Kinh Thánh Của Một Người
Chương 38
Chẳng qua là anh lợi dụng tôi, chiếm đoạt tôi, chứ có yêu đương gì đâu. - Sảnh nằm trên giường nói một cách thẳng thừng như vậy và rất vô tình. Anh ngồi trước bàn viết bên cạnh cửa sổ, đặt bút xuống, quay đầu nhìn vợ. Đã nhiều năm rồi anh không viết lách chữ nào, ngoài việc đối phó với thẩm tra và sao chép các câu nói của lãnh tụ, nhưng tất cả đều là trước khi chạy trốn khỏi nông trường.
Anh và Sảnh đi chơi trên núi, tới quá trưa, giữa đường về thì trời đổ mưa, ướt đẫm, nên phải nhóm lò hong khô quần áo. Anh rời bàn viết, ngồi xuống mép giường, Sảnh nằm ngửa, đắp chăn, mắt mở trừng trừng.
- Em vừa nói gì thế? - Anh chỉ hỏi, chứ không đụng đến người Sảnh.
- Anh đã tống táng, chôn vùi cuộc đời tôi - Sảnh trả lời, vẫn không nhìn anh. Câu nói đâm nhói tim anh, nhưng chẳng biết xoay xở thế nào, đành ngồi thừ bên cạnh Sảnh.
Khi ở trên núi, chui vào các hang động Sảnh vẫn vui vẻ, hào hứng lắm kia mà, lúc nào cũng hát và hát rất to, anh chạy lên phía trước nấp trong bụi cây không cho Sảnh nhìn thấy, rồi bảo Sảnh hát nữa đi, giọng của nàng cao vút giữa ngàn cây và nhờ gió hồi âm trở lại nên có cảm giác thánh thiện như kiểu ở giáo đường. Dốc núi mọc tràn cỏ dại, chen giữa những lùm cây, những chân ruộng vừa gặt hái xong chỉ còn trơ gốc rạ, đợi sang xuân mới cày xới, trông thật thê lương. Giá mà lúc này là sau tết thì nơi đây bạt ngàn thắm đỏ hoa đỗ quyên, và một vùng vàng rộ hoa cải, khiến người từ xa tới phải trầm trồ thán phục. Nhưng với anh cảnh tượng đầu đông, cành trơ lá trụi, mới thực sự quyến rũ, gợi mở nghĩ suy.
Trên đường về, trong cơn mưa, bên khe suối, anh hái mấy đóa cúc dại chưa tàn và cọng cây hoàng dương màu đỏ sẫm, cắm vào ống bút đặt trên bàn.
Sảnh khóc, khóc một cách vô cớ, anh chìa tay định vuốt ve an ủi, nhưng Sảnh vùng vằng gạt phắt ra.
Đội mưa trở về, đầu Sảnh ướt đẫm, nước chảy ròng ròng tràn cả khuôn mặt, Sảnh cúi người bước nhanh. Lúc bấy giờ anh không biết Sảnh đã khóc hay chưa, anh chỉ nói, không hề gì, về tới nhà nhóm lò, sưởi một tý là ấm ngay. Anh chưa sống với đàn bà, nên chẳng rõ mới dầm một tý mưa như vậy mà đã hờn dỗi hay sao, anh không biết làm gì khác ngoài việc yêu Sảnh, vì Sảnh tất cả và cho rằng, trên thế gian này còn hạnh phúc nào hơn thế nữa.
Anh sang nhà bé Mao. Vì sao lại đến đó, nơi có cô gái trẻ măng mơn mởn mà không đến nhà ai khác? Bởi lẽ vừa vào thôn là gặp ngay, vả lại trời đang mưa và mẹ bé Mao đã dặn, muốn ăn thịt gà thì hãy bắt một con; anh thưa, chưa vội, sớm mai cũng được. Quay trở về, anh rất đỗi ngạc nhiên, quần áo ướt hong trên lồng tre bị vứt xuống đất, lò than văng quang một bên, tứ tung bừa bãi. Sảnh nằm trên giường, quay mặt vào tường, anh nín nhịn cơn giận, ngồi vào bàn viết, ngoài song mưa vẫn rơi không ngớt. Lòng đầy sầu muộn mà chẳng biết giải thoát ra sao, anh chỉ còn cách im lặng viết, viết cho tới lức trời tối, không thấy gì nữa mới chịu dừng bút. Bỗng nghe tiếng bé Mao gọi cửa, cô bé bưng sang một con gà mái đã vặt sạch lông, mổ bụng và cái bát đựng lòng mề, tim gan đỏ tươi. Anh không muốn để bé Mao trông thấy cảnh tượng lộn xộn trong nhà, nên hé cửa nhận gà xong là đóng ngay, nhưng cô gái trẻ măng mơn mởn ấy đã nhìn rõ tất cả, sợ hãi, đưa mắt tìm anh, anh tránh cô bé, quay vào ngồi thừ bên lò sưởi, ánh lửa hắt lên nền nhà chỗ đỏ chỗ đen.
“Anh không tin Thượng Đế, không tin Bồ Tát, không tin Salomon, không tin A La, từ totem[12] của người hoang dã đến tôn giáo của người văn minh, thế hệ cùng thời với anh càng có nhiều sáng tạo, dựng nên bao thần tượng khắp trên mặt đất, còn trời cao cũng là những utopia[13] nào đó, tất cả đã khiến thiên hạ điên lên một cách vô cớ, mông lung...”, anh viết dày đặc liền mấy trang, những tờ giấy mỏng mảnh mua từ trên thị trấn. Lúc Sảnh hờn dỗi, cô ta đã đọc hết, vì thế nếu muốn đốt cháy cũng đã muộn lắm rồi.
- Anh là kẻ thù.
Sảnh, vợ anh hét lên như vậy. Anh hoảng sợ, thần sắc ngơ ngác, đồng tử mở to; anh cho rằng cô ta đã điên, hoàn toàn thất thường. Người đàn bà chăn gối với anh giờ trở nên dữ tợn, đầu tóc bơ phờ, mặc mỗi chiếc quần con, chần trần, rống lên.
- Cô hét cái gì, im ngay, kẻo xóm làng nghe thấy, xấu hổ lắm, cô điên rồi hay sao? - anh áp sát người Sảnh, cô ta lui dần, thúc mạnh đến tường đất, dễ dàng làm cho đất cát rơi xuống và gào to:
- Anh là phe tạo phản, một tên tạo phản thối tha.
- Đúng, tôi là phe tạo phản, tạo phản một trăm phần trăm thì đã sao? - anh biết, phải giữ vững ngọn giáo, lấy tiến làm lùi, mới có thể áp đảo được sự điên cuồng của phụ nữ.
- Anh lừa tôi, lợi dụng lúc tôi yếu mềm chốc lát, tôi đã mắc bẫy của anh!
- Bẫy gì, nói đi! Cái đêm bên sông hay cuộc hôn nhân này - anh phải chuyển câu chuyện sang lĩnh vực quan hệ tình dục giữa hai người để che đậy nỗi sợ hãi nội tâm, lời nói giọng điệu cố gắng hòa hoãn, nhưng vẫn phải cảnh cáo:
- Sảnh, cô lú lẫn mất rồi!
- Tôi rất tỉnh táo, tỉnh táo hơn bất cứ lúc nào, anh không lừa nổi tôi đâu!
Sảnh lấy tay gạt con gà và bát lòng mề, tim gan đặt trên thùng sách rơi tứ tung xuống đất, nhếch mép cười lạnh lùng. Anh điên tiết lao đến nạt nộ:
- Cô định quậy phá phải không?
- Anh muốn giết tôi hay sao? - Sảnh sợ hãi.
- Giết cô mà làm gì? - anh vặn lại.
- Tự hỏi mình thì khắc rõ - Sảnh nhẹ giọng và nín nhịn phần nào, còn anh, nếu cô ta một mực la ó “kẻ thù, kẻ thù” thì có lẽ phải giết ngay tức khắc.
Anh không cho phép Sảnh, vợ anh nói ra từ ngữ đó, bèn tìm cách dụ cô ta lên giường và với tư cách người chồng, anh áp tới, vuốt ve, gợi dục, “Sảnh, em làm sao thế, anh thương nào...”
- Không, anh không được sang đây!
Sảnh cầm bô nước tiểu ở góc tường ném vào đầu anh. Anh nhanh tay đỡ được, song lấm lem bẩn thỉu, anh vuốt mặt, miệng mặn chát, nhổ cái toẹt và khinh bỉ:
- Sảnh, cô điên thật rồi!
- Anh không dễ gì biến tôi thành bệnh nhân tâm thần đâu. - Sảnh cười ngạo mạn - Anh tưởng tôi rẻ mạt lắm phải không?
Anh nhận thấy trong lời nói của Sảnh tỏ ra sự uy hiếp, cho nên trước khi cho bùng nổ tất cả, anh phải nhanh tay đốt sạch mấy trang giấy vừa viết đang đặt trên bàn. Nước bẩn từ đầu vẫn chảy xuống mặt, thối và mặn, anh khạc mãi không sạch, giận Sảnh thâm độc, nhưng bất động, chưa ra tay. Sảnh chuyển sang khóc lóc, tru tréo, anh sợ xóm làng nghe nên xóc cô ta đứng dậy, ấn xuống giường và lấy cái gối “song hỷ” nhét vào mặt và miệng ả để giảm âm lượng. Anh tự hỏi đây là cuộc sống trần gian hay địa ngục?
- Còn quậy phá nữa là tao giết! - anh dọa, đoạn rời khỏi người đàn bà, cởi quần áo, lau sạch nước tiểu trên đầu. Sảnh sợ chết nên giờ đây chỉ biết nức nở sụt sùi, còn con gà mái đã vặt trụi lông, mổ sạch bụng, nằm lăn trên nền nhà, chỏng cặp đùi lên trời, trông như thi thể một người đàn bà, càng khiến anh ngán ngẩm.
Mãi về sau, phải rất lâu, anh vẫn chán chường phụ nữ, chôn vùi mọi thèm muốn, dục vọng, để tự cứu mình. Nghĩ lại, anh thấy Sảnh nói có phần đúng, anh không yêu cô ta, mà chỉ thỏa mãn sự đòi hỏi nhất thời về thân xác giống cái mà thôi. Anh cũng chưa hề âu yếm mặn nồng với Sảnh, cố ý ngụy tạo một loại hạnh phúc không chân thực, ngay những khi làm tình với nhau, chẳng bao giờ từ tình dục biến thành tình yêu, phóng xả một cách bản năng xong là ngập tràn nỗi chán chường khó tả...
Sảnh vẫn khóc lóc, ca cẩm “Anh đã tống táng, chôn vùi cuộc đời tôi”, rồi kể lể vắn dài, qua đó anh mới biết cha Sảnh là kỹ sư trưởng một binh công xưởng thời Quốc dân đảng, từng bị ủy ban quân quản liệt vào hàng ngũ chống cách mạng, Sảnh không dám chửi bới cách mạng, chửi bới chuyên chính mà chỉ lên tiếng kết án phe tạo phản và bản thân anh, nhưng phần nào vẫn sợ anh.
- Tống táng, chôn vùi cuộc đời cô là cái thời đại này, cô có hiểu không? - Anh phản kích, vả lại trong thư gửi anh, Sảnh cũng từng viết như vậy, “hiện thực hiển nhiên là không ai có thể trốn chạy được, số phận bắt chúng ta phải dựa vào nhau mà sống, thôi đừng nói đến tình yêu gì nữa!”, Sảnh hỏi anh:
- Nhưng tại sao anh vẫn cứ tìm tôi, đến với một con đĩ lăng loàn có phải hơn không, lại còn muốn kết hôn với tôi, rõ khổ!
- Cô bảo ai?
- Cái con bé họ Mao của anh đấy!
- Tôi không có bất kỳ quan hệ nào với các cô thôn nữ ở đây!
- Anh thích ngữ ấy, vì cớ gì lại lấy thân tôi làm vật thay thế? - Sảnh khóc nức nỏ.
- Thật chẳng hiểu ra làm sao, vậy thì chúng ta ly hôn ngay, ngay sáng mai đến trụ sở công xã, xin chứng nhận hủy bỏ các chữ ký trong giấy giá thú. Thà chịu một trò đùa, còn hơn là cả đời bị gây sự, quậy phá, bất quá thì cán bộ và bà con ở thôn này cười vài bữa, rồi cũng xong.
- Tôi không gây sự, quậy phá nữa! - Sảnh ấm ức.
- Thế thì ngủ đi cho tôi nhờ!
Anh bảo Sảnh đứng dậy để thay bọc chăn, khăn rải giường bị ướt, rồi lôi trong túi du lịch ra áo quần sạch, vứt lên đó. Ả tội nghiệp tuân lệnh làm theo và đi ngủ một mình. Anh tắm gội xong xuôi, cứ thế ngồi bên bàn cho tới sáng.
Số phận đã an bài, anh phải ràng buộc với Sảnh như thế mãi, dẫu chỉ là một cọng rơm cứu mạng của cô ta. Đợi Sảnh ngủ say, anh dem tất cả các trang viết đốt sạch, phòng sau này ả lại gây sự, quậy phá thì có thể nói thần kinh ả đã bị phân liệt, trí nhớ lung tung. Còn anh, sẽ không bao giờ lưu bút, viết lách gì nữa, để cho chúng tan rữa trong mùi hôi của thế sự.
Sảnh nói, anh mong cô ta chết sớm, cho nên đã không bao giờ đi cùng anh tới chỗ vắng người, trong núi sâu hay bên sông suối, sợ anh ám hại. Nhiều lần anh bảo Sảnh đi đây đi đó, nhưng ả kiên quyết chối từ. Thật tình thì anh rất muốn Sảnh vĩnh viễn tiêu vong, kết thúc một cách “êm đẹp” không để lại dấu ấn gì cả, chẳng qua là chưa dám nói ra. Anh hối hận đã không tìm đến với một cô gái nào đó ở thôn này, thân thể khỏe mạnh, chẳng cần trình độ văn hóa, chỉ cùng anh giao phối, nấu cơm, sinh đẻ, và không hề xâm phạm nội tâm là được. Nhưng anh lắc đầu, ngán phụ nữ lắm rồi!
Ngày Sảnh lên đường, anh tiễn cô ta ra đến bến xe. Sảnh bảo “quay về đi, chẳng cần đợi tới lúc xe chạy làm gì”. Anh im lặng, nhưng vẫn dõi nhìn chiếc xe lăn bánh.
_________________
Anh và Sảnh đi chơi trên núi, tới quá trưa, giữa đường về thì trời đổ mưa, ướt đẫm, nên phải nhóm lò hong khô quần áo. Anh rời bàn viết, ngồi xuống mép giường, Sảnh nằm ngửa, đắp chăn, mắt mở trừng trừng.
- Em vừa nói gì thế? - Anh chỉ hỏi, chứ không đụng đến người Sảnh.
- Anh đã tống táng, chôn vùi cuộc đời tôi - Sảnh trả lời, vẫn không nhìn anh. Câu nói đâm nhói tim anh, nhưng chẳng biết xoay xở thế nào, đành ngồi thừ bên cạnh Sảnh.
Khi ở trên núi, chui vào các hang động Sảnh vẫn vui vẻ, hào hứng lắm kia mà, lúc nào cũng hát và hát rất to, anh chạy lên phía trước nấp trong bụi cây không cho Sảnh nhìn thấy, rồi bảo Sảnh hát nữa đi, giọng của nàng cao vút giữa ngàn cây và nhờ gió hồi âm trở lại nên có cảm giác thánh thiện như kiểu ở giáo đường. Dốc núi mọc tràn cỏ dại, chen giữa những lùm cây, những chân ruộng vừa gặt hái xong chỉ còn trơ gốc rạ, đợi sang xuân mới cày xới, trông thật thê lương. Giá mà lúc này là sau tết thì nơi đây bạt ngàn thắm đỏ hoa đỗ quyên, và một vùng vàng rộ hoa cải, khiến người từ xa tới phải trầm trồ thán phục. Nhưng với anh cảnh tượng đầu đông, cành trơ lá trụi, mới thực sự quyến rũ, gợi mở nghĩ suy.
Trên đường về, trong cơn mưa, bên khe suối, anh hái mấy đóa cúc dại chưa tàn và cọng cây hoàng dương màu đỏ sẫm, cắm vào ống bút đặt trên bàn.
Sảnh khóc, khóc một cách vô cớ, anh chìa tay định vuốt ve an ủi, nhưng Sảnh vùng vằng gạt phắt ra.
Đội mưa trở về, đầu Sảnh ướt đẫm, nước chảy ròng ròng tràn cả khuôn mặt, Sảnh cúi người bước nhanh. Lúc bấy giờ anh không biết Sảnh đã khóc hay chưa, anh chỉ nói, không hề gì, về tới nhà nhóm lò, sưởi một tý là ấm ngay. Anh chưa sống với đàn bà, nên chẳng rõ mới dầm một tý mưa như vậy mà đã hờn dỗi hay sao, anh không biết làm gì khác ngoài việc yêu Sảnh, vì Sảnh tất cả và cho rằng, trên thế gian này còn hạnh phúc nào hơn thế nữa.
Anh sang nhà bé Mao. Vì sao lại đến đó, nơi có cô gái trẻ măng mơn mởn mà không đến nhà ai khác? Bởi lẽ vừa vào thôn là gặp ngay, vả lại trời đang mưa và mẹ bé Mao đã dặn, muốn ăn thịt gà thì hãy bắt một con; anh thưa, chưa vội, sớm mai cũng được. Quay trở về, anh rất đỗi ngạc nhiên, quần áo ướt hong trên lồng tre bị vứt xuống đất, lò than văng quang một bên, tứ tung bừa bãi. Sảnh nằm trên giường, quay mặt vào tường, anh nín nhịn cơn giận, ngồi vào bàn viết, ngoài song mưa vẫn rơi không ngớt. Lòng đầy sầu muộn mà chẳng biết giải thoát ra sao, anh chỉ còn cách im lặng viết, viết cho tới lức trời tối, không thấy gì nữa mới chịu dừng bút. Bỗng nghe tiếng bé Mao gọi cửa, cô bé bưng sang một con gà mái đã vặt sạch lông, mổ bụng và cái bát đựng lòng mề, tim gan đỏ tươi. Anh không muốn để bé Mao trông thấy cảnh tượng lộn xộn trong nhà, nên hé cửa nhận gà xong là đóng ngay, nhưng cô gái trẻ măng mơn mởn ấy đã nhìn rõ tất cả, sợ hãi, đưa mắt tìm anh, anh tránh cô bé, quay vào ngồi thừ bên lò sưởi, ánh lửa hắt lên nền nhà chỗ đỏ chỗ đen.
“Anh không tin Thượng Đế, không tin Bồ Tát, không tin Salomon, không tin A La, từ totem[12] của người hoang dã đến tôn giáo của người văn minh, thế hệ cùng thời với anh càng có nhiều sáng tạo, dựng nên bao thần tượng khắp trên mặt đất, còn trời cao cũng là những utopia[13] nào đó, tất cả đã khiến thiên hạ điên lên một cách vô cớ, mông lung...”, anh viết dày đặc liền mấy trang, những tờ giấy mỏng mảnh mua từ trên thị trấn. Lúc Sảnh hờn dỗi, cô ta đã đọc hết, vì thế nếu muốn đốt cháy cũng đã muộn lắm rồi.
- Anh là kẻ thù.
Sảnh, vợ anh hét lên như vậy. Anh hoảng sợ, thần sắc ngơ ngác, đồng tử mở to; anh cho rằng cô ta đã điên, hoàn toàn thất thường. Người đàn bà chăn gối với anh giờ trở nên dữ tợn, đầu tóc bơ phờ, mặc mỗi chiếc quần con, chần trần, rống lên.
- Cô hét cái gì, im ngay, kẻo xóm làng nghe thấy, xấu hổ lắm, cô điên rồi hay sao? - anh áp sát người Sảnh, cô ta lui dần, thúc mạnh đến tường đất, dễ dàng làm cho đất cát rơi xuống và gào to:
- Anh là phe tạo phản, một tên tạo phản thối tha.
- Đúng, tôi là phe tạo phản, tạo phản một trăm phần trăm thì đã sao? - anh biết, phải giữ vững ngọn giáo, lấy tiến làm lùi, mới có thể áp đảo được sự điên cuồng của phụ nữ.
- Anh lừa tôi, lợi dụng lúc tôi yếu mềm chốc lát, tôi đã mắc bẫy của anh!
- Bẫy gì, nói đi! Cái đêm bên sông hay cuộc hôn nhân này - anh phải chuyển câu chuyện sang lĩnh vực quan hệ tình dục giữa hai người để che đậy nỗi sợ hãi nội tâm, lời nói giọng điệu cố gắng hòa hoãn, nhưng vẫn phải cảnh cáo:
- Sảnh, cô lú lẫn mất rồi!
- Tôi rất tỉnh táo, tỉnh táo hơn bất cứ lúc nào, anh không lừa nổi tôi đâu!
Sảnh lấy tay gạt con gà và bát lòng mề, tim gan đặt trên thùng sách rơi tứ tung xuống đất, nhếch mép cười lạnh lùng. Anh điên tiết lao đến nạt nộ:
- Cô định quậy phá phải không?
- Anh muốn giết tôi hay sao? - Sảnh sợ hãi.
- Giết cô mà làm gì? - anh vặn lại.
- Tự hỏi mình thì khắc rõ - Sảnh nhẹ giọng và nín nhịn phần nào, còn anh, nếu cô ta một mực la ó “kẻ thù, kẻ thù” thì có lẽ phải giết ngay tức khắc.
Anh không cho phép Sảnh, vợ anh nói ra từ ngữ đó, bèn tìm cách dụ cô ta lên giường và với tư cách người chồng, anh áp tới, vuốt ve, gợi dục, “Sảnh, em làm sao thế, anh thương nào...”
- Không, anh không được sang đây!
Sảnh cầm bô nước tiểu ở góc tường ném vào đầu anh. Anh nhanh tay đỡ được, song lấm lem bẩn thỉu, anh vuốt mặt, miệng mặn chát, nhổ cái toẹt và khinh bỉ:
- Sảnh, cô điên thật rồi!
- Anh không dễ gì biến tôi thành bệnh nhân tâm thần đâu. - Sảnh cười ngạo mạn - Anh tưởng tôi rẻ mạt lắm phải không?
Anh nhận thấy trong lời nói của Sảnh tỏ ra sự uy hiếp, cho nên trước khi cho bùng nổ tất cả, anh phải nhanh tay đốt sạch mấy trang giấy vừa viết đang đặt trên bàn. Nước bẩn từ đầu vẫn chảy xuống mặt, thối và mặn, anh khạc mãi không sạch, giận Sảnh thâm độc, nhưng bất động, chưa ra tay. Sảnh chuyển sang khóc lóc, tru tréo, anh sợ xóm làng nghe nên xóc cô ta đứng dậy, ấn xuống giường và lấy cái gối “song hỷ” nhét vào mặt và miệng ả để giảm âm lượng. Anh tự hỏi đây là cuộc sống trần gian hay địa ngục?
- Còn quậy phá nữa là tao giết! - anh dọa, đoạn rời khỏi người đàn bà, cởi quần áo, lau sạch nước tiểu trên đầu. Sảnh sợ chết nên giờ đây chỉ biết nức nở sụt sùi, còn con gà mái đã vặt trụi lông, mổ sạch bụng, nằm lăn trên nền nhà, chỏng cặp đùi lên trời, trông như thi thể một người đàn bà, càng khiến anh ngán ngẩm.
Mãi về sau, phải rất lâu, anh vẫn chán chường phụ nữ, chôn vùi mọi thèm muốn, dục vọng, để tự cứu mình. Nghĩ lại, anh thấy Sảnh nói có phần đúng, anh không yêu cô ta, mà chỉ thỏa mãn sự đòi hỏi nhất thời về thân xác giống cái mà thôi. Anh cũng chưa hề âu yếm mặn nồng với Sảnh, cố ý ngụy tạo một loại hạnh phúc không chân thực, ngay những khi làm tình với nhau, chẳng bao giờ từ tình dục biến thành tình yêu, phóng xả một cách bản năng xong là ngập tràn nỗi chán chường khó tả...
Sảnh vẫn khóc lóc, ca cẩm “Anh đã tống táng, chôn vùi cuộc đời tôi”, rồi kể lể vắn dài, qua đó anh mới biết cha Sảnh là kỹ sư trưởng một binh công xưởng thời Quốc dân đảng, từng bị ủy ban quân quản liệt vào hàng ngũ chống cách mạng, Sảnh không dám chửi bới cách mạng, chửi bới chuyên chính mà chỉ lên tiếng kết án phe tạo phản và bản thân anh, nhưng phần nào vẫn sợ anh.
- Tống táng, chôn vùi cuộc đời cô là cái thời đại này, cô có hiểu không? - Anh phản kích, vả lại trong thư gửi anh, Sảnh cũng từng viết như vậy, “hiện thực hiển nhiên là không ai có thể trốn chạy được, số phận bắt chúng ta phải dựa vào nhau mà sống, thôi đừng nói đến tình yêu gì nữa!”, Sảnh hỏi anh:
- Nhưng tại sao anh vẫn cứ tìm tôi, đến với một con đĩ lăng loàn có phải hơn không, lại còn muốn kết hôn với tôi, rõ khổ!
- Cô bảo ai?
- Cái con bé họ Mao của anh đấy!
- Tôi không có bất kỳ quan hệ nào với các cô thôn nữ ở đây!
- Anh thích ngữ ấy, vì cớ gì lại lấy thân tôi làm vật thay thế? - Sảnh khóc nức nỏ.
- Thật chẳng hiểu ra làm sao, vậy thì chúng ta ly hôn ngay, ngay sáng mai đến trụ sở công xã, xin chứng nhận hủy bỏ các chữ ký trong giấy giá thú. Thà chịu một trò đùa, còn hơn là cả đời bị gây sự, quậy phá, bất quá thì cán bộ và bà con ở thôn này cười vài bữa, rồi cũng xong.
- Tôi không gây sự, quậy phá nữa! - Sảnh ấm ức.
- Thế thì ngủ đi cho tôi nhờ!
Anh bảo Sảnh đứng dậy để thay bọc chăn, khăn rải giường bị ướt, rồi lôi trong túi du lịch ra áo quần sạch, vứt lên đó. Ả tội nghiệp tuân lệnh làm theo và đi ngủ một mình. Anh tắm gội xong xuôi, cứ thế ngồi bên bàn cho tới sáng.
Số phận đã an bài, anh phải ràng buộc với Sảnh như thế mãi, dẫu chỉ là một cọng rơm cứu mạng của cô ta. Đợi Sảnh ngủ say, anh dem tất cả các trang viết đốt sạch, phòng sau này ả lại gây sự, quậy phá thì có thể nói thần kinh ả đã bị phân liệt, trí nhớ lung tung. Còn anh, sẽ không bao giờ lưu bút, viết lách gì nữa, để cho chúng tan rữa trong mùi hôi của thế sự.
Sảnh nói, anh mong cô ta chết sớm, cho nên đã không bao giờ đi cùng anh tới chỗ vắng người, trong núi sâu hay bên sông suối, sợ anh ám hại. Nhiều lần anh bảo Sảnh đi đây đi đó, nhưng ả kiên quyết chối từ. Thật tình thì anh rất muốn Sảnh vĩnh viễn tiêu vong, kết thúc một cách “êm đẹp” không để lại dấu ấn gì cả, chẳng qua là chưa dám nói ra. Anh hối hận đã không tìm đến với một cô gái nào đó ở thôn này, thân thể khỏe mạnh, chẳng cần trình độ văn hóa, chỉ cùng anh giao phối, nấu cơm, sinh đẻ, và không hề xâm phạm nội tâm là được. Nhưng anh lắc đầu, ngán phụ nữ lắm rồi!
Ngày Sảnh lên đường, anh tiễn cô ta ra đến bến xe. Sảnh bảo “quay về đi, chẳng cần đợi tới lúc xe chạy làm gì”. Anh im lặng, nhưng vẫn dõi nhìn chiếc xe lăn bánh.
_________________
Bình luận truyện