Một Tấc Tương Tư
Chương 27: Chính Dương sừng sững
Thiên Đô Phong không phải là một Đạo quan đột ngột nhô lên trên đỉnh núi.
Nó do mười ngọn núi hiểm trở hợp thành, núi non trùng điệp, cây cối mọc đầy trên mỏm đá. Trên núi mây mù lượn quanh, sương khói mông lung. Lối đi lên núi có vách đá cao hơn trăm trượng, ngạo nghễ đứng thẳng, giống như cánh cổng được bậc thầy tự nhiên điêu khắc.
Ngày hôm nay những cánh cổng từ đỉnh núi đến chân núi lần lượt mở ra, chuông lớn rền vang, tiếng trống truyền xa, chỉ vì Uy Ninh Hầu Bạc Cảnh Hoán – một trong ba vị Hầu gia có địa vị tôn quý phụng hoàng mệnh đến đây chủ trì buổi lễ phong thưởng.
Theo thông lệ, cứ mấy năm Thiên tử sẽ ban thưởng cho Chính Dương Cung một lần, vừa có ý kính trọng thần linh, vừa để lộ thiên ân cuồn cuộn. Những lần trước đều là cận thần của Thiên tử đến đây, nhưng lần này lại là Uy Ninh Hầu đích thân đến, vì vậy mà phá lệ long trọng. Nghi lễ tiếp đón Vương hầu quý tộc tất nhiên không phải bình thường, xe ngựa nối đuôi nhau thành một hàng dài, thị vệ hộ tống và người hầu ăn mặc sáng sủa, bước đi trật tự, mấy trăm người mà không có lấy một tạp âm.
Người tiếp đón của Chính Dương Cung là một thanh niên mặc trang phục đạo sĩ, dáng người hắn thẳng tắp, mặc trường bào đội mũ cao, khi đối mặt với Vương hầu quý tộc hắn không kiêu ngạo không xiểm nịnh. Hắn đi dọc theo con đường núi, bước đi mạnh mẽ phóng khoáng.
Xe ngựa sơn đen dừng lại trước thềm đá, người đánh xe tháo tuấn mã kéo xe ra, xuyên cán kiệu màu đen qua càng xe rồi dùng sức khiêng cỗ kiệu rộng lớn đi nhanh lên núi. Đồ vật bên trong kiệu không hề lay chuyển, ngay cả nước trà để trên bàn con cũng chưa từng tràn ra.
Một bàn tay trắng trẻo vén tấm rèm màu xanh nhạt thêu kim hoa phi điểm lên, bên cửa sổ xuất hiện một gương mặt tuấn tú như ngọc, Tả Khanh Từ khen ngợi, “Chiếc xe ngựa này của Hầu gia có thiết kế độc đáo, rất thú vị.”
Người ngồi đối diện chàng ở trong kiệu chính là Uy Ninh Hầu, ông mặc trang phục màu đen, tuổi gần bốn mươi, khuôn cằm hơi vuông, vẻ mặt lạnh lùng uy nghiêm, “Chỉ là một chút kĩ xảo mà thôi, không phải cái gì to tát. Đây là lần đầu tiên Tả công tử lên Thiên Đô Phong?”
Tả Khanh Từ khẽ cười một tiếng, “Ta ngưỡng mộ danh tiếng núi thiêng đã lâu, đáng tiếc chưa từng được chiêm ngưỡng. Nghe nói Hầu gia đã từng đến đây, chắc hẳn ngài rất quen thuộc với núi này.”
“Đó đã là chuyện của nhiều năm trước.” Vẻ mặt Bạc Cảnh Hoán thoáng biến đổi nhưng lập tức biến mất không dấu vết, “Phong cảnh trên núi quả thực không tồi, đáng để thưởng thức.”
Bạc Hầu lạnh lùng ít nói, đối xử với thuộc hạ cực kỳ nghiêm khắc. Tả Khanh Từ cũng không có ý kết giao, nhưng đồng hành cả quãng đường không thể không nói mấy câu để bầu không khí không quá quạnh quẽ, “Đoạn đường này đều nhờ Hầu gia chăm sóc, may mắn được thơm lây.”
Đường núi chạy sâu theo những dốc núi quanh co khúc khuỷu, không nhìn thấy điểm dừng. Từng bậc thang được lát bằng những khối đá xanh, rộng dài đủ cả, hai bên đường trồng đầy dây leo, những sợi dây xanh biếc rủ xuống giống như lọng che. Gió vừa thoảng qua, lá cây rụng xào xạc, rơi xuống bậc đá xanh đen càng thêm nổi bật.
Bạc Cảnh Hoán nhìn thoáng qua cảnh sắc bên ngoài, lạnh nhạt nói, “Công tử không cần quá khiêm tốn, vừa xuất thế đã phải bôn ba vạn dặm, lấy lại Sơn Hà Đồ, có công lao rất lớn. Lúc lệnh tôn bẩm báo Thánh thượng, long nhan cực kỳ vui mừng, khen ngợi công tử rất nhiều. Chuyến đi này của bản hầu mượn ngược hào quang của công tử mới đúng.”
Không khí trên núi lạnh dần, gió thổi qua mang theo tiếng đinh đang mơ hồ, cảnh vật trong lành càng thêm kỳ ảo. Mùi cỏ cây thơm ngát thấm vào ruột gan, ve kêu rả rích, chim chóc bay lượn trong khe núi sâu thăm thẳm, bầu không khí không có lấy một tia oi bức. Đi thêm một lúc nữa, trước mắt là một dải xanh ngắt kéo dài, hoa thơm đua nở.
Cuối cùng cỗ kiệu cũng dừng lại, hộ vệ vén rèm che lên, Tả Khanh Từ bước ra ngoài theo Bạc Cảnh Hoán, ánh mắt thoáng dừng trên người đạo sĩ đang tiếp đón rồi chuyển sang điện thờ đá đứng sừng sững ở cuối núi.
Mái hiên điện thờ đá cong vút, cổ xưa xuất trần, không biết đã được xây dựng bao nhiêu năm, bây giờ chân đá sinh rêu, màu sắc loang lổ, càng tăng thêm vẻ cung kính trang nghiêm.
Dưới điện thờ là một hàng đạo sĩ áo xanh đứng thẳng người, phân chia cấp bậc rõ ràng, lặng im không một tiếng động.
Đứng đầu là một người đàn ông trung niên râu tóc đen nhánh, khí chất phi phàm, dáng vẻ trang nghiêm, tay cầm phất trần chuôi ngọc, toàn thân không nhiễm nửa phần thế tục. Gió núi thổi qua khiến vạt áo và tay áo của ông bay bồng bềnh, giống như tùy thời có thể cưỡi hạc bay đi, đây hẳn là Chưởng giáo của Chính Dương Cung – Kim Hư chân nhân.
Uy Ninh Hầu có thân hình cao lớn, ông đứng chắp tay, quanh người tự nhiên xuất hiện khí thế không thể trái nghịch.
Kim Hư chân nhân tiến lên chào đón, ông giương phất trần lên, lạnh nhạt chắp tay vấn an, những đạo sĩ khác cũng đồng thời khom người thi lễ.
Gió núi lùa qua tay áo, một nhóm nam nữ tu đạo đứng giữa núi xanh mang theo khí chất ung dung thản nhiên, đối mặt với Vương hầu mà không hề có vẻ yếu đuối, kính cẩn mà không hèn mọn, giống như quần tiên sống nơi thế ngoại đến đón chào.
Tả Khanh Từ thu tất cả vào trong mắt, chàng mỉm cười.
Chính Dương sừng sững, danh bất hư truyền.
Ân Trường Ca mặc đạo bào không còn nghiêm túc như lúc dẫn đường, cười sang sảng nói, “Đã nhiều ngày trôi qua kể từ khi từ biệt ở Kim Lăng, không ngờ lần này công tử lại đi cùng Uy Ninh Hầu, khiến ta ngạc nhiên mừng rỡ vô cùng.” Hắn là một trong Thiên Đô Song Bích, có danh tiếng nổi bật trong chốn giang hồ, lại là đệ tử chân truyền của Chưởng giáo, một nhân tài kiệt xuất trong thế hệ thanh niên ngày nay, hơn nữa hắn có mày kiếm mắt sáng, thân hình thon dài, liền trở thành một trong hai người được chọn đi tiếp đón khách quý.
Thẩm Mạn Thanh mặc vũ y, nàng khẽ mỉm cười, má lúm đồng tiền như ẩn như hiện, dịu dàng giống như ánh trăng trên núi, “Mấy ngày trước ta và Trường Ca còn trò chuyện về những gì xảy ra ở Thổ Hỏa La, mấy ngày sau đã được gặp công tử, chẳng trách hôm nay hỉ thước* đầu cành gáy mãi không ngừng. Thiên Đô Phong không thiếu thắng cảnh, công tử nhất định phải ở thêm một thời gian, để chúng ta làm tròn bổn phận của chủ nhà.”
Chim hỉ thước hay còn gọi là chim khách, người xưa cho rằng chim khách kêu là báo tin vui.
Tả Khanh Từ mỉm cười, “Ta ở Kim Lăng cả ngày nhàm chán, nghe nói Uy Ninh Hầu lĩnh chỉ đến đây, vì muốn gặp cố nhân nên mới đi theo đội ngũ. Những gì nhìn thấy trên đường đi quả nhiên không phụ danh tiếng.”
Thẩm Mạn Thanh ngạc nhiên mừng rỡ đồng thời cảm thấy hơi tiếc nuối, “Công tử đến thời tiết vô cùng tốt, đây là khoảng thời gian thích hợp để ngắm cảnh trong núi, đáng tiếc gần đây ta bận rộn chuẩn bị cho buổi lễ, sợ là không có cách nào bầu bạn.”
Ân Trường Ca việc nhân đức không nhường ai, tiếp nhận ngay, “Sư tỷ yên tâm, đệ và công tử quen thân, chắc chắn sẽ dẫn công tử đi thăm thú xung quanh, tận tâm thỏa đáng.”
Thẩm Mạn Thanh để lộ lúm đồng tiền nhàn nhạt, dẫn chủ tớ Tả Khanh Từ đến Nhã Uyển nghỉ ngơi, “Công tử và Uy Ninh Hầu đều là khách quý, nếu cảm thấy thiếu sót chỗ nào hãy nói với Trường Ca, hết thảy đều có thể tùy ý.”
Chính Dương Cung có mấy ngàn người, lớp lớp nhà ở kéo dài chạy sâu, Thẩm Mạn Thanh là đồ đệ của Chưởng giáo, làm việc ổn trọng, thường xuyên thay mặt sư phụ răn dạy sư đệ sư muội, trong môn phái có uy vọng rất cao, những đệ tử Chính Dương Cung đi ngang qua đều không quên ngừng chân thi lễ, nàng hơi gật đầu đáp lại, rất có phong phạm của Đại sư tỷ.
Ân Trường Ca lại khác biệt, trong núi yên tĩnh lại phải khổ tu, vốn không có nhiều thú vui, bởi vì đại lễ phong thưởng mà có vô số việc cần làm, mặc dù ở trước mặt sư đệ sư muội hắn nghiêm cẩn tự kiềm chế, kì thực không có kiên nhẫn với những thứ lễ nghi rườm rà. Lần này có thể lấy lý do làm bạn với Tả Khanh Từ mà thoát ra được, trong lòng cảm thấy cực kỳ may mắn.
Mỗi ngày sau khi luyện kiếm xong, Ân Trường Ca thoải mái tìm đến Nhã Uyển, mời Tả Khanh Từ đi du ngoạn khắp núi, giới thiệu di tích nổi tiếng, thưởng thức phong cảnh mặt trời mọc, bình phẩm thức ăn sơn dã, cả ngày nhàn nhã thoải mái.
Thiên Đô Phong dốc đứng hiểm trở, từ xưa đã được xem là nơi tiên nhân cư ngụ, mây trắng vạn năm trôi lững lờ, bầu trời xanh trong như biển cả, tạo thành vẻ cổ xưa trang nghiêm, lại mang theo chút xa xăm trống trải và khí thế cô tuyệt.
Tả Khanh Từ đứng trong một cái đình lẻ loi trên đỉnh núi, dõi mắt nhìn ngắm phía xa, chỉ thấy mây núi giao hòa, biển và sông quy về một mối, bầu trời cao xa ở ngay trong tầm mắt, trời đất tráng lệ vô biên, không khỏi thở dài: “Thiên Đô hướng thẳng lên trời, phong cảnh tựa như chốn Bồng Lai hiếm thấy, Ân huynh ở nơi này nhiều năm, sớm mai gội đầu dưới mây ngũ sắc, đêm đến ngủ dưới biển sao, may mắn biết bao.”
Những phong cảnh này Ân Trường Ca sớm đã nhìn nhiều thành quen nhưng vẫn cảm thấy tự hào: “Có thể trở thành đệ tử của Chính Dương Cung, ta quả thực là vô cùng may mắn.”
Tả Khanh Từ giống như tùy tiện hỏi thăm, “Ân huynh lên núi khi nào?”
“Trước kia sư tôn vân du giang hồ, năm bốn tuổi ta lọt vào mắt xanh của người, được người thu nhận.” Ân Trường Ca dựa lưng vào cột đình, ngắm nhìn biển mây giăng khắp núi, khó tránh khỏi xúc động, “Vào núi đã không dễ, xuống núi lại càng khó hơn. Ta dồn hết tâm sức vào luyện kiếm, đã tu tập trọn mười lăm năm nhưng chỉ đến Đại Hội Đấu Kiếm, sư tôn mới cho phép ta và sư tỷ xuống núi.”
Tả Khanh Từ mỉm cười: “Ta nghe nói môn quy của quý phái vô cùng nghiêm khắc, Ân huynh mới hai mươi tuổi đã có thể hành tẩu giang hồ, thật sự là anh tài hiếm có.”
Ân Trường Ca được khen ngợi, trái lại sinh ra mấy phần hổ thẹn, “Công tử quá khen, chút tư chất của ta cũng chỉ thường thường, sư thúc Tô Tuyền đã xuống núi từ khi còn là thiếu niên buộc tóc, so sánh với người thì ta chẳng khác gì đom đóm ở cạnh vầng trăng.”
Mây mù mong manh vờn quanh người, tụ lại như khói mỏng, Tả Khanh Từ khẽ phẩy ống tay áo, “Ta nhớ Ân huynh vẫn luôn kính trọng người này, không biết là người đó có phong phạm bực nào.”
“Sư thúc là người ta bội phục nhất trong cuộc đời này.” Ân Trường Ca hoàn toàn không cảnh giác với công tử cao quý này, hơn nữa hắn sùng bái gần như cuồng nhiệt với Tô Tuyền, một khi nhắc đến liền thao thao bất tuyệt, “Sư thúc thực sự là kỳ tài ngút trời, vốn bái làm học trò của sư tổ nhưng lại được Thái sư tổ tự mình truyền thụ, trong đám hậu bối chỉ có một người đặc biệt như sư thúc. Bất kể là kiếm pháp cao thâm bậc nào, sư thúc đều lĩnh hội thông suốt, phát huy vô cùng nhuần nhuyễn, sau hai mươi tuổi lại mở ra con đường riêng, kiếm thuật gần như tự thành một phái, nếu không phải xảy ra vấn đề thì thành tựu không thể đong đếm được.”
Ân Trường Ca sục sôi tinh thần, hăng hái đến độ lông mày nhướng lên cao, Tả Khanh Từ mỉm cười, “Kinh tài tuyệt diễm như vậy, chẳng trách Lục huynh muốn được thỉnh giáo.”
“Giang hồ đồn đại sư thúc Tô Tuyền tính tính kiêu ngạo, kỳ thật ông chỉ trầm mê kiếm nghệ, tất nhiên hợp ý với Lục huynh.” Ân Trường Ca nhớ lại chuyện cũ, vừa hoài niệm lại vừa thương cảm, “Năm đó sư thúc từng ở bên hồ Thúy Vi, lúc người luyện kiếm kiếm quang ngút trời, tạo thành phong cảnh tuyệt đẹp bên biển mây, thường xuyên có sư đệ sư muội ngưỡng mộ phong thái cầu xin người chỉ dạy, chỉ cần không ảnh hưởng đến chuyện luyện công thì sư thúc đều giải đáp giúp cho.”
Dường như Tả Khanh Từ cũng rất hào hứng: “Ông cũng từng chỉ điểm Ân huynh?”
Ân Trường Ca tiếc nuối lắc đầu, “Lúc ấy ta còn quá nhỏ, sau này sư thúc rất ít khi ở lại trên núi, ta chỉ mới được xem qua những ghi chép lúc luyện kiếm của sư thúc, dù chỉ có vài câu nhưng đã thu được ích lợi không nhỏ.”
Tả Khanh Từ khen vài câu, khẽ thở dài cảm thán: “Kỳ tài như vậy mà trong phái lại không có ai kế thừa tài năng của ông?”
Ân Trường Ca ngạc nhiên, im lặng trong chốc lát.
Gương mặt tuấn tú xuất hiện vẻ tiếc nuối, Tả Khanh Từ nói: “Ông nổi danh ở bên ngoài, lại không tiếc truyền thụ kiếm nghệ, phải có không ít người muốn bái sư mới đúng.”
Ân Trường Ca hào sảng đột nhiên nghẹn lời, trì trệ nửa ngày mới nói: “Đúng là như thế, nhưng sư thúc quá nửa là từ chối, chỉ nói mình lưu lạc giang hồ không rảnh dạy dỗ, chuyện thu đồ đệ dựa vào duyên phận.”
Tả Khanh Từ thở dài, “Đáng tiếc lệnh sư thúc kiên trì quá mức, không thì chí ít còn có người kế thừa y bát, cũng không đến nỗi võ nghệ thất truyền từ đây.”
Ân Trường Ca nhịn nửa ngày cuối cùng vẫn không nhịn được: “Cũng không phải là một người cũng không có.”
Tả Khanh Từ ngạc nhiên: “Thì ra thật sự có truyền nhân? Vì sao chưa từng nghe tiếng trên giang hồ, chẳng lẽ tư chất người đó yêu kém, không có triển vọng?”
Lời vừa thốt ra khỏi miệng thì Ân Trường Ca đã hối hận, lại không thể không đáp, nhắm mắt nói, “Không phải vậy, năm đó sau khi sư thúc xảy ra chuyện, danh đồ cũng rời núi, từ đó không rõ tung tích, tài nghệ người đó như thế nào bản môn cũng không biết được.”
Giọng nói của Tả Khanh Từ mang theo vẻ vui mừng, “Có sư phụ như thế thì đệ tử tất không tầm thường, không biết có thể kế tục phong thái ngày xưa của Kiếm Ma không.”
“Chuyện xảy ra đã nhiều năm lại không có người chỉ dạy, vô danh cũng không có gì lạ.” Ân Trường Ca trả lời gượng gạo, đột nhiên nhớ ra điều gì đó, “Suýt nữa quên mất, gần đây còn có một thác nước phong cảnh khác tráng lệ, công tử đi theo ta.”
Không đợi chàng trả lời, Ân Trường Ca đã quay người rời khỏi đình nhỏ, chân rảo bước rất nhanh, trông giống như đang chạy trốn.
Lễ phong thưởng sắp đến, đủ loại việc đổ dồn vào, trên dưới Chính Dương Cung bận tối mặt tối mày. Ân Trường Ca trốn mấy ngày cuối cùng vẫn trốn không thoát, bị Thẩm Mạn Thanh bắt đi giúp đỡ, biến mất một hai ngày. Tả Khanh Từ bắt đầu thanh nhàn, dẫn theo Bạch Mạch ra ngoài nghe ngóng, dọc đường đi được đạo đồng chỉ rõ phương hướng.
Hồ Thúy Vi nằm trên đỉnh một ngọn núi hiểm trở, ngăn cách với bên ngoài, hình dáng như một chiếc lông chim mềm mại. Hồ nằm trên đỉnh núi, nơi mây lạnh và hơi ẩm giao tụ, màu nước trong xanh tựa ngọc bích, nhìn từ xa trông giống như làn khói mỏng lơ lửng giữa không trung, sương mù lượn lờ mặt nước, trong trẻo yên tĩnh dị thường.
Bạch Mạch nhìn thấy không nhịn được tán thưởng, “Trong những phong cảnh ở Thiên Đô Phong mà chúng ta đi thăm thú mấy ngày nay, chỗ này có thể nằm trong ba vị trí đầu.”
Tả Khanh Từ cũng có cảm nhận như vậy, nhưng dõi mắt quan sát, phát hiện khu vực này tuy có phong cảnh đẹp nhưng lại ít người lui tới, hoa tươi cỏ dại um tùm, đường mòn đá mọc đầy rêu xanh, chỉ cần sơ sảy một chút là bị trượt chân.
Bên bờ hồ có một tiểu viện, mái nhà vẫn còn nguyên vẹn, còn chưa đến mức sụp đổ. Bên trong viện, cây cối um tùm, chuột đồng rì rào qua lại, màu sơn trên cột trụ và hành lang đã ngả màu, hiển nhiên là bị bỏ hoang nhiều năm, ước chừng sau khi Tô Tuyền xảy ra chuyện thì không có người đến vẩy nước quét nhà.
Phòng ở có bố cục cao rộng, bày biện đơn giản, mượn sắc trời làm đèn nên sáng rỡ. Trên xà nhà treo mười mấy tác phẩm thư pháp, che khuất một nửa ánh sáng. Chữ viết lối cuồng thảo như rồng bay phượng múa lơ lửng giữa không trung, những con chữ mang theo khí thế hừng hực giống như muốn phá giấy chui ra ngoài, trong bức tranh ẩn chứa vẻ ngông cuồng phóng khoáng.
Tả Khanh Từ liếc mắt nhìn, lạc khoản chính là Tô Tuyền, viết khi còn là thiếu niên đương độ hăng hái.
Bút tích còn đây nhưng người xưa không quay về nữa. Trên kệ đặt hơn mười quyển sách, bàn ghế thì bị một lớp bụi dày che phủ. Nghiên mực với những đường vân đẹp đẽ giờ đầy bụi ám, vết mực còn lại đã khô cạn từ lâu, bút lông sói đặt trên giá bút, trên bàn còn có một tờ giấy trắng, không biết cuối cùng ông muốn viết gì.
Bên cạnh thư phòng là một gian phòng ngủ đơn giản, trên giường trải một cái chăn, trong bình cắm mấy chuôi kiếm cũ, hoàn toàn không có gì dư thừa, ngoại trừ nghiên mực kia thì tất cả những thứ mà Tô Tuyền sử dụng đều là vật dụng bình thường, từ đó có thể nhìn ra ông không để tâm đến sinh hoạt thường ngày lắm.
Cạnh phòng ông là một căn phòng nhỏ hơn, màn gối rất chỉnh tề, trên bàn có vài món đồ chơi nhỏ không đáng tiền, mấy khối đá trong suốt, một con lật đật bằng bùn màu xám, hai cái lồng đựng dế đan bằng tre, thời gian đã lâu, bóp nhẹ một cái đã tan thành vụn. Còn có một cái lò sưởi tay rỉ sét, hoa văn tinh tế, kiểu dáng nhỏ xinh, hình như là đồ vật của nữ tử, Tả Khanh Từ có vẻ rất hứng thú với món đồ này, nhặt lên mang ra ngoài nhìn ngắm một lúc.
Bạch Mạch không hiểu vì sao chủ nhân lại đến đây, chỉ thấy chàng quan sát mấy món đồ này tỉ mỉ, thậm chí còn mở rương quần áo ra, xem mấy bộ quần áo đạo sĩ, sau đó lật chăn nệm đầy bụi bặm trên giường, nhặt một cái trống nhỏ để bên gối lên, cầm trong tay xem xét rất lâu.
Một cái trống nhỏ rất bình thường, hai cái chùy đá nho nhỏ, đinh đồng quanh trống đã rỉ sét, sơn ở chuôi cầm bong ra từng mảng, trên mặt trống làm bằng da trâu đã ố vàng vẽ một bức tranh đi xiếc trên dây, nét vẽ sống động, góc phải bên dưới là vài chữ nhỏ xiêu vẹo, nhìn ra đó là bút tích của Tô Tuyền.
Nguyệt xuất cửu cao, Vân Lạc Thiên Đô. (Trăng mọc nơi chín tầng trời, mây rơi xuống Thiên Đô)
Hết chương 27.
Nó do mười ngọn núi hiểm trở hợp thành, núi non trùng điệp, cây cối mọc đầy trên mỏm đá. Trên núi mây mù lượn quanh, sương khói mông lung. Lối đi lên núi có vách đá cao hơn trăm trượng, ngạo nghễ đứng thẳng, giống như cánh cổng được bậc thầy tự nhiên điêu khắc.
Ngày hôm nay những cánh cổng từ đỉnh núi đến chân núi lần lượt mở ra, chuông lớn rền vang, tiếng trống truyền xa, chỉ vì Uy Ninh Hầu Bạc Cảnh Hoán – một trong ba vị Hầu gia có địa vị tôn quý phụng hoàng mệnh đến đây chủ trì buổi lễ phong thưởng.
Theo thông lệ, cứ mấy năm Thiên tử sẽ ban thưởng cho Chính Dương Cung một lần, vừa có ý kính trọng thần linh, vừa để lộ thiên ân cuồn cuộn. Những lần trước đều là cận thần của Thiên tử đến đây, nhưng lần này lại là Uy Ninh Hầu đích thân đến, vì vậy mà phá lệ long trọng. Nghi lễ tiếp đón Vương hầu quý tộc tất nhiên không phải bình thường, xe ngựa nối đuôi nhau thành một hàng dài, thị vệ hộ tống và người hầu ăn mặc sáng sủa, bước đi trật tự, mấy trăm người mà không có lấy một tạp âm.
Người tiếp đón của Chính Dương Cung là một thanh niên mặc trang phục đạo sĩ, dáng người hắn thẳng tắp, mặc trường bào đội mũ cao, khi đối mặt với Vương hầu quý tộc hắn không kiêu ngạo không xiểm nịnh. Hắn đi dọc theo con đường núi, bước đi mạnh mẽ phóng khoáng.
Xe ngựa sơn đen dừng lại trước thềm đá, người đánh xe tháo tuấn mã kéo xe ra, xuyên cán kiệu màu đen qua càng xe rồi dùng sức khiêng cỗ kiệu rộng lớn đi nhanh lên núi. Đồ vật bên trong kiệu không hề lay chuyển, ngay cả nước trà để trên bàn con cũng chưa từng tràn ra.
Một bàn tay trắng trẻo vén tấm rèm màu xanh nhạt thêu kim hoa phi điểm lên, bên cửa sổ xuất hiện một gương mặt tuấn tú như ngọc, Tả Khanh Từ khen ngợi, “Chiếc xe ngựa này của Hầu gia có thiết kế độc đáo, rất thú vị.”
Người ngồi đối diện chàng ở trong kiệu chính là Uy Ninh Hầu, ông mặc trang phục màu đen, tuổi gần bốn mươi, khuôn cằm hơi vuông, vẻ mặt lạnh lùng uy nghiêm, “Chỉ là một chút kĩ xảo mà thôi, không phải cái gì to tát. Đây là lần đầu tiên Tả công tử lên Thiên Đô Phong?”
Tả Khanh Từ khẽ cười một tiếng, “Ta ngưỡng mộ danh tiếng núi thiêng đã lâu, đáng tiếc chưa từng được chiêm ngưỡng. Nghe nói Hầu gia đã từng đến đây, chắc hẳn ngài rất quen thuộc với núi này.”
“Đó đã là chuyện của nhiều năm trước.” Vẻ mặt Bạc Cảnh Hoán thoáng biến đổi nhưng lập tức biến mất không dấu vết, “Phong cảnh trên núi quả thực không tồi, đáng để thưởng thức.”
Bạc Hầu lạnh lùng ít nói, đối xử với thuộc hạ cực kỳ nghiêm khắc. Tả Khanh Từ cũng không có ý kết giao, nhưng đồng hành cả quãng đường không thể không nói mấy câu để bầu không khí không quá quạnh quẽ, “Đoạn đường này đều nhờ Hầu gia chăm sóc, may mắn được thơm lây.”
Đường núi chạy sâu theo những dốc núi quanh co khúc khuỷu, không nhìn thấy điểm dừng. Từng bậc thang được lát bằng những khối đá xanh, rộng dài đủ cả, hai bên đường trồng đầy dây leo, những sợi dây xanh biếc rủ xuống giống như lọng che. Gió vừa thoảng qua, lá cây rụng xào xạc, rơi xuống bậc đá xanh đen càng thêm nổi bật.
Bạc Cảnh Hoán nhìn thoáng qua cảnh sắc bên ngoài, lạnh nhạt nói, “Công tử không cần quá khiêm tốn, vừa xuất thế đã phải bôn ba vạn dặm, lấy lại Sơn Hà Đồ, có công lao rất lớn. Lúc lệnh tôn bẩm báo Thánh thượng, long nhan cực kỳ vui mừng, khen ngợi công tử rất nhiều. Chuyến đi này của bản hầu mượn ngược hào quang của công tử mới đúng.”
Không khí trên núi lạnh dần, gió thổi qua mang theo tiếng đinh đang mơ hồ, cảnh vật trong lành càng thêm kỳ ảo. Mùi cỏ cây thơm ngát thấm vào ruột gan, ve kêu rả rích, chim chóc bay lượn trong khe núi sâu thăm thẳm, bầu không khí không có lấy một tia oi bức. Đi thêm một lúc nữa, trước mắt là một dải xanh ngắt kéo dài, hoa thơm đua nở.
Cuối cùng cỗ kiệu cũng dừng lại, hộ vệ vén rèm che lên, Tả Khanh Từ bước ra ngoài theo Bạc Cảnh Hoán, ánh mắt thoáng dừng trên người đạo sĩ đang tiếp đón rồi chuyển sang điện thờ đá đứng sừng sững ở cuối núi.
Mái hiên điện thờ đá cong vút, cổ xưa xuất trần, không biết đã được xây dựng bao nhiêu năm, bây giờ chân đá sinh rêu, màu sắc loang lổ, càng tăng thêm vẻ cung kính trang nghiêm.
Dưới điện thờ là một hàng đạo sĩ áo xanh đứng thẳng người, phân chia cấp bậc rõ ràng, lặng im không một tiếng động.
Đứng đầu là một người đàn ông trung niên râu tóc đen nhánh, khí chất phi phàm, dáng vẻ trang nghiêm, tay cầm phất trần chuôi ngọc, toàn thân không nhiễm nửa phần thế tục. Gió núi thổi qua khiến vạt áo và tay áo của ông bay bồng bềnh, giống như tùy thời có thể cưỡi hạc bay đi, đây hẳn là Chưởng giáo của Chính Dương Cung – Kim Hư chân nhân.
Uy Ninh Hầu có thân hình cao lớn, ông đứng chắp tay, quanh người tự nhiên xuất hiện khí thế không thể trái nghịch.
Kim Hư chân nhân tiến lên chào đón, ông giương phất trần lên, lạnh nhạt chắp tay vấn an, những đạo sĩ khác cũng đồng thời khom người thi lễ.
Gió núi lùa qua tay áo, một nhóm nam nữ tu đạo đứng giữa núi xanh mang theo khí chất ung dung thản nhiên, đối mặt với Vương hầu mà không hề có vẻ yếu đuối, kính cẩn mà không hèn mọn, giống như quần tiên sống nơi thế ngoại đến đón chào.
Tả Khanh Từ thu tất cả vào trong mắt, chàng mỉm cười.
Chính Dương sừng sững, danh bất hư truyền.
Ân Trường Ca mặc đạo bào không còn nghiêm túc như lúc dẫn đường, cười sang sảng nói, “Đã nhiều ngày trôi qua kể từ khi từ biệt ở Kim Lăng, không ngờ lần này công tử lại đi cùng Uy Ninh Hầu, khiến ta ngạc nhiên mừng rỡ vô cùng.” Hắn là một trong Thiên Đô Song Bích, có danh tiếng nổi bật trong chốn giang hồ, lại là đệ tử chân truyền của Chưởng giáo, một nhân tài kiệt xuất trong thế hệ thanh niên ngày nay, hơn nữa hắn có mày kiếm mắt sáng, thân hình thon dài, liền trở thành một trong hai người được chọn đi tiếp đón khách quý.
Thẩm Mạn Thanh mặc vũ y, nàng khẽ mỉm cười, má lúm đồng tiền như ẩn như hiện, dịu dàng giống như ánh trăng trên núi, “Mấy ngày trước ta và Trường Ca còn trò chuyện về những gì xảy ra ở Thổ Hỏa La, mấy ngày sau đã được gặp công tử, chẳng trách hôm nay hỉ thước* đầu cành gáy mãi không ngừng. Thiên Đô Phong không thiếu thắng cảnh, công tử nhất định phải ở thêm một thời gian, để chúng ta làm tròn bổn phận của chủ nhà.”
Chim hỉ thước hay còn gọi là chim khách, người xưa cho rằng chim khách kêu là báo tin vui.
Tả Khanh Từ mỉm cười, “Ta ở Kim Lăng cả ngày nhàm chán, nghe nói Uy Ninh Hầu lĩnh chỉ đến đây, vì muốn gặp cố nhân nên mới đi theo đội ngũ. Những gì nhìn thấy trên đường đi quả nhiên không phụ danh tiếng.”
Thẩm Mạn Thanh ngạc nhiên mừng rỡ đồng thời cảm thấy hơi tiếc nuối, “Công tử đến thời tiết vô cùng tốt, đây là khoảng thời gian thích hợp để ngắm cảnh trong núi, đáng tiếc gần đây ta bận rộn chuẩn bị cho buổi lễ, sợ là không có cách nào bầu bạn.”
Ân Trường Ca việc nhân đức không nhường ai, tiếp nhận ngay, “Sư tỷ yên tâm, đệ và công tử quen thân, chắc chắn sẽ dẫn công tử đi thăm thú xung quanh, tận tâm thỏa đáng.”
Thẩm Mạn Thanh để lộ lúm đồng tiền nhàn nhạt, dẫn chủ tớ Tả Khanh Từ đến Nhã Uyển nghỉ ngơi, “Công tử và Uy Ninh Hầu đều là khách quý, nếu cảm thấy thiếu sót chỗ nào hãy nói với Trường Ca, hết thảy đều có thể tùy ý.”
Chính Dương Cung có mấy ngàn người, lớp lớp nhà ở kéo dài chạy sâu, Thẩm Mạn Thanh là đồ đệ của Chưởng giáo, làm việc ổn trọng, thường xuyên thay mặt sư phụ răn dạy sư đệ sư muội, trong môn phái có uy vọng rất cao, những đệ tử Chính Dương Cung đi ngang qua đều không quên ngừng chân thi lễ, nàng hơi gật đầu đáp lại, rất có phong phạm của Đại sư tỷ.
Ân Trường Ca lại khác biệt, trong núi yên tĩnh lại phải khổ tu, vốn không có nhiều thú vui, bởi vì đại lễ phong thưởng mà có vô số việc cần làm, mặc dù ở trước mặt sư đệ sư muội hắn nghiêm cẩn tự kiềm chế, kì thực không có kiên nhẫn với những thứ lễ nghi rườm rà. Lần này có thể lấy lý do làm bạn với Tả Khanh Từ mà thoát ra được, trong lòng cảm thấy cực kỳ may mắn.
Mỗi ngày sau khi luyện kiếm xong, Ân Trường Ca thoải mái tìm đến Nhã Uyển, mời Tả Khanh Từ đi du ngoạn khắp núi, giới thiệu di tích nổi tiếng, thưởng thức phong cảnh mặt trời mọc, bình phẩm thức ăn sơn dã, cả ngày nhàn nhã thoải mái.
Thiên Đô Phong dốc đứng hiểm trở, từ xưa đã được xem là nơi tiên nhân cư ngụ, mây trắng vạn năm trôi lững lờ, bầu trời xanh trong như biển cả, tạo thành vẻ cổ xưa trang nghiêm, lại mang theo chút xa xăm trống trải và khí thế cô tuyệt.
Tả Khanh Từ đứng trong một cái đình lẻ loi trên đỉnh núi, dõi mắt nhìn ngắm phía xa, chỉ thấy mây núi giao hòa, biển và sông quy về một mối, bầu trời cao xa ở ngay trong tầm mắt, trời đất tráng lệ vô biên, không khỏi thở dài: “Thiên Đô hướng thẳng lên trời, phong cảnh tựa như chốn Bồng Lai hiếm thấy, Ân huynh ở nơi này nhiều năm, sớm mai gội đầu dưới mây ngũ sắc, đêm đến ngủ dưới biển sao, may mắn biết bao.”
Những phong cảnh này Ân Trường Ca sớm đã nhìn nhiều thành quen nhưng vẫn cảm thấy tự hào: “Có thể trở thành đệ tử của Chính Dương Cung, ta quả thực là vô cùng may mắn.”
Tả Khanh Từ giống như tùy tiện hỏi thăm, “Ân huynh lên núi khi nào?”
“Trước kia sư tôn vân du giang hồ, năm bốn tuổi ta lọt vào mắt xanh của người, được người thu nhận.” Ân Trường Ca dựa lưng vào cột đình, ngắm nhìn biển mây giăng khắp núi, khó tránh khỏi xúc động, “Vào núi đã không dễ, xuống núi lại càng khó hơn. Ta dồn hết tâm sức vào luyện kiếm, đã tu tập trọn mười lăm năm nhưng chỉ đến Đại Hội Đấu Kiếm, sư tôn mới cho phép ta và sư tỷ xuống núi.”
Tả Khanh Từ mỉm cười: “Ta nghe nói môn quy của quý phái vô cùng nghiêm khắc, Ân huynh mới hai mươi tuổi đã có thể hành tẩu giang hồ, thật sự là anh tài hiếm có.”
Ân Trường Ca được khen ngợi, trái lại sinh ra mấy phần hổ thẹn, “Công tử quá khen, chút tư chất của ta cũng chỉ thường thường, sư thúc Tô Tuyền đã xuống núi từ khi còn là thiếu niên buộc tóc, so sánh với người thì ta chẳng khác gì đom đóm ở cạnh vầng trăng.”
Mây mù mong manh vờn quanh người, tụ lại như khói mỏng, Tả Khanh Từ khẽ phẩy ống tay áo, “Ta nhớ Ân huynh vẫn luôn kính trọng người này, không biết là người đó có phong phạm bực nào.”
“Sư thúc là người ta bội phục nhất trong cuộc đời này.” Ân Trường Ca hoàn toàn không cảnh giác với công tử cao quý này, hơn nữa hắn sùng bái gần như cuồng nhiệt với Tô Tuyền, một khi nhắc đến liền thao thao bất tuyệt, “Sư thúc thực sự là kỳ tài ngút trời, vốn bái làm học trò của sư tổ nhưng lại được Thái sư tổ tự mình truyền thụ, trong đám hậu bối chỉ có một người đặc biệt như sư thúc. Bất kể là kiếm pháp cao thâm bậc nào, sư thúc đều lĩnh hội thông suốt, phát huy vô cùng nhuần nhuyễn, sau hai mươi tuổi lại mở ra con đường riêng, kiếm thuật gần như tự thành một phái, nếu không phải xảy ra vấn đề thì thành tựu không thể đong đếm được.”
Ân Trường Ca sục sôi tinh thần, hăng hái đến độ lông mày nhướng lên cao, Tả Khanh Từ mỉm cười, “Kinh tài tuyệt diễm như vậy, chẳng trách Lục huynh muốn được thỉnh giáo.”
“Giang hồ đồn đại sư thúc Tô Tuyền tính tính kiêu ngạo, kỳ thật ông chỉ trầm mê kiếm nghệ, tất nhiên hợp ý với Lục huynh.” Ân Trường Ca nhớ lại chuyện cũ, vừa hoài niệm lại vừa thương cảm, “Năm đó sư thúc từng ở bên hồ Thúy Vi, lúc người luyện kiếm kiếm quang ngút trời, tạo thành phong cảnh tuyệt đẹp bên biển mây, thường xuyên có sư đệ sư muội ngưỡng mộ phong thái cầu xin người chỉ dạy, chỉ cần không ảnh hưởng đến chuyện luyện công thì sư thúc đều giải đáp giúp cho.”
Dường như Tả Khanh Từ cũng rất hào hứng: “Ông cũng từng chỉ điểm Ân huynh?”
Ân Trường Ca tiếc nuối lắc đầu, “Lúc ấy ta còn quá nhỏ, sau này sư thúc rất ít khi ở lại trên núi, ta chỉ mới được xem qua những ghi chép lúc luyện kiếm của sư thúc, dù chỉ có vài câu nhưng đã thu được ích lợi không nhỏ.”
Tả Khanh Từ khen vài câu, khẽ thở dài cảm thán: “Kỳ tài như vậy mà trong phái lại không có ai kế thừa tài năng của ông?”
Ân Trường Ca ngạc nhiên, im lặng trong chốc lát.
Gương mặt tuấn tú xuất hiện vẻ tiếc nuối, Tả Khanh Từ nói: “Ông nổi danh ở bên ngoài, lại không tiếc truyền thụ kiếm nghệ, phải có không ít người muốn bái sư mới đúng.”
Ân Trường Ca hào sảng đột nhiên nghẹn lời, trì trệ nửa ngày mới nói: “Đúng là như thế, nhưng sư thúc quá nửa là từ chối, chỉ nói mình lưu lạc giang hồ không rảnh dạy dỗ, chuyện thu đồ đệ dựa vào duyên phận.”
Tả Khanh Từ thở dài, “Đáng tiếc lệnh sư thúc kiên trì quá mức, không thì chí ít còn có người kế thừa y bát, cũng không đến nỗi võ nghệ thất truyền từ đây.”
Ân Trường Ca nhịn nửa ngày cuối cùng vẫn không nhịn được: “Cũng không phải là một người cũng không có.”
Tả Khanh Từ ngạc nhiên: “Thì ra thật sự có truyền nhân? Vì sao chưa từng nghe tiếng trên giang hồ, chẳng lẽ tư chất người đó yêu kém, không có triển vọng?”
Lời vừa thốt ra khỏi miệng thì Ân Trường Ca đã hối hận, lại không thể không đáp, nhắm mắt nói, “Không phải vậy, năm đó sau khi sư thúc xảy ra chuyện, danh đồ cũng rời núi, từ đó không rõ tung tích, tài nghệ người đó như thế nào bản môn cũng không biết được.”
Giọng nói của Tả Khanh Từ mang theo vẻ vui mừng, “Có sư phụ như thế thì đệ tử tất không tầm thường, không biết có thể kế tục phong thái ngày xưa của Kiếm Ma không.”
“Chuyện xảy ra đã nhiều năm lại không có người chỉ dạy, vô danh cũng không có gì lạ.” Ân Trường Ca trả lời gượng gạo, đột nhiên nhớ ra điều gì đó, “Suýt nữa quên mất, gần đây còn có một thác nước phong cảnh khác tráng lệ, công tử đi theo ta.”
Không đợi chàng trả lời, Ân Trường Ca đã quay người rời khỏi đình nhỏ, chân rảo bước rất nhanh, trông giống như đang chạy trốn.
Lễ phong thưởng sắp đến, đủ loại việc đổ dồn vào, trên dưới Chính Dương Cung bận tối mặt tối mày. Ân Trường Ca trốn mấy ngày cuối cùng vẫn trốn không thoát, bị Thẩm Mạn Thanh bắt đi giúp đỡ, biến mất một hai ngày. Tả Khanh Từ bắt đầu thanh nhàn, dẫn theo Bạch Mạch ra ngoài nghe ngóng, dọc đường đi được đạo đồng chỉ rõ phương hướng.
Hồ Thúy Vi nằm trên đỉnh một ngọn núi hiểm trở, ngăn cách với bên ngoài, hình dáng như một chiếc lông chim mềm mại. Hồ nằm trên đỉnh núi, nơi mây lạnh và hơi ẩm giao tụ, màu nước trong xanh tựa ngọc bích, nhìn từ xa trông giống như làn khói mỏng lơ lửng giữa không trung, sương mù lượn lờ mặt nước, trong trẻo yên tĩnh dị thường.
Bạch Mạch nhìn thấy không nhịn được tán thưởng, “Trong những phong cảnh ở Thiên Đô Phong mà chúng ta đi thăm thú mấy ngày nay, chỗ này có thể nằm trong ba vị trí đầu.”
Tả Khanh Từ cũng có cảm nhận như vậy, nhưng dõi mắt quan sát, phát hiện khu vực này tuy có phong cảnh đẹp nhưng lại ít người lui tới, hoa tươi cỏ dại um tùm, đường mòn đá mọc đầy rêu xanh, chỉ cần sơ sảy một chút là bị trượt chân.
Bên bờ hồ có một tiểu viện, mái nhà vẫn còn nguyên vẹn, còn chưa đến mức sụp đổ. Bên trong viện, cây cối um tùm, chuột đồng rì rào qua lại, màu sơn trên cột trụ và hành lang đã ngả màu, hiển nhiên là bị bỏ hoang nhiều năm, ước chừng sau khi Tô Tuyền xảy ra chuyện thì không có người đến vẩy nước quét nhà.
Phòng ở có bố cục cao rộng, bày biện đơn giản, mượn sắc trời làm đèn nên sáng rỡ. Trên xà nhà treo mười mấy tác phẩm thư pháp, che khuất một nửa ánh sáng. Chữ viết lối cuồng thảo như rồng bay phượng múa lơ lửng giữa không trung, những con chữ mang theo khí thế hừng hực giống như muốn phá giấy chui ra ngoài, trong bức tranh ẩn chứa vẻ ngông cuồng phóng khoáng.
Tả Khanh Từ liếc mắt nhìn, lạc khoản chính là Tô Tuyền, viết khi còn là thiếu niên đương độ hăng hái.
Bút tích còn đây nhưng người xưa không quay về nữa. Trên kệ đặt hơn mười quyển sách, bàn ghế thì bị một lớp bụi dày che phủ. Nghiên mực với những đường vân đẹp đẽ giờ đầy bụi ám, vết mực còn lại đã khô cạn từ lâu, bút lông sói đặt trên giá bút, trên bàn còn có một tờ giấy trắng, không biết cuối cùng ông muốn viết gì.
Bên cạnh thư phòng là một gian phòng ngủ đơn giản, trên giường trải một cái chăn, trong bình cắm mấy chuôi kiếm cũ, hoàn toàn không có gì dư thừa, ngoại trừ nghiên mực kia thì tất cả những thứ mà Tô Tuyền sử dụng đều là vật dụng bình thường, từ đó có thể nhìn ra ông không để tâm đến sinh hoạt thường ngày lắm.
Cạnh phòng ông là một căn phòng nhỏ hơn, màn gối rất chỉnh tề, trên bàn có vài món đồ chơi nhỏ không đáng tiền, mấy khối đá trong suốt, một con lật đật bằng bùn màu xám, hai cái lồng đựng dế đan bằng tre, thời gian đã lâu, bóp nhẹ một cái đã tan thành vụn. Còn có một cái lò sưởi tay rỉ sét, hoa văn tinh tế, kiểu dáng nhỏ xinh, hình như là đồ vật của nữ tử, Tả Khanh Từ có vẻ rất hứng thú với món đồ này, nhặt lên mang ra ngoài nhìn ngắm một lúc.
Bạch Mạch không hiểu vì sao chủ nhân lại đến đây, chỉ thấy chàng quan sát mấy món đồ này tỉ mỉ, thậm chí còn mở rương quần áo ra, xem mấy bộ quần áo đạo sĩ, sau đó lật chăn nệm đầy bụi bặm trên giường, nhặt một cái trống nhỏ để bên gối lên, cầm trong tay xem xét rất lâu.
Một cái trống nhỏ rất bình thường, hai cái chùy đá nho nhỏ, đinh đồng quanh trống đã rỉ sét, sơn ở chuôi cầm bong ra từng mảng, trên mặt trống làm bằng da trâu đã ố vàng vẽ một bức tranh đi xiếc trên dây, nét vẽ sống động, góc phải bên dưới là vài chữ nhỏ xiêu vẹo, nhìn ra đó là bút tích của Tô Tuyền.
Nguyệt xuất cửu cao, Vân Lạc Thiên Đô. (Trăng mọc nơi chín tầng trời, mây rơi xuống Thiên Đô)
Hết chương 27.
Bình luận truyện