Luật Sư Nhí
Chương 19
Sau trận golf, Theodore cùng bố ghé qua Nhà Tình thương phố Highland để thăm Julio cùng mấy anh chị em. Carola Pena rửa bát cho một khách sạn ở khu trung tâm, làm cả thứ Bảy, cho nên ba đứa nhỏ bị bỏ lại ở Nhà Tình thương. Cũng có trò chơi và các hoạt động dành cho tụi nhỏ, nhưng Theodore biết thứ Bảy ở đó chẳng bao giờ thú vị. Bọn chúng chỉ toàn xem ti vi, đá bóng trên cái sân nhỏ xíu, và nếu may mắn có người tài trợ thì mọi được xe buýt của nhà thờ chở đi xem phim.
Trong lúc chơi golf, hai bố con Theodore nảy ra một ý. Trường Stratten là một trường tư nhỏ được thành lập ở thị trấn này một trăm năm trước. Đội bóng đá và bóng rổ của họ không đọ được với trường lớn, nhưng bóng chày thì lại là thế mạnh phân khu Ban. Hai giờ chiều nay sẽ có hai trận bóng đá và bóng chày diễn ra liên tiếp.
Ông Boone đã trao đổi với người phụ trách ở Nhà Tình thương. Chẳng ngạc nhiên gì khi Julio, cậu bé đang phải trông hai đứa em sinh đôi, Hector và Rita, nhảy cẫng lên vì có dịp được ra ngoài. Ba đứa chạy ào ra chiếc suv và nhảy tót lên ghế sau. Mấy phút sau, ông Boone dừng xe trước khách sạn, đỗ cả lên vỉa hè, rồi bảo bọn trẻ, “Để ta chạy vào báo với Pena đã.” Ông vào rồi trở ra ngay lập tức, cười rạng rỡ báo lại, “Mẹ các cháu cũng cho rằng đó là một ý tưởng không tồi.”
“Cảm ơn bác Boone ạ,” Julio nói. Hai đứa nhỏ quá phấn khích không thốt nổi nên lời.
Trường Stratten chơi ở sân Rotary Park, một sân vận động cũ tuyệt vời bên rìa trung tâm thị trấn, gần khu ký túc xá nhỏ xíu. Rotary Park cũng lâu đời ngang với trường, và nhiều năm trước nó từng là sân của mấy đội bóng nhỏ của liên đoàn, nhưng chả đội nào ở lại lâu. Sân vận động này tự hào rằng ngôi sao Ducky Medwick đã từng chơi cho đội Double A một mùa ở đây vào năm 1920 trước khi chuyển tới chơi cho Cardinals. Có một tấm biển gần cổng trước sân gọi cho người hâm mộ nhớ lại thành tích thi đấu của Ducky trong khoảng thời gian ngắn ngủi ông chơi tại Strattenburg, nhưng Theodore chưa từng thấy ai dừng lại đọc bao giờ.
Ông Boone mua vé tại chiếc quầy chỉ có một cửa sổ. Vẫn ông già này làm việc tại đây kể từ hồi Pucky chuyển đi. Ba đô cho vé người lớn, một đô cho vé trẻ em. “Có ăn bỏng ngô không?” ông Boone hỏi khi cúi nhìn những gương mặt sáng bừng của Hector và Rita. Năm gói bỏng ngô, năm cốc sô đa, hai mươi đô. Mấy bác cháu leo thang rồi đi vào băng ghế ở khu vực khán đài không có mái che, ngay sau khu vực chỗ ngồi gần điểm chạm bóng đầu tiên của đội chủ nhà. Còn rất nhiều chỗ trống mà lại chẳng có mấy người hâm mộ nên nhân viên soát vé cũng chẳng quan tâm xem họ ngồi đâu. Sân có sức chứa hai nghìn người, và đám người hâm mộ kỳ cựu không bỏ lỡ dịp khoe khoang trước đây người ta kéo đến xem đông tới mức nào. Mỗi mùa giải Theodore đều xem năm, sáu trận của trường Stratten, nhưng chưa bao giờ cậu được thấy sân vận động đầy đến phân nửa. Mặc dầu vậy, cậu rất thích nơi này, với những khán đài kiểu cũ, những hàng ghế gỗ không mái che vươn ra gần sân, phòng chờ của cầu thủ ngay cạnh đường biên, còn tường bao thì đặc kín những tấm biển lòe loẹt quảng cáo mọi thứ ở Strattenburg, từ dịch vụ chăm sóc vật nuôi cho đến hãng bia địa phương cho đến các luật sư cần những khách hàng bị thương tổn. Thế mới gọi là sân bóng chày chứ.
Có những người muốn phá bỏ nó. Thực ra, suốt mùa hè, sau khi kỳ học kết thúc, cả sân vắng tanh vắng ngắt, nên người ta thắc mắc phải tốn bao nhiêu cho việc bảo dưỡng sân bãi. Chuyện này làm Theodore khó hiểu, bởi vì nhìn quanh cậu không hình dung nổi chính xác thì tiền “bảo dưỡng” được tiêu vào chỗ nào.
Mọi người đứng dậy nghe quốc ca, rồi đội Stratten ra sân. Cả bốn đứa trẻ ngồi sát bên nhau, trong khi ông Boone thì ngồi ở hàng ghế sau, chăm chú lắng nghe. “Nào nào,” sếp bé Theodore nói. “Chỉ tiếng Anh thôi, được chứ? Chúng ta đang học tiếng Anh.”
Bọn trẻ nhà Pena thường hồn nhiên dùng tiếng Tây Ban Nha mỗi khi nói chuyện với nhau, nhưng ngay lập tức chúng nghe lời Theodore chuyển sang tiếng Anh. Hector và Rita mới tám tuổi, không hiểu về bóng chày lắm. Theodore bắt đầu giải thích.
Bà Boone và Ike đến vào lượt chơi thứ ba, ngồi cùng ông Boone, lúc này ông không còn để tâm mấy đến bọn trẻ. Theodore cố lắng nghe họ thì thầm với nhau. Ike đã tìm được một căn hộ, giá thuê năm trăm đô la một tháng. Bà Boone chưa thảo luận được chuyện này với Carola Pena vì bà ấy vẫn đang ở khách sạn. Họ chuyển sang nói chuyện khác, nhưng Theodore không nghe được gì nữa.
Đối với những đứa trẻ tám tuổi, bóng chày là một môn thể thao buồn tẻ vì chúng không hiểu mấy, nên đến lượt đánh thứ năm, Hector và Rita chuyển sang chơi ném bỏng ngô, rồi bò lồm cồm quanh chỗ ngồi. Bà Boone hỏi chúng có thích ăn kem không khiến chúng nhảy cẫng lên. Sau khi hai đứa đi rồi, Theodore mới tiến hành đường đi nước bước của mình. Cậu hỏi Julio có thích ra khu giữa ngồi xem không. Cậu ta đồng ý, thế là cả hai đi dọc khán đài, qua phòng chờ dành cho cầu thủ, rồi cuối cùng ngồi xuống một khu vực băng ghế cũ kỹ, ngay phía trên cánh phải của khu trung tuyến. Ở đó chẳng có ai.
“Mình thích xem từ góc này,” Theodore nói. “Hơn nữa, nó lúc nào cũng trống chỗ.”
“Mình cũng vậy,” Julio nói.
Hai đứa bàn luận về các trung vệ một lúc rồi Theodore đổi đề tài. “Julio này, tụi mình cần nói chuyện về anh họ cậu. Mình không nhớ được tên anh ấy. Mà thực ra, mình đã biết tên anh ấy chưa nhỉ.”
“Bobby.”
“Bobby?”
“Thực ra là Roberto, nhưng anh ấy thích được gọi là Bobby.”
“OK. Vậy anh ấy có cùng họ với mẹ cậu không?”
“Không. Mẹ anh ấy với mẹ mình mới là chị em. Họ anh ấy là Escobar.”
“Bobby Escobar.”
“Sí. À.. ừ.”
“Anh ấy còn làm ở sân golf nữa không?”
“Vẫn.”
“Anh ấy vẫn ở Quarry à?”
“Ừ. Sao cậu lại hỏi?”
“Hiện giờ anh ấy là một người rất quan trọng, Julio ạ. Anh ấy cần ra trình diện cảnh sát, kể hết cho họ nghe những gì anh ấy thấy hôm người phụ nữ kia bị sát hại.”
Julio quay sang nhìn Theodore như thể cậu bị mất trí. “Anh ấy không thể làm vậy được.”
“Anh ấy có thể đấy. Nếu anh ấy được hứa bảo lãnh thì sao? Không bắt bớ. Không giam giữ. Cậu hiểu quyền miễn trừ là gì không?”
“Không.”
“Ừm, thuật ngữ luật ấy mà, nó có nghĩa anh ấy có thể thỏa thuận với cảnh sát. Nếu anh ấy ra trình diện và làm chứng, cảnh sát sẽ không làm phiền anh ấy. Anh ấy sẽ được miễn trừ. Thậm chí có thể còn có cách xin giấy tờ hợp pháp cho anh nữa.”
“Cậu đã báo cảnh sát à?”
“Không, Julio, đời nào.”
“Cậu đã kể với ai chưa?”
“Mình đã giữ kín danh tính anh ấy. Anh ấy vẫn an toàn, Julio ạ. Nhưng mình cần nói chuyện với anh ấy.”
Một cầu thủ đội kia đánh trúng bóng, quả bóng bật nẩy khỏi rào phải. Hai đứa thấy anh ta trượt vào điểm chạm bóng số ba để đánh bóng. Theodore lại phải giải thích sự khác nhau giữa việc bóng vượt rào với việc bóng bật ngược rào. Julio bảo ở El Salvador, người ta không chơi bóng chày mấy. Hầu như toàn chơi bóng đá.
“Chừng nào cậu sẽ gặp lại Bobby?”
“Có lẽ mai. Anh ấy thường đến chỗ mình vào Chủ nhật, rồi tụi mình cùng đi lễ.”
“Có cách nào mình nói chuyện được với anh ấy tối nay không?”
“Mình không rõ. Mình không rõ lúc nào thì anh ấy làm gì.”
“Julio, thời gian lúc này rất cấp bách”
“Cái gì cấp bách?”
“Rất quan trọng. Phiên tòa sẽ kết thúc vào thứ Hai. Bobby cần phải ra trình diện và kể lại sự việc”
“Mình không chắc đâu.”
“Julio, bố mẹ mình đều là luật sư. Cậu biết họ mà. Có thể tin tưởng họ được. Nếu họ có thể tìm được một căn hộ cho cậu và gia đình, kể cả Bobby, một nơi tử tế cho tất cả các cậu, đồng thời làm thủ tục bảo lãnh cho Bobby để anh ấy trở thành cư dân hợp pháp? Cậu nghĩ xem. Sẽ không phải trốn chạy cảnh sát nữa. Không phải lo về vụ truy lùng bắt bớ của phòng Di trú nữa. Mọi người nhà cậu được sống cùng nhau, Bobby sẽ có giấy tờ. Như vậy chẳng tốt sao?”
Julio nhìn trân trân vào khoảng không, nghĩ ngợi. “Thế thì tuyệt quá, Theodore.”
“Vậy thì đây là những gì chúng mình phải làm. Trước hết, cậu hãy nói OK khi bố mẹ mình tham gia vụ này. Họ sẽ ủng hộ các cậu. Họ là luật sư mà.”
“OK.”
“Tuyệt. Tiếp đến, cậu phải gặp Bobby, thuyết phục anh ấy rằng đây là một ý tưởng tốt. Thuyết phục anh ấy rằng có thể tin tưởng ở nhà mình. Cậu làm được chứ?”
“Mình chẳng biết”
“Anh ấy có kể với mẹ cậu về những gì anh ấy đã nhìn thấy không?”
“Rồi. Mẹ mình cũng như là mẹ của Bobby mà.”
“Tốt. Nhờ mẹ cậu nói với anh ấy nữa. Bác có thể thuyết phục anh ấy.”
“Cậu hứa là anh ấy sẽ không phải đi tù nhé?”
“Mình hứa”
“Nhưng anh ấy sẽ phải gặp cảnh sát?”
“Có thể không phải là cảnh sát, nhưng anh ấy cần nói chuyện với ai đó liên quan đến phiên tòa. Có thể là thẩm phán. Mình không biết nữa. Nhưng việc Bobby ra trình diện là tối cần thiết. Anh ấy là nhân chứng quan trọng nhất trong vụ xử này.”
Julio lấy hai tay ôm đầu, khuỷu tay chống gối. Đôi vai cậu oằn xuống dưới sức nặng của những lời nói và kế hoạch Theodore vừa vạch ra. Không ai nói gì trong một lúc lâu. Theodore dõi mắt nhìn Hector và Rita từ xa, hai đứa trẻ vẫn ngồi với mẹ cậu, tay cầm kem, mồm miệng tía lia. Woods và Ike đang say sưa thảo luận, quả là chuyện lạ giữa hai người. Trận đấu vẫn tiếp diễn.
“Giờ mình phải làm gì đây?” Julio hỏi.
“Nói chuyện với mẹ. Rồi cậu cùng mẹ nói chuyện với Bobby. Tụi mình phải cùng kết hợp.”
“OK.”
Trong lúc chơi golf, hai bố con Theodore nảy ra một ý. Trường Stratten là một trường tư nhỏ được thành lập ở thị trấn này một trăm năm trước. Đội bóng đá và bóng rổ của họ không đọ được với trường lớn, nhưng bóng chày thì lại là thế mạnh phân khu Ban. Hai giờ chiều nay sẽ có hai trận bóng đá và bóng chày diễn ra liên tiếp.
Ông Boone đã trao đổi với người phụ trách ở Nhà Tình thương. Chẳng ngạc nhiên gì khi Julio, cậu bé đang phải trông hai đứa em sinh đôi, Hector và Rita, nhảy cẫng lên vì có dịp được ra ngoài. Ba đứa chạy ào ra chiếc suv và nhảy tót lên ghế sau. Mấy phút sau, ông Boone dừng xe trước khách sạn, đỗ cả lên vỉa hè, rồi bảo bọn trẻ, “Để ta chạy vào báo với Pena đã.” Ông vào rồi trở ra ngay lập tức, cười rạng rỡ báo lại, “Mẹ các cháu cũng cho rằng đó là một ý tưởng không tồi.”
“Cảm ơn bác Boone ạ,” Julio nói. Hai đứa nhỏ quá phấn khích không thốt nổi nên lời.
Trường Stratten chơi ở sân Rotary Park, một sân vận động cũ tuyệt vời bên rìa trung tâm thị trấn, gần khu ký túc xá nhỏ xíu. Rotary Park cũng lâu đời ngang với trường, và nhiều năm trước nó từng là sân của mấy đội bóng nhỏ của liên đoàn, nhưng chả đội nào ở lại lâu. Sân vận động này tự hào rằng ngôi sao Ducky Medwick đã từng chơi cho đội Double A một mùa ở đây vào năm 1920 trước khi chuyển tới chơi cho Cardinals. Có một tấm biển gần cổng trước sân gọi cho người hâm mộ nhớ lại thành tích thi đấu của Ducky trong khoảng thời gian ngắn ngủi ông chơi tại Strattenburg, nhưng Theodore chưa từng thấy ai dừng lại đọc bao giờ.
Ông Boone mua vé tại chiếc quầy chỉ có một cửa sổ. Vẫn ông già này làm việc tại đây kể từ hồi Pucky chuyển đi. Ba đô cho vé người lớn, một đô cho vé trẻ em. “Có ăn bỏng ngô không?” ông Boone hỏi khi cúi nhìn những gương mặt sáng bừng của Hector và Rita. Năm gói bỏng ngô, năm cốc sô đa, hai mươi đô. Mấy bác cháu leo thang rồi đi vào băng ghế ở khu vực khán đài không có mái che, ngay sau khu vực chỗ ngồi gần điểm chạm bóng đầu tiên của đội chủ nhà. Còn rất nhiều chỗ trống mà lại chẳng có mấy người hâm mộ nên nhân viên soát vé cũng chẳng quan tâm xem họ ngồi đâu. Sân có sức chứa hai nghìn người, và đám người hâm mộ kỳ cựu không bỏ lỡ dịp khoe khoang trước đây người ta kéo đến xem đông tới mức nào. Mỗi mùa giải Theodore đều xem năm, sáu trận của trường Stratten, nhưng chưa bao giờ cậu được thấy sân vận động đầy đến phân nửa. Mặc dầu vậy, cậu rất thích nơi này, với những khán đài kiểu cũ, những hàng ghế gỗ không mái che vươn ra gần sân, phòng chờ của cầu thủ ngay cạnh đường biên, còn tường bao thì đặc kín những tấm biển lòe loẹt quảng cáo mọi thứ ở Strattenburg, từ dịch vụ chăm sóc vật nuôi cho đến hãng bia địa phương cho đến các luật sư cần những khách hàng bị thương tổn. Thế mới gọi là sân bóng chày chứ.
Có những người muốn phá bỏ nó. Thực ra, suốt mùa hè, sau khi kỳ học kết thúc, cả sân vắng tanh vắng ngắt, nên người ta thắc mắc phải tốn bao nhiêu cho việc bảo dưỡng sân bãi. Chuyện này làm Theodore khó hiểu, bởi vì nhìn quanh cậu không hình dung nổi chính xác thì tiền “bảo dưỡng” được tiêu vào chỗ nào.
Mọi người đứng dậy nghe quốc ca, rồi đội Stratten ra sân. Cả bốn đứa trẻ ngồi sát bên nhau, trong khi ông Boone thì ngồi ở hàng ghế sau, chăm chú lắng nghe. “Nào nào,” sếp bé Theodore nói. “Chỉ tiếng Anh thôi, được chứ? Chúng ta đang học tiếng Anh.”
Bọn trẻ nhà Pena thường hồn nhiên dùng tiếng Tây Ban Nha mỗi khi nói chuyện với nhau, nhưng ngay lập tức chúng nghe lời Theodore chuyển sang tiếng Anh. Hector và Rita mới tám tuổi, không hiểu về bóng chày lắm. Theodore bắt đầu giải thích.
Bà Boone và Ike đến vào lượt chơi thứ ba, ngồi cùng ông Boone, lúc này ông không còn để tâm mấy đến bọn trẻ. Theodore cố lắng nghe họ thì thầm với nhau. Ike đã tìm được một căn hộ, giá thuê năm trăm đô la một tháng. Bà Boone chưa thảo luận được chuyện này với Carola Pena vì bà ấy vẫn đang ở khách sạn. Họ chuyển sang nói chuyện khác, nhưng Theodore không nghe được gì nữa.
Đối với những đứa trẻ tám tuổi, bóng chày là một môn thể thao buồn tẻ vì chúng không hiểu mấy, nên đến lượt đánh thứ năm, Hector và Rita chuyển sang chơi ném bỏng ngô, rồi bò lồm cồm quanh chỗ ngồi. Bà Boone hỏi chúng có thích ăn kem không khiến chúng nhảy cẫng lên. Sau khi hai đứa đi rồi, Theodore mới tiến hành đường đi nước bước của mình. Cậu hỏi Julio có thích ra khu giữa ngồi xem không. Cậu ta đồng ý, thế là cả hai đi dọc khán đài, qua phòng chờ dành cho cầu thủ, rồi cuối cùng ngồi xuống một khu vực băng ghế cũ kỹ, ngay phía trên cánh phải của khu trung tuyến. Ở đó chẳng có ai.
“Mình thích xem từ góc này,” Theodore nói. “Hơn nữa, nó lúc nào cũng trống chỗ.”
“Mình cũng vậy,” Julio nói.
Hai đứa bàn luận về các trung vệ một lúc rồi Theodore đổi đề tài. “Julio này, tụi mình cần nói chuyện về anh họ cậu. Mình không nhớ được tên anh ấy. Mà thực ra, mình đã biết tên anh ấy chưa nhỉ.”
“Bobby.”
“Bobby?”
“Thực ra là Roberto, nhưng anh ấy thích được gọi là Bobby.”
“OK. Vậy anh ấy có cùng họ với mẹ cậu không?”
“Không. Mẹ anh ấy với mẹ mình mới là chị em. Họ anh ấy là Escobar.”
“Bobby Escobar.”
“Sí. À.. ừ.”
“Anh ấy còn làm ở sân golf nữa không?”
“Vẫn.”
“Anh ấy vẫn ở Quarry à?”
“Ừ. Sao cậu lại hỏi?”
“Hiện giờ anh ấy là một người rất quan trọng, Julio ạ. Anh ấy cần ra trình diện cảnh sát, kể hết cho họ nghe những gì anh ấy thấy hôm người phụ nữ kia bị sát hại.”
Julio quay sang nhìn Theodore như thể cậu bị mất trí. “Anh ấy không thể làm vậy được.”
“Anh ấy có thể đấy. Nếu anh ấy được hứa bảo lãnh thì sao? Không bắt bớ. Không giam giữ. Cậu hiểu quyền miễn trừ là gì không?”
“Không.”
“Ừm, thuật ngữ luật ấy mà, nó có nghĩa anh ấy có thể thỏa thuận với cảnh sát. Nếu anh ấy ra trình diện và làm chứng, cảnh sát sẽ không làm phiền anh ấy. Anh ấy sẽ được miễn trừ. Thậm chí có thể còn có cách xin giấy tờ hợp pháp cho anh nữa.”
“Cậu đã báo cảnh sát à?”
“Không, Julio, đời nào.”
“Cậu đã kể với ai chưa?”
“Mình đã giữ kín danh tính anh ấy. Anh ấy vẫn an toàn, Julio ạ. Nhưng mình cần nói chuyện với anh ấy.”
Một cầu thủ đội kia đánh trúng bóng, quả bóng bật nẩy khỏi rào phải. Hai đứa thấy anh ta trượt vào điểm chạm bóng số ba để đánh bóng. Theodore lại phải giải thích sự khác nhau giữa việc bóng vượt rào với việc bóng bật ngược rào. Julio bảo ở El Salvador, người ta không chơi bóng chày mấy. Hầu như toàn chơi bóng đá.
“Chừng nào cậu sẽ gặp lại Bobby?”
“Có lẽ mai. Anh ấy thường đến chỗ mình vào Chủ nhật, rồi tụi mình cùng đi lễ.”
“Có cách nào mình nói chuyện được với anh ấy tối nay không?”
“Mình không rõ. Mình không rõ lúc nào thì anh ấy làm gì.”
“Julio, thời gian lúc này rất cấp bách”
“Cái gì cấp bách?”
“Rất quan trọng. Phiên tòa sẽ kết thúc vào thứ Hai. Bobby cần phải ra trình diện và kể lại sự việc”
“Mình không chắc đâu.”
“Julio, bố mẹ mình đều là luật sư. Cậu biết họ mà. Có thể tin tưởng họ được. Nếu họ có thể tìm được một căn hộ cho cậu và gia đình, kể cả Bobby, một nơi tử tế cho tất cả các cậu, đồng thời làm thủ tục bảo lãnh cho Bobby để anh ấy trở thành cư dân hợp pháp? Cậu nghĩ xem. Sẽ không phải trốn chạy cảnh sát nữa. Không phải lo về vụ truy lùng bắt bớ của phòng Di trú nữa. Mọi người nhà cậu được sống cùng nhau, Bobby sẽ có giấy tờ. Như vậy chẳng tốt sao?”
Julio nhìn trân trân vào khoảng không, nghĩ ngợi. “Thế thì tuyệt quá, Theodore.”
“Vậy thì đây là những gì chúng mình phải làm. Trước hết, cậu hãy nói OK khi bố mẹ mình tham gia vụ này. Họ sẽ ủng hộ các cậu. Họ là luật sư mà.”
“OK.”
“Tuyệt. Tiếp đến, cậu phải gặp Bobby, thuyết phục anh ấy rằng đây là một ý tưởng tốt. Thuyết phục anh ấy rằng có thể tin tưởng ở nhà mình. Cậu làm được chứ?”
“Mình chẳng biết”
“Anh ấy có kể với mẹ cậu về những gì anh ấy đã nhìn thấy không?”
“Rồi. Mẹ mình cũng như là mẹ của Bobby mà.”
“Tốt. Nhờ mẹ cậu nói với anh ấy nữa. Bác có thể thuyết phục anh ấy.”
“Cậu hứa là anh ấy sẽ không phải đi tù nhé?”
“Mình hứa”
“Nhưng anh ấy sẽ phải gặp cảnh sát?”
“Có thể không phải là cảnh sát, nhưng anh ấy cần nói chuyện với ai đó liên quan đến phiên tòa. Có thể là thẩm phán. Mình không biết nữa. Nhưng việc Bobby ra trình diện là tối cần thiết. Anh ấy là nhân chứng quan trọng nhất trong vụ xử này.”
Julio lấy hai tay ôm đầu, khuỷu tay chống gối. Đôi vai cậu oằn xuống dưới sức nặng của những lời nói và kế hoạch Theodore vừa vạch ra. Không ai nói gì trong một lúc lâu. Theodore dõi mắt nhìn Hector và Rita từ xa, hai đứa trẻ vẫn ngồi với mẹ cậu, tay cầm kem, mồm miệng tía lia. Woods và Ike đang say sưa thảo luận, quả là chuyện lạ giữa hai người. Trận đấu vẫn tiếp diễn.
“Giờ mình phải làm gì đây?” Julio hỏi.
“Nói chuyện với mẹ. Rồi cậu cùng mẹ nói chuyện với Bobby. Tụi mình phải cùng kết hợp.”
“OK.”
Bình luận truyện