Một Tấc Tương Tư

Chương 4: Sơn Hà Đồ



*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Mấy tháng trước, Kiếm Nam Vương hùng cứ đất Thục mưu phản, dấy binh nổi dậy.

Đất Thục có hình dáng giống như một cái bồn, sông núi hiểm trở, sản vật phong phú. Kiếm Nam Vương được phong tước đã nhiều năm, ở đây một tay che trời. Đất Thục có nhiều người Miêu Di nên thường xảy ra bạo loạn, Kiếm Nam Vương lấy cớ bình loạn hống hách thu thuế, lại tích lũy của cải, tàng trữ binh khí và lương thảo nhiều năm, cuối cùng khơi gợi sự nghi kị của trọng thần, bọn họ liên kết với nhau chĩa mũi dùi về phía hắn.

Thánh thượng triệu vào kinh hỏi thăm, Kiếm Nam Vương chẳng những không chịu lĩnh chỉ mà còn chém cả Khâm sai, lấy danh nghĩa thanh quân trắc dẫn binh thảo phạt. Mới đầu Kiếm Nam Vương liên tiếp thắng trận khiến mặt rồng giận dữ, điều binh khiển tướng vây đánh, cuối cùng mượn lửa tấn công khiến quân phản loạn thiệt hại nghiêm trọng. Kiếm Nam Vương binh bại như núi đổ, trên đường tháo chạy tức giận công tâm, lưng nổi ung nhọt cuối cùng táng mệnh, số tàn quân còn sót lại thì tản ra chạy trốn khắp nơi.

Những chuyện này đã lan truyền xôn xao mấy tháng nay, khắp đường phố đâu đâu cũng nghe nói, những người ngồi bên trong cũng không ngoại lệ. Ân Trường Ca lại đặt câu hỏi: “Triều đình đại thắng, Kiếm Nam Vương bỏ mình, việc này cả thiên hạ đều biết, có liên quan gì?”

Văn Tư Uyên đang chờ câu hỏi này, nói: “Người đời chỉ biết họa lớn đã đi lại không biết rằng người này độc ác vô cùng. Kiếm Nam Vương có một đứa con trai tên Đoạn Diễn, được phong làm Thế tử, ở lại Trường An làm con tin. Lúc khởi binh Kiếm Nam Vương đã bí mật sai người dặn dò hắn rời khỏi Trường An trước một bước, khi trốn đi hắn còn mang theo Cẩm Tú Sơn Hà Đồ trộm trong cung. Bức họa này được chế tạo bằng bí pháp, mỏng như sa, trong đó vẽ địa hình lãnh thổ của các quốc gia cùng với bố trí phòng ngự của quân đội. Khi thu gọn thì kích cỡ chỉ từng một tấc vuông, nhưng trải ra thì dài hơn ba trượng, trong bức họa vẽ tường tận sông núi và quan ải hiểm yếu. Cũng may là bị đại quân ngăn cản, Đoạn Diễn không có cách nào vào Thục. Sau khi Kiếm Nam Vương chết hắn một đường lẩn trốn, thế mà vượt qua được biên cảnh bỏ chạy đến Thổ Hỏa La[1].

Lục Lan Sơn đã nghe ra lợi và hại, mày nhíu chặt lại: “Món đồ này quan trọng như vậy lại được cất giữ trong hoàng cung, sao Đoạn Diễn lại trộm được?”

Văn Tư Uyên hiểu nếu muốn thuyết phục được những người này thì phải kể tường tận, y trả lời vô cùng tỉ mỉ, “Ban đầu Đoạn Diễn tuổi nhỏ ở lại kinh thành làm con tin, hắn vâng mệnh tháp tùng hoàng tử. Hắn giả vờ lương thiện, bên ngoài tỏ ra khiêm tốn khuất phục, tặng lễ rất dày với người trên kẻ dưới, thân cận với hoàng thân quốc thích, thường xuyên ra vào cung cấm. Chuyện lần này xảy ra đột ngột nên không kịp đề phòng, bệ hạ tức giận khiến vô số người bị liên lụy, cũng may hắn chưa thể trốn vào trong tộc Bắc Địch, nếu không sang năm xảy ra chiến tranh, chắc chắn Bắc Địch sẽ tiến quân thần tốc.”

Ân Trường Ca hỏi với tâm trạng nặng nề, “Món đồ đã mất giờ nằm trong tay Thổ Hỏa La Vương?”

Văn Tư Uyên giúp mọi người thả lỏng, “Nghe nói Đoạn Diễn thật sự có ý định dâng hiến vật này, kích động Thổ Hỏa La nảy sinh dã tâm xâm lược, cũng may quốc chủ tạm thời chưa có ý này, chỉ thu châu ngọc rồi đối xử như khách quý.”

Đã nói đến nước này, Văn Tư Uyên cũng nói rõ mục đích mời mọi người đến, Lục Lan Sơn trầm tư một lát, “Món đồ này là khởi nguồn của hoạ loạn, chỉ cần quốc chủ có một phần lý trí sẽ không nhận, nhưng tặc tử có món đồ quan trọng như thế, há lại chịu thôi.”

Tả Khanh Từ tiếp lời, nở nụ cười nhạt, phong thái hào hoa phong nhã hơn người, “Đúng là như vâỵ, Đoạn Diễn tạm dừng chân ở Thổ Hỏa La, một khi hết hi vọng chắc chắn sẽ di chuyển sang các nước khác, luân phiên gây xích mích.”

Ân Trường Ca xuất thân đạo môn không màng danh lợi, nghe vậy liền vỗ bàn đứng dậy, “Hay cho một tên nghịch tặc, nếu như thật sự dẫn kẻ địch đến, có chết ngàn lần cũng không đủ để chuộc tội!”

Ân Trường Ca căm phẫn trong lòng, Thẩm Mạn Thanh im lặng lắng nghe, nói ra nghi ngờ trong lòng mình, “Công tử hi vọng chúng ta đến Thổ Hỏa La thu hồi Cẩm Tú Sơn Hà Đồ? Việc này nguy hiểm đến xã tắc, quan hệ không hề tầm thường, vì sao trong triều không phái cao thủ đi?”

Đôi mắt phượng của Tả Khanh Từ lóe lên tia sáng, từ tốn giải thích, “Điều Thẩm cô nương lo lắng xác thực là có nguyên do. Thứ nhất là bên cạnh hắn có ba cao thủ lợi hại luôn theo sát phía sau, muốn đánh muốn giết cũng không phải chuyện dễ. Thứ hai là Đoạn Diễn sống trong cung đã lâu, nhạy bén giảo hoạt lại quen thuộc với người trong cung. Thứ ba là Thổ Hỏa La Vương thích việc lớn hám công to, nhận món lợi lớn đã hứa hẹn che chở cho hắn. Nếu như để người trong cung ra tay, rất dễ khơi dậy giao tranh giữa hai nước. Ở Tây Vực* Thổ Hỏa La rất có tiếng nói, nếu vì chuyện này mà hình thành sự kết minh giữa các nước đối địch, sẽ gây ra nhiều tai họa hơn. Suy đi tính lại thì chuyện này do hiệp khách giang hồ làm thì càng thêm bí mật.”

Tây Vực: chỉ các vùng phía tây Ngọc Môn Quan, bao gồm vùng Tân Cương và Tiểu Á.

Lục Lan Sơn chính trực đoan chính, Ân Trường Ca xuất thân danh môn đều có tinh thần hiệp nghĩa, hiểu rõ ngọn ngành thì đã có vài phần động lòng, Lục Lan Sơn bùi ngùi thở dài, “Bôn ba vạn dặm, tập kích ở dị quốc, quả thật không phải chuyện mà một người có thể làm được.”

Lời giải thích này hợp tình hợp lý, nhưng Thẩm Mạn Thanh tâm tư tỉ mỉ, lại hỏi một vấn đề khác, “Không biết lần này công tử mời đến rốt cuộc là ý của Tĩnh An Hầu hay là lệnh từ trong cung?”

“Phải hay không phải, lúc này ta không có cách nào trả lời các vị, tạm thời cứ xem như ta được phủ Tĩnh An Hầu nhờ vả, nhưng ta đảm bảo, một khi chuyện thành trong cung chắc chắn sẽ biết.” Tả Khanh Từ cao thâm khó dò, không trả lời trực tiếp, “Có một số việc không tiện nói ra, nhưng không thể không làm. Làm việc chính nghĩa, dù có phải đối mặt với hàng vạn người, vẫn phải dũng cảm đương đầu. Thẩm nữ hiệp nghĩ thế nào?”

Mặc dù lời lẽ mông lung, nhưng Tả Khanh Từ lại có một loại khí chất tao nhã cao quý, khiến người khác không thể không tin tưởng.

“Nói hay lắm!” Lời này đánh trúng tâm ý của Ân Trường Ca, ý chí của hắn dâng cao, khen ngợi theo: “Làm việc chính nghĩa, dù có phải đối mặt với hàng vạn người, vẫn phải dũng cảm đương đầu, anh hùng chúng ta nên làm như thế.”

Hắn khẳng khái mãnh liệt, Thẩm Mạn Thanh không hỏi nữa, Tả Khanh Từ thuận thế nói: “Nói vậy là Ân thiếu hiệp đồng ý đi? Ta thay mặt lê dân bách tính tạ ơn thiếu hiệp.”

Ân Trường Ca xúc động thì tính tình rất hào sảng: “Tĩnh An Hầu từng vì bảo vệ một phương an bình mà huyết chiến sa trường, Ân mỗ khâm phục đã lâu, bây giờ có cơ hội góp một phần sức lực, noi theo anh hùng thì sao dám chối từ.”

Thẩm Mạn Thanh vẫn có điều ngờ vực nhưng Ân Trường Ca đã hứa hẹn, nàng cũng không tiện nói nhiều, chỉ cười cười. May là Lục Lan Sơn cũng nghĩ đến điểm này, trực tiếp hỏi: “Tình hình Thổ Hỏa La thế nào, chúng ta hoàn toàn không biết gì cả, phong tục nhân tình lại càng không hiểu, cho dù có lòng nhưng cứ lỗ mãng đi như thế chưa chắc có thể giúp đỡ.”

Gió quanh hồ ùa đến cuốn theo hơi nước, làm lay động tay áo của Tả Khanh Từ, lời chàng nói giống như cơn gió êm dịu, đủ để xóa tan mọi lo lắng: “Lục huynh nói rất đúng, dân gian có câu tính trước làm sau, mấy tháng trước ta đã là phái người đi thu thập tin tức, chuẩn bị chu đáo chặt chẽ, bây giờ chỉ cần khởi hành đến Thổ Hỏa La ngay thì chuyện chắc chắn sẽ thành.”

Khởi hành ngay bây giờ? Chẳng ai ngờ lại vội vàng như vậy, Thương Vãn bật thốt lên hoài nghi: “Gấp gáp đến vậy sao?”

Tả Khanh Từ nói chuyện nhẹ nhàng chậm rãi mà kiên định: “Nhất định phải đến đó trước mùa xuân, hiện giờ Đoạn Diễn còn ôm kỳ vọng với Thổ Hỏa La Vương, một khi xác định đối phương không có ý tiến đánh Trung Nguyên, tất nhiên sẽ đến nước khác, thứ duy nhất có thể ngăn trở hắn chính là con đường đóng băng vào mùa đông. Nếu kéo dài đến ngày xuân tuyết tan ra thì lúc ấy hắn đã lẩn trốn. Đợi Cẩm Tú Sơn Hà Đồ lan truyền ra khắp các nước Tây Vực, chuyến đi này không còn ý nghĩa gì nữa.”

Thời gian gấp gáp vượt quá dự kiến của tất cả mọi người, nhưng lý do này rất thuyết phục, không ai có thể phản bác được.

Cả căn phòng trở nên yên tĩnh, Phi Khấu Nhi vẫn luôn giữ im lặng đột nhiên mở miệng, “Qua Lũng Tây[2] là đến Kim Thành[3], băng qua bốn quận là ra khỏi Dương Quan[4], đi qua Đồi Bạch Long[5] đến Lâu Lan[6], Thiện Thiện[7] rồi đến Sơ Lặc[8], đi về phía tây vượt qua Thông Lĩnh[9] là đến Thổ Hỏa La.”

Vẻ mặt Tả Khanh Từ bình tĩnh, không nói tiếp.

Phi Khấu Nhi cúi đầu, giọng điệu hơi chậm rãi vụng về, tựa hồ không quen nói nhiều câu trong một lần, “Mùa đông ở Thông Lĩnh dài dằng dặc, sau tháng mười không hề có bóng dáng thương khách, mặt đất đóng thành băng, người bình thường không thể tượng tượng được cơn rét căm căm, rất nhiều nơi băng vĩnh viễn không tan. Tuyết đọng bao trùm khắp núi, là nơi vắng vẻ không người, chỉ một tiếng vang nhỏ cũng khiến mặt băng nứt ra, khe tuyết sâu vạn trượng, dù là chim bay cũng khó thoát… “

Theo lời nói Phi Khấu Nhi, sắc mặt của mọi người ngồi bên trong dần trở nên khó coi.

“Cao thủ trong cung sẽ không đi chịu chết, chỉ có hiệp khách giang hồ mới có thể đánh cược tính mạng của mình.” Câu nói sau cùng của Phi Khấu Nhi giống như một thùng nước đá dội xuống, trong nháy mắt đóng băng bầu không khí.

Lầu ba yên tĩnh đến mức nghe thấy cả tiếng kim rơi, Văn Tư Uyên hơi biến sắc, cướp lời của Tả công tử bên cạnh, cố ý thở dài một tiếng: “Ta biết ngươi không muốn đi, sao phải nói khoa trương như vậy.”

Phi Khấu Nhi không nói thêm gì nữa, ngoại trừ hắn tất cả mọi người đều nhìn Tả Khanh Từ.

Tả Khanh Từ rất bình tĩnh, gương mặt tuấn tú rực rỡ như đá quý, chẳng có nửa phần lo lắng, “Nói không sai, nếu chuyến đi này dễ dàng như vậy, sao lại phải dùng trăm phương ngàn kế mời chư vị. Núi tuyết đối người thường khó hơn lên trời, nhưng các vị thân mang tuyệt kỹ, tự có thể bình yên vượt qua chốn hiểm nguy. Ta đã chuẩn bị người dẫn đường có kinh nghiệm phong phú, toàn bộ hành trình vượt núi sẽ không có nửa phần sai lầm.”

Lời nói cùng với khí thế trấn định, trên người Tả Khanh Từ tự nhiên tỏa ra một loại khí độ khiến người khác khâm phục, “Nếu vì tư lợi, ta sẽ không mời các vị đặt mình vào nguy hiểm. Nhưng mà chuyện này liên quan đến muôn dân trăm họ, triều đình không tiện phái cao thủ trong cung đến nước khác, chỉ đành mượn sức của võ lâm. Gia phụ từng nói, sau khi xong chuyện, sẽ tiến cử chư vị anh hùng với triều đình, ta lại cho rằng không tính toán công danh lợi lộc trong chuyện này, chỉ cần đồng tâm, ngàn vạn bách tính ở trong một ý nghĩ, chư vị đi ở cũng trong một ý nghĩ.”

Lời lẽ chân thành cao quý, lại là xuất phát từ công tử Hầu phủ dung nhan phi phàm, phá lệ khiến người ta xúc động.

Bầu không khí căng thẳng dần thả lỏng, Lục Lan Sơn trầm mặc chớp mắt, thở dài nói, “Công tử không cần nói nữa, đường đi hiểm trở hay cửu tử nhất sinh cũng được, Lục mỗ đồng ý đi chuyến này.”

Ân Trường Ca nhướng cặp mày kiếm, thuận theo nói, “Tính cả ta và sư tỷ.”

Dường như Thương Vãn đang suy nghĩ gì đó, đầu lông mày thoáng chau lại, một lúc lâu sau mới lạnh lùng nói: “Thương mỗ nguyện đi thử một lần.”

Thẩm Mạn Thanh nhìn về phía Ân Trường Ca, giọng nói uyển chuyển, “Chúng ta đã vâng lệnh sư phụ đến đây, tự nhiên sẽ tuân theo.”

Nhận được sự đồng ý liên tục khiến mấy người sinh ra cảm giác thân thiết, chỉ có một người từ đầu đến cuối chưa từng mở miệng, ánh mắt của mọi người dần tập trung vào thiếu niên mặc áo xám, cảm xúc kích động dần trở nên nguội lạnh.

Một lát sau, Phi Khấu Nhi nói ra ba chữ, “Ta rút lui.”

Tả Khanh Từ liếc nhìn Văn Tư Uyên.

Ánh mắt bao hàm áp lực nặng nề vô hình, Văn Tư Uyên ho khan: “Công tử để ta nói chuyện riêng với hắn.”

Ân Trường Ca vốn chướng mắt phi tặc, chặn ngang nói: “Cần gì phải nhiều lời, muốn thành đại sự tất phải trải qua nguy hiểm, người nhát gan sợ hãi không đi cũng được.”

Văn Tư Uyên không để ý, bước đến cạnh thiếu niên: “Nửa canh giờ trước, ngươi đã đồng ý.”

Giọng Phi Khấu Nhi rất nhỏ, “Khi đó ngươi không đề cập đến Thổ Hỏa La, cũng chưa từng nói sẽ đồng hành với ai.”

Câu nói phía trước xem như bình thường, câu sau cùng lại hơi châm chọc, quần hùng ở đây có thính lực ra sao, ai nấy đều nghe thấy rất rõ ràng, gương mặt hiện lên ba phần không vui.

“Nếu ta nói rõ trước đó, ngươi đã sớm không thấy tăm hơi.” Không để ý đến người khác, Văn Tư Uyên vô cùng nhẫn nại thuyết phục: “Ngươi có thể ra vào núi Thái Bạch tự nhiên, thì sợ gì nguy hiểm ở Tuyết Vực. Thứ công tử cần chính là thuật dịch dung của ngươi, gặp địch thậm chí ngươi không cần phải động thủ.”

Phi Khấu Nhi luôn cúi đầu, trên ống tay áo có vài vết bẩn, trông có vẻ thất vọng và mệt mỏi, giống như lời hắn nói: “Ta không muốn đi đến chỗ lạnh như vậy nữa, càng không muốn tốn nhiều thời gian ở quan ngoại.”

Văn Tư Uyên xem nhẹ câu trả lời của đối phương: “Xem như ta thiếu ngươi một lần thế nào?”

Phi Khấu Nhi lắc đầu, “Ta không nhận nổi thiếu nợ của ngươi, cũng không cần ngươi thiếu ta.”

Văn Tư Uyên lại nói, “Món đồ ngươi quan tâm đã có vài phần manh mối, nói không chừng từ Thổ Hỏa La quay lại về đã có tin tức.”

Phi Khấu Nhi xoa nhẹ eo, giọng nói có vẻ mệt mỏi, “Ngươi lúc nào cũng hám lợi, nếu có manh mối chắc chắn đã ra giá, sao có thể giữ đến bây giờ.”

Dù là người có tài ăn nói, lúc này Văn Tư Uyên cũng không biết phải nói gì, Ân Trường Ca nghe vậy thì không kiên nhẫn, “Đạo bất đồng bất tương vi mưu*, Văn huynh cần gì phải khuyên, nếu đạo chích theo thì hắn sẽ tự đi.”

Đạo bất đồng bất tương vi mưu: đường không giống không thể cùng mưu đồ.

Thương Vãn vẫn luôn không vừa mắt với phi tặc, thấy dùng mọi cách thuyết phục cũng không có hiệu quả, lạnh lùng nói: “Y theo quy củ giang hồ, nghe thấy chuyện không nên nghe mà muốn rút lui, nhất định phải để lại ít đồ.”

Phi Khấu Nhi vốn đang ngồi dựa vào lan can, nghe câu này liền đứng dậy, vẻ mặt Văn Tư Uyên căng thẳng, giơ cánh tay ngăn lại, nói vào câu ngắn ngủi bên tai Phi Khấu Nhi.

Có lẽ hai người sử dụng truyền âm nhập mật nên người bên ngoài không nghe thấy nội dung, họ chỉ thấy hai người đứng cách nhau rất gần. Dưới tình thế cấp bách, tư thế của Văn Tư Uyên trông hơi kỳ dị, một tay y vịn cột, người cúi rất thấp, gần như giam thiếu niên trong vòng tay của mình.

Tả Khanh Từ lặng lẽ quan sát, thu hết mọi chuyện vào đáy mắt.

Giọng Phi Khấu Nhi hơi trầm xuống, rõ ràng có vài phần khó chịu: “Ngươi đã rõ nguyên do, vì sao còn ép ta đi?”

Hình như Văn Tư Uyên lại nói thêm một câu, không khí trong đình Vân Tạ chợt cứng lại.

Hết chương 4.

Chú thích

[1] Thổ Hỏa La là phiên âm tiếng Hán của Tocharian. Người Tochari hay người Tokhari là một dân tộc Ấn – Âu từng cư ngụ trong những thành bang ốc đảo cạnh rìa bắc lòng chảo Tarim (ngày nay thuộc Tân Cương, Trung Quốc) vào thời cổ đại.

Hai ngôn ngữ Tochari, tạo thành một nhánh của ngữ hệ Ấn – Âu, được biết đến nhờ các bản thảo niên đại từ thế kỷ VI – VIII. Cái tên “Tochari” là do các học giả thời hiện đại đặt, bởi họ tin rằng dân tộc “Tochari” này chính là dân tộc từng sinh sống ở Bactria từ thế kỷ II TCN và được văn liệu Hy Lạp gọi là Tókharoi (Tochari trong tiếng Latinh). Sự nhận diện này nay thường được coi là sai lầm, song cái tên “Tochari” vẫn gắn bó với dân tộc này và ngôn ngữ của họ.

Những cộng đồng nông nghiệp bắt đầu hình thành trong các ốc đảo mạn bắc Tarim khoảng 2000 TCN. Một số học giả cho rằng cư dân trong những cộng đồng này là có liên quan đến cư dân nền văn hóa Afanasievo (xuất hiện trước đó (khoảng  3500–2500 TCN) ở Xibia) hay cư dân phức hợp khảo cổ Bactria–Margiana (BMAC) miền Trung Á.

Đến thế kỷ II TCN, những cộng đồng này phát triển lên thành bang, song bị các tộc người du mục phía bắc đe dọa cũng như bị các triều đại Trung Quốc phía đông lấn át. Các thành bang này, mà lớn hơn cả là Kucha, từng đóng vai trò điểm dừng chân trên con đường tơ lụa chạy dọc rìa bắc hoang mạc Taklamakan.Từ thế kỷ VIII, người Uyghur – một dân tộc nói ngôn ngữ Turk từ Cao Xương Hồi Cốt – đến định cư trong vùng. Người dân các thành bang ở Tarim sau đó dần hòa trộn vào người Uyghur, và tiếng Uyghur cổ lan ra khắp vùng. các ngôn ngữ Tochari dần dần biến mất vào thế kỷ IX.

QizilDonorsjpg

Tranh vẽ người Tochari ở cụm hang Kizil vào thế kỷ thứ VI

[2] Lũng Tây là một huyện thuộc địa cấp thị Định Tây, tỉnh Cam Túc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

[3] Kim Thành là tên gọi khác của Lan Châu (Cam Túc). Lan Châu bắt đầu được xây dựng vào năm 86 TCN. Theo ghi chép, lúc khởi công xây dựng thành đào được vàng nên được gọi là Kim Thành, ngoài ra còn có ý kiến cho rằng bởi vì thành Lan Châu có những dãy núi vây xung quanh nên vô cùng kiên cố, do vậy người xưa đã đặt tên là Kim Thành dựa theo điển cố Kim thành thang trì (thành trì vững chắc), ẩn ý là kiên cố.



Lan Châu ngày nay

[4] Dương Quan là một con đèo được xây dựng bởi Hán Vũ Đế, hoàng đế của Tây Hán. Dương Quan nằm cách Đôn Hoàng khoảng 70 km về phía Tây Nam, thuộc địa phận tỉnh Cam Túc. Đây là một cửa ngõ quan trọng giúp nhà Hán chống lại sự xâm lược của các dân tộc du mục ở phía Tây Bắc. Ngày nay, Dương quan nằm ở làng Nam Hồ, dọc theo hành lang Cam Túc.

Dương Quan là một trong hai ải trọng nhất của Trung Quốc ở phía Tây, cùng với Ngọc Môn Quan, Dương Quan cũng là một địa điểm quan trọng trên con đường tơ lụa.



Tàn tích Dương Quan ngày nay

[5] Đồi Bạch Long là một trong ba nhóm địa hình Yardan ở La Bố Bạc (Lop Nur), đây cũng là một thắng cảnh nổi tiếng của La Bố Bạc. Con đường tơ lụa đi ngang qua đây. Đồi Bạch Long nằm ở phía Đông Bắc La Bố Bạc, là một địa hình gò sỏi, được hình thành bởi sự tích tụ của các hồ trong Kỷ Đệ Tứ. Trải qua quá trình phong hóa và xói mòn của nước, tạo thành một dải các gò đất kéo dài hàng trăm cây số từ hướng Đông Bắc đến Tây Nam. Dải gò đất này được cấu thành từ đất cát, bùn thạch cao và muối kiềm nên có màu trắng xám. Dưới mặt trời nó sẽ phản xạ tia nắng như những chiếc vảy nên người xưa gọi là “Bạch Long”. Nhìn từ xa đồi Bạch Long giống như một con rồng đang bơi trong biển cát, sống lưng màu trắng như ẩn như hiện, kéo dài vô tận.

Ngày này Đồi Bạch Long vẫn là một khu vực không người ở rất nguy hiểm.



Đồi Bạch Long

[6] Lâu Lan

Theo “Sử ký – Đại Uyển liệt truyện” và “Hán thư – Tây Vực truyện” ghi chép, Lâu Lan là một quốc gia cổ, xuất hiện từ thế kỷ thứ 2 TCN ở vùng đông bắc sa mạc La Bố, Tân Cương. Phía đông giáp Đôn Hoàng (tỉnh Cam Túc, Trung Quốc); phía tây bắc giáp với An Kỳ và Úy Lê (Tân Cương); phía tây nam giáp với Nhược Khương và Thả Mạt (Tân Cương). Lâu Lan được biết đến với cái tên tiếng Nga là Krorayina hay Kroran.

Nằm trên con đường tơ lụa, cửa ngõ giao thông Đông Tây cổ, mậu dịch tơ lụa đã mang lại phồn vinh một thời cho ốc đảo Lâu Lan nằm bên hồ La Bố cổ đại. Vương quốc Lâu Lan cổ cách đây hơn 2100 năm là một trạm mậu dịch trung chuyển trên con đường tơ lụa nối Trung Quốc, Ba Tư, Ấn Độ, Syria, Đế quốc La Mã. Đồng thời nó cũng là một trong những đô thị lớn phồn hoa nhất, mở cửa sớm nhất trên thế giới.

Tuy phát triển mạnh mẽ, Lâu Lan chỉ tồn tại vài trăm năm và biến mất một cách bí ẩn, có người đã gọi Lâu Lan là “Pompeii giữa lòng sa mạc”.

Quốc gia cổ đại Lâu Lan không để lại bất kỳ tài liệu lịch sử nào, chỉ có thể nghiên cứu qua các ghi chép trong sách sử của các nước láng giềng. Thời điểm được phát hiện, cảnh vật trong thành vẫn nguyên vẹn, rất ít các di hài.

Theo các ghi chép, trong 36 nước ở Tây Vực ở Tân Cương thì kinh tế và văn hoá của Lâu Lan phát triển nhất. Lâu Lan có hơn 1,5 nghìn hộ gia đình với dân số hơn 14,1 nghìn người.



Tàn tích của toà thành cổ Lâu Lan

[7] Thiện Thiện: tên một huyện của địa khu Turfan, khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc.

[8] Sơ Lặc: là một huyện của địa khu Kashgar, khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc.

[9] Thông Lĩnh: Dãy núi Pamir là một dãy núi nằm tại Trung Á, được tạo thành từ sự nối liền hay điểm nút của các dãy núi Thiên Sơn, Karakoram, Côn Lôn và Hindu Kush. Dãy núi này là một trong các dãy núi cao nhất thế giới. Trong tiếng Trung, dãy núi này được biết với cái tên Thông Lĩnh tức ‘Núi củ hành’.Nơi đây là khu vực đi lại khó khăn và bí ẩn nhất trên Con đường tơ lụa cổ đại. Khí hậu của Pamir vô cùng khắc nghiệt, nhất là ở phía Đông Pamir.

Mùa đông ở đây kéo dài (từ tháng 10 – tháng 4), ở độ cao 3600 m, nhiệt độ trung bình vào tháng một là -17.8 độ C và nhiệt độ thấp nhất là -50 độ C. Nơi đây cũng có hơn 1000 sông băng.



Núi Thông Lĩnh

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện