọc rồi, thưởng cho lược ngọc cài tóc, định để cho thiếu gia thu nhận làm tiểu thiếp đấy!”
(*) Cát Quan: Cát là may mắn, quan là quan viên
Còn chưa kết hôn, thu nhận một hai nha đầu vừa ý cũng là chuyện thường tình. Bẹp, Hoắc Lâm Phong gập sách lại, duỗi lưng đẩy Đỗ Tranh ra, chẳng có gì thú vị, thu nhận một đứa nha đầu về làm thiếp mà gọi là hỉ sự cái gì chứ? Nghĩ đi nghĩ lại, cho phép cô ta thắp đèn thì được hơn.
Hoắc Lâm Phong đi về phòng, đi đánh trận xong, trong lồng ngực cứ thấy không dễ chịu, dứt khoát thổi tắt một loạt ánh nến trên đường. Đỗ Tranh đi phía sau, mí mắt nhíu lại: “Thiếu gia, sao lại thổi hết nến thế…” Như là hiểu ra, mí mắt trợn trừng, “Người không thích Bão Nguyệt à! Bích Trâm thì sao? Tôi thấy Vãn Sênh cũng được lắm…”
Rầm, cánh cửa chạm trổ hoa văn rúng động, Hoắc Lâm Phong cáu lên rồi. Đỗ Tranh không dám hé miệng nữa, lấy một cái đệm cói đặt sát bên cửa, ngồi khoanh chân, đút tay vào tay áo, yên phận trông coi.
Cậu ta thầm nhủ, mong là chủ tử đừng có nhắm trúng Mai Tử, vì cậu ta thích Mai Tử…
Hoắc Lâm Phong không biết nội tâm đầy tớ của mình, lăn lộn trên giường, gối tơ tằm trơn nhẵn, cảm giác không quen lắm. Quân doanh đơn sơ, phản thì cứng, đệm chăn thì thô ráp, ruột gối không biết dùng loại hạt gì, khi tình hình chiến đấu cấp bách đến cả khôi giáp cũng không cởi mà cũng có thể nằm như xác chết được.
Hai ba tháng đóng quân ở đại mạc, đêm đến nhóm lửa trại, các tướng sĩ dựa vào nhau nghỉ ngơi. Không được nằm, vì nửa đêm sẽ bị gió cát chôn vùi, cứ hai người một tấm khiên, vừa lạnh vừa vất vả.
Hoắc Lâm Phong nhớ lại những chuyện này, trở mình ngồi tựa vào giường, tấm chăn hoa văn tròn (*) phủ trên người hắn, hắn vén rèm lên, khoảng không bên ngoài tối như hũ nút không có chút ánh sáng. Hắn nghĩ, có nên nhận một người về bầu bạn hay chăng? Có phải vào lúc này, ngay dưới ánh mắt hắn, người đó sẽ nằm trong lòng hắn, nghe hắn kể chuyện, chỉnh lại gối đầu méo xẹo của hắn không?
(*) hoa văn tròn:
Trong đầu óc, trong tim hắn cũng tối đen như mực vậy, không có hình dáng cụ thể, không có gương mặt sinh động nào. Hắn chỉ chắc chắn rằng, Bão Nguyệt không được, Bích Trâm không được, Vãn Sênh cũng không được, Mai Tử, con nha đầu mặt tròn đó, chỉ cần ăn quà vặt là đủ rồi, cần gì phải có đàn ông… Hắn muốn có một người, có thể khiến hắn nguyện bày tỏ lòng mình.
Người đó dáng vẻ như thế nào, ở chân trời hay là góc bể, nghe hắn kể chuyện xong buồn ngủ đến díp cả mắt, hay là bô bô gọi “tiểu hầu gia”, hắn hoàn toàn không biết.
Yên vui sinh phiền não, hắn bỏ màn xuống, sờ sờ vết thương cách lớp áo, một lớp vảy tróc ra, vẫn nên nghĩ về quân đội vậy.
Hoắc Lâm Phong ở nhà tĩnh dưỡng rất kĩ, không có gì ngoài việc nghị sự cùng Hoắc Chiêu, Hoắc Kinh Hải và ra ngoài chơi bời lêu lổng. Trước tiên là dòm ngó cây ngọc lan, tước đi một cành, đem về biệt uyển (vườn riêng) của mình. Đến câu lan (*) gặp được một tên lính đã nghỉ hưu, gã là ông chủ ở đây, gọi đào kép đến đàn mấy bài hành khúc, đối ẩm vài canh giờ.
(*) câu lan: nơi hát múa và diễn kịch thời nhà Tống, Nguyên
Tên gác cổng thay ca: “Mùi rượu nồng thế, ai mà lại không biết tiết chế như vậy.” Từ xa đã ngửi thấy mùi rồi, đến khi lại gần, gã sợ đến nỗi nín lặng, “Thiếu gia, sao lại là ngài, để tôi bảo người đi hầm canh chua!”
Hoắc Lâm Phong nói: “Ta không có say, không cần phải tỉnh rượu.” Ba vò lớn, nhưng ánh mắt vẫn tinh tường như hai dòng suối sâu thẳm. Đi vào hiên nhà nội viện, Bạch thị nghe thấy hắn tới, ngoắc tay như gọi trẻ con, hắn kéo ghế ra ngồi xuống: “Mẹ, con có uống chút rượu.”
Bạch thị lấy khăn lụa bịt mũi và miệng lại, bị mùi rượu trên người hắn xông vào, lại vẫy tay: “Bão Nguyệt, đi nấu bát canh chua cho thiếu gia đi.”
Hoắc Lâm Phong chưa từ chối, mười ngón tay đan xen, ngón cái vuốt ngón trỏ, canh chua nấu xong rồi, lớp da ở chỗ đó bị vuốt đến nóng lên. Hắn khuấy bát canh lên, húp một ngụm, nâng đuôi mắt lên cũng giống như là đang làm khổ thân phận cao quý của hắn vậy.
“Canh chua, nhưng mà không được chua lắm.” Hắn lườm Bão Nguyệt, Bão Nguyệt đứng bên cạnh, chiếc váy màu hồng cánh sen phối cùng gương mặt hồng hào, bị hắn chê một tiếng, gương mặt hồng hào ấy lập tức trở nên xanh ngắt.
Hắn chỉ húp một hớp rồi đứng dậy: “Canh chua của ngươi không đủ chua, tẻ nhạt vô vị, sau này không cần nấu nữa, chỉ thắp đèn là được rồi.” Nói xong, nhìn vào đôi mắt đầy tiếc nuối của Bạch Thị, “Mẹ, vết thương của con khỏi rồi, sáng mai con về quân doanh luyện binh.”
Hoắc Lâm Phong hành sự lưu loát, nói dứt lời liền quay về thu xếp đồ đạc. Chỉ có một ít xiêm y, vớ vải, gói vào tay nải xong, thấy cửa sổ hơi hé mở, ánh trăng len lỏi chui vào. Hắn đi tới đóng cửa lại, mượn ánh sáng lau lại Quyết Minh kiếm, món bảo bối đệ nhất của hắn.
Có tiếng bước chân, Đỗ Tranh lại tới canh cửa đêm, lát sau, lại có tiếng bước chân khác uyển chuyển hơn, không biết được là ai. “… Không dám tức giận, sao cô ta dám tức giận chứ?” Tiếng ồn ào của Mai Tử, sau đó lại kể cho Đỗ Tranh, “Bọn người Bích Trâm đều đang cười nhạo cô ta, quái thật, bọn họ đến cả cơ hội nấu canh chua cũng không có, còn không bằng được Bão Nguyệt.”
Đỗ Tranh nói: “Thiếu gia nói không chua, Bão Nguyệt đáng lẽ nên bưng một dĩa giấm chua lên luôn chứ!”
Hai người che miệng cười khanh khách, ngồi dưới cửa sổ cười đến nỗi sắp nở hoa. Hoắc Lâm Phong lau xong, thò đầu ra lườm: “Còn có pha trò gây cười nữa à? Nếu không có, thì ta đang nghỉ ngơi đấy.”
Đỗ Tranh sợ hãi ngẩng mặt lên, gương mặt tròn xoe của Mai Tử cũng đỏ bừng, đã ngồi lê đôi mách với đầy tớ còn bị chủ tử tóm được, chọc phải ông trời rồi… Trong tim Hoắc Lâm Phong xẹt qua một chút ý nghĩ xấu xa, cảm giác như hai người này đang bị bắt gian vậy. Nhưng không thể nói ra, nếu như nói ra, trong một canh giờ Mai Tử chắc chắn sẽ nhảy xuống hồ mất.
“Hết chuyện rồi chứ gì?” Hắn hỏi, sau đó phất tay, “Vậy giải tán đi, ta mệt rồi.”
Bình luận truyện