Luật Sư Nhí
Chương 17
Khi các vị bồi thẩm đã an tọa, cả phòng xử yên ắng, và mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía Thẩm phán Gantry, ông lên tiếng, “Ông Nance, tôi được biết ông còn một nhân chứng nữa.”
Clifford Nance đứng lên, dáng vươn thẳng và hệ trọng, rồi nói với giọng như diễn kịch, “Thưa ngài Thẩm phán, bên bị xin cho gọi chính ông Pete Duffy.”
Không khí đột nhiên căng thẳng khi bị cáo tự mình đến bên ghế nhân chứng. Cuối cùng, sau bốn ngày xét xử dài đằng đẵng, kẻ bị buộc tội có dịp đứng ở vị trí này và kể lại câu chuyện theo phía mình. Nhưng làm vậy ông ta cũng khiến chính mình trở thành đối tượng bị bên nguyên thẩm vấn. Theodore biết trong sáu mươi lăm phần trăm các vụ giết người, bị cáo không chịu làm nhân chứng, và cậu cũng hiểu lý do tại sao. Trước hết, họ thường là những kẻ phạm tội giết người và không chịu được một cuộc thẩm vấn chéo căng thẳng, tình vi. Thứ hai, họ thường có tiền sử từng vướng vào một hành vi phạm tội hình sự nào đó trước đấy, nên khi đứng ở bục nhân chứng, quá khứ sẽ gây bất lợi cho họ. Trong mỗi phiên tòa, thẩm phán đều cố giải thích với các bồi thẩm rằng bị cáo không buộc phải làm nhân chứng, không phải nói một lời nào, cũng không phải có người đại diện làm nhân chứng. Trách nhiệm nặng nề chứng minh anh ta có tội thuộc về bên nguyên.
Theodore cũng biết các vị bồi thẩm thường nghi ngờ một bị cáo nếu người này không chịu làm nhân chứng để tự cứu chính mình. Liệu họ có nghi ngờ Pete Duffy không, Theodore cũng không dám chắc. Mọi người không rời mắt dõi theo ông ta bước đến ghế nhân chứng, giơ tay và tuyên thệ sẽ chỉ nói sự thật.
Theodore có thể nhìn rõ tất cả bởi, nhờ Thẩm phán Gantry, cậu đang ngồi ở vị trí có tầm nhìn bao quát ngay hàng thứ hai, phía sau bàn bên bị, bên phải cậu là Ike, bên trái là bố. Mẹ có cuộc hẹn phải quay trở lại văn phòng. Bà bảo không thể lãng phí cả buổi chiều ở phiên tòa, mặc dù cả ba người nhà Boone còn lại đều thấy rõ bà muốn ở lại đến thế nào.
Clifford Nance hắng giọng, yêu cầu bị cáo khai tên, một thủ tục cần thiết nhưng khá ngớ ngẩn trong những tình huống như vậy. Mọi người trong phòng xử không chỉ biết Pete Duffy, mà còn biết rất nhiều về ông ta. Ông Nance bắt đầu hàng loạt những câu hỏi đơn giản. Ông ấy câu giờ với những tiểu tiết - như lịch sử gia đình ông Duffy, trình độ học vấn, công việc, không có tiền án tiền sử, đại loại thế. Hai người ngốn hàng giờ với màn hỏi qua đáp lại, và người ở ghế nhân chứng đã kịp thiết lập một thói quen. Ông ta thường liếc nhìn các vị bồi thẩm trong khi cố tạo giọng ung dung thư thái. Hãy tin tôi đi, ông ta dường như đang cố nói vậy.
Ông ta là một người đàn ông ưa nhìn khoác com lê sành điệu, điều này khiến Theodore thấy hơi kỳ cục vì không ai trong năm vị bồi thẩm nam mặc áo khoác hay đeo cà vạt cả. Theodore từng đọc mấy bài báo về chiến thuật luật sư và thân chủ nên chọn mặc đồ ra sao trong phiên xét xử.
Màn hỏi qua đáp lại cuối cùng cũng chuyển sang phần quan trọng khi ông Nance đề cập đến khoản bảo hiểm nhân thọ một triệu đô la của bà Myra Duffy. Nhân chứng giải thích ông có niềm tin vững chắc đối với bảo hiểm nhân thọ, rằng khi còn là thanh niên có vợ trẻ con thơ, ông đã luôn để dành tiền đầu tư vào bảo hiểm nhân thọ, cả cho mình và vợ. Rằng bảo hiểm nhân thọ là công cụ hữu hiệu để bảo vệ gia đình trong trường hợp một trong hai người chết sớm. Sau này, cưới người vợ thứ hai, bà Myra, ông cũng khăng khăng mua bảo hiểm nhân thọ. Và bà Myra đồng ý. Thực tế, nâng lên mức một triệu đô la chính là ý tưởng của bà ấy. Bà muốn được bảo vệ trong trường hợp có chuyện gì đó xảy ra với ông.
Ông Duffy có vẻ không giữ được bình tĩnh cho lắm nhưng những lời của ông thì có thể tin được. Các vị bồi thẩm lắng nghe chăm chú. Theodore cũng vậy, và hơn một lần, cậu phải tự nhủ với bản thân rằng mình đang theo dõi phiên tòa lớn nhất trong lịch sử Strattenburg. Thêm nữa, cậu cũng đang cúp học có lý do.
Từ chuyện bảo hiểm nhân thọ, ông Nance chuyển hướng cuộc đối thoại sang các dự án kinh doanh của ông Duffy. Tới đây, nhân chứng thực sự ghi điểm. Ông ta thừa nhận một số dự án bất động sản của mình đang gặp khó khăn, rằng một vài ngân hàng đang thúc ép ông ta, rằng ông ta đã mất vài đối tác và đã mắc chút sai lầm. Vẻ nhún nhường của ông ta thật xúc động và được các vị bồi thẩm ghi nhận. Điều đó khiến ông ta càng đáng tin hơn. Ông ta khăng khăng không chịu thừa nhận mình đang ở bên bờ vực phá sản, và nhất quyết rằng sẽ xúc tiến hàng loạt động thái ấn tượng để gỡ nợ và cứu gia sản của mình.
Một số điều ông ta nói trượt qua đầu Theodore, và cậu nghĩ là vài vị bồi thẩm cũng đang hơi bối rối. Không quan trọng. Clifford Nance đã cho thân chủ mình chuẩn bị kỹ lưỡng.
Theo giả thiết của bên nguyên, động cơ giết người là tiền và lòng tham. Giả thiết này càng lúc càng giảm sức nặng.
Sau đó ông Nance chuyển sang vấn đề tế nhị, các rắc rối trong hôn nhân của ông bà Duffy, và một lần nữa nhân chứng đã làm tốt phần việc của mình. Ông ta thừa nhận họ từng có lúc ông chẳng bà chuộc. Phải, họ đã tới gặp các nhà tư vấn hôn nhân. Phải, họ đã tìm gặp nhiều luật sư khác nhau chuyên về các vụ ly hôn. Phải, họ có cãi cọ, nhưng không lần nào dùng tới bạo lực. Và phải, đã có một lần ông chuyển ra ngoài, nhưng một tháng khổ sở ấy càng khiến ông quyết tâm hàn gắn mọi sự. Vào thời điểm vợ ông bị giết, họ đang sống chung hạnh phúc, và đang xây dựng kế hoạch cho tương lai.
Lại thêm một vết rạn nữa trong giả thiết của bên nguyên.
Thời gian buổi chiều dần trôi qua, Clifford Nance lái cuộc thẩm vấn sang chủ đề golf, rồi họ lại ngốn rất nhiều thời gian. Quá nhiều thời gian, Theodore nghĩ vậy. Ông Duffy một mực khẳng định ông thích chơi golf một mình hơn và rằng ông đã chơi như vậy có đến cả thập kỷ nay rồi. Ông Nance đưa ra một tệp hồ sơ, giải thích với thẩm phán rằng trong đó có phiếu ghi điểm của thân chủ mình cách đây hai mươi năm. Ông đưa một bản cho nhân chứng để xác nhận. Hồ sơ này được rút ra từ một sân golf ở California, mười bốn năm trước. Ông đã có một trận tám mươi mốt gậy, vượt par chín gậy. Ông ta chơi một mình.
Phiếu ghi điểm lần lượt được trình ra, và cuộc thẩm vấn chẳng mấy chốc trở thành cuộc diễu hành qua các sân golf trên khắp nước Mỹ. Pete Duffy rất chăm chỉ chơi golf. Ông ta thực sự nghiêm túc. Ông ta lưu giữ tất cả các phiếu ghi điểm. Và ông ta vẫn chơi một mình. Ông ta tiếp tục giải thích mình cũng có chơi với bạn bè, chơi để bàn công chuyện, thậm chí chơi với cả cậu con trai mỗi khi có dịp. Nhưng ông vẫn thích chơi một mình hơn, một mình một sân.
Cuộc diễu hành kết thúc, có vẻ như lại thêm một giả thiết khác của bên nguyên bị bắn rụng. Ý niệm rằng Pete Duffy đã tính toán cho vụ giết người từ hai năm trước, rằng ông bắt đầu rút về chơi golf một mình để khi rời sân không ai chứng kiến, xem ra không xác thực.
Theodore đang nghĩ: Có bốn người trong phòng xử đông đúc này biết sự thật. Mình, Ike, bố và Pete Duffy. Những người này biết chính ông ta đã giết vợ.
Ike đang nghĩ: Gã này sẽ được tự do, chúng ta không làm gì được rồi. Một tội ác hoàn hảo.
Woods Boone đang nghĩ: Làm sao để tìm ra nhân chứng bí ẩn kia mà đưa đến đây trước khi quá muộn?
Tấm phiếu cuối cùng là của ngày xảy ra án mạng. Ông Duffy chơi mười tám lỗ, đánh vượt par sáu gậy, và cũng chơi một mình. Tất nhiên, tấm phiếu do ông ta giữ, nên có thể đặt vấn đề về tính chính xác.
(Theodore đã học được rằng, trong môn golf, hầu hết các tấm phiếu ghi điểm không phản ánh đúng số gậy thực sự.)
Ông Nartce trở nên trầm buồn hơn khi hỏi thân chủ về ngày xảy ra án mạng, và người thân chủ trả lời rất trôi chảy. Giọng ông Duffy khẽ khọt, có phần ai oán đau buồn khi nói về cái chết thương tâm của vợ.
Chẳng biết ông ta có khóc không nhỉ, Theodore tự hỏi, bản thân cậu cũng cảm thấy mủi lòng bởi màn thẩm vấn.
Pete Dufíy cố nén những giọt nước mắt và có màn thể hiện xuất sắc khi mô tả mình đã sửng sốt đến thế nào lúc nghe tin, đã lao vội về nhà bằng chiếc xe golf, và thấy cảnh sát ở đó. Xác vợ ông vẫn chưa bị chuyển đi, và khi nhìn thấy vợ, ông đã đổ sụp xuống, may mà nhờ một điều tra viên đỡ dậy. Sau đó, ông được bác sĩ chăm sóc và kê thuốc.
Đồ dối trá, Theodore nghĩ. Đồ đạo đức giả. Chính ông đã giết vợ mình. Có nhân chứng. Tôi có cả bằng chứng là đôi găng tay giấu trong văn phòng kia.
Pete Duffy lại nói về cơn ác mộng khi gọi điện báo tin cho gia đình vợ, gia đình ông ta, bạn bè, cũng như việc trù liệu tổ chức lễ tang và chôn cất. Về nỗi cô đơn. Về sự trống vắng trong chính ngôi nhà nơi người vợ yêu dấu của ông ta bị sát hại. Về suy nghĩ sẽ bán ngôi nhà để chuyển đến nơi khác, về những chuyến thăm nghĩa trang thường nhật.
Kế đến là nỗi kinh hoàng khi bị nghi ngờ, bị cáo buộc, bị truy tố, bị bắt và tạm giam. Sao lại có người nghi ngờ ông sát hại người phụ nữ mà ông yêu thương và ngưỡng mộ?
Cuối cùng ông ta ngã quỵ. Ông ta cố kiềm chế bản thân dụi mắt và luôn mồm nói, “Tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi.” Thật xúc động, Theodore quan sát mặt các vị bồi thẩm. Cảm thông và thương cảm vô cùng. Duffy nhỏ nước mắt để cứu chính mình, và điều này đang có tác dụng.
Trong lúc thân chủ cố lấy lại bình tĩnh, CIifford cảm ơn Nance, quyết định họ đã ghi đủ điểm. Ông ta tuyên bố, “Không còn câu hỏi nào nữa, thưa quý tòa. Phần chứng tôi với nhân chứng kết thúc.”
Ông Jack Hogan lập tức đứng dậy nói, “Tôi xin đề nghị giải lao một lúc được chứ ạ, thưa Thẩm phán?” Một cuộc nghỉ giải lao mang tính chiến thuật, tách các vị bồi thẩm khỏi cảm xúc từ cuộc thẩm vấn. Lúc đó cũng là 3 giờ 30. Mọi người đều cần xả hơi.
“Mười lăm phút,” Thẩm phán Gantry tuyên bố. “Sau đó sẽ đến phần thẩm vấn chéo.” o O o
Mười lăm phút kéo ra thành nửa tiếng. “Ông ấy đang câu giờ,” Ike phát biểu. “Giờ là chiều thứ Sáu. Mọi người đều mệt mỏi. Ông ấy sẽ cho các vị bồi thẩm ra về và trở lại vào thứ Hai.”
“Không rõ nữa,” Woods Boone nói. “Cũng có thể ông ấy muốn nghe tranh tụng luôn vào chiều nay.”
Họ tụ tập ở sảnh, gần máy bán đồ uống tự động. Nhiều nhóm khán giả khác đang chờ đợi, chốc chốc lại ngó lên đồng hồ treo tường. Omar Cheepe xuất hiện, tìm đồ uống. Ông ta bỏ vào máy vài đồng xu, chọn thức uống trong lúc liếc nhìn mấy người nhà Boone, rồi lấy lon nước khỏi khay.
Ike vẫn tiếp tục. “Hogan sẽ không đụng được đến ông ta. Ông ta quá khôn ngoan.”
“Bồi thẩm đoàn sẽ kết luận ông ta không có tội chỉ trong vòng nửa tiếng,” Woods nói.
“Ông ta sẽ được tự do,” Theodore thêm vào.
“Thực sự bố cần phải trở lại văn phòng,” Woods nói.
“Ta cũng vậy,” đến lượt Ike. Đúng là nhà Boone.
Nhưng chẳng ai nhúc nhích vì thực tình cả hai đều muốn xem kết cục của phiên tòa. Theodore chỉ thấy vui vì hai người đó đứng bên nhau, cùng trò chuyện, thật là hiếm có dịp.
Phía cuối hành lang có sự chuyển dịch, đám đông bắt đầu kéo về phòng xử. Một vài người đã ra về. Dẫu sao thì đây cũng là chiều thứ Sáu.
Khi mọi người đã ở bên trong phòng xử, ổn định chỗ ngồi, Thẩm phán Gantry trở lại ghế chủ tọa và gật đầu với Jack Hogan. Đã đến lúc thẩm vấn chéo. Khi bị cáo ở vị trí nhân chứng còn bên nguyên có quyền đặt câu hỏi với ông ta một cách gay gắt, thì kết quả thường khá tệ.
Jack Hogan bước đến chỗ nhân chứng, đưa cho Pete Duffy một tập tài liệu. “Nhận ra cái này chứ, ông Duffy?” Hogan bắt đầu, mối nghi ngờ buông ra trong từng câu chữ.
Duffy không lấy gì làm vội vàng, ngó qua một lượt, mặt trước, mặt sau, giở vài trang. “Có,” cuối cùng ông ta nói.
“Xin cho quý bồi thẩm biết đó là cái gì?”
“Là một bản thông báo tịch biên.”
“Tịch biên tài sản nào?”
‘Trung tâm Mua sắm đường Rix.”
“Ở Strattenburg này phải không?”
“Phải.”
“Trung tâm Mua sắm đường Rix đó thuộc sở hữu của ông?”
“Phải, của tôi và một đối tác khác.”
“Ngân hàng đã gửi ông bản thông báo tịch biên này vào tháng Chín năm ngoái vì ông chậm thanh toán theo quý khoản nợ thế chấp. Có phải vậy không?” “Đó là ngân hàng nói vậy”
“Ông không đồng tình sao, ông Duffy? Ông sẽ nói với bồi thẩm đoàn rằng ông không chậm thanh toán khoản nợ thế chấp đối với tài sản này hồi tháng Chín năm ngoái?” Jack Hogan huơ huơ mấy tờ giấy, như thể ông có rất nhiều bằng chứng.
Duffy im lặng, rồi trình ra một nụ cười nhếch mép giả tạo. “Vâng, chúng tôi đã chậm trả.”
“Thế ngân hàng đã cho ông vay bao nhiêu để mua tài sản này?”
“Hai trăm nghìn đô la.”
“Hai trăm nghìn đô la,” Hogan nhắc lại trong lúc nhìn bồi thẩm đoàn. Rồi ông về bàn mình, đặt xấp giấy tờ xuống và nhặt một xấp khác lên. Ông đi ra phía sau bục nhân chứng, rồi nói, “Bây giờ, ông Duffy, ông có sở hữu một nhà kho ở phố Wolf thuộc khu công nghiệp Strattenburg không?”
“Có, thưa ông. Tôi còn hai đối tác khác nữa.”
“Và các ông đã bán nhà kho đó, đúng không?”
“Phải, chúng tôi đã bán rồi.”
“Các ông mới bán hồi tháng Chín, đúng không?”
“Nếu ông nói vậy. Tôi chắc ông đã có đủ giấy tờ.”
“Thực ra là vậy. Giấy tờ tôi có trong tay cho thấy nhà kho đó được chào bán hơn một năm nay, mức giá chào là sáu trăm nghìn đô la, khoản vay ở Ngân hàng Bang là năm trăm năm mươi, và cuối cùng ông và đối tác đã bán cái kho đó với giá chỉ hơn bốn trăm ngàn.” Hogan vừa nói vừa vung xấp giấy tờ vào không khí. “Ông đồng ý vậy chứ, ông Duffy?” “Nghe có vẻ đúng vậy.”
“Vậy là ông mất kha khá tiền trong thương vụ kia phải không ông Duffy?”
“Đó không phải là một trong những thương vụ thành công của tôi.”
“Ông có bức thiết phải bán nhà kho đó không?”
“Không.”
“Ông có cần tiền mặt không, ông Duffy?”
Nhân chứng thay đổi tư thế, có phần hơi không thoải mái. “Chúng tôi, các đối tác và tôi, cần bán nhà kho đó.”
Hai mươi phút sau đó, Hogan xoay quanh chuyện Pete Duffy với các đối tác và đối thủ tài chính. Duffy không chịu thừa nhận mình đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Nhưng, khi cuộc thẩm vấn chéo càng lúc càng căng thẳng, có thể thấy rõ nhân chứng đang phải gồng mình chống đỡ hết đòn này đến đòn kia. Hogan có rất nhiều giấy tờ. Ông đưa ra bản sao của hai vụ kiện trong đó các đối tác cũ chống lại ông Pete Duffy. Ông chất vấn nhân chứng về những lý lẽ viện dẫn trong các vụ kiện này. Duffy chối bay rằng ông ta chẳng có lỗi gì, rằng cả hai vụ đều không đi đến đâu cả. Ông ta thừa nhận việc kinh doanh của mình đang khốn đốn, nhưng cũng khẳng định rằng còn lâu mới đến mức phá sản.
Jack Hogan đã làm được kỳ tích khi khắc họa chân dung Duffy như một doanh nhân bấn tiền luôn phải xoay chạy mà hiếm khi kịp hẹn với chủ nợ. Nhưng kết nối các vấn đề của ông ta với động cơ giết người thì lại là chuyện khác.
Để thay đổi đề tài, Hogan sửa soạn cho một trận giội bom khác. Ông lịch sự chọc ngoáy loanh quanh những vấn đề bất ổn trong cuộc hôn nhân của Duffy, và sau mấy câu đơn giản, ông hỏi, “Bây giờ, ông Duffy, ông khai đã chuyển ra ngoài sống, đúng vậy không?”
“Phải.”
“Cuộc ly thân này kéo dài một tháng?”
“Tôi không gọi đó là ly thân. Chúng tôi không bao giờ nhìn nhận vấn đề theo hướng đó.”
“Vậy phải gọi là gì?”
“Thưa ông, chúng tôi cũng không bận tâm phải đặt tên gì cho nó.”
“Cứ cho là vậy. Ông chuyển ra khi nào?”
“Tôi không ghi nhật ký, nhưng vào khoảng tháng Bảy năm ngoái.”
“Khoảng ba tháng trước khi xảy ra án mạng?”
“Có lẽ vậy.”
“Ông đã ở đâu trong thời gian chuyển ra ngoài?”
“Tôi không chắc là chuyển ra ngoài, thưa ông. Tôi chỉ mang theo ít quần áo và rời khỏi nhà.”
“OK. Vậy ông đã đi đâu?”
“Tôi ở khách sạn Marriott ngay cuối phố vài đêm. Rồi mấy đêm ở nhà đối tác. Ông ấy đã ly dị và sống một mình. Đó thực sự là một tháng tồi tệ.”
“Vậy ông ở nay đây mai đó? Trong khoảng một tháng?”
“Đúng vậy.”
“Rồi ông trở về nhà, hàn gắn với bà Duffy, và đang dự định sống với nhau hạnh phúc mãi mãi thì bà ấy bị sát hại?”
“Đây có phải là câu hỏi?”
“Hãy trả lời. Đây đúng là câu hỏi dành cho ông, ông Duffy.” Jack Hogan trở lại với một xấp giấy tờ. Ông đưa cho nhân chứng một bản, liếc nhanh và nhận ra Pete Duffy đang tái người.
“Ông nhận ra nó chứ, ông Duffy?”
“Ừm, tôi không chắc lắm” Duffy nói, giở tập giấy để đánh trống lảng.
“Vậy cho phép tôi giúp ông. Đó là bản hợp đồng bốn trang thuê một căn hộ ở Weeksburg, cách đây ba mươi dặm. Đây là căn hộ xinh xắn, hai phòng ngủ, đầy đủ nội thất, trong một khu chung cư xa xỉ, hai nghìn đô một tháng. Ông nhớ ra chưa, ông Duffy?”
“Không rõ lắm. Tôi…”
“Thời hạn một năm, từ tháng Sáu năm ngoái.”
Duffy nhún vai như thể vẫn chưa nhớ ra được chút nào. “Không phải do tôi ký.”
“Không phải do ông, mà do thư ký của ông, một bà Judith Maze nào đó, một phụ nữ sống cùng chồng ở chính Strattenburg này suốt hai mươi năm qua. Đúng không, ông Duffy?”
“Nếu ông đã nói vậy. Bà ấy là thư ký của tôi.”
“Tại sao bà ấy ký hợp đồng thuê căn hộ đó?”
“Tôi không biết. Có lẽ ông nên hỏi bà ta.”
“Ông Duffy, ông có thực sự muốn tôi mời bà ấy đến đây làm nhân chứng không?”
“Ừm, có chứ. Xin mời ông.”
“Ông đã bao giờ nhìn thấy căn hộ này chưa, ông Duffy?”
Duffy điếng người, ngơ ngác và chới với như đang tuột dốc. Ông ta liếc nhìn bồi thẩm đoàn, nở một nụ cười giả tạo nữa, rồi trả lời, “Có chứ, tôi đã ở đó một vài lần.”
“Một mình ư?” Hogan cao giọng với mối nghi ngờ tuyệt đối và đúng lúc.
“Tất nhiên tôi ở một mình. Tôi tới đó vì công việc, rồi bị muộn, nên ở lại căn hộ đó.”
“Thuận tiện làm sao nhỉ. Vậy ai trả tiền thuê căn hộ?”
“Tôi không biết. Ông phải hỏi bà Maze.”
“Vậy ông đang nói với bồi thẩm đoàn, thưa ông Duffy, rằng ông không thuê căn hộ đó và ông không phải là người trả tiền thuê?”
“Đúng vậy.”
“Và rằng việc thuê căn hộ này không liên quan gì đến các vấn đề giữa ông với bà Duffy?”
“Không hề. Một lần nữa, tôi khẳng định mình không thuê căn hộ đó.”
Với Theodore, người đã biết sự thật, sự thành thật của Pete Duffy vô cùng đáng ngờ. Rõ ràng ông ta đang nói dối về căn hộ. Nếu ông ta đã nói dối một lần, thì ông ta cũng có thể nói dối lần khác nữa.
Rốt cuộc Jack Hogan không có cách nào chứng minh ông Duffy có thường xuyên sử dụng căn hộ đó hay không. Ông đành chuyển sang chủ đề golf, và cuộc chất vấn của ông giảm nhiệt hẳn. Duffy hiểu về go lf hơn hẳn vị luật sư bên nguyên, và hai người đã giằng co tranh cãi về những điểm vặt vãnh suốt cả giờ đồng hồ.
Cuối cùng khi Jack Hogan cũng chịu về chỗ ngồi thì đã gần 6 giờ chiều. Thẩm phán Gantry ngay lập tức thông báo, “Tôi đã quyết định không mở tiếp phiên xử vào ngày mai. Tôi nghĩ các vị bồi thẩm đây cần được nghỉ ngơi. Tôi hy vọng mọi người có được một kỳ nghỉ cuối tuần thảnh thơi, êm ả, và xin gặp lại quý vị tại đây vào 9 giờ sáng thứ Hai. Lúc đó, chúng ta sẽ tranh tụng bế mạc, và các vị bồi thẩm sẽ phán quyết. Xin nhắc lại quy định theo thông lệ. Đề nghị không thảo luận về vụ án. Nếu có bất cứ ai liên hệ với quý vị để bàn về vụ án, thì hãy thông báo ngay cho tôi. Cảm ơn các vị đã tận tâm. Xin gặp lại vào thứ Hai.”
Nhân viên chấp pháp tiễn các vị bồi thẩm ra theo lối cửa bên. Khi họ đi rồi, Thẩm phán Gantry nhìn các vị luật sư, nói, “Các vị còn điều gì muốn nói nữa không?”
Jack Hogan đứng dậy nói, “Lúc này thì không còn gì, thưa Thẩm phán.” Clifford Nance cũng đứng dậy, lắc đầu.
“Tốt lắm. Tòa tạm nghỉ đến chín giờ sáng thứ Hai.”
Clifford Nance đứng lên, dáng vươn thẳng và hệ trọng, rồi nói với giọng như diễn kịch, “Thưa ngài Thẩm phán, bên bị xin cho gọi chính ông Pete Duffy.”
Không khí đột nhiên căng thẳng khi bị cáo tự mình đến bên ghế nhân chứng. Cuối cùng, sau bốn ngày xét xử dài đằng đẵng, kẻ bị buộc tội có dịp đứng ở vị trí này và kể lại câu chuyện theo phía mình. Nhưng làm vậy ông ta cũng khiến chính mình trở thành đối tượng bị bên nguyên thẩm vấn. Theodore biết trong sáu mươi lăm phần trăm các vụ giết người, bị cáo không chịu làm nhân chứng, và cậu cũng hiểu lý do tại sao. Trước hết, họ thường là những kẻ phạm tội giết người và không chịu được một cuộc thẩm vấn chéo căng thẳng, tình vi. Thứ hai, họ thường có tiền sử từng vướng vào một hành vi phạm tội hình sự nào đó trước đấy, nên khi đứng ở bục nhân chứng, quá khứ sẽ gây bất lợi cho họ. Trong mỗi phiên tòa, thẩm phán đều cố giải thích với các bồi thẩm rằng bị cáo không buộc phải làm nhân chứng, không phải nói một lời nào, cũng không phải có người đại diện làm nhân chứng. Trách nhiệm nặng nề chứng minh anh ta có tội thuộc về bên nguyên.
Theodore cũng biết các vị bồi thẩm thường nghi ngờ một bị cáo nếu người này không chịu làm nhân chứng để tự cứu chính mình. Liệu họ có nghi ngờ Pete Duffy không, Theodore cũng không dám chắc. Mọi người không rời mắt dõi theo ông ta bước đến ghế nhân chứng, giơ tay và tuyên thệ sẽ chỉ nói sự thật.
Theodore có thể nhìn rõ tất cả bởi, nhờ Thẩm phán Gantry, cậu đang ngồi ở vị trí có tầm nhìn bao quát ngay hàng thứ hai, phía sau bàn bên bị, bên phải cậu là Ike, bên trái là bố. Mẹ có cuộc hẹn phải quay trở lại văn phòng. Bà bảo không thể lãng phí cả buổi chiều ở phiên tòa, mặc dù cả ba người nhà Boone còn lại đều thấy rõ bà muốn ở lại đến thế nào.
Clifford Nance hắng giọng, yêu cầu bị cáo khai tên, một thủ tục cần thiết nhưng khá ngớ ngẩn trong những tình huống như vậy. Mọi người trong phòng xử không chỉ biết Pete Duffy, mà còn biết rất nhiều về ông ta. Ông Nance bắt đầu hàng loạt những câu hỏi đơn giản. Ông ấy câu giờ với những tiểu tiết - như lịch sử gia đình ông Duffy, trình độ học vấn, công việc, không có tiền án tiền sử, đại loại thế. Hai người ngốn hàng giờ với màn hỏi qua đáp lại, và người ở ghế nhân chứng đã kịp thiết lập một thói quen. Ông ta thường liếc nhìn các vị bồi thẩm trong khi cố tạo giọng ung dung thư thái. Hãy tin tôi đi, ông ta dường như đang cố nói vậy.
Ông ta là một người đàn ông ưa nhìn khoác com lê sành điệu, điều này khiến Theodore thấy hơi kỳ cục vì không ai trong năm vị bồi thẩm nam mặc áo khoác hay đeo cà vạt cả. Theodore từng đọc mấy bài báo về chiến thuật luật sư và thân chủ nên chọn mặc đồ ra sao trong phiên xét xử.
Màn hỏi qua đáp lại cuối cùng cũng chuyển sang phần quan trọng khi ông Nance đề cập đến khoản bảo hiểm nhân thọ một triệu đô la của bà Myra Duffy. Nhân chứng giải thích ông có niềm tin vững chắc đối với bảo hiểm nhân thọ, rằng khi còn là thanh niên có vợ trẻ con thơ, ông đã luôn để dành tiền đầu tư vào bảo hiểm nhân thọ, cả cho mình và vợ. Rằng bảo hiểm nhân thọ là công cụ hữu hiệu để bảo vệ gia đình trong trường hợp một trong hai người chết sớm. Sau này, cưới người vợ thứ hai, bà Myra, ông cũng khăng khăng mua bảo hiểm nhân thọ. Và bà Myra đồng ý. Thực tế, nâng lên mức một triệu đô la chính là ý tưởng của bà ấy. Bà muốn được bảo vệ trong trường hợp có chuyện gì đó xảy ra với ông.
Ông Duffy có vẻ không giữ được bình tĩnh cho lắm nhưng những lời của ông thì có thể tin được. Các vị bồi thẩm lắng nghe chăm chú. Theodore cũng vậy, và hơn một lần, cậu phải tự nhủ với bản thân rằng mình đang theo dõi phiên tòa lớn nhất trong lịch sử Strattenburg. Thêm nữa, cậu cũng đang cúp học có lý do.
Từ chuyện bảo hiểm nhân thọ, ông Nance chuyển hướng cuộc đối thoại sang các dự án kinh doanh của ông Duffy. Tới đây, nhân chứng thực sự ghi điểm. Ông ta thừa nhận một số dự án bất động sản của mình đang gặp khó khăn, rằng một vài ngân hàng đang thúc ép ông ta, rằng ông ta đã mất vài đối tác và đã mắc chút sai lầm. Vẻ nhún nhường của ông ta thật xúc động và được các vị bồi thẩm ghi nhận. Điều đó khiến ông ta càng đáng tin hơn. Ông ta khăng khăng không chịu thừa nhận mình đang ở bên bờ vực phá sản, và nhất quyết rằng sẽ xúc tiến hàng loạt động thái ấn tượng để gỡ nợ và cứu gia sản của mình.
Một số điều ông ta nói trượt qua đầu Theodore, và cậu nghĩ là vài vị bồi thẩm cũng đang hơi bối rối. Không quan trọng. Clifford Nance đã cho thân chủ mình chuẩn bị kỹ lưỡng.
Theo giả thiết của bên nguyên, động cơ giết người là tiền và lòng tham. Giả thiết này càng lúc càng giảm sức nặng.
Sau đó ông Nance chuyển sang vấn đề tế nhị, các rắc rối trong hôn nhân của ông bà Duffy, và một lần nữa nhân chứng đã làm tốt phần việc của mình. Ông ta thừa nhận họ từng có lúc ông chẳng bà chuộc. Phải, họ đã tới gặp các nhà tư vấn hôn nhân. Phải, họ đã tìm gặp nhiều luật sư khác nhau chuyên về các vụ ly hôn. Phải, họ có cãi cọ, nhưng không lần nào dùng tới bạo lực. Và phải, đã có một lần ông chuyển ra ngoài, nhưng một tháng khổ sở ấy càng khiến ông quyết tâm hàn gắn mọi sự. Vào thời điểm vợ ông bị giết, họ đang sống chung hạnh phúc, và đang xây dựng kế hoạch cho tương lai.
Lại thêm một vết rạn nữa trong giả thiết của bên nguyên.
Thời gian buổi chiều dần trôi qua, Clifford Nance lái cuộc thẩm vấn sang chủ đề golf, rồi họ lại ngốn rất nhiều thời gian. Quá nhiều thời gian, Theodore nghĩ vậy. Ông Duffy một mực khẳng định ông thích chơi golf một mình hơn và rằng ông đã chơi như vậy có đến cả thập kỷ nay rồi. Ông Nance đưa ra một tệp hồ sơ, giải thích với thẩm phán rằng trong đó có phiếu ghi điểm của thân chủ mình cách đây hai mươi năm. Ông đưa một bản cho nhân chứng để xác nhận. Hồ sơ này được rút ra từ một sân golf ở California, mười bốn năm trước. Ông đã có một trận tám mươi mốt gậy, vượt par chín gậy. Ông ta chơi một mình.
Phiếu ghi điểm lần lượt được trình ra, và cuộc thẩm vấn chẳng mấy chốc trở thành cuộc diễu hành qua các sân golf trên khắp nước Mỹ. Pete Duffy rất chăm chỉ chơi golf. Ông ta thực sự nghiêm túc. Ông ta lưu giữ tất cả các phiếu ghi điểm. Và ông ta vẫn chơi một mình. Ông ta tiếp tục giải thích mình cũng có chơi với bạn bè, chơi để bàn công chuyện, thậm chí chơi với cả cậu con trai mỗi khi có dịp. Nhưng ông vẫn thích chơi một mình hơn, một mình một sân.
Cuộc diễu hành kết thúc, có vẻ như lại thêm một giả thiết khác của bên nguyên bị bắn rụng. Ý niệm rằng Pete Duffy đã tính toán cho vụ giết người từ hai năm trước, rằng ông bắt đầu rút về chơi golf một mình để khi rời sân không ai chứng kiến, xem ra không xác thực.
Theodore đang nghĩ: Có bốn người trong phòng xử đông đúc này biết sự thật. Mình, Ike, bố và Pete Duffy. Những người này biết chính ông ta đã giết vợ.
Ike đang nghĩ: Gã này sẽ được tự do, chúng ta không làm gì được rồi. Một tội ác hoàn hảo.
Woods Boone đang nghĩ: Làm sao để tìm ra nhân chứng bí ẩn kia mà đưa đến đây trước khi quá muộn?
Tấm phiếu cuối cùng là của ngày xảy ra án mạng. Ông Duffy chơi mười tám lỗ, đánh vượt par sáu gậy, và cũng chơi một mình. Tất nhiên, tấm phiếu do ông ta giữ, nên có thể đặt vấn đề về tính chính xác.
(Theodore đã học được rằng, trong môn golf, hầu hết các tấm phiếu ghi điểm không phản ánh đúng số gậy thực sự.)
Ông Nartce trở nên trầm buồn hơn khi hỏi thân chủ về ngày xảy ra án mạng, và người thân chủ trả lời rất trôi chảy. Giọng ông Duffy khẽ khọt, có phần ai oán đau buồn khi nói về cái chết thương tâm của vợ.
Chẳng biết ông ta có khóc không nhỉ, Theodore tự hỏi, bản thân cậu cũng cảm thấy mủi lòng bởi màn thẩm vấn.
Pete Dufíy cố nén những giọt nước mắt và có màn thể hiện xuất sắc khi mô tả mình đã sửng sốt đến thế nào lúc nghe tin, đã lao vội về nhà bằng chiếc xe golf, và thấy cảnh sát ở đó. Xác vợ ông vẫn chưa bị chuyển đi, và khi nhìn thấy vợ, ông đã đổ sụp xuống, may mà nhờ một điều tra viên đỡ dậy. Sau đó, ông được bác sĩ chăm sóc và kê thuốc.
Đồ dối trá, Theodore nghĩ. Đồ đạo đức giả. Chính ông đã giết vợ mình. Có nhân chứng. Tôi có cả bằng chứng là đôi găng tay giấu trong văn phòng kia.
Pete Duffy lại nói về cơn ác mộng khi gọi điện báo tin cho gia đình vợ, gia đình ông ta, bạn bè, cũng như việc trù liệu tổ chức lễ tang và chôn cất. Về nỗi cô đơn. Về sự trống vắng trong chính ngôi nhà nơi người vợ yêu dấu của ông ta bị sát hại. Về suy nghĩ sẽ bán ngôi nhà để chuyển đến nơi khác, về những chuyến thăm nghĩa trang thường nhật.
Kế đến là nỗi kinh hoàng khi bị nghi ngờ, bị cáo buộc, bị truy tố, bị bắt và tạm giam. Sao lại có người nghi ngờ ông sát hại người phụ nữ mà ông yêu thương và ngưỡng mộ?
Cuối cùng ông ta ngã quỵ. Ông ta cố kiềm chế bản thân dụi mắt và luôn mồm nói, “Tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi.” Thật xúc động, Theodore quan sát mặt các vị bồi thẩm. Cảm thông và thương cảm vô cùng. Duffy nhỏ nước mắt để cứu chính mình, và điều này đang có tác dụng.
Trong lúc thân chủ cố lấy lại bình tĩnh, CIifford cảm ơn Nance, quyết định họ đã ghi đủ điểm. Ông ta tuyên bố, “Không còn câu hỏi nào nữa, thưa quý tòa. Phần chứng tôi với nhân chứng kết thúc.”
Ông Jack Hogan lập tức đứng dậy nói, “Tôi xin đề nghị giải lao một lúc được chứ ạ, thưa Thẩm phán?” Một cuộc nghỉ giải lao mang tính chiến thuật, tách các vị bồi thẩm khỏi cảm xúc từ cuộc thẩm vấn. Lúc đó cũng là 3 giờ 30. Mọi người đều cần xả hơi.
“Mười lăm phút,” Thẩm phán Gantry tuyên bố. “Sau đó sẽ đến phần thẩm vấn chéo.” o O o
Mười lăm phút kéo ra thành nửa tiếng. “Ông ấy đang câu giờ,” Ike phát biểu. “Giờ là chiều thứ Sáu. Mọi người đều mệt mỏi. Ông ấy sẽ cho các vị bồi thẩm ra về và trở lại vào thứ Hai.”
“Không rõ nữa,” Woods Boone nói. “Cũng có thể ông ấy muốn nghe tranh tụng luôn vào chiều nay.”
Họ tụ tập ở sảnh, gần máy bán đồ uống tự động. Nhiều nhóm khán giả khác đang chờ đợi, chốc chốc lại ngó lên đồng hồ treo tường. Omar Cheepe xuất hiện, tìm đồ uống. Ông ta bỏ vào máy vài đồng xu, chọn thức uống trong lúc liếc nhìn mấy người nhà Boone, rồi lấy lon nước khỏi khay.
Ike vẫn tiếp tục. “Hogan sẽ không đụng được đến ông ta. Ông ta quá khôn ngoan.”
“Bồi thẩm đoàn sẽ kết luận ông ta không có tội chỉ trong vòng nửa tiếng,” Woods nói.
“Ông ta sẽ được tự do,” Theodore thêm vào.
“Thực sự bố cần phải trở lại văn phòng,” Woods nói.
“Ta cũng vậy,” đến lượt Ike. Đúng là nhà Boone.
Nhưng chẳng ai nhúc nhích vì thực tình cả hai đều muốn xem kết cục của phiên tòa. Theodore chỉ thấy vui vì hai người đó đứng bên nhau, cùng trò chuyện, thật là hiếm có dịp.
Phía cuối hành lang có sự chuyển dịch, đám đông bắt đầu kéo về phòng xử. Một vài người đã ra về. Dẫu sao thì đây cũng là chiều thứ Sáu.
Khi mọi người đã ở bên trong phòng xử, ổn định chỗ ngồi, Thẩm phán Gantry trở lại ghế chủ tọa và gật đầu với Jack Hogan. Đã đến lúc thẩm vấn chéo. Khi bị cáo ở vị trí nhân chứng còn bên nguyên có quyền đặt câu hỏi với ông ta một cách gay gắt, thì kết quả thường khá tệ.
Jack Hogan bước đến chỗ nhân chứng, đưa cho Pete Duffy một tập tài liệu. “Nhận ra cái này chứ, ông Duffy?” Hogan bắt đầu, mối nghi ngờ buông ra trong từng câu chữ.
Duffy không lấy gì làm vội vàng, ngó qua một lượt, mặt trước, mặt sau, giở vài trang. “Có,” cuối cùng ông ta nói.
“Xin cho quý bồi thẩm biết đó là cái gì?”
“Là một bản thông báo tịch biên.”
“Tịch biên tài sản nào?”
‘Trung tâm Mua sắm đường Rix.”
“Ở Strattenburg này phải không?”
“Phải.”
“Trung tâm Mua sắm đường Rix đó thuộc sở hữu của ông?”
“Phải, của tôi và một đối tác khác.”
“Ngân hàng đã gửi ông bản thông báo tịch biên này vào tháng Chín năm ngoái vì ông chậm thanh toán theo quý khoản nợ thế chấp. Có phải vậy không?” “Đó là ngân hàng nói vậy”
“Ông không đồng tình sao, ông Duffy? Ông sẽ nói với bồi thẩm đoàn rằng ông không chậm thanh toán khoản nợ thế chấp đối với tài sản này hồi tháng Chín năm ngoái?” Jack Hogan huơ huơ mấy tờ giấy, như thể ông có rất nhiều bằng chứng.
Duffy im lặng, rồi trình ra một nụ cười nhếch mép giả tạo. “Vâng, chúng tôi đã chậm trả.”
“Thế ngân hàng đã cho ông vay bao nhiêu để mua tài sản này?”
“Hai trăm nghìn đô la.”
“Hai trăm nghìn đô la,” Hogan nhắc lại trong lúc nhìn bồi thẩm đoàn. Rồi ông về bàn mình, đặt xấp giấy tờ xuống và nhặt một xấp khác lên. Ông đi ra phía sau bục nhân chứng, rồi nói, “Bây giờ, ông Duffy, ông có sở hữu một nhà kho ở phố Wolf thuộc khu công nghiệp Strattenburg không?”
“Có, thưa ông. Tôi còn hai đối tác khác nữa.”
“Và các ông đã bán nhà kho đó, đúng không?”
“Phải, chúng tôi đã bán rồi.”
“Các ông mới bán hồi tháng Chín, đúng không?”
“Nếu ông nói vậy. Tôi chắc ông đã có đủ giấy tờ.”
“Thực ra là vậy. Giấy tờ tôi có trong tay cho thấy nhà kho đó được chào bán hơn một năm nay, mức giá chào là sáu trăm nghìn đô la, khoản vay ở Ngân hàng Bang là năm trăm năm mươi, và cuối cùng ông và đối tác đã bán cái kho đó với giá chỉ hơn bốn trăm ngàn.” Hogan vừa nói vừa vung xấp giấy tờ vào không khí. “Ông đồng ý vậy chứ, ông Duffy?” “Nghe có vẻ đúng vậy.”
“Vậy là ông mất kha khá tiền trong thương vụ kia phải không ông Duffy?”
“Đó không phải là một trong những thương vụ thành công của tôi.”
“Ông có bức thiết phải bán nhà kho đó không?”
“Không.”
“Ông có cần tiền mặt không, ông Duffy?”
Nhân chứng thay đổi tư thế, có phần hơi không thoải mái. “Chúng tôi, các đối tác và tôi, cần bán nhà kho đó.”
Hai mươi phút sau đó, Hogan xoay quanh chuyện Pete Duffy với các đối tác và đối thủ tài chính. Duffy không chịu thừa nhận mình đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Nhưng, khi cuộc thẩm vấn chéo càng lúc càng căng thẳng, có thể thấy rõ nhân chứng đang phải gồng mình chống đỡ hết đòn này đến đòn kia. Hogan có rất nhiều giấy tờ. Ông đưa ra bản sao của hai vụ kiện trong đó các đối tác cũ chống lại ông Pete Duffy. Ông chất vấn nhân chứng về những lý lẽ viện dẫn trong các vụ kiện này. Duffy chối bay rằng ông ta chẳng có lỗi gì, rằng cả hai vụ đều không đi đến đâu cả. Ông ta thừa nhận việc kinh doanh của mình đang khốn đốn, nhưng cũng khẳng định rằng còn lâu mới đến mức phá sản.
Jack Hogan đã làm được kỳ tích khi khắc họa chân dung Duffy như một doanh nhân bấn tiền luôn phải xoay chạy mà hiếm khi kịp hẹn với chủ nợ. Nhưng kết nối các vấn đề của ông ta với động cơ giết người thì lại là chuyện khác.
Để thay đổi đề tài, Hogan sửa soạn cho một trận giội bom khác. Ông lịch sự chọc ngoáy loanh quanh những vấn đề bất ổn trong cuộc hôn nhân của Duffy, và sau mấy câu đơn giản, ông hỏi, “Bây giờ, ông Duffy, ông khai đã chuyển ra ngoài sống, đúng vậy không?”
“Phải.”
“Cuộc ly thân này kéo dài một tháng?”
“Tôi không gọi đó là ly thân. Chúng tôi không bao giờ nhìn nhận vấn đề theo hướng đó.”
“Vậy phải gọi là gì?”
“Thưa ông, chúng tôi cũng không bận tâm phải đặt tên gì cho nó.”
“Cứ cho là vậy. Ông chuyển ra khi nào?”
“Tôi không ghi nhật ký, nhưng vào khoảng tháng Bảy năm ngoái.”
“Khoảng ba tháng trước khi xảy ra án mạng?”
“Có lẽ vậy.”
“Ông đã ở đâu trong thời gian chuyển ra ngoài?”
“Tôi không chắc là chuyển ra ngoài, thưa ông. Tôi chỉ mang theo ít quần áo và rời khỏi nhà.”
“OK. Vậy ông đã đi đâu?”
“Tôi ở khách sạn Marriott ngay cuối phố vài đêm. Rồi mấy đêm ở nhà đối tác. Ông ấy đã ly dị và sống một mình. Đó thực sự là một tháng tồi tệ.”
“Vậy ông ở nay đây mai đó? Trong khoảng một tháng?”
“Đúng vậy.”
“Rồi ông trở về nhà, hàn gắn với bà Duffy, và đang dự định sống với nhau hạnh phúc mãi mãi thì bà ấy bị sát hại?”
“Đây có phải là câu hỏi?”
“Hãy trả lời. Đây đúng là câu hỏi dành cho ông, ông Duffy.” Jack Hogan trở lại với một xấp giấy tờ. Ông đưa cho nhân chứng một bản, liếc nhanh và nhận ra Pete Duffy đang tái người.
“Ông nhận ra nó chứ, ông Duffy?”
“Ừm, tôi không chắc lắm” Duffy nói, giở tập giấy để đánh trống lảng.
“Vậy cho phép tôi giúp ông. Đó là bản hợp đồng bốn trang thuê một căn hộ ở Weeksburg, cách đây ba mươi dặm. Đây là căn hộ xinh xắn, hai phòng ngủ, đầy đủ nội thất, trong một khu chung cư xa xỉ, hai nghìn đô một tháng. Ông nhớ ra chưa, ông Duffy?”
“Không rõ lắm. Tôi…”
“Thời hạn một năm, từ tháng Sáu năm ngoái.”
Duffy nhún vai như thể vẫn chưa nhớ ra được chút nào. “Không phải do tôi ký.”
“Không phải do ông, mà do thư ký của ông, một bà Judith Maze nào đó, một phụ nữ sống cùng chồng ở chính Strattenburg này suốt hai mươi năm qua. Đúng không, ông Duffy?”
“Nếu ông đã nói vậy. Bà ấy là thư ký của tôi.”
“Tại sao bà ấy ký hợp đồng thuê căn hộ đó?”
“Tôi không biết. Có lẽ ông nên hỏi bà ta.”
“Ông Duffy, ông có thực sự muốn tôi mời bà ấy đến đây làm nhân chứng không?”
“Ừm, có chứ. Xin mời ông.”
“Ông đã bao giờ nhìn thấy căn hộ này chưa, ông Duffy?”
Duffy điếng người, ngơ ngác và chới với như đang tuột dốc. Ông ta liếc nhìn bồi thẩm đoàn, nở một nụ cười giả tạo nữa, rồi trả lời, “Có chứ, tôi đã ở đó một vài lần.”
“Một mình ư?” Hogan cao giọng với mối nghi ngờ tuyệt đối và đúng lúc.
“Tất nhiên tôi ở một mình. Tôi tới đó vì công việc, rồi bị muộn, nên ở lại căn hộ đó.”
“Thuận tiện làm sao nhỉ. Vậy ai trả tiền thuê căn hộ?”
“Tôi không biết. Ông phải hỏi bà Maze.”
“Vậy ông đang nói với bồi thẩm đoàn, thưa ông Duffy, rằng ông không thuê căn hộ đó và ông không phải là người trả tiền thuê?”
“Đúng vậy.”
“Và rằng việc thuê căn hộ này không liên quan gì đến các vấn đề giữa ông với bà Duffy?”
“Không hề. Một lần nữa, tôi khẳng định mình không thuê căn hộ đó.”
Với Theodore, người đã biết sự thật, sự thành thật của Pete Duffy vô cùng đáng ngờ. Rõ ràng ông ta đang nói dối về căn hộ. Nếu ông ta đã nói dối một lần, thì ông ta cũng có thể nói dối lần khác nữa.
Rốt cuộc Jack Hogan không có cách nào chứng minh ông Duffy có thường xuyên sử dụng căn hộ đó hay không. Ông đành chuyển sang chủ đề golf, và cuộc chất vấn của ông giảm nhiệt hẳn. Duffy hiểu về go lf hơn hẳn vị luật sư bên nguyên, và hai người đã giằng co tranh cãi về những điểm vặt vãnh suốt cả giờ đồng hồ.
Cuối cùng khi Jack Hogan cũng chịu về chỗ ngồi thì đã gần 6 giờ chiều. Thẩm phán Gantry ngay lập tức thông báo, “Tôi đã quyết định không mở tiếp phiên xử vào ngày mai. Tôi nghĩ các vị bồi thẩm đây cần được nghỉ ngơi. Tôi hy vọng mọi người có được một kỳ nghỉ cuối tuần thảnh thơi, êm ả, và xin gặp lại quý vị tại đây vào 9 giờ sáng thứ Hai. Lúc đó, chúng ta sẽ tranh tụng bế mạc, và các vị bồi thẩm sẽ phán quyết. Xin nhắc lại quy định theo thông lệ. Đề nghị không thảo luận về vụ án. Nếu có bất cứ ai liên hệ với quý vị để bàn về vụ án, thì hãy thông báo ngay cho tôi. Cảm ơn các vị đã tận tâm. Xin gặp lại vào thứ Hai.”
Nhân viên chấp pháp tiễn các vị bồi thẩm ra theo lối cửa bên. Khi họ đi rồi, Thẩm phán Gantry nhìn các vị luật sư, nói, “Các vị còn điều gì muốn nói nữa không?”
Jack Hogan đứng dậy nói, “Lúc này thì không còn gì, thưa Thẩm phán.” Clifford Nance cũng đứng dậy, lắc đầu.
“Tốt lắm. Tòa tạm nghỉ đến chín giờ sáng thứ Hai.”
Bình luận truyện