Nam Quốc Sơn Hà

Chương 50: Đã Đem Xương Máu Đền Non Nước, -còn Mãi Tinh Thần Với Gió Trăng



Tại chân núi Nham-biền, nước Đại-Việt.

Ngày 21 tháng giêng, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Đinh-Tỵ, DL.1077).

Suốt ngày 21, Trung-Thành vương nhìn chim ưng tuần thám trên trời để theo dõi tình hình địch, mà không thấy một dấu hiệu gì. Cho đến trưa, thì chim ưng mang lệnh từ Khu-mật viện đến, vương hồi hộp mở ra đọc. Trong lệnh, nguyên soái Thường-Kiệt cho biết tình hình mặt trận Cổ-pháp Vũ Quang với Võ Kim-Loan tuẫn quốc. Tuy toàn bộ đạo kị binh Tống bị thảm bại, nhưng có lẽ Tống sẽ tràn ngập căn cứ Cổ-pháp bất cứ lúc nào. Tại Yên-dũng, Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên đang chống trả với Yên Đạt trong thế tuyệt vọng. Cuối cùng lệnh ban ra:

«... Nhắc lại, đêm nay tiên nương Bảo-Hòa, công chúa Thiên-Ninh sẽ đem hiệu Ngự-long, Quảng-thánh đánh úp căn cứ Như-nguyệt. Bằng mọi giá phải tấn công vào tổng hành doanh Quách Quỳ, nếu không y tung quân sang cứu viện Nam ngạn, thì hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh bị tiêu diệt. Sau khiđánh vào tổng hành doanh Tống, phải lui quân xuống hai hạm đội Thần-phù, Bạch-đằng kéo về trấn Như-nguyệt ».

Vương than với vương phi:

– Chúng ta đang đối đầu với các đại tôn sư Trung-nguyên. Mộc-tồn hoà thượng với Đại-từ Liên-hoa hoà thượng lúc nào cũng ẩn trong quân Tống rồi, khi chúng ta gặp nguy, thì người sẽ tếp cứu. Duy U-bon vương, không biết vương có tới kịp để dự trận với chú Chiêu-Văn không?

– Em cũng lo điều đó. Ta đành để số phận làm việc.

Cho đến chiều, vương cùng vương phi dùng ngựa duyệt lại doanh trại hiệu Long-đực, Đằng-hải một lượt. Duyệt xong vương lại đến doanh trại của hiệu Vạn-tiệp, Hùng-lược duyệt qua. Vương hỏi Tín-Nghĩa vương:

– Sư thúc Lê Văn tới chưa?

– Chưa.

Vương an ủi em:

– Nhưng dù sao em cũng có ba vị sư bá Côi-sơn tam anh bên cạnh, dư sức đối phó với Liêu-Đông tam ma.

Tín-Nghĩa vương lắc đầu:

– Trong ba sư bá, thì chỉ mình tam sư bá Trung-Đạo ở cạnh em mà thôi. Nhưng người phải trấn trên hạm đội Bạch-đằng mất rồi. Còn đại sư bá Phụ-Quốc, nhị sư bá Bảo-Dân đã giả trang làm Thiên-tử binh đi theo Dương Minh.

Trung-Thành vương kinh hãi:

– Sao? Tại sao có vụ này?

– Tại em lỡ lời. Em nói rằng ba vị sư bá tuổi cao, sức không được như xưa thì nên ở trên chiến hạm hơn là xuất trận. Câu nói này, sư bá Trung– Đạo không để vào tai. Nhưng đại, nhị sư bá thì bực mình ra mặt. Các cụ cùng hơn trăm đệ tử giả làm Thiên-tử binh theo Dương Minh. Em cố cản mà không được.

Vương phi Trinh-Dung tính đốt ngón tay rồi nói:

– Không ngờ các cụ lớn tuổi mà hỏa khí còn mạnh quá. Đại sư bá đã 79 tuổi, nhị sư bá đã 77 tuổi rồi chứ có ít đâu. Đành vậy.

Anh em từ biệt nhau.

Trời nhá nhem tối, thì các hiệu binh bắt đầu di chuyển Lôi-tiễn tới vị trí ấn định. Dương Minh họp chư tướng lần cuối, để nhắc lại nhiệm vụ:

– Lệnh ban cho chúng ta đánh vào doanh ba. Doanh ba là nơi đồn trú của năm đạo quân triều, lực lượng trừ bị của Quách Qùy dùng để đánh Thăng-long, tổng số khoảng năm vạn người. Ta cần phải giết ít nhất phân nửa số quân này, hay ít ra cầm chân không cho chúng tiếp cứu Nam ngạn Như-nguyệt.

Hầu ngừng lại để cho chư tướng theo kịp, rồi tiếp:

– Quân Tống tuy đông, nhưng ta không sợ, bởi vì một là ta ra quân bất ngờ. Hai là ta lợi dụng đêm tối dùng Thần-nỏ, Thạch-xa, thú binh làm chủ lực chính. Ba là chúng ta đều quyết tử một đi không về.

Hầu ban lệnh:

– Sư huynh Lý Lục đem đội hổ, mười dàn Thần-nỏ với sư một đi bên trái. Sư tỷ Mai-Lục đem sư hai, mười dàn Thần-nỏ với đội báo đi bên phải. Phương-Cúc đem sư ba, đội Thạch-xa với sư ba đi chính giữa. Chúng ta di chuyển tới gần trại Tống chờ đợi. Khi trong trại Tống tắt đèn một lúc, thì ta cùng tấn công. Quân Tống kinh hoàng thức giấc, thì ta dùng Thạch-xa, Thần-nỏ bắn mở đường, rồi cho thú binh tiến trước, Thiên-tử binh tiến sau. Khi vào tới trung ương, thì sư huynh đánh quặt sang trái, sư tỷ đánh quặt sang phải. Khi có lệnh thì đổi tiền đội làm hậu đội rồi rút lui.

Một bữa tiệc khao quân đã được chuẩn bị: Thịt nướng, giò, chả, rượu đem ra. Tướng mời binh, binh mời tướng cùng uống chung rượu vĩnh biệt.

Người ngậm tăm, thú buộc mõm, âm thầm lên đường. Tới giờ Dậu, thì các đoàn quân chỉ còn cách trại Tống hơn sáu dặm. Quân tướng cùng dừng lại nghỉ ngơi. Sang giờ Tuất, trống trong trại Tống đánh ba hồi, báo hiệu sang canh, tắt đèn đi ngủ. Đèn đuốc tắt hết. Dương Minh ra lệnh cho các đội quân lên đường. Sang giờ Hợi thì tới doanh trại Tống.

Một tiếng hú lảnh lót vang lên, đó là hiệu lệnh tấn công. Ba đội quân cùng nã Thạch-xa phá tan các hàng rào, các cổng, rồi Thần-nỏ đi giữa, hai bên là thú binh, phía sau là Thiên-tử binh reo hò xung vào trại Tống. Quân Tống đang riu riu ngủ, choàng thức dậy, thì bốn phía toàn quân Việt lố nhố, Thạch-xa nã, Thần-nỏ bắn, thú xông vào mà vồ, mà cắn, mà quật. Thoáng một cái quân Việt đã xông vào tới trung ương trại. Bấy giờ quân Tống mới đốt được đèn đuốc lên, thì hai trong năm trại đã bị đánh phá.

Không hổ là những binh đội tinh nhuệ nhất của Tống, bị tấn công bất ngờ, nhưng chỉ hơn khắc sau ba trại còn lại đã dàn ra phản công, bao vây hiệu Long-dực vào giữa.

Lại nói ngày 21 tháng giêng, Quách Quỳ cùng chư tướng nhận được tin Yên Đạt chiếm Phú-lương, giết được các tướng Việt như phò mã Hoàng-Kiện, công chúa Động-Thiên; Trần Di, Bùi Phương-Lý. Hiện Đạt đang phá chiến lũy Yên-dũng. Lại được tin đạo quân của Miêu Lý công phá Cổ-pháp, giết được Vũ Quang; Võ Kim-Liên tử tử theo chồng. Quỳ sai quân chấp pháp gửi lệnh cho hai cánh quân:

«... Nội ngày 22 tháng giêng, Yên Đạt phải phá cho được Yên-dũng; Miêu Lý phải nhổ cho được cái gai Cổ-pháp... Rồi hai đạo cùng tiến về Thăng-long... »

Quỳ họp chư tướng, lần này có cả Liêu-Đông tam ma, Hoa-sơn tứ lão rồi quyết định:

– Tên yêm hoạn Lý Thường-Kiệt với tên Nho sinh mặt trắng Lý Kế-Nguyên bị mắc mưu ta. Chúng cho rằng cánh quân mặt biển với Như-nguyệt của ta là thực, nên chúng để tới hai hạm đội trấn ở Nam-hải. Lại để hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng trấn Như-nguyệt; ba hiệu Ngự-long, Quảng-thánh, Phù-đổng trấn Cổ-pháp. Ta cũng giả hư trương thanh thế đánh Như-nguyệt, Cổ-pháp, nhưng thình lình diệt Phú-lương, Yên-dũng. Quả Phú-lương bị ta chiếm. Yên-dũng chỉ có một hiệu binh Bổng-nhật thì mười lăm vạn binh của Yên-đạt sẽ nghiền nát trong nửa ngày rồi tiến về Thăng-long. Bây giờ ta cho cả hai mặt Cổ-pháp, Yên-dũng là thực. Tên Thường-Kiệt tưởng ta ngu như nó, nó sai hai tên Hoằng-Chân, Chiêu-Văn với hai hạm đội tiến về đây để ta tưởng mặt Nham-biền là thực, rồi rút quân về.

Chư tướng đều cười khoan khoái. Quỳ tiếp:

– Còn lâu ta mới mắc mưu chúng. Ta không rút quân về. Nếu chúng muốn tự tử thì cứ đánh vào bản doanh ta. Vậy ta chỉ để lại hai đạo binh triều, hai mươi chỉ huy tân-đằng-hải trấn ở Nam-Bắc chiến lũy Như-nguyệt. Với quân số này đông hơn chúng, lại thủ trong đồn, thì Hoằng-Chân, Chiêu-Văn không thể nào đánh được. Ngay sáng mai chúng ta di chuyển tổng hành doanh theo đạo quân Miêu-lý tiến về Thăng-long.

Ôn Cảo vội xuống lệnh cho quân sĩ nhổ trại, thu xếp quân trang, lừa ngựa, để sáng hôm sau lên đường vào giờ Mão.

Nhưng đúng lúc đó thì ngựa lưu tinh loan báo một tin khủng khiếp:

– Toàn bộ cánh quân Nham-biền bị đánh tan, hai đạo quân của Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương đang tiến về tổng hành doanh.

Quỳ hơi chột dạ. Nhưng Liêu-Đông tam ma trấn an:

– Chúng hư trương thanh thế đấy. Từ hôm khởi cuộc chiến đến giờ bọn Giao-chỉ luôn ẩn trong hang, trong ổ, nên Thiên-binh phải khó nhọc lắm mới đánh được. Bây giờ chúng ra khỏi ổ chó của chúng, với hai cánh quân này chưa tới 4 vạn người. Bố bảo chúng cũng không dám đánh vào tổng hành doanh. Có lẽ chúng chỉ hư trương thanh thế, hầu ta phải rút quân ở Cổ-pháp, Yên-dũng về mà thôi.

Ôn Cảo, Vương Mẫn cũng đồng ý với Liêu-Đông tam ma. Ôn Cảo nói:

– Chỉ nội ngày mai, chúng ta đánh Thăng-long, thì hai tên ôn con Hoằng-Chân, Chiêu-Văn mất đường về. Bấy giờ một là quân của chúng tan, hai là chúng phải đầu hàng.

Vừa lúc đó thì có tiếng quân reo ở phía Như-nguyệt và tiếng Lôi-tiễn nổ ở phía Đông. Rồi có quân báo:

– Quân Giao do công chúa Thiên-Ninh đánh chiếm Như-nguyệt. Phó nguyên soái Triệu Tiết cùng chư tường đang chống trả rất khó khăn.

Quỳ hỏi:

– Thế bọn Miêu Lý, Trương Thế-Cự, Đặng Trung, Lưu Mân đâu?

– Có tin tất cả đều bị bắt hay giết rồi.

– Vô lý, không thể dễ dàng như vậy, nhất là đạo kị binh của Trương Thế-Cự.

Lát sau lại có tin:

– Quân Giao chọc thủng tuyến giữ Như-nguyệt, thế cực kỳ nguy cấp.

Quỳ bắt đầu bối rối:

– Cho hai hiệu 16, 17, 18, 19 từ Bắc ngạn vượt phù kiều sang tiếp viện Nam ngạn.

Bây giờ tiếng Lôi-tiễn xé không gian, tiếng voi rống, tiếng hổ gầm, tiếng báo gào, tiếng sói tru, tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, tiếng vũ khí chạm nhau hoà lẫn với tiếng người bị giết, bị chém kêu thét lên từ doanh ba vọng lại. Quỳ với bộ tham mưu chột dạ. Lát sau quân báo:

– Đệ tam doanh bị địch tấn công. Quân Giao đã tiến tới trung ương. Đệ nhất, đệ nhị doanh bị Lôi-tiễn bắn vào, bốc cháy khắp nơi.

Quỳ hoảng hốt ra mặt. Y yên trí mặt Như-nguyệt đã có Triệu Tiết, Diêu Tự. Y cùng Ôn Cảo, Vương Mẫn với Liêu-đông tam ma, Hoa-sơn tứ lão rời hành doanh tới đệ tam doanh.

Dưới ánh đuốc chập chờn, Quỳ đưa mắt quan sát: Hai trại quân đã bị phá tan nát. Lều bốc cháy ngùn ngụt, quân Tống nằm la liệt trên mặt đất; kẻ thì chết, người thì quằn quại bị thương. Ba trại còn lại đang dùng lá chắn chống nỏ thần. Quân sĩ dùng đao, cung tên chống với thú binh. Thiên-tử binh Đại-Việt như đàn hổ đói, được thú binh yểm trợ đang chém giết quân Tống. Quân Việt dàn trận thành ba mũi tấn công, khi chĩa vào chỗ nào, quân Tống bị đánh ngã chỗ đó.

Quỳ ra lệnh cho tướng kị binh Vương Mẫn:

– Hồi chiều tế tác báo cho biết Hoằng-Chân, Chiêu-Văn dựa vào chân núi Nham-biền mà đóng quân. Chúng lập phòng tuyến hướng về ta. Phía sau lưng chúng để hở, chỉ canh gác lấy lệ, vì tin rằng ta không có quân. Bây giờ y nghĩ rằng quân của chúng đột kích ta, ta mải chống trả. Vậy tướng quân cho xuất tất cả kị binh, đi vòng phía bờ sông, rồi đánh vào sau lưng y, thì diệt được y.

Quỳ nói với Liêu-Đông tam ma:

– Xin ba vị tiên sinh cùng hai trăm cao đồ theo trợ chiến cho Vương tướng quân.

Vương Mẫn, Liêu-Đông tam ma cùng đám đệ tử vội về khu trại kị binh. Trận chiến ở đệ tam doanh, ở Như-nguyệt làm cho kị binh tỉnh giầc. Tướng sĩ đã mặc giáp trụ, mang cung tên, thắng yên cương chờ đợi sẵn. Nên khi Vương Mẫn về tới nơi, y gọi chư tướng tới giảng giải về nhiệm vụ, chỉ cần nửa khắc là đoàn kị binh rầm rộ lên đường.

Địa thế Bắc Như-nguyệt tới Nham-biền về thời Lý là khu đất hoang khô quạnh. Bấy giờ thời tiết vào dịp tết, cỏ non mới mọc, cây còn trơ cành, thực là thiên thời, địa lợi cho đoàn kị binh tung hoành.

Trận chiến ở đệ tam doanh vẫn tiếp diễn ác liệt. Sau khi đánh tan hai đạo binh triều Tống, hiệu Long-dực bị ba đạo binh thiện chiến nhất bao vây chặn lại. Nhưng người người đều bỏ ra ngoài lẽ sống chết, lại có thú binh yểm trợ, nên cuộc chiến vẫn chưa phân thắng bại.

Sau hơn giờ giao chiến, Thần-nỏ, Thạch-xa đã bắn hết đá, hết tên. Nỏ binh, xa binh phá các xe bắn đá, nỏ thần, rồi cầm vũ khí chiến đấu với Thiên-tử binh.

Đứng quan sát trận chiến, Quách Quỳ để ý thấy chỗ mũi nhọn do một nữ tướng chỉ huy cạnh Dương Minh; mạnh đến nỗi mũi này đi đến đâu là binh Tống bị đánh dạt ra đến đó. Đặc biệt, đội cảm tử trên hai trăm võ sĩ được chỉ huy bởi hai đội trưởng già;, bất cứ đội trưởng, võ sĩ nào của Tống, hai lão già với đám võ sĩ Việt chỉ đưa một đao là cả người lần vũ khí đứt ra làm hai.

Quỳ hỏi:

– Nữ tướng kia là ai vậy?

– Y thị là vợ tên Dương Minh cùng chồng thống lĩnh hiệu Thiên-tử binh Long-dực. Hồi còn con gái, khuê danh là Hoàng Phương-Cúc. Thị là con của Hình-bộ thượng thư Hoàng Khắc-Dụng.

Quỳ lại chỉ vào hai cánh khác: Cánh bên phải do một thiếu niên chỉ huy. Cánh bên trái do một thiếu nữ chỉ huy. Mặt hai tướng này non choẹt, nhưng võ công rất cao thâm. Quỳ hỏi:

– Hai tướng thiếu niên kia là ai?

– Chúng là vợ chồng. Chồng tên Lý Lục, vợ tên Mai-Lục. Chúng thuộc đám Thập-bát kim cương, là Việt-kiều ở bên Chiêm về cố quốc tham chiến. Sư phụ của chúng là Mộc-tồn hòa thượng.

Nghe đến Mộc-tồn hòa thượng, mặt Quỳ cau lại thực khó coi. Quỳ nói với Hoa-sơn tứ lão:

– Xin Tứ-lão cùng quý cao đồ bao vây, giết chết đám tướng Giao-chỉ kia, thì mới mong diệt được đạo quân này.

Trong Hoa-sơn tứ lão, thì Bạch-lão có vai vế cao nhất. Từ hôm theo quân sang Nam. Lão phân chia hai trăm đệ tử làm bốn toán, mỗi toán cho được đặt thuộc quyền một lão luyện tập, để khi ra trận tiện việc chỉ huy. Cả bốn toán đều chờ đợi. Mãi tới hôm nay, anh em lão mới được Quách Quỳ nhờ đến. Lão phân chia: Xích-lão đánh Mai-Lục, Thanh-lão đánh Lý Lục, còn Bạch-lão, Hắc-lão đánh Dương Minh, Phương-Cúc.

Thoáng một cái, các lão với đệ tử đã xông vào trận chiến. Bạch-lão tung người lên, lão dùng một ưng trảo chụp Dương Minh đang đứng trên bành voi chỉ huy. Trảo của lão phát ra kình lực khiến cho tên quản tượng suýt ngã xuống. Lão kinh ngạc vô cùng, khi thấy trảo sắp tới cổ Dương Minh, mà viên tướng này coi như không biết tới, lão mừng thầm. Nhưng lão chợt cảm thấy phía trước mình có một kình lực mạnh đến nghiêng trời lệch đất đè xuống. Kinh hoàng lão vội biến chỉ thành chưởng đỡ. Ầm một tiếng, người lão bật tung về sau, rơi xuống đất, khí huyết trong người lão chạy nhộn nhạo cực kỳ khó chịu. Bấy giờ lão mới nhìn đối thủ của mình, chỉ là một Thiên-tử binh già. Lão chưa kịp định thần, thì đối thủ đã phóng một chỉ hướng đỉnh đầu lão, chỉ lực phát ra tiếng véo chói tai. Kinh hãi, lão trầm người xuống, rồi rút kiếm đánh cắt ngang vào luồng lực đạo. Choang một tiếng, kiếm của lão bị gẫy làm năm sáu mảnh. Lão ném chuôi kiếm rồi đẩy ra một chưởng, hắt tất cả những mảnh vụn về phía đối thủ. Viên Thiên-tử binh cũng đẩy một chưởng, đánh ngược lại. Hai chưởng chạm nhau đến bùng một tiếng. Cả hai người cùng lảo đảo lùi lại.

Bạch-lão quát lên:

– Cao nhân là ai, xin cho biết cao danh quý tính?

Sau khi quát, lão tưởng đối thủ không biết tiếng Biện-kinh. Nào ngờ viên Thiên-tử binh hỏi ngược lại cũng bằng tiếng Biện-kinh:

– Hoa-sơn tứ lão danh trấn Trung-nguyên về đạo đức, về võ đạo; thế mà sao lại sang đây lăn mình vào chỗ chết, cướp nước người chỉ vì cái mộng ngông cuồng của gã hủ Nho Vương An-Thạch? Xin Bạch-lão giải thích cho?

Bạch-lão liếc nhìn bên cạnh, Hắc-lão đang đấu chưởng với một viên Thiên-tử binh già, hơi yếu thế.

Quách Quỳ đứng xa đã lược trận, y thấy Bạch, Hắc là hai đệ nhất cao nhân đương thời, mà bị hai Thiên-tử binh đánh cho đến luống cuống chân tay thì kinh ngạc không ít. Y đến gần quan sát, chợt y chửi thầm:

– Mình đáng chết thực, thì ra hai Thiên-tử binh này là Trần Phụ-Quốc, Trần Bảo-Dân. Hèn chi Hoa-sơn nhị lão không đàn áp nổi.

Y lên tiếng:

– Ngừng tay!

Bốn người ngừng tay lùi lại. Quách Quỳ xá một xá:

– Thì ra tiền bối Phu-Quốc, người chẳng từng là Phụ-quốc đại tướng quân tổng lĩnh thị vệ đời vua Nhân-tông bản triều đó ư? Còn vị tiền bối kia, người chửng từng là một tao nhân trên giòng Tương-giang, hồ Động-đình sao? Tại sao hai vị lại giả trang làm Thiên-tử binh hèn hạ như thế này?

– Bọn lão phu không nhận chức tước gì của triều đình Đại-Việt, thì khi xuất trận chỉ có thể mặc quân phục của Thiên-tử binh mà thôi.

Phụ-Quốc, Bảo-Dân thấy hai viên tướng Tống đứng rất gần mình, đang chỉ huy thiết đột vây quân Việt. Hai người đưa mắt cho nhau, rồi thình lình mỗi người tung mình về hai tướng đó, tay rút kiếm xả một nhát. Hai viên tướng đang mải chỉ huy không phòng bị, bị chiêu kiếm như trời giáng. Cả hai bị đứt làm hai khúc.

Bạch-lão nổi giận rút kiếm xả vào người Phụ-Quốc, trong khi Hắc-lão xả kiếm vào người Bảo-Dân. Bốn đại cao thủ Hoa-Việt cùng cố xuất hết lực bảo vệ quân mình.

Quách Quỳ nhìn về phía trái. Mai-Lục tay kiếm, tay đao dẫn đầu đội Thiên-tử binh, không tướng nào đương nổi. Giữa lúc Mai-Lục vung kiếm chặt đầu một đô thống Tống, thì Xích-lão tung mình lên cao, lão búng tay một cái, thanh kiếm của Mai-Lục bay vọt lên cao, tay còn lại lão đoạt đao của nàng. Mai-Lục bình tĩnh, tay rút cây roi da trên lưng quất vào người lão. Lão hớt một đao, cây roi bị đứt rồi vọt người lên cao, tay lão dùng một ưng trảo chụp cổ nàng nhắc bổng khỏi bành voi.

Viên đội trưởng chăn ngựa cho các tướng ở tổng hành doanh tên Trịnh Can đang dắt ngựa cho ôn Cảo đứng sau Quách Quỳ. Y hú lên một tiếng rung động không gian, dài liên miên bất tuyệt, khiến mọi người phải bịt tai lại; rồi y tung người lên cao, tay phóng một chưởng mạnh như bài sơn đảo hải hướng Xích-lão. Xích-lão kinh hoảng vội dùng tay trái cặp Mai-Lục, tay phải xuất chiêu đỡ chưởng của Trịnh Can. Nhưng Trịnh Can lại phát tiếp một chưởng nữa, chưởng sau xô chưởng trước như hai lớp sóng nối nhau. Xích-lão kinh hãi, vội tung Mai-lục lên cao, rồi dùng cả hai tay phát chưởng, thân nhảy lùi lại ba bốn bước để tránh áp lực của hai chiêu chưởng khủng khiếp kia. Trịnh Can tiến tới bắt lấy Mai-Lục, tung nàng lên cao. Mai-Lục lộn một vòng, đáp xuống giữa trận Tống, nàng chuyển tay một cái đã đoạt được hai thanh đao của quân Tống. Đao lại vung lên, mỗi cái vung là một thân hình đổ xuống.

Về phía trái, Thanh-lão cùng mười đệ tử tung mình đến chặn ngay trước mặt mũi tấn công của Lý Lục. Lão đáp xuống giữa lúc tay phải Lý Lục đang thúc một chiêu kiếm xuyên qua ngực một viên sư trưởng, rồi tay trái đẩy xác y bay tung sang bên cạnh. Lão chuyển động tay phải một cái, đã đoạt được kiếm của Lý. Lý kinh hãi nhảy lùi liền ba bước, bốn Thiên-tử binh xả đao vào người lão cứu chúa tướng. Nhưng lão như con cá trạch, chỉ cần lách mình hai cái, lão đã đuổi kịp Lý. Tay lão xuyên qua lưới vũ khí của bốn Thiên-tử binh, chụp cổ Lý rồi nhảy về trận Tống.

Lão điểm huyệt Lý Lục, rồi trao cho một đệ tử trói lại, còn lão thì lao vào trận tuyến Việt. Trước mặt lão, hai con hổ, một con beo nhảy xổ đến. Lão vung tay một cái, chưởng phong phát ra ào ào, hai con hổ bật tung lại phía sau, nhưng khi lực đạo sắp tới con báo, thì lão cảm thấy cánh tay như tê liệt. Một mùi thơm của hương sen thoang thoảng xông vào mũi lão. Biết bị trúng độc, lão cố hít hơi điều khí tống độc ra, thì một tiếng véo, rồi hương sen ngào ngạt bốc ra, toàn thân lão như mất hết kình lực. Trong khi đó đôi hổ, với con beo lại nhảy đến vồ lão, lão nghiến răng phát chiêu, mà chưởng không ra. Quá hãi hùng, lão nhảy lùi liền hai bước, thì lạ chưa, Lý Lục chuyển tay một cái tung ra hai chưởng đánh bay hai đệ tử của lão, rồi vọt người lên voi tiếp tục chỉ huy.

Biết có người tung thuốc cứu Lý Lục, tấn công mình, lão lên tiếng:

– Kẻ nào đánh trộm? Nếu là anh hùng, hảo hán thì hãy xuất hiện cùng ta đấu mấy nghìn chiêu.

Không có tiếng đáp lại. Lão vận khí điều tức, thấy chân khí lưu thông như thường, lão tung mình lên, tay rút kiếm xả một nhát như chớp giật vào người Lý Lục, kình lực cực kỳ trầm trọng. Binh tướng Việt kêu thét lên kinh khủng, vì chiêu kiếm đó xả xuống thì Lý Lục với con voi sẽ đứt làm đôi. Từ phía trận Tống, tên mã phu Vũ Uy lách mình một cái, đoạt thanh đao của một quân thiết đột rồi chĩa ngay vào lưng Thanh-lão, nếu lão không thu chiêu về tự cứu mình, thì người lão bị xẻ làm đôi trước. Lão vội quay tay đổi chiều, thanh kiếm vòng ra sau gạt kiếm của Vũ Uy. Choang một tiếng, cả hai thanh kiếm cùng gẫy. Cả hai người cùng lảo đảo lùi lại.

Thanh-lão quát:

– Người chẳng là tên mã phu đó ư? Tại sao người lại giúp giặc đánh người nhà?

Vũ Uy không nói không rằng, lão phóng chưởng tấn công Thanh-lão, chưởng không cực kỳ dũng mãnh. Thanh-lão nghiến răng đỡ. Rầm một tiếng, lão bật lui liền hai bước.

Quách Quỳ kêu lên:

– Thiên-vương chưởng! Chiêu Lôi-đả Ân-tặc! Người chẳng là người Tống ư? Tại sao người biết xử dụng võ công Sài-sơn?

Vũ Uy tiếp tục tấn công Thanh-lão. Hai người cùng dùng hết khả năng đấu với nhau.

Quách Quỳ hỏi viên tá lĩnh hầu cận:

– Có phải hai tên mã phu này là Trịnh Can, Vũ Uy không? Tại sao chúng lại giao chiến với Thanh, Xích lão?

– Thưa nguyên soái đúng. Đây là hai tên mã phu già Trịnh Can, Vũ Uy. Không hiểu sao võ công chúng lại cao thâm đến như vậy? Dường như chúng là gian tế của Giao-chỉ.

Đến đây, vòng vây của quân Tống đã thắt lại, hiệu Long-dực chỉ còn hơn nửa, nhưng người nào cũng quật cường chiến đấu. Thình lình Dương Minh bị trúng một mũi tên vào bụng dưới. Quá kinh hoàng, sợ quân sĩ nhìn thấy sẽ mất tinh thần, hầu rút kiếm đưa một nhát cắt tên, rồi lấy dây lưng băng bụng lại, tiếp tục chỉ huy.

Về phía Phương-Cúc, phu nhân vẫn đứng trên bành voi chỉ huy. Đội nữ cận vệ quyết tử đứng vảo vệ xung quanh. Ôn Cảo thấy vậy chỉ cho đội cao thủ Hoa-sơn:

– Cần thanh toán ngay con nhỏ kia!

Mười cao thủ Hoa-sơn cùng xả kiếm đánh thẳng vào trận nữ binh. Hơn mười nữ binh bị hạ, trận bị hở một khoảng. Hai cao thủ khác tung mình lên, dùng kiếm đánh vào hai bên Phương-Cúc. Phương-Cúc vọt người lên cao, nhưng hơi chậm, một kiếm đả xả rách bụng bà.

Mã phu Trịnh Can đang đấu với Xích-lão, thấy Phương-Cúc lâm nguy, lão quát lên một tiếng, rồi đánh ra một chưởng như bài sơn đảo hải, khiến mười cao thủ Hoa-sơn bị bay tung ra sau, kẻ thì bị vỡ làm hai mảnh, kẻ thì vỡ đầu, kẻ thì vỡ ngực. Trịnh Can phẩy tay một cái, Phương-Cúc lại rơi xuống bành voi. Y hỏi bà:

– Con! Con có sao không?

Tuy đau thấu tâm can, nhưng Phương-Cúc vẫn gượng gạo:

– Thầy để mặc con!

Trong khi Trịnh Can cứu Phương-Cúc, thì Xích-lão tung chưởng giết đám nữ vệ sĩ; Can nổi giận đánh một chưởng mạnh đến nghiêng trời lậch đất. Xích-lão thấy nếu mình đỡ chưởng đó thì nát thây ra, mà chết. Lão vọt mình lên cao tránh. Trịnh Can không buông tha, ông hướng chưởng lên trời, binh một tiếng, Xích-lão bay ra xa rơi xuống đất. Lão quằn quại mấy cái rồi nằm bất động. Đám đệ tử Hoa-sơn vội đến cứu lão, thì lão đã mê man.

Nhờ Trịnh Can cứu mệnh, nhưng vết kiếm làm cho ruột của Phương-Cúc lòi ra ngoài. Bà vội lấy dây lưng băng lại, rồi nghiến răng chịu đau, ngồi trên bành voi chỉ huy.

Trong suốt trời gian quân Tống, quân Việt giao chiến ở đệ tam doanh thì Lôi-tiễn vẫn bắn đều đều vào đệ nhất, đệ nhị doanh. Thình lình tiếng Lôi-tiễn im bặt, rồi từ phía chân núi Nham-biền, lửa bốc ngút trời, tiếng quân reo, tiếng ngựa hí vọng lại.

Quân báo với Quách Quỳ:

– Kỵ binh đang giao tranh với quân của Giao-chỉ ở chân núi Nham-biền.

Tên quân báo báo tin nói rất nhỏ, nhưng cũng lọt vào tai Trịnh Can. Ông nói với Vũ Uy:

– Sư đệ! Lúc này không thể nương tay được. Sư đệ mau giải quyết đi.

Vũ Uy nghe Trịnh Can nói như ra lệnh, ông hít một hơi, rồi phát ra ba chiêu liền, trong chưởng phong có mùi thơm thoang thoảng của hoa sen. Thanh-lão đỡ được hai chiêu đầu, đến chiêu thứ ba thì người lão bay tung ra xa. Cũng như sư huynh, lão quằn quải mấy cái, rồi mê man.

Thiên-tử binh trói hai lão lại.

Thấy Trịnh Can, Vũ Uy hạ Hoa-sơn nhị lão quá dễ dàng, Quách Quỳ nghĩ ra một điều, y quát lên:

– Mộc-tồn hòa thượng, Đại-từ Liên-hoa hòa thượng!

– Đúng thế!

Trịnh Can xoa mặt, vung tay xé rách áo ngoài, ông trở thành một vị tăng áo nâu. Vũ Uy cũng lột mũ, xé áo, trở lại thành một nhà sư.

Mộc-tồn Vọng-thê hoà thượng, Đại-từ Liên-hoa hòa thượng, danh trấn Hoa-Việt trên ba mươi năm qua, dù võ lâm, dù triều đình, dù binh tướng Tống, nghe tên hai ngài đều táng đởm kinh hồn.

Hai ngài đứng dàn ngang, cùng phát chiêu, bình, bình, hơn hai mươi quân thiết đột bị bay tung lên cao, rơi xuống chết đứ đừ. Hai ngài chỉ đánh có mười chiêu, khiến vòng vây Tống mở rộng.

Mộc-tồn hòa thượng đưa mắt nhìn trận đấu của Phụ-Quốc, Bảo-Dân với Bạch, Hắc-lão không phân thắng bại.

Vào thời Đại-Việt giúp Nùng Trí-Cao khởi binh, bản lĩnh ủa Côi-sơn tam anh vào tuổi khí huyết sung thịnh, từng giết chết thủ tọa La-Hán đường chùa Thiếu-lâm, với đệ nhất cao thủ bang Nhật-hồ. Nhưng nay, tuổi các ông đã đi qua cổ lai hi (70) từ lâu; trong khi tuổi của Hoa-sơn tứ lão đang hồi sung thịnh nhất. Vì vậy cuộc chiến vẫn bất phân thắng bại.

Thấy rằng muốn cứu sống đám Thiên-tử binh này, thì phải giết tướng giặc. Mộc-tồn hòa thượng đưa mắt cho Viên-Chiếu. Cả hai cùng quát lên, một tiếng rồi phát chưởng đánh vào những viên đô-thống, tá lĩnh đang chỉ huy quân. Chỉ thoáng một cái, hai vị đã thanh toán xong gần ba chục tướng lớn nhỏ của Tống. Trận Tống bị rối loạn liền.

Liếc nhìn thấy Quách Quỳ đang đứng điều binh, Mộc-tồn hòa thượng phát một chưởng như bài sơn đảo hải đánh vào người y. Quá kinh hãi, y phát chiêu đỡ. Ầm một tiếng, người y bật tung lại sau. Đám võ sĩ cùng phát chiêu cản Mộc-tồn hòa thượng cứu chúa. Nhưng ngài như thiên tướng giáng thế, tay vung lên, đám võ sĩ bay tung ra hai bên. Chỉ hai chiêu ngài đã tiến tới gần Quách Quỳ, miệng quát:

– Quách Quỳ, hôm nay Phật-gia phải khai sát giới.

Quách Quỳ tung mình bỏ chạy vào trận Tống. Mộc-tồn hòa thượng vung tay đánh dạt quân Thiết-đột tiến tới chỗ y đứng. Ngài chỉ đánh có ba chiêu, thì chỉ còn cách Quỳ có ba trượng (6m). Đội võ sĩ Hoa-sơn, Thiếu-lâm lăn xả ra vây lấy ngài cứu Quỳ. Ngài móc trong túi ra một nắm thuốc, tay bóp nát rồi vọt mình lên cao, ở trên cao ngài phóng xuống một chưởng. Chưởng mang theo thuốc chụp xuống đầu đội võ sĩ Hoa-sơn, khiến đội này lảo đảo ngã lăn ra. Nhưng khi nhìn lại, ngài không thấy tăm tích Quách Qùy đâu. Mộc-tồn hòa thượng đành quay trở lại mặt trận. Thấy Phụ-Quốc, Bảo-Dân chưa hạ được Hoa-sơn nhị lão, ngài móc trong túi ra hai viên thuốc, rồi hướng hai lão bắn tới. Một viên trúng huyệt Đại-trùy Bạch-lão, một viên trúng huyệt Phong-phủ Hắc-lão; giữa lúc chưởng của Phụ-Quốc, Bảo-Dân đánh tới. Hai lão bị mất kình lực, thân mình bay tung lại sau, rơi xuống đất. Cả hai quằn quại mầy cái rồi nằm bất động.

Thế là cả bốn lão bị Thiên-tử binh trói lại.

Quân Tống thấy Quách Quỳ bỏ chạy, Hoa-sơn tứ lão sống chết chưa rõ, các tướng chỉ huy sư, lữ đều bị giết thì kinh hoàng như rắn mất đầu. Vòng vây do vậy dãn ra.

Mộc-tồn hoà thượng vận nội lực nói lớn:

– Chư quân nghe đây! Bần tăng là người theo Phật, không muốn khai sát giới. Nhưng vì Hy-Ninh nghe theo lời Vương An-Thạch đem quân sang cướp nước Việt, hại con đỏ, vì vậy bần tăng chỉ giết tướng mà thôi. Còn chư quân vô tội, bần tăng không nỡ ra tay. Vậy chư quân hãy lùi lại, không nên đuổi theo. Bằng đuổi theo, thì bần tăng không thể dung tính mạng.

Nói rồi ông quát lên một tiếng, phát chiêu Thiên-vương trấn thiên vào xác con voi chết nằm đó, rầm một tiếng, con voi bị đánh bật tung lên cao, rồi vỡ thành hàng trăm mảnh rơi xuống đầu quân Tống. Quân Tống hét lên kinh hoàng, vòng vây mở thực rộng.

Thế là Phụ-Quốc, Bảo-Dân cùng với Dương Minh, Phương-Cúc dẫn đầu; Mộc-tồn, Viên-Chiếu, Lý Lục, Mai-Lục đi đoạn hậu. Thiên-tử binh vác xác đồng đội, dìu thương binh thong thả rời khỏi doanh trại Tống. Vừa rời khỏi trại Tống, thì Dương Minh, Phương-Cúc cùng lảo đảo muốn ngã. Vệ sĩ vội đỡ hai người xuống, lấy cây làm cáng, cáng hai người đi.

Viên-Chiếu hỏi:

– Hai con có đau lắm không?

– Sư bá yên tâm, chúng con chịu đựng được mà.

Khi đã rời trại Tống hơn bốn dặm, Mộc-tồn hòa thượng, Viên-Chiếu cùng chư đệ tử mới ra lệnh dừng bước để băng bó, trị bệnh cho thương binh.

Nhắc để độc giả biết, Mộc-tồn, Viên-Chiếu từng nổi danh là thánh y đương thời, nên đoàn đệ tử của ngài cũng như Lý Lục, Mai-Lục đều là những thầy thuốc giỏi.

Viên-Chiếu móc trong bọc ra hai viên thuốc bỏ vào miệng Dương Minh, Phương-Cúc:

– Đây là thuốc cầm máu và trấn thống. Hai con nuốt đi cho máu bớt chảy, đợi lát nữa về trại, sư bá sẽ cho con uống ma-thang để ngủ mê đi rồi dùng dao mổ vết thương lấy máu bầm, rịt thuốc may lại thì không lo gì nữa.

Mộc-tồn hòa thượng xua tay:

– Đợi về đến trại thì lâu quá. Ta nên làm tại đây. Nhưng đau lắm, các con có chịu được không?

Phương-Cúc cười:

– Sư bá! Bọn con không sợ đau đâu.

Thế rồi Mộc-tồn hòa thượng trị cho Dương Minh; Viên-Chiếu trị cho Phương-Cúc. Hai ngài điểm vào mấy yếu huyệt khiến hai người tê đi, rồi dùng dao trủy thủ hơ vào ngọn đuốc khử độc. Hai ông ra tay thực nhanh, mổ vết thương, dùng vải thấm máu, dùng kim may vết thương, sau đó lấy cao dịt vết thương; cuối cùng dùng vải băng lại. Công việc không đầy một khắc là xong.

Bấy giờ hai ngài mới giải huyệt cho Dương Minh, Phương-Cúc.

Đoàn người tiếp tục rút về hướng Nham-biền. Đi được hơn nửa giờ, thì tiền quân thấy chân núi, nơi quân Việt đóng trại đèn đuốc như sao sa, rồi tiếng ngựa hí, tiếng người la hét, tiếng vũ khí vọng lại, vội báo cho Phụ-Quốc. Phụ-Quốc kinh hãi la lớn:

– Quân Tống đột kích trại ta!

Mộc-tồn, Viên-Chiếu bỏ hậu quân tiến lên hàng đầu. Mộc-tồn hòa thượng bảo Mai-Lục:

– Mắt con tinh nhất, con trèo lên cây quan sát xem cái gì đang xẩy ra tại chân núi Nham-biền?

– Tuân pháp chỉ sư phụ.

Mai-Lục thoăn thoắt leo lên chót vót ngọn cây gần đó, phóng mắt nhìn về phía trại Việt, rồi nói vọng xuống:

– Bạch sư phụ! Kị binh Tống đang đánh nhau với quân Việt. Dường như trại binh bị tràn ngập. Khu đóng quân của hiệu Vạn-tiệp, Hùng-lược chỉ thấy xác chết ngổn ngang. Khu đóng quân của hiệu Đằng-hải ở sườn núi vẫn còn giao tranh. Quân Việt rút lên núi cố thủ, còn kị binh Tống thì đang vây phía dưới.

Bàn về võ công thì Mộc-tồn, Viên-Chiếu cao hơn Phụ-Quốc, Bảo-Dân. Nhưng hai ngài lại không biết nhiều về binh sự; trong khi Phụ-Quốc từng là đô đốc Tương-giang hồ Động-đình, sau lên tới Phụ-quốc đại tướng quân, tổng lĩnh thị vệ thời vua Nhân-tông triều Tống. Vì vậy Viên-Chiếu hỏi ông:

– Nhị sư huynh! Ta phải làm gì?

Phụ-Quốc hỏi Lý Lục, Mai Lục:

– Ta còn bao nhiêu quân có thể lâm chiến được?

– Bạch sư bá, còn được năm nghìn hơn không thương tích.

– Liệu chư quân còn sức chiến đấu không?

Dương Minh đang nằm trên cáng, ông ngồi dậy:

– Trận vừa qua tuy kinh tâm động phách, nhưng chư quân chưa dùng hết lực, sức khoẻ vẫn còn nguyên. Vả chư quân đều luyện võ hơn mười năm. Bây giờ chỉ cần nửa khắc, họ điều tức, thì công lực lại phục hồi ngay.

Mai-Lục lại nói vọng xuống:

– Trận Tống chuyển động. Chúng đang rút lui ra xa, dàn trận. Ồ! Có một đội kị mã từ phía Nam mới tới. Ái chà! Đám kị mã mang rượu tới khao quân Tống.

Dương Minh lệnh cho quân dừng lại nghỉ ngơi, dưỡng thần.

Phụ-Quốc bàn:

– Đây là khu đồng bằng, chỉ có cỏ. Từ hôm sang đến giờ, kị binh Tống thường rong ruổi ở khu này, nên chúng rất quen với địa thế. Bây giờ chúng rút về hướng này, hiệu Long-dực của ta chỉ còn một nửa, lại phải mang theo thương binh tử sĩ; cung thì hết tên. Làm sao ta địch lại chúng? Chi bằng ta rút ra phía bờ sông, tránh chúng. Một mặt ta viết thư sai chim ưng cầu cứu với thủy quân, để thủy quân lên bờ cứu viện cho ta. Bằng không chúng sẽ dẵm nát chúng ta trong chốc lát.

Phương-Cúc ngồi nhỏm dậy, phu nhân đưa mắt cho chồng, trong ánh mắt đó dường như bà nói với hầu một điều gì. Dương Minh hiểu ý phu nhân, hầu gật đầu. Bà nói với Phụ-Quốc:

– Vậy xin nhị vị sư bá đem tử sĩ dấu vào rừng kia, rồi dẫn thương binh đi ngay cho.

– Nào, ta đi!

Nhưng Dương Minh xua tay:

– Sư bá đi đi, bọn cháu quyết không chịu lui. Dù quân số hao hụt một nửa, dù cung không còn tên, nhưng chúng cháu chỉ có thể chết chứ không thể lùi. Chúng cháu quyết dàn trận tại đây để đánh với quân Tống.

Phụ-Quốc chợt nhớ lại trong buổi triều hội, Linh-Nhân hoàng thái hậu, vua bà Bình-Dương, tiên nương Bảo-Hòa; từng khuyên bọn Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt nên uyển chuyển rút quân khi thấy trận thế mình yếu, mà 12 tướng đều từ chối. Bây giờ ông cũng chạm phải thái độ quyết tử đó. Chưa biết phải tính sao, ông tìm Mộc-tồn hòa thượng để thỉnh ý kiến.

Không đợi cho Phụ-Quốc trả lời, Phạm Dật xé vạt áo, rồi búng tay vào lưỡi dao chủy thủ, máu chảy ra. Hầu viết mấy chữ sai chim ưng đem ra hạm đội cầu cứu với đô đốc Trần An, Trần Hải, và báo cho đạo quân của Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương biết việc làm của mình.

Mộc-tồn hòa thượng đã đến bên Dương Minh, ngài nói:

– Bây giờ ta đem thương binh, tử sĩ vào khu rừng rậm kia dấu đi, còn binh tướng khoẻ ta dàn trận phục kích, đợi kị binh Tống trở về thì đổ ra đánh. Hay ta dàn trận chờ chúng?

Dương Minh thấy Mộc-tồn hòa thượng đồng ý với mình thì vui vẻ hỏi ông:

– Sư bá! Liệu kị binh Tống có rút về phía này không? Lỡ chúng đổi ý, rẽ sang đường khác thì sao?

Mộc-tồn hòa thượng móc trong bọc ra mấy cây pháo lệnh:

– Chúng rẽ sang đường khác thì ta gọi chúng đến. Trong những ngày ẩn ở trại Tống ta đã lấy cắp được những ống pháo lệnh của Quách Quỳ. Khi những hỏa pháo này tung lên tại đâu, thì tướng Tống được gọi, bất cứ giá nào phải tới nơi để tiếp cứu chúa tướng. Tướng kị binh của Tống đang đánh ta là Vương Mẫn, thì ta tung cây pháo thăng thiên, lúc nổ phát ra hình con ngựa phi. Vương Mãn thấy lệnh ắt bỏ trận, hướng về đây. Ta chỉ việc phục kích là diệt được đám kị binh này.

Các hiệu Thiên-tử binh đều được học phép lăn dưới đất, chăng dây chống kị binh trên cánh đồng, nên khi Lý Lục, Mai Lục ra lệnh, thì binh tướng hiểu liền. Cuộc mai phục chỉ trong vòng hơn nửa khắc là xong.

Phụ-Quốc phân chia bốn đại cao thủ, mỗi người trấn một khúc. Khi trận chiến bắt đầu, thì phải ra tay thần tốc giết hết các tướng, đô thống, tá lĩnh, tham lĩnh, sư trưởng, lữ trưởng để đám kị binh như rắn mất đầu, thì Thiên-tử binh mới có thể giết bọn kị mã: Mộc-tồn hòa thượng khúc đầu, Phụ-Quốc khúc thứ nhì, Viên-Chiếu khúc thứ ba, Bảo-Dân khúc thứ tư.

Mộc-tồn hòa thượng bảo Mai-Lục:

– Con leo lên cây, quan sát tình hình địch rồi báo xuống cho đại sư bá.

Nói dứt ngài rút chiếc pháo thăng thiên ra đốt rồi vận nội lực tung lên. Cây pháo bay vọt khỏi những lùm cây cao chót vót, phát ra tiếng nổ, toả thành hình con ngựa phi.

Mai-Lục nói vọng xuống:

– Kị binh Tống đang từ từ lui khỏi chân núi.

– Quân Việt thừa thế dùng tên bắn theo.

– Kị binh đổi đội hình chia làm hai. Một nửa dàn trận đánh cản hậu. Một nửa đang hướng về đây.

– Kị binh đốt đuốc, đi hàng một đang hướng về đây. Mỗi kị mã để một xác đồng đội nằm ngang trên lưng ngựa. Ồ, có kị mã mang hai ba xác theo.

Lý Lục hô quân:

– Chăng dây, dấu dây lẫn vào cỏ.

Quân sĩ răm rắp làm theo.

Mai-Lục nói vọng xuống:

– Tổng số ước hơn ba nghìn kị binh đamg đi tới.

Mộc-tồn hòa thượng nói nhỏ vào tai Lý Lục:

– Vương Mẫn có sáu nghìn kị binh. Như vậy trong trận chiến vừa rồi y bị hao một nửa. Chà! Ta có năm nghìn người mà phải đánh với ba nghìn kị binh thì cái kết quả đã thấy rồi. Tuy nhiên các con đã quyết tử thì sư phụ củng không biết phải nói sao!

Mai-Lục lại nói vọng xuống:

– Kị mã chỉ còn cách có hai dặm. Đuốc cháy hết. Cứ ba kỵ mã có một người cầm đuốc.

Đến đây kỵ binh bắt đầu đi vào trận địa phục kích.

Dương Minh cầm tù và chuẩn bị. Mộc-tồn hòa thượng chỉ vào viên tướng kỵ mã đi đầu nói nhỏ vào tai Lý Lục:

– Cái tên đi đầu kia là Vương Mẫn, y thống lĩnh đoàn kị mã này. Sư phụ sẽ giết chết y, để chúng không có người chỉ huy.

Khi thấy đoàn kỵ binh hoàn toàn lọt hoàn toàn vào trận địa phục kích, Dương Minh cầm tù và rúc lên: Tuu...u. Tú..u...u.

Thiên-tử binh cùng giật dây chăng ngang đường. Ngựa vướng dây ngã lăn ra, chúng hí lên inh ỏi, hắt kị mã xuống ngựa. Các cao thủ lao lên trước, mỗi chiêu phát ra, một viên chỉ huy kỵ binh bị đánh tan xác. Thiên-tử binh rời chỗ nấp, vũ khí vung lên phập, phập, phập... Bao nhiêu kĩ mã ngã ngựa bị giết. Phân nửa kỵ mã không bị ngã, chúng la hét vang dội, thúc ngựa lao vào hàng ngũ quân Việt. Quân Việt lăn xuống đất, dùng vũ khí chặt chân ngựa. Cuộc chiến diễn ra trong bóng đêm. Quân Việt cứ nằm sát mặt đất, hễ thấy người ngồi trên ngựa là vọt dậy chém ngã.

Dương Minh, Phương-Cúc tuy bị thương nặng, nhưng trách nhiệm của chúa tướng khiến hai người vẫn lên mình ngựa chỉ huy quân.

Đoàn kỵ mã đi sau thấy đoàn trước trúng phục binh thì đốt đuốc lên, rồi dàn trận xông vào. Từ chiều, Thiên-tử binh phải lặn lội, xung sát trong đêm, bây giờ phải chiến đấu trong địa thế bất lợi, khí thế giảm rất nhiều. Hơn nữa họ phải đối đầu với đoàn kị binh đông gấp hai mình, nên trong khoảnh khắc, trận Việt bị cắt làm ba làm bốn.

Môïc-tồn hoà thượng, Viên-Chiếu, Phụ-Quốc, Bảo-Dân ra sức xung sát, nhưng cũng không cản được thế như núi lở băng tan của kị binh.

Giữa lúc quân Việt lâm thế tuyệt vọng, thì từ phía bờ sông Cầu, một đội binh rất hùng tráng đang cầm đuốc tiến tới. Dương Minh nhận ra đó là thủy quân của hạm đội Bạch-đằng, Thần-phù. Hai đô đốc Trần An, Trần Hải dẫn đầu hai đội quân. Cạnh đó là Trần Trung-Đạo. Hai đạo quân dàn ra mau chóng bao vây lấy khu trận địa. Thủy quân vây tròn kị binh lại. Trận chiến thực kinh khủng: Ở trong cùng là hiệu Long-dực bị kỵ binh vây; vòng ngoài thủy quân vây kị binh. Trận chiến kéo dài hơn hai khắc, thì tất cả kỵ binh Tống đều bị hạ.

Chiến trường trở lại yên tĩnh.

Đô đốc Trần An nói với Trần Phụ-Quốc:

– Biết rằng quân nhà bị kỵ mã tấn công, nhưng trong đêm tối cháu không dám cho thủy quân lên bờ tiếp viện. Mới đây, U-bon vương cho người báo rằng, sau trận chiến, các hiệu Đằng-hải, Hùng-lược, Vạn-tiệp tổn thất không làm bao. Vậy phụ thân cháu cho đổ bộ thủy quân đánh vào sau lưng địch cứu viện cho Dương Minh, Phương-Cúc. Chúng cháu lại nhận được thư cầu cứu của Dương Minh... Chúng cháu cho thủy quân tiến đến đây cứu viện. Cũng may vừa kịp.

Chiến trường được thu dọn mau chóng. Thủy quân giúp Thiên-tử binh mang thương binh, tử sĩ về doanh trại ở chân núi Nham-biền.

Sau cuộc xung sát, máu ở vết thương Dương Minh, Phương-Cúc lại ứa ra. Hai vị lảo đảo muốn ngã. Phương-Cúc vẫn còn tỉnh táo. Bà hỏi Mai-Lục:

– Sư tỷ, mình bắt được bao nhiêu ngựa?

– Hai nghìn rưởi con.

Dương Minh thở hổn hen nói với Phương-Cúc:

– Phương-Cúc ơi, em vui lòng chưa? Từ trước đến giờ em hằng lo lắng về đoàn kị mã Tống. Chúng có một vạn hai nghìn ngựa, thì trong trận Cổ-pháp, công chúa Thiên-Ninh dùng thuốc, bắt hơn năm nghìn của Trương Thế-Cự. Năm nghìn của Vương Mẫn thì trong khi đánh Nham-biền chết một phần. Còn lại bị ta giết, bắt hết. Như vậy Quách Quỳ chỉ còn hai nghìn ngựa thì ta không sợ y nữa.

Mộc-tồn hòa thượng vỗ vào vai Dương Minh:

– Con ơi! Quách Quỳ không còn kỵ binh đâu!

– Thưa sư bá, thế hai nghìn quân kị kia của chúng nay ở đâu?

– Ta ẩn trong trại Tống bấy lâu ta biết rõ: Lam chưởng làm chết mất hơn hai nghìn ngựa rồi.

Đoàn người ngựa tiếp tục lên đường hướng về núi Nham-biền.

Chợt Phương-Cúc nói với Dương Minh:

– Anh ơi! Sao em cảm thấy chân tay tê dại thế này?

– Anh cũng vậy.

Phương-Cúc thở hổn hển:

– Sao em thấy người buồn ngủ kỳ lạ. Kìa trên trời đầy chim bay, anh có thấy không? À, không phải, đó là chuồn chồn, châu chấu.

Dương Minh là thầy thuốc, nghe phu nhân nói hầu kinh hãi vì biết đó là triệu chứng của người kiệt lực sắp chết. Hầu bảo thân binh:

– Người... người mau ngừng lại, rồi thỉnh...hai vị đại sư... cho ta.

Mộc-tồn hòa thượng nghe quân báo tình hình bệnh trạng của Dương Minh, Phương-Cúc thì kinh hãi, ngài lạng người đến cầm mạch bà, thì chân tay bà lạnh ngắt, mắt trợn ngược. Dương Minh thấy nét mặt hoảng hốt của Mộc-tồn thì hỏi:

– Sư bá... Phương... Cúc sao rồi!

– Sau khi máu ra nhiều, ta buộc vết thương cho, đáng lẽ Phương-Cúc với cháu phải nằm nghỉ... thì các cháu lại xung sát, nên máu trong người ra hết. Phương-Cúc kiệt sức mà tuẫn quốc rồi.

Dương Minh thở dài, hầu nắm tay Mộc-tồn hòa thượng:

– Sư bá! Sư bá giảng rằng, sau khi chết 100 ngày thì người ta lại đi đầu thai. Nhưng sư bá ơi, trước đây có lần Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt đem truyện đó bàn với tiên nương Bảo-Hòa. Người dạy rằng muốn đầu thai hay không là tự mình. Vì vậy mười hai đứa chúng cháu cương quyết sau khi chết không đầu thai, hồn sẽ quy tụ các tướng sĩ thành lập đội âm binh bảo vệ xã tắc. Sư bá bảo... có nên không?

– Nên chứ. Hoặc giả con có thể tái đầu thai, rồi lại làm tướng giết giặc còn hơn là không đầu thai. Con hiểu không?

Hầu mỉm cười:

– Con lại tái đầu thai làm người Việt.

Không thấy Dương Minh trả lời, ngài hỏi lại:

– Sao con không trả lời sư bá?

Hầu vẫn im lặng. Ngài vội cầm tay hầu, thì hầu đã quá vãng. Đại sư Viên-chiếu đứng cạnh, ngài lẩm nhẫm đọc kinh vãng sinh.

Binh tướng hiệu Long-dực nghe tin chúa tướng cùng phu nhân tuẫn quốc thì bỏ cả hàng ngũ vây xung quanh thi thể hầu với phu nhân khóc lóc thảm thiết,

Ghi chú,

Trung-vũ đại tướng quân, Kính-tâm hầu Dương Minh tuẫn quốc năm 26 tuổi. Phu nhân Hoàng Phương-Cúc tuẫn quốc năm 25 tuổi. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu ban sắc phong cho ngài chức tước như sau: Cao-sơn, Thiên-y, Trung-vũ đại vương. Phu-nhân được phong Trang-hòa quận chúa. Truyền lập đền thờ.

Vì lời nói: Sẽ tái đầu thai làm người Việt, nên ngài là một vị tướng được dân chúng huyền thoại nhiều nhất. Nhiều đến nỗi những ai không tìm hiểu sâu xa sẽ tưởng có nhiều Cao-sơn đại vương khác nhau. Sau 918 năm thăng trầm lịch sử, cho đến nay (1995) tôi còn tìm được chín đền thờ ngài. Mà đáng buồn thay, thần tích chín đền thờ đều không hoàn toàn giống nhau. Đó là đền thờ:

1. Ở ba xã Ôn-cập (làng Gắp), Lạc-yên (làng Khốm), Hoàng-liên (làng Sen), tổng Hoàng-vân. Nay thuộc huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-bắc.

2. Đền thờ ở xã Lương-nhàn, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-hưng.

3. Đền thờ ở phường Đông-tác, huyện Thọ-xương, nay thuộc quận Đống-đa, Hà-nội.

4. Đình thờ ở thôn Điền-niêm, huyện Vĩnh-bảo, nay thuộc Hải-phòng.

5. Đền thờ ở thôn Bất-lự, xã Đại-sơn, huyện Tiên-du nay là huyện Tiên-sơn tỉnh Hà-bắc.

6. Đình thờ ở làng Cung-bái huyện Lục-ngạn, nay là huyện Yên-thế, tỉnh Hà-Bắc.

7. Đình thờ ở làng Đông-lỗ, tổng Đông-lỗ, huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc.

8. Đền thờ ở xã Quỳnh-giản, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương.

9. Đình thờ ở xã Đồng-áng, tổng Hoàng-vân, huyện Hiệp-hòa, tỉnh Hà-Bắc.

Độc giả muốn thâm cứu thêm về tiểu sử ngài, xin đọc bài tựa NQSH, quyển 1, phần 7.2.2.

Dương Minh tuẫn quốc rồi, Lý Lục là phó thống lĩnh thay thế cầm quyền. Ông ra lệnh cho binh sĩ tiếp tục lên đường về căn cứ Nham-biền.

Mai-Lục thấy Mộc-tồn hòa thượng kẹp một người trong nách thì hỏi:

– Sư phụ! Sư phụ bắt giữ ai thế kia?

– Nó là Vương Mẫn, lĩnh chức Vũ-kị Vân-ma thượng tướng quân.

Nói rồi ngài ném y xuống đất cho quân trói lại.

Hơn khắc sau, đoàn người ngựa về đến trại Nham-biền. U-bon vương Lê Văn ra ngoài trại đón vào. Không thấy Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương cùng các tướng Trần Ninh, Ngô Ức, Tạ Duy đâu; Mộc-tồn hòa thượng hỏi U-bon vương:

– Sư đệ, nhị vương với ba đại tướng quân đâu rồi?

U-bon vương cắn chặt hai hàm răng vào nhau, rồi chỉ vào xác mười người đặt nằm dài trên mười cái cáng làm bằng tre:

– Đệ tiếp cứu trễ, nên họ đã tuẫn quốc cả rồi.

Mộc-tồn, Viên-Chiếu, Phụ-Quốc, Bảo-Dân đều rúng động tâm can:

– Sao? Sao họ tuẫn quốc ra sao?

U-bon vương buồn rầu thuật lại...

Trong khi hiệu Long-dực tấn công vào trại Tống, tất cả Lôi-tiễn trực thuộc các hiệu Long-dực, Đằng-hải, Vạn-tiệp, Hùng-lược đều được tập trung vào bốn khu gần trại Tống rồi nã vào doanh đệ nhất, đệ nhị. Chính cuộc nã Lôi-tiễn này, đã làm ta rã hàng ngũ bốn đạo binh triều Tống.

Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương leo lên cây cao gần trại Tống quan sát chiến trường. Giữa lúc cuộc chiến sôi động nhất, thì nhị vương thấy có nhiều tiếng reo hò ở căn cứ Nham-biền vọng lại. Hai vương dương mắt nhìn về, thì một cảnh tượng kinh hồn táng đởm diễn ra: Chiến mã Tống hàng hàng lớp lớp tay cầm đuốc đang tấn công vào phía sau lưng doanh trại của hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp. Quân hai bên đã lẫn vào nhau. Thiên-tử binh đang hết sức chiến đấu với thiết kị. Còn doanh trại của hiệu Đằng-hải nằm trên sườn núi, nên thiết kị Tống chỉ vây ở bên dưới rồi dùng lao phóng lên.

Nhị vương vội tụt xuống, rồi lấy ngựa khẩn trở về trại. Tín-Nghĩa vương vào trại của hiệu Hùng-lược. Trung-Thành vương vào trại của hiệu Đằng-hải. Doanh trại của cả hai hiệu đều bị cắt làm ba, làm bốn khúc.

Tín-Nghĩa vương thấy vương phi Ngọc-Nam đang bị vây bởi năm sáu thiết kị. Cạnh đó, Phương-Dược ngồi dựa lưng vào một tảng đá, phu nhân bị trúng một mũi lao vào hông trái. Còn Ngô Ức tuy bị thương ở ngực trái, nhưng vẫn đứng đốc chiến. Vương rút kiếm lao vào vòng chiến. Chỉ bốn chiêu vương đã đánh dạt được đám thiết kị, rồi cùng vương phi đánh về phía Ngô Ức, bảo vệ cho Ngô điều quân.

Trung-Thành vương bỏ ngựa vọt lên núi, nơi đóng quân của hiệu Đằng-hải. Vương phi Trinh-Dung với Trần Ninh, Ngọc-Hương chia nhau đứng làm ba nơi đốc chiến. Hiệu Đằng-hải núp sau các tảng đá dùng tên bắn vào kị binh Tống. Dưới chân núi, xác kị binh nằm la liệt.

Vương hỏi vương phi:

– Tình hình ra sao?

– Chúng tới bất thình lình, rồi chia làm ba. Hai mũi tấn công hai hiệu Vạn-tiệp, Hùng-lược. Một mũi bao vây không cho hiệu Đằng-hải tiếp cứu đồng đội. Trần Ninh đã cho quân đổ đồi hai ba lần để tiếp cứu hai hiệu kia, mà không phá nổi vòng vây.

Nhìn trận chiến, vương nghĩ rất nhanh:

– Nếu cứ để như vầy thì hai hiệu Vạn-tiệp, Hùng-lược sẽ bị tiêu diệt. Ta phải cho hai hiệu ấy phá vòng vây tiến về đây mới xong.

Vương ra lệnh cho Trần Ninh, Ngọc-Hương:

– Các em truyền binh sĩ chuẩn bị, khi có lệnh thì chọc thủng vòng vây để đón hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp lên.

Nói rồi vương ra hiệu cho đội Lôi-tiễn duy nhất còn lại đóng trên sườn núi. Ba trái Lôi-tiễn xé không gian bay lên không, rồi nổ thành ba trái cầu lửa. Đó là lệnh cho hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp đánh về phía chân núi; hiệu Đằng-hải đổ đồi.

Lập tức ba hiệu binh cùng đổi thế trận, đánh như vũ bão, đội ngũ kị binh bị dạt ra, chỉ hơn khắc sau, hai hiệu Hùng-lượcc, Vạn-tiệp đã tiến tới chân núi. Tín-Nghĩa vương, vương phi Ngọc-Nam, Tạ Duy, Phương-Quế đi đoạn hậu, vừa lùi vừa cản giặc. Hơn nửa khắc nữa cả ba hiệu quân đã dàn ra trấn tại sườn núi. Kị binh bị cung tên bắn ngã nhiều quá phải rút ra xa reo hò.

Quân hai bên gờm nhau, im lặng.

Lý Thất, Mai-Thất là học trò Mộc-tồn hòa thượng, rất giỏi y học. Hai người lại bên Ngô Ức, Phương-Dược xem xét thương thế hai người. Phương-Dược bị trúng một mũi lao vào hông trái, chỉ còn thoi thóp thở. Ngô Ức bị trúng một mũi tên vào ngực phải; tên xuyên trúng phổi. Mai-Thất điểm vào mấy yếu huyệt để cầm máu, trấn thống, rồi lấy ra hai viên thuốc bổ khí nhét vào miệng hai người.

Vương-phi Lê Ngọc-Nam hỏi:

– Còn hy vọng gì không?

-– Lao xuyên thủng dạ dày, tên ngập tới phổi thì dù sư phụ hiện diện cũng bó tay.

Ngô Ức tỉnh dậy trước, thấy vương phi Ngọc-Nam đang nắm tay mình, nước mắt dàn dụa, biết bà chị này vốn nhiều tình cảm, hầu an ủi bà:

– Chị ơi! Chị hãy can đảm lên, giặc dữ đang ở trước mặt. Chị quá thương cảm như vậy thì e mất hết ý chí chiến đấu. Trong trận đánh Nam-giới vương chẳng từng dạy chúng em rằng: « Yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau, mà cùng nhau nhìn về một hướng ». Nay chúng em được chết cho xã tắc thì chính xã tắc là cái hướng của bọn em rồi!

Nguyên Tín-Nghĩa vương nhận lời Khất hòa thượng, chiếu cố đến Tây-hồ thất kiệt. Vì vậy bề ngoài vương phi đối với Tây-hồ thất kiệt là chị em, chứ thực sự phi nuôi, dậy bẩy người như con. Bây giờ thấy hầu sắp chết nằm đó, hỏi sao phi không thương tâm?

Hầu hỏi Mai-Thất:

– Sư tỷ! Sư tỷ có thể vực Phương-Dược lại bên đệ không?

Mai-Thất sẽ bồng Phương-Dược đặt bên hầu. Trong cơn mơ mơ, tỉnh tỉnh, Phương-Dược cất tiếng hát một bài hát bình dân diễn tả tình yêu của đôi lứa thiếu niên. Hầu gượng ngồi dậy, dựa lưng vào Lý Thất; hai tay hầu nắm lấy hai tay phu nhân, rồi nói trong cơn mê loạn:

– Phương-Dược! Em là một tiểu thư ôn nhu, văn nhã, đàn ngọt, hát hay... Thế mà em chịu làm vợ anh, một đứa trẻ mồ côi, vô sở bất chí; một đứa võ phu thô lỗ cộc cằn... Chỉ vì chúng ta cùng một chí hướng. Hôm nay, chúng ta được chết cho xã tắc, thế là chúng ta toại nguyện.

Nói dứt, hầu vung tay rút cái lao trên người phu nhân, rồi rút mũi tên trên ngực mình. Ngọc-Nam, Mai-Thất định cản, nhưng không kịp. Máu từ vết thương vọt ra ngoài; hầu vẫn nắm tay phu nhân, mắt hai người từ từ nhắm lại. Trên môi hầu nở một nụ cười.

Ghi chú,

Định-viễn đại tướng quân, Huệ-tâm hầu Ngô Ức là cháu năm đời vua Ngô Quyền (Quyền sinh Văn, Văn đinh Đức, Đức sinh Tuệ, Tuệ sinh Ức) tuẫn quốc năm 24 tuổi. Phu nhân Quách Phương-Dược là tiểu thư con của đại thần Kiểm-hiệu thái phó, Đồng-bình chương sự, Chính-đức hầu Quách Sĩ-An; tuẫn quốc cũng năm 24 tuổi.

Sau khi hết giặc, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho hầu tước Định-viễn Lôi-thần đại vương. Phu nhân được phong Trang-duệ, Ninh-tĩnh quận chúa. Lại truyền phối thờ ở đền Kê-lạc cùng với tiên vương Ngô tiều.

Trải qua 918 năm thăng trầm của lịch sử với biết bao lớp sóng phế hưng, cho đến nay (1995) đền Kê-lạc vẫn còn tại xã Nghĩa-chế, huyện Tiên-lữ, tỉnh Hưng-yên. Nay là huyện Phù-tiên, tỉnh Hải-hưng. Độc giả muốn thâm cứu thêm về tiểu sử của ngài xin xem bài tựa NQSH quyển 1, mục 7.2.6.

Đâu đó vang lên ba tiếng chiêng lệnh, kỵ binh Tống dạt ra. Từ phía sau, một đội võ sĩ hơn trăm người mặc y phục đen, dẫn đầu bởi ba trung niên nam tử. Ba người này, một người mặc y phục trắng, một người mặc y phục đen, một người mặc y phục xanh. Ba người vọt ngựa tiến lên lên hàng đầu. Thiên-tử binh dương cung nhắm ba người buông tên. Ba người chỉ vung tay một cái, tên bị bay dạt ra, rồi nhấp nhô mấy lần đã tới đầu hàng kị binh Tống.

Người áo trắng lên tiếng:

– Ta muốn gặp hai tên lỏi con Hoằng-Chân, Chiêu-Văn!

Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương, hai vương phi Trinh-Dung, Ngọc-Nam lách mình lên trước hàng quân. Trung-Thành vương cung tay:

– Hậu bối Hoằng-Chân xin tham kiến Li

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.

Bình luận truyện