Năm Tháng Huy Hoàng
Chương 44: Chương 44: Phụ thân (1)
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Cùng lúc đó, ở khoảng sân sau tam tiến trong Liễu phủ, A Diệu đang dồn chặt Cổ Li sát tường, chàng dùng một ngón tay chỉ vào chiếc cổ thon dài của nàng ta, tay kia chàng cầm đoản kiếm: “Tại sao cô lại làm chuyện ti tiện như vậy hả?”
Cổ Li khó thở nhưng vẫn ngang ngạnh nói: “Huynh có gan giết ta à? Đừng vì nhất thời kích động mà phá hủy sự tự do mà huynh muốn.”
A Diệu cười khẩy: “Cô nói đúng, ta thật không có gan giết cô.” Chàng nâng mặt Cổ Li lên, giọng nói không mang theo chút nhiệt độ nào, “Nhưng ta có thể quẹt vài đường trên khuôn mặt xinh đẹp này đấy.”
Chàng dùng đoản kiếm giả vờ vẽ vài chữ trên mặt Cổ Li, ánh mắt chàng sâu thẳm như lòng giếng cổ ngàn năm, khó mà lường được: “Chỉ cần ta làm hai đường kiếm, vốn liếng cô dựa vào gương mặt này để sinh tồn sẽ mất sạch.”
Cổ Li chưa bao giờ nhìn thấy A Diệu như thế này, đôi mắt của huynh ấy đầy dữ dằn và tàn nhẫn, ánh mắt như sói của huynh ấy rất giống với người đó. Thân thể Cổ Li bất giác co rúm lại, một tia sợ hãi lóe lên trong mắt nàng ta. A Diệu không nói nhiều mà thực sự sẽ làm điều đó. Có vẻ như lần này huynh ấy bị dồn ép rồi.
Cổ Li vừa muốn nói điều gì đó, nhưng lại bị ngạt thở và ho một trận liên hồi, mí mắt thì nhướng lên.
A Diệu nới lỏng tay: “Nói đi, vì sao lại làm vậy, đối với cô có lợi ích gì khi làm thế?”
Cổ Li há miệng thở, vừa thở vừa nói: “Đối với ta……tất nhiên……không có lợi ích gì, nhưng ta buộc phải……làm như vậy……”
Đoản kiếm của A Diệu càng ép chặt hơn, chỉ cách mặt nàng ta một chút.
Cổ Li cười khẩy: “Đây là lệnh của ‘người đó’. Sau khi biết Thẩm Cẩm Tú trốn ở đâu, ta nhất định phải sắp xếp một màn như vậy cho các người…...”
Cổ Li không nói tiếp nữa, A Diệu không thể tin được: “Tại sao ông ta lại ra loại mệnh lệnh này?”
“Bởi vì......ngoài Thẩm Cẩm Tú ra, ông ta còn hận một người nữa.”
“Dương Hiến Dung ư? Trước giờ ông ta chưa từng nhìn thấy nàng ấy——”
Cổ Li ngắt lời chàng: “Là Dương Huyền Chi.”
A Diệu sững người và buông tay khỏi cổ nàng ta. Một vệt đỏ đã in hằn trên chiếc cổ mảnh mai của Cổ Li. Nàng ta vuốt cổ cho bớt khó chịu, cười mỉa mai nói: “Một khi huynh hủy hoại con gái của Dương Huyền Chi, đó sẽ là sự trả thù lớn nhất đối với ông ta.”
Thấy chàng sửng sốt đến mức không nói được lời nào, vẻ mặt của Cổ Li bình tĩnh trở lại và tính an ủi chàng: “Phụ thân của huynh——”
Chàng nổi xung thiên cắt ngang lời nàng ta: “Ta không có phụ thân!”
A Diệu sải bước đi mà không ngoái lại. Cổ Li đưa mắt nhìn chàng rời đi và trút ra tiếng thở dài khó nghe thấy. Khi thực hiện mệnh lệnh này, thật ra nàng ta đã ngầm giở chút mánh khóe. Đối với kế hoạch làm hai người hôn mê, nàng ta chỉ cho vào rượu A Diệu ba viên thuốc dởm. Vì Cổ Li biết rằng Dương Hiến Dung am hiểu về y thuật nên đã không dùng thuốc đối với Hiến Dung, để chừa lại cho nàng ấy một con đường sống. Nhìn xem, Cổ Li nàng không hề có lòng gang dạ sắt như huynh ấy vẫn tưởng, chỉ là…...
Nghĩ đến đôi mắt lạnh như sói kia, Cổ Li như chìm vào hồ băng vô tận. Nàng ta vòng tay ôm lấy người và rùng mình một hồi lâu mới hoàn hồn trở lại.
*****
Đêm nay, bầu trời đen đặc đến đáng sợ, ánh trăng nhàn nhạt chiếu trước song cửa sổ, trong phòng không đốt đèn, A Diệu ngồi bất động trong bóng tối. Chàng cầm vỏ đoản kiếm có khảm viên đá ba màu đỏ lục lam, giọng nói lạnh như băng vang vọng bên tai chàng lặp đi lặp lại: “Giết bà ta, giết bà ta…...”
Năm năm trước, chàng và A Lạc đã thề với tiểu cô nương rằng sẽ chăm sóc nàng ấy cả đời. Bây giờ hồi tưởng lại, bọn họ thực sự không biết trời cao đất rộng là gì. Bản thân bọn họ còn không giữ nổi thì làm gì có tư cách bảo vệ nàng ấy? Khi quân Hung Nô giả dạng quân Tấn đến tìm kiếm và tiêu diệt bọn họ, chàng và A Lạc chỉ có thể để lại tiểu cô nương đang bị thương mà chạy thoát thân. May mắn thay, cuối cùng quân Tấn thật sự đã đến, hai người họ chỉ biết nấp vào một gốc cây đứng từ xa nhìn tiểu cô nương được một vị tướng dìu lên xe ngựa cẩn thận.
Những người lính này chủ yếu đến tìm tiểu cô nương và không truy sát bọn họ nữa. Vốn dĩ hai người họ nên thừa cơ trốn đến phía nam mới phải, nhưng chàng lại không yên lòng về tiểu cô nương, chàng muốn tiến vào thành để thăm dò chút tin tức. Mặc dù A Lạc có phần không tình nguyện, song hắn cũng thắp thỏm về tình trạng thương tích của cô nương ấy, nên cuối cùng đã cùng A Diệu trà trộn vào thành.
Cả hai người đều đóng giả như những đứa trẻ ăn xin đi lang thang trong nội thành. Nhìn thấy quầy bán bánh mì dẹt nướng nóng hổi, hai người từ sáng đã không ăn gì nên không khỏi đói bụng. Vì quân Tấn đột ngột đến truy lùng nên cả hai không kịp phòng thân thứ gì, những chiếc bánh mì dẹt đều bị A Lạc bỏ lại trong ngôi miếu đó. Trong tay áo của A Diệu vẫn còn sót lại một ít tiền đồng, là phần tiền thừa lại sau khi A Lạc đã bán cây trâm cài để đổi lấy thuốc cho A Diệu. A Diệu cầm tiền bước đến quầy bánh, người bán hàng định đưa bánh cho cậu, nhưng A Diệu lại xua tay không cầm lấy: “Vị đại ca này, huynh cầm lấy số tiền này đi và cho ta hỏi một chuyện thôi.”
A Lạc trợn mắt, giọng cao vút tận trời: “Đệ có biết đây là chút tài sản cuối cùng của hai ta không hả?”
A Diệu hỏi người bán hàng: “Trong thành Tấn Dương này có nhà quý tộc nào họ Dương không?” Cậu chỉ vào cây dương bên đường, “Là họ Dương này.”
“Có vài gia tộc quyền quý mang họ Dương đấy.” Người bán hàng lúc lắc đầu đếm đầu ngón tay nói cho cậu nghe, “Trong thành này có phú hộ giàu nhất là Dương Cửu, phía trước bên trái thì có nhà Dương Kiến. À đúng rồi, còn có một gia tộc họ Dương có bề dày lịch sử trong thành Tấn Dương này nữa, hoàn cảnh gia đình ông ta hơi éo le một chút.”
“Vậy có nhà nào có phu nhân biết y thuật không?”
Người bán hàng suy nghĩ một lúc: “Vậy thì chỉ có—”
Đáng tiếc là người bán hàng chưa kịp nói hết câu thì trước mắt A Diệu đã tối sầm và bất tỉnh. Không biết qua bao lâu, cậu mới tỉnh lại, nhưng trước mắt là một màn đen kịt, A Diệu không biết mình đang ở đâu, chỉ cảm thấy mặt đất lạnh giá, cổ cậu bị khóa chặt bởi một sợi xích sắt! Cậu lần mò theo sợi xích sắt và cảm thấy mình bị khóa chặt vào một cái cột. Cậu lớn tiếng gọi A Lạc, thế nhưng xung quanh cậu không có tiếng đáp lại, bốn bề đều tĩnh lặng.
Vết thương ở thắt lưng đau rát, cả người A Diệu nóng bừng, ngay lúc này, nỗi sợ hãi không nói nên lời bao trùm khắp người cậu. Thật sự A Diệu không nên chạy trốn. Dù bị thương hay bị xử tử cậu cũng không sợ. Cậu chỉ sợ sẽ bỏ lại Linh Nhi và cũng sẽ liên lụy đến tiểu cô nương vô tội bị mất một mắt ấy. A Diệu ngã trên nền đất lạnh lẽo, thân thể cậu nóng rực không thể hạ nhiệt, cả người cứ run lên cầm cập.
Tiếng bước chân xa gần vang lên trong bóng đêm. Ánh lửa sáng xuyên qua tấm rèm cửa đã mở. Vì mắt A Diệu ở trong bóng tối quá lâu nên khi gặp ánh sáng cậu vội vàng nheo mắt lại, một lúc lâu sau mới thích ứng được, cậu chậm rãi mở mắt ra nhìn xung quanh. A Diệu lập tức nhận ra cậu đang ở trong một lều vải lớn như doanh trại, nó không giống với nơi cậu từng ở. Nơi này có chăn màn gối đệm dày, đồ dùng thì tinh xảo đẹp đẽ và cách bố trí cũng sang trọng hơn nhiều so với nơi cậu từng ở khi trước.
Tiếng bước chân không nhanh không chậm từ từ tiến đến gần, vững vàng và mạnh mẽ xen lẫn với tiếng đuốc bập bùng. Một đôi ủng da sói xuất hiện trong tầm mắt, mắt cậu dịch chuyển đến chiếc áo choàng lông to lớn, nó được phối hoàn toàn ăn khớp với chiếc áo cẩm bào bằng gấm màu tím sẫm bên trong, nhìn bộ trang phục sẫm màu vừa dày vừa nặng này càng làm cho đôi mắt lang sói đó đằng đằng sát khí, tựa như có tia sáng xanh kỳ lạ xuất hiện trong bóng tối.
Người này có gò má cao vút, lông mày dài rậm như mũi tên, ngũ quan mạnh mẽ như được đúc gọt, khiến người nhìn phải lạnh sống lưng, A Diệu cũng không xa lạ gì gương mặt này. Trong lòng cậu sợ hãi, chật vật chống đỡ thân thể để cúi lạy, cậu run giọng kêu lên một tiếng: “Đại Thiền Vu……”
Đứng trước A Diệu là một trong năm thủ lĩnh của tộc Hung Nô, là bộ tộc định cư ở khu vực Hà Sáo. Vào thời Tây Hán, đại tổ tiên Lưu Bang đã gả nữ nhi trong tộc cho thủ lĩnh Hung Nô là Mặc Đốn Thiền Vu, đồng thời hứa hẹn với Mặc Đốn Thiền Vu làm huynh đệ với nhau. Từ đó về sau, các hậu duệ của Mặc Đốn Thiền Vu đều lấy họ Lưu làm họ của mình. Trước mặt A Diệu chính là Đại Thiền Vu được người người kính sợ, ông ta mang họ tên của người Hán - Lưu Uyên.
“Ngươi có biết tại sao ta phải bắt ngươi về không?”
Là gia nô của Đại Thiền Vu, A Diệu đã từng quỳ gối trước ông ta vô số lần, nhưng chưa bao giờ có dịp nói chuyện riêng với ông ta. Cả người A Diệu run lên, cậu không thể trả lời được, thân thể ngày càng phát run hơn.
Ông ta vung tay, người bên cạnh liền tiến đến tháo sợi xích sắt cho A Diệu. Ông ta khua tay lần nữa và người đó thinh lặng rời đi. Trong lều lớn, chỉ còn lại Đại Thiền Vu, người ở trên vạn người cùng với tiểu nô lệ nhỏ bé hèn mọn.
Ngọn đuốc cắm trên cây cột phát ra âm thanh nho nhỏ, Đại Thiền Vu cúi đầu nhìn A Diệu đang run rẩy hồi lâu. Đôi bàn tay ông ta chắp sau lưng, giọng nói vẫn trước sau như một, vẫn lạnh giá như băng: “Bởi vì……ngươi là con trai ta……”
Một cơn đau nhói dữ dội xuyên thẳng vào lồng ngực, thân thể của A Diệu như bị cắt làm đôi bởi câu nói này. Trái tim cậu giống như bị một con dao cùn đâm thẳng vào khiến cậu đau buốt, nhưng khi nghe điều này chỉ càng làm cậu buồn cười hơn. A Diệu sống đến giờ đã mười lăm tuổi, đây hẳn là câu chuyện mắc cười nhất mà cậu từng nghe được. Từ nhỏ cho đến lớn, người ta nói rằng, cậu và Linh Nhi đều là trẻ mồ côi, thậm chí cậu còn không biết tên của phụ mẫu mình. Bọn họ còn nói, vì cậu là người Hán nên mới bị bắt làm nô dịch cho người Hung Nô. Một tiểu nô lệ người Hán lại có thể là con của Đại Thiền Vu Hung Nô, há chẳng phải trời cao đang trêu đùa cậu sao? Điều tức cười nhất là cậu lại trở thành nô lệ trong cái gia tộc của người tự nhận là cha cậu, A Diệu đã phải hầu hạ cho người con trưởng của ông ta, tên hắn ta là Lưu Hòa, người này vốn có tâm địa xảo trá, còn thêm người con trai thứ hai là Lưu Thông, tính tình thì hung ác và ngang ngược. Nếu những gì Đại thiền vu nói là đúng, chẳng phải một người con trai như cậu lại đi phục dịch cho hai người con trai kia sao? Cùng là con trai, sao ông ta lại đối xử bất công như vậy?
A Diệu phát run giống như lên cơn sốt, cậu hỏi: “Thế còn Linh Nhi……”
Lưu Uyên gật đầu, bình tĩnh đáp: “Nó cũng là con gái của ta.”
A Diệu chỉ cảm thấy máu huyết toàn thân như trào dâng, muốn phun ra khỏi cổ họng. Từ nhỏ đến lớn, cậu và Linh Nhi đã phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ. Chưa kể việc thiếu ăn, thiếu mặc, bọn họ còn bị Lưu Thông đánh đến tét đầu chảy máu, khắp người đều bầm tím. Linh Nhi thì hầu hạ cho hoàng hậu Hô Diên, mặc dù hoàng hậu không đối xử quá tệ với muội ấy, nhưng Linh Nhi lại thường hay ốm yếu, bệnh tật, quanh năm phải uống thuốc. Là một ca ca, cậu phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc muội ấy. A Diệu đã cầu xin Lưu Hòa cho phép cậu tòng quân, chỉ vì Lưu Hòa nói với cậu rằng, nếu như cậu lập công trạng, cậu sẽ không còn làm nô lệ nữa và có thể tranh đấu vì một tương lai tốt đẹp hơn cho Linh Nhi. Cậu đã cố gắng rất nhiều để thoát khỏi thân phận hèn mọn này, nhưng người trước mặt đây lại bảo, thật ra cậu là một quý tử ngậm thìa vàng.
A Diệu cố kìm nén dòng máu tanh ở cổ họng và hỏi một cách khó khăn: “Việc này…...tại sao lại như vậy?”
Sắc mặt Lưu Uyên không có một chút biểu tình, giọng nói lạnh như hầm băng: “Ngươi không cần biết nguyên nhân, ta chỉ hỏi ngươi, ngươi có muốn thoát khỏi thân phận nô lệ này không?”
A Diệu rốt cuộc không nhịn được nhếch mép, ngước mắt lên nhìn Lưu Uyên, cậu cố gắng hết sức để làm cho giọng nói của mình bình tĩnh: “Vậy là Đại Thiền Vu muốn nhận tại hạ và Linh Nhi?”
Lưu Uyên lắc đầu: “Ta sinh được nhiều con, cũng không cần ngươi cùng một đứa con gái ốm yếu. Các ngươi chỉ là thứ rác rưởi vô dụng mà ta kiếm được từ cơn vui sướng nhất thời mà thôi.”
A Diệu phẫn hận đến không thể tả nổi, cậu vừa mở miệng đã nôn ra ngụm máu. Hổ dữ vẫn không ăn thịt con, chính xác thì trái tim của người này làm bằng gì? Nhìn thấy máu rơi từng giọt trên quần áo của mình, thấm cả một mảng lớn, A Diệu cũng từ từ bình tĩnh lại. Cậu nhớ lại một việc mà cậu đã từng chứng kiến khi ra chiến trường lần đầu tiên.
Là lúc quân Hung Nô bao vây thành Tấn Dương và chuẩn bị phát lệnh tấn công vào thành, tiếng trống đánh vang dội, gió thổi những lá cờ bay phấp phới, còn cậu thì đứng tuyến đầu, không áo giáp, không mũ sắt chờ lệnh xông lên. Một đội quân đang cầm cung đứng xếp hàng ở lầu trên tường thành Tấn Dương, những chiếc cung tên lạnh giá đó đang hướng về phía bọn họ và thậm chí cậu có thể nhìn thấy sự sợ hãi trong ánh mắt của quân Tấn giống như nỗi sợ của cậu. Không xa phía sau cậu, người ngồi trên lưng Hãn Huyết Bảo Mã đẹp đẽ kia, chính là thủ lĩnh của bọn họ: Đại Thiền Vu Lưu Uyên.
Tiếng kèn vang lên trên tường thành Tấn Dương, một nhóm quân Tấn vội vã áp giải người nào đó hướng về toà tháp trên cổng thành, vị võ tướng dẫn đầu mặc áo giáp kín hết người, đứng bên này hét lớn: “Lưu Uyên, ngươi xem kẻ này là ai đi!”
Kẻ bị áp giải là một tên trắng trẻo, mập mạp, trên người hắn ta đang mặc chiếc áo bào của người Hán, hai tay thì bị trói sau lưng, vẻ mặt hoảng sợ, lớn tiếng kêu khóc: “Phụ thân, phụ thân là con đây!”
Lưu Uyên đột nhiên phi ngựa tiến về phía trước, tiến đến hàng đầu của đoàn quân, ngay bên cạnh A Diệu. Những binh sĩ thấp hèn như A Diệu phải vội vàng lùi lại để nhường đường cho ông ta. Đi phía sau Lưu Uyên là một vài tướng lĩnh Hung Nô cầm khiên để bảo vệ.
Lưu Uyên cẩn thận xác nhận, hướng đến người thiếu niên đang gào khóc đó hét lớn: “Hạ Nhi……”
Người thiếu niên mũm mĩm từ trong trạng thái ủ rủ liền bừng tỉnh, phấn chấn rướn người về phía trước và la lớn với Lưu Uyên: “Phụ thân, cứu con!”
Tướng quân bên nước Tấn kéo Lưu Hạ lại khỏi tầm mũi tên và hét lớn với thiên binh vạn mã đứng dưới thành: “Lưu Uyên, nếu ngươi muốn cứu con mình thì phải lui binh ngay lập tức, bệ hạ vẫn sẽ xem xét ban thưởng cho tộc người Hồ như trước, sẽ để cho các ngươi có cơm ăn áo mặc. Nếu ngươi nhất quyết mê muội không biết hối cải, cứ phải chống lại triều đình……” Hắn đột nhiên rút dao kề mạnh vào cổ Lưu Hạ.
Lưu Hạ tái xanh mặt vì sợ hãi, hắn ta run lên như cầy sấy, khóc lóc kêu gào khản cả cổ: “Phụ thân, cứu con, Hạ Nhi không muốn chết!”
Lưu Uyên nhìn chằm chằm người con trai nhút nhát không chút dũng khí trên tường thành kia, hai mắt ông ta như muốn bùng lên tia lửa: “Hạ Nhi, ngươi đứng thẳng lên cho ta, đừng làm mất mặt tộc người Hồ chúng ta.”
Có vẻ như Lưu Hạ nghe không hiểu nên lại hét lên kêu Lưu Uyên cứu mình. Vị tướng lĩnh bên cạnh Lưu Uyên cẩn thận nói: “Đại Thiền Vu, hay là tạm thời rút quân thôi.”
Lưu Uyên vung roi đánh vào mặt vị tướng quân đó. Người này cắn răng chịu đựng cơn đau trách phạt, song vẫn không dám quay đầu né tránh. Lưu Uyên giận tím mặt, nén hơi thở như vò rượu được ủ trước cơn bão rồi cất giọng ra lệnh khiến mọi người sởn cả tóc gáy: “Không được phép rút lui!” Hai mắt Lưu Uyên lóe lên tia sáng rét lạnh thấu xương, ông ta cầm roi ngựa chỉ vào Lưu Hạ trên tường thành, “Đứa con trai này của ta bị người Hán nuôi dưỡng đến vô dụng rồi, đây chính là điều bọn họ muốn đấy!”
Không một ai dám phát ra tiếng, hết thảy mọi người đều im lặng chờ ông ta ra lệnh.
Lưu Uyên nhìn về nơi cao của thành lũy với ngọn lửa âm ỉ bùng cháy trong đáy mắt. Bị ánh mắt như vậy nhìn chằm chằm, những kẻ có lá gan nhỏ cũng sẽ run cầm cập không ngớt và toát hết mồ hôi hột. Ông ta hét lên như một lời tuyên bố: “Những người trong thị tộc bọn ta đã bị các ngươi triệu tập từ năm này qua năm khác, đàn bà và trẻ con thì bị bắt làm nô dịch đến suốt đời. Bọn ta cũng đã giao nộp những chiến mã và lông thú tốt nhất, nhưng lại trông giống những kẻ ăn xin chờ đợi các ngươi bố thí để đổi lấy trà và muối ăn. Các ngươi đã nhốt bọn ta trong cái lạnh buốt giá và nghèo đói bên ngoài phía bắc Trường Thành, còn thường xuyên đe dọa ngừng qua lại buôn bán, đóng cửa thành và bỏ đói bọn ta cho đến chết. Khi cả tộc bọn ta phải hứng chịu thiên tai và nạn đói, quan đại thần và hạ thần các ngươi đã siết chặt việc đánh thuế, thậm chí còn ra sức bốc lột lao dịch một cách hung ác tàn nhẫn. Tổ tiên của bọn ta cũng là những bậc hào kiệt của trời, dựa vào đâu mà hàng trăm năm nay bọn ta bị các ngươi ép phải hạ mình và bị những tên tham quan các ngươi bắt làm nô dịch?”
Những câu nói đầy dõng dạc hùng hồn này đã khơi dậy khí huyết của hàng vạn quân Hung Nô và binh lính phía sau họ, các tướng sĩ kích động giơ cao tay không ngừng hò reo tới tấp, rung chuyển cả đất trời.
Vị tướng quân người Hán ở trên tường thành không khỏi hoảng sợ, quát to: “Tên phản tặc nhà ngươi vẫn nhất quyết không muốn hối cải, vậy thì đừng trách bọn ta!”
Lưu Uyên không đáp lời, đột nhiên duỗi tay đoạt lấy cung tên trên vai tướng lĩnh. Cây cung cực kỳ nặng, nhưng ông ta lại kéo lấy chỉ trong chớp mắt. Trông thấy Lưu Uyên giương cung lên, ngoài Lưu Hạ ra thì tất cả quân lính trên tường thành đều né tránh. Vì Lưu Hạ đang tràn đầy hy vọng và tha thiết mong chờ vào phụ thân của hắn.
Lưu Uyên hít sâu một hơi, trầm ngâm nhìn Lưu Hạ một lần nữa rồi lập tức nhắm mắt lại. Mũi tên vút bay bắn về phía ngọn tháp, xuyên qua chính xác ngực của Lưu Hạ. Lưu Hạ sửng sốt, trợn to hai mắt, hắn ta không thể nào tin được, cúi đầu nhìn xuống mũi tên trên ngực mình, sau đó lại nhìn về phía người phụ thân vô cảm đang đứng ở dưới tường thành. Khi phụ thân bỏ hắn ta ở Lạc Dương để làm con mồi, hắn ta chỉ mới mười hai tuổi và đã không gặp phụ thân của mình trong suốt mười lăm năm. Trong mười lăm năm qua, hắn ta có cuộc sống khá tốt ở Lạc Dương, từ chi tiêu ăn mặc hay nữ nhân để chơi đùa đều không thiếu thứ gì. Lưu Hạ thậm chí không muốn trở lại Hung Nô và không muốn hứng chịu sương gió bên ngoài phía bắc Trường Thành kia nữa. Nhưng kỳ thật hắn ta vẫn luôn nhớ đến phụ thân. Song không ngờ khi gặp lại, đây lại là số mệnh của hắn ta.
Lưu Hạ ngã xuống, thân thể giãy dụa, từ đầu đến cuối hai mắt hắn ta đều trợn trừng, hắn ta không tin đến khi chết lại phải chết dưới tay phụ thân mình. Những binh lính nhà Tấn đứng bên cạnh Lưu Hạ đều nhất mực lùi lại, đầy sợ hãi đối với tên Thiền Vu Hung Nô này. Về phía quân Hung Nô, hết thảy đều im lặng.
Nhớ lại cảnh tượng thảm thương đã từng chứng kiến, Lưu Diệu chỉ cảm thấy đầy sự thê lương. Đại Thiền Vu còn có thể tự tay bắn chết con trai mình, thì làm sao cậu có thể mong đợi ông ta sẽ yêu thương cốt nhục tình thân? Ông ta để con mình làm nô lệ hơn mười năm dưới mí mắt thì có là gì, vẫn để chúng tiếp tục làm nô lệ hết cả cuộc đời cũng là chuyện hiển nhiên. Sự vinh nhục của con cái chỉ nằm trong một ý niệm duy nhất của Đại Thiền Vu, một khi ý niệm này được đưa ra sẽ quyết định thay đổi toàn cục.
Lưu Uyên nhìn A Diệu như thể đang nhìn thú săn nhốt trong lồng: “Trên đời này không có bữa ăn nào cho không. Ngươi muốn có được thân phận tốt đẹp này thì buộc phải trả giá.”
A Diệu nuốt mạnh ngụm máu trong miệng, cậu nhìn thẳng vào người trước giờ chưa từng dám nhìn thẳng: “Đại Thiền Vu muốn tại hạ làm gì?”
“Ngươi đi giết người nữ kia cho ta.” Lưu Uyên ném đoản kiếm dưới chân, trong mắt ông ta lóe lên tia trả thù đầy khoái trá, “Giết bà ta xong, ta sẽ thừa nhận ngươi......”
*****
*Chú thích:
- Họ Dương của Hiến Dung là đây: (羊), cũng chính là chữ Dương trong con dê, thế nên trong truyện có cảnh miêu tả trang phục của nhà họ Dương có thêu hình con dê trên ống tay áo là vậy đó. Còn A Diệu tìm "tiểu cô nương" mang họ Dương, thì là chữ (杨) này, trong từ cây dương. (😌)
- Hà Sáo: là khu vực sông Hoàng uốn lượn ở tỉnh Ninh Hạ và Thiểm Tây, cùng vùng núi Hạ Lan Sơn, Lang Sơn và ĐạiThanh Sơn, Trung Quốc.
- Tây Hán; tiền Hán: triều đại Trung Quốc, từ năm 206 trước Công Nguyên đến năm năm 25 Công Nguyên.
- Hãn Huyết Bảo Mã: là giống ngựa có mồ hôi đỏ như máu, dai sức và khỏe tuyệt trần. (Mọi người muốn biết rõ hơn nguồn gốc của giống ngựa này thì lên google đọc được nhiều hơn nhé!)
Cùng lúc đó, ở khoảng sân sau tam tiến trong Liễu phủ, A Diệu đang dồn chặt Cổ Li sát tường, chàng dùng một ngón tay chỉ vào chiếc cổ thon dài của nàng ta, tay kia chàng cầm đoản kiếm: “Tại sao cô lại làm chuyện ti tiện như vậy hả?”
Cổ Li khó thở nhưng vẫn ngang ngạnh nói: “Huynh có gan giết ta à? Đừng vì nhất thời kích động mà phá hủy sự tự do mà huynh muốn.”
A Diệu cười khẩy: “Cô nói đúng, ta thật không có gan giết cô.” Chàng nâng mặt Cổ Li lên, giọng nói không mang theo chút nhiệt độ nào, “Nhưng ta có thể quẹt vài đường trên khuôn mặt xinh đẹp này đấy.”
Chàng dùng đoản kiếm giả vờ vẽ vài chữ trên mặt Cổ Li, ánh mắt chàng sâu thẳm như lòng giếng cổ ngàn năm, khó mà lường được: “Chỉ cần ta làm hai đường kiếm, vốn liếng cô dựa vào gương mặt này để sinh tồn sẽ mất sạch.”
Cổ Li chưa bao giờ nhìn thấy A Diệu như thế này, đôi mắt của huynh ấy đầy dữ dằn và tàn nhẫn, ánh mắt như sói của huynh ấy rất giống với người đó. Thân thể Cổ Li bất giác co rúm lại, một tia sợ hãi lóe lên trong mắt nàng ta. A Diệu không nói nhiều mà thực sự sẽ làm điều đó. Có vẻ như lần này huynh ấy bị dồn ép rồi.
Cổ Li vừa muốn nói điều gì đó, nhưng lại bị ngạt thở và ho một trận liên hồi, mí mắt thì nhướng lên.
A Diệu nới lỏng tay: “Nói đi, vì sao lại làm vậy, đối với cô có lợi ích gì khi làm thế?”
Cổ Li há miệng thở, vừa thở vừa nói: “Đối với ta……tất nhiên……không có lợi ích gì, nhưng ta buộc phải……làm như vậy……”
Đoản kiếm của A Diệu càng ép chặt hơn, chỉ cách mặt nàng ta một chút.
Cổ Li cười khẩy: “Đây là lệnh của ‘người đó’. Sau khi biết Thẩm Cẩm Tú trốn ở đâu, ta nhất định phải sắp xếp một màn như vậy cho các người…...”
Cổ Li không nói tiếp nữa, A Diệu không thể tin được: “Tại sao ông ta lại ra loại mệnh lệnh này?”
“Bởi vì......ngoài Thẩm Cẩm Tú ra, ông ta còn hận một người nữa.”
“Dương Hiến Dung ư? Trước giờ ông ta chưa từng nhìn thấy nàng ấy——”
Cổ Li ngắt lời chàng: “Là Dương Huyền Chi.”
A Diệu sững người và buông tay khỏi cổ nàng ta. Một vệt đỏ đã in hằn trên chiếc cổ mảnh mai của Cổ Li. Nàng ta vuốt cổ cho bớt khó chịu, cười mỉa mai nói: “Một khi huynh hủy hoại con gái của Dương Huyền Chi, đó sẽ là sự trả thù lớn nhất đối với ông ta.”
Thấy chàng sửng sốt đến mức không nói được lời nào, vẻ mặt của Cổ Li bình tĩnh trở lại và tính an ủi chàng: “Phụ thân của huynh——”
Chàng nổi xung thiên cắt ngang lời nàng ta: “Ta không có phụ thân!”
A Diệu sải bước đi mà không ngoái lại. Cổ Li đưa mắt nhìn chàng rời đi và trút ra tiếng thở dài khó nghe thấy. Khi thực hiện mệnh lệnh này, thật ra nàng ta đã ngầm giở chút mánh khóe. Đối với kế hoạch làm hai người hôn mê, nàng ta chỉ cho vào rượu A Diệu ba viên thuốc dởm. Vì Cổ Li biết rằng Dương Hiến Dung am hiểu về y thuật nên đã không dùng thuốc đối với Hiến Dung, để chừa lại cho nàng ấy một con đường sống. Nhìn xem, Cổ Li nàng không hề có lòng gang dạ sắt như huynh ấy vẫn tưởng, chỉ là…...
Nghĩ đến đôi mắt lạnh như sói kia, Cổ Li như chìm vào hồ băng vô tận. Nàng ta vòng tay ôm lấy người và rùng mình một hồi lâu mới hoàn hồn trở lại.
*****
Đêm nay, bầu trời đen đặc đến đáng sợ, ánh trăng nhàn nhạt chiếu trước song cửa sổ, trong phòng không đốt đèn, A Diệu ngồi bất động trong bóng tối. Chàng cầm vỏ đoản kiếm có khảm viên đá ba màu đỏ lục lam, giọng nói lạnh như băng vang vọng bên tai chàng lặp đi lặp lại: “Giết bà ta, giết bà ta…...”
Năm năm trước, chàng và A Lạc đã thề với tiểu cô nương rằng sẽ chăm sóc nàng ấy cả đời. Bây giờ hồi tưởng lại, bọn họ thực sự không biết trời cao đất rộng là gì. Bản thân bọn họ còn không giữ nổi thì làm gì có tư cách bảo vệ nàng ấy? Khi quân Hung Nô giả dạng quân Tấn đến tìm kiếm và tiêu diệt bọn họ, chàng và A Lạc chỉ có thể để lại tiểu cô nương đang bị thương mà chạy thoát thân. May mắn thay, cuối cùng quân Tấn thật sự đã đến, hai người họ chỉ biết nấp vào một gốc cây đứng từ xa nhìn tiểu cô nương được một vị tướng dìu lên xe ngựa cẩn thận.
Những người lính này chủ yếu đến tìm tiểu cô nương và không truy sát bọn họ nữa. Vốn dĩ hai người họ nên thừa cơ trốn đến phía nam mới phải, nhưng chàng lại không yên lòng về tiểu cô nương, chàng muốn tiến vào thành để thăm dò chút tin tức. Mặc dù A Lạc có phần không tình nguyện, song hắn cũng thắp thỏm về tình trạng thương tích của cô nương ấy, nên cuối cùng đã cùng A Diệu trà trộn vào thành.
Cả hai người đều đóng giả như những đứa trẻ ăn xin đi lang thang trong nội thành. Nhìn thấy quầy bán bánh mì dẹt nướng nóng hổi, hai người từ sáng đã không ăn gì nên không khỏi đói bụng. Vì quân Tấn đột ngột đến truy lùng nên cả hai không kịp phòng thân thứ gì, những chiếc bánh mì dẹt đều bị A Lạc bỏ lại trong ngôi miếu đó. Trong tay áo của A Diệu vẫn còn sót lại một ít tiền đồng, là phần tiền thừa lại sau khi A Lạc đã bán cây trâm cài để đổi lấy thuốc cho A Diệu. A Diệu cầm tiền bước đến quầy bánh, người bán hàng định đưa bánh cho cậu, nhưng A Diệu lại xua tay không cầm lấy: “Vị đại ca này, huynh cầm lấy số tiền này đi và cho ta hỏi một chuyện thôi.”
A Lạc trợn mắt, giọng cao vút tận trời: “Đệ có biết đây là chút tài sản cuối cùng của hai ta không hả?”
A Diệu hỏi người bán hàng: “Trong thành Tấn Dương này có nhà quý tộc nào họ Dương không?” Cậu chỉ vào cây dương bên đường, “Là họ Dương này.”
“Có vài gia tộc quyền quý mang họ Dương đấy.” Người bán hàng lúc lắc đầu đếm đầu ngón tay nói cho cậu nghe, “Trong thành này có phú hộ giàu nhất là Dương Cửu, phía trước bên trái thì có nhà Dương Kiến. À đúng rồi, còn có một gia tộc họ Dương có bề dày lịch sử trong thành Tấn Dương này nữa, hoàn cảnh gia đình ông ta hơi éo le một chút.”
“Vậy có nhà nào có phu nhân biết y thuật không?”
Người bán hàng suy nghĩ một lúc: “Vậy thì chỉ có—”
Đáng tiếc là người bán hàng chưa kịp nói hết câu thì trước mắt A Diệu đã tối sầm và bất tỉnh. Không biết qua bao lâu, cậu mới tỉnh lại, nhưng trước mắt là một màn đen kịt, A Diệu không biết mình đang ở đâu, chỉ cảm thấy mặt đất lạnh giá, cổ cậu bị khóa chặt bởi một sợi xích sắt! Cậu lần mò theo sợi xích sắt và cảm thấy mình bị khóa chặt vào một cái cột. Cậu lớn tiếng gọi A Lạc, thế nhưng xung quanh cậu không có tiếng đáp lại, bốn bề đều tĩnh lặng.
Vết thương ở thắt lưng đau rát, cả người A Diệu nóng bừng, ngay lúc này, nỗi sợ hãi không nói nên lời bao trùm khắp người cậu. Thật sự A Diệu không nên chạy trốn. Dù bị thương hay bị xử tử cậu cũng không sợ. Cậu chỉ sợ sẽ bỏ lại Linh Nhi và cũng sẽ liên lụy đến tiểu cô nương vô tội bị mất một mắt ấy. A Diệu ngã trên nền đất lạnh lẽo, thân thể cậu nóng rực không thể hạ nhiệt, cả người cứ run lên cầm cập.
Tiếng bước chân xa gần vang lên trong bóng đêm. Ánh lửa sáng xuyên qua tấm rèm cửa đã mở. Vì mắt A Diệu ở trong bóng tối quá lâu nên khi gặp ánh sáng cậu vội vàng nheo mắt lại, một lúc lâu sau mới thích ứng được, cậu chậm rãi mở mắt ra nhìn xung quanh. A Diệu lập tức nhận ra cậu đang ở trong một lều vải lớn như doanh trại, nó không giống với nơi cậu từng ở. Nơi này có chăn màn gối đệm dày, đồ dùng thì tinh xảo đẹp đẽ và cách bố trí cũng sang trọng hơn nhiều so với nơi cậu từng ở khi trước.
Tiếng bước chân không nhanh không chậm từ từ tiến đến gần, vững vàng và mạnh mẽ xen lẫn với tiếng đuốc bập bùng. Một đôi ủng da sói xuất hiện trong tầm mắt, mắt cậu dịch chuyển đến chiếc áo choàng lông to lớn, nó được phối hoàn toàn ăn khớp với chiếc áo cẩm bào bằng gấm màu tím sẫm bên trong, nhìn bộ trang phục sẫm màu vừa dày vừa nặng này càng làm cho đôi mắt lang sói đó đằng đằng sát khí, tựa như có tia sáng xanh kỳ lạ xuất hiện trong bóng tối.
Người này có gò má cao vút, lông mày dài rậm như mũi tên, ngũ quan mạnh mẽ như được đúc gọt, khiến người nhìn phải lạnh sống lưng, A Diệu cũng không xa lạ gì gương mặt này. Trong lòng cậu sợ hãi, chật vật chống đỡ thân thể để cúi lạy, cậu run giọng kêu lên một tiếng: “Đại Thiền Vu……”
Đứng trước A Diệu là một trong năm thủ lĩnh của tộc Hung Nô, là bộ tộc định cư ở khu vực Hà Sáo. Vào thời Tây Hán, đại tổ tiên Lưu Bang đã gả nữ nhi trong tộc cho thủ lĩnh Hung Nô là Mặc Đốn Thiền Vu, đồng thời hứa hẹn với Mặc Đốn Thiền Vu làm huynh đệ với nhau. Từ đó về sau, các hậu duệ của Mặc Đốn Thiền Vu đều lấy họ Lưu làm họ của mình. Trước mặt A Diệu chính là Đại Thiền Vu được người người kính sợ, ông ta mang họ tên của người Hán - Lưu Uyên.
“Ngươi có biết tại sao ta phải bắt ngươi về không?”
Là gia nô của Đại Thiền Vu, A Diệu đã từng quỳ gối trước ông ta vô số lần, nhưng chưa bao giờ có dịp nói chuyện riêng với ông ta. Cả người A Diệu run lên, cậu không thể trả lời được, thân thể ngày càng phát run hơn.
Ông ta vung tay, người bên cạnh liền tiến đến tháo sợi xích sắt cho A Diệu. Ông ta khua tay lần nữa và người đó thinh lặng rời đi. Trong lều lớn, chỉ còn lại Đại Thiền Vu, người ở trên vạn người cùng với tiểu nô lệ nhỏ bé hèn mọn.
Ngọn đuốc cắm trên cây cột phát ra âm thanh nho nhỏ, Đại Thiền Vu cúi đầu nhìn A Diệu đang run rẩy hồi lâu. Đôi bàn tay ông ta chắp sau lưng, giọng nói vẫn trước sau như một, vẫn lạnh giá như băng: “Bởi vì……ngươi là con trai ta……”
Một cơn đau nhói dữ dội xuyên thẳng vào lồng ngực, thân thể của A Diệu như bị cắt làm đôi bởi câu nói này. Trái tim cậu giống như bị một con dao cùn đâm thẳng vào khiến cậu đau buốt, nhưng khi nghe điều này chỉ càng làm cậu buồn cười hơn. A Diệu sống đến giờ đã mười lăm tuổi, đây hẳn là câu chuyện mắc cười nhất mà cậu từng nghe được. Từ nhỏ cho đến lớn, người ta nói rằng, cậu và Linh Nhi đều là trẻ mồ côi, thậm chí cậu còn không biết tên của phụ mẫu mình. Bọn họ còn nói, vì cậu là người Hán nên mới bị bắt làm nô dịch cho người Hung Nô. Một tiểu nô lệ người Hán lại có thể là con của Đại Thiền Vu Hung Nô, há chẳng phải trời cao đang trêu đùa cậu sao? Điều tức cười nhất là cậu lại trở thành nô lệ trong cái gia tộc của người tự nhận là cha cậu, A Diệu đã phải hầu hạ cho người con trưởng của ông ta, tên hắn ta là Lưu Hòa, người này vốn có tâm địa xảo trá, còn thêm người con trai thứ hai là Lưu Thông, tính tình thì hung ác và ngang ngược. Nếu những gì Đại thiền vu nói là đúng, chẳng phải một người con trai như cậu lại đi phục dịch cho hai người con trai kia sao? Cùng là con trai, sao ông ta lại đối xử bất công như vậy?
A Diệu phát run giống như lên cơn sốt, cậu hỏi: “Thế còn Linh Nhi……”
Lưu Uyên gật đầu, bình tĩnh đáp: “Nó cũng là con gái của ta.”
A Diệu chỉ cảm thấy máu huyết toàn thân như trào dâng, muốn phun ra khỏi cổ họng. Từ nhỏ đến lớn, cậu và Linh Nhi đã phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ. Chưa kể việc thiếu ăn, thiếu mặc, bọn họ còn bị Lưu Thông đánh đến tét đầu chảy máu, khắp người đều bầm tím. Linh Nhi thì hầu hạ cho hoàng hậu Hô Diên, mặc dù hoàng hậu không đối xử quá tệ với muội ấy, nhưng Linh Nhi lại thường hay ốm yếu, bệnh tật, quanh năm phải uống thuốc. Là một ca ca, cậu phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc muội ấy. A Diệu đã cầu xin Lưu Hòa cho phép cậu tòng quân, chỉ vì Lưu Hòa nói với cậu rằng, nếu như cậu lập công trạng, cậu sẽ không còn làm nô lệ nữa và có thể tranh đấu vì một tương lai tốt đẹp hơn cho Linh Nhi. Cậu đã cố gắng rất nhiều để thoát khỏi thân phận hèn mọn này, nhưng người trước mặt đây lại bảo, thật ra cậu là một quý tử ngậm thìa vàng.
A Diệu cố kìm nén dòng máu tanh ở cổ họng và hỏi một cách khó khăn: “Việc này…...tại sao lại như vậy?”
Sắc mặt Lưu Uyên không có một chút biểu tình, giọng nói lạnh như hầm băng: “Ngươi không cần biết nguyên nhân, ta chỉ hỏi ngươi, ngươi có muốn thoát khỏi thân phận nô lệ này không?”
A Diệu rốt cuộc không nhịn được nhếch mép, ngước mắt lên nhìn Lưu Uyên, cậu cố gắng hết sức để làm cho giọng nói của mình bình tĩnh: “Vậy là Đại Thiền Vu muốn nhận tại hạ và Linh Nhi?”
Lưu Uyên lắc đầu: “Ta sinh được nhiều con, cũng không cần ngươi cùng một đứa con gái ốm yếu. Các ngươi chỉ là thứ rác rưởi vô dụng mà ta kiếm được từ cơn vui sướng nhất thời mà thôi.”
A Diệu phẫn hận đến không thể tả nổi, cậu vừa mở miệng đã nôn ra ngụm máu. Hổ dữ vẫn không ăn thịt con, chính xác thì trái tim của người này làm bằng gì? Nhìn thấy máu rơi từng giọt trên quần áo của mình, thấm cả một mảng lớn, A Diệu cũng từ từ bình tĩnh lại. Cậu nhớ lại một việc mà cậu đã từng chứng kiến khi ra chiến trường lần đầu tiên.
Là lúc quân Hung Nô bao vây thành Tấn Dương và chuẩn bị phát lệnh tấn công vào thành, tiếng trống đánh vang dội, gió thổi những lá cờ bay phấp phới, còn cậu thì đứng tuyến đầu, không áo giáp, không mũ sắt chờ lệnh xông lên. Một đội quân đang cầm cung đứng xếp hàng ở lầu trên tường thành Tấn Dương, những chiếc cung tên lạnh giá đó đang hướng về phía bọn họ và thậm chí cậu có thể nhìn thấy sự sợ hãi trong ánh mắt của quân Tấn giống như nỗi sợ của cậu. Không xa phía sau cậu, người ngồi trên lưng Hãn Huyết Bảo Mã đẹp đẽ kia, chính là thủ lĩnh của bọn họ: Đại Thiền Vu Lưu Uyên.
Tiếng kèn vang lên trên tường thành Tấn Dương, một nhóm quân Tấn vội vã áp giải người nào đó hướng về toà tháp trên cổng thành, vị võ tướng dẫn đầu mặc áo giáp kín hết người, đứng bên này hét lớn: “Lưu Uyên, ngươi xem kẻ này là ai đi!”
Kẻ bị áp giải là một tên trắng trẻo, mập mạp, trên người hắn ta đang mặc chiếc áo bào của người Hán, hai tay thì bị trói sau lưng, vẻ mặt hoảng sợ, lớn tiếng kêu khóc: “Phụ thân, phụ thân là con đây!”
Lưu Uyên đột nhiên phi ngựa tiến về phía trước, tiến đến hàng đầu của đoàn quân, ngay bên cạnh A Diệu. Những binh sĩ thấp hèn như A Diệu phải vội vàng lùi lại để nhường đường cho ông ta. Đi phía sau Lưu Uyên là một vài tướng lĩnh Hung Nô cầm khiên để bảo vệ.
Lưu Uyên cẩn thận xác nhận, hướng đến người thiếu niên đang gào khóc đó hét lớn: “Hạ Nhi……”
Người thiếu niên mũm mĩm từ trong trạng thái ủ rủ liền bừng tỉnh, phấn chấn rướn người về phía trước và la lớn với Lưu Uyên: “Phụ thân, cứu con!”
Tướng quân bên nước Tấn kéo Lưu Hạ lại khỏi tầm mũi tên và hét lớn với thiên binh vạn mã đứng dưới thành: “Lưu Uyên, nếu ngươi muốn cứu con mình thì phải lui binh ngay lập tức, bệ hạ vẫn sẽ xem xét ban thưởng cho tộc người Hồ như trước, sẽ để cho các ngươi có cơm ăn áo mặc. Nếu ngươi nhất quyết mê muội không biết hối cải, cứ phải chống lại triều đình……” Hắn đột nhiên rút dao kề mạnh vào cổ Lưu Hạ.
Lưu Hạ tái xanh mặt vì sợ hãi, hắn ta run lên như cầy sấy, khóc lóc kêu gào khản cả cổ: “Phụ thân, cứu con, Hạ Nhi không muốn chết!”
Lưu Uyên nhìn chằm chằm người con trai nhút nhát không chút dũng khí trên tường thành kia, hai mắt ông ta như muốn bùng lên tia lửa: “Hạ Nhi, ngươi đứng thẳng lên cho ta, đừng làm mất mặt tộc người Hồ chúng ta.”
Có vẻ như Lưu Hạ nghe không hiểu nên lại hét lên kêu Lưu Uyên cứu mình. Vị tướng lĩnh bên cạnh Lưu Uyên cẩn thận nói: “Đại Thiền Vu, hay là tạm thời rút quân thôi.”
Lưu Uyên vung roi đánh vào mặt vị tướng quân đó. Người này cắn răng chịu đựng cơn đau trách phạt, song vẫn không dám quay đầu né tránh. Lưu Uyên giận tím mặt, nén hơi thở như vò rượu được ủ trước cơn bão rồi cất giọng ra lệnh khiến mọi người sởn cả tóc gáy: “Không được phép rút lui!” Hai mắt Lưu Uyên lóe lên tia sáng rét lạnh thấu xương, ông ta cầm roi ngựa chỉ vào Lưu Hạ trên tường thành, “Đứa con trai này của ta bị người Hán nuôi dưỡng đến vô dụng rồi, đây chính là điều bọn họ muốn đấy!”
Không một ai dám phát ra tiếng, hết thảy mọi người đều im lặng chờ ông ta ra lệnh.
Lưu Uyên nhìn về nơi cao của thành lũy với ngọn lửa âm ỉ bùng cháy trong đáy mắt. Bị ánh mắt như vậy nhìn chằm chằm, những kẻ có lá gan nhỏ cũng sẽ run cầm cập không ngớt và toát hết mồ hôi hột. Ông ta hét lên như một lời tuyên bố: “Những người trong thị tộc bọn ta đã bị các ngươi triệu tập từ năm này qua năm khác, đàn bà và trẻ con thì bị bắt làm nô dịch đến suốt đời. Bọn ta cũng đã giao nộp những chiến mã và lông thú tốt nhất, nhưng lại trông giống những kẻ ăn xin chờ đợi các ngươi bố thí để đổi lấy trà và muối ăn. Các ngươi đã nhốt bọn ta trong cái lạnh buốt giá và nghèo đói bên ngoài phía bắc Trường Thành, còn thường xuyên đe dọa ngừng qua lại buôn bán, đóng cửa thành và bỏ đói bọn ta cho đến chết. Khi cả tộc bọn ta phải hứng chịu thiên tai và nạn đói, quan đại thần và hạ thần các ngươi đã siết chặt việc đánh thuế, thậm chí còn ra sức bốc lột lao dịch một cách hung ác tàn nhẫn. Tổ tiên của bọn ta cũng là những bậc hào kiệt của trời, dựa vào đâu mà hàng trăm năm nay bọn ta bị các ngươi ép phải hạ mình và bị những tên tham quan các ngươi bắt làm nô dịch?”
Những câu nói đầy dõng dạc hùng hồn này đã khơi dậy khí huyết của hàng vạn quân Hung Nô và binh lính phía sau họ, các tướng sĩ kích động giơ cao tay không ngừng hò reo tới tấp, rung chuyển cả đất trời.
Vị tướng quân người Hán ở trên tường thành không khỏi hoảng sợ, quát to: “Tên phản tặc nhà ngươi vẫn nhất quyết không muốn hối cải, vậy thì đừng trách bọn ta!”
Lưu Uyên không đáp lời, đột nhiên duỗi tay đoạt lấy cung tên trên vai tướng lĩnh. Cây cung cực kỳ nặng, nhưng ông ta lại kéo lấy chỉ trong chớp mắt. Trông thấy Lưu Uyên giương cung lên, ngoài Lưu Hạ ra thì tất cả quân lính trên tường thành đều né tránh. Vì Lưu Hạ đang tràn đầy hy vọng và tha thiết mong chờ vào phụ thân của hắn.
Lưu Uyên hít sâu một hơi, trầm ngâm nhìn Lưu Hạ một lần nữa rồi lập tức nhắm mắt lại. Mũi tên vút bay bắn về phía ngọn tháp, xuyên qua chính xác ngực của Lưu Hạ. Lưu Hạ sửng sốt, trợn to hai mắt, hắn ta không thể nào tin được, cúi đầu nhìn xuống mũi tên trên ngực mình, sau đó lại nhìn về phía người phụ thân vô cảm đang đứng ở dưới tường thành. Khi phụ thân bỏ hắn ta ở Lạc Dương để làm con mồi, hắn ta chỉ mới mười hai tuổi và đã không gặp phụ thân của mình trong suốt mười lăm năm. Trong mười lăm năm qua, hắn ta có cuộc sống khá tốt ở Lạc Dương, từ chi tiêu ăn mặc hay nữ nhân để chơi đùa đều không thiếu thứ gì. Lưu Hạ thậm chí không muốn trở lại Hung Nô và không muốn hứng chịu sương gió bên ngoài phía bắc Trường Thành kia nữa. Nhưng kỳ thật hắn ta vẫn luôn nhớ đến phụ thân. Song không ngờ khi gặp lại, đây lại là số mệnh của hắn ta.
Lưu Hạ ngã xuống, thân thể giãy dụa, từ đầu đến cuối hai mắt hắn ta đều trợn trừng, hắn ta không tin đến khi chết lại phải chết dưới tay phụ thân mình. Những binh lính nhà Tấn đứng bên cạnh Lưu Hạ đều nhất mực lùi lại, đầy sợ hãi đối với tên Thiền Vu Hung Nô này. Về phía quân Hung Nô, hết thảy đều im lặng.
Nhớ lại cảnh tượng thảm thương đã từng chứng kiến, Lưu Diệu chỉ cảm thấy đầy sự thê lương. Đại Thiền Vu còn có thể tự tay bắn chết con trai mình, thì làm sao cậu có thể mong đợi ông ta sẽ yêu thương cốt nhục tình thân? Ông ta để con mình làm nô lệ hơn mười năm dưới mí mắt thì có là gì, vẫn để chúng tiếp tục làm nô lệ hết cả cuộc đời cũng là chuyện hiển nhiên. Sự vinh nhục của con cái chỉ nằm trong một ý niệm duy nhất của Đại Thiền Vu, một khi ý niệm này được đưa ra sẽ quyết định thay đổi toàn cục.
Lưu Uyên nhìn A Diệu như thể đang nhìn thú săn nhốt trong lồng: “Trên đời này không có bữa ăn nào cho không. Ngươi muốn có được thân phận tốt đẹp này thì buộc phải trả giá.”
A Diệu nuốt mạnh ngụm máu trong miệng, cậu nhìn thẳng vào người trước giờ chưa từng dám nhìn thẳng: “Đại Thiền Vu muốn tại hạ làm gì?”
“Ngươi đi giết người nữ kia cho ta.” Lưu Uyên ném đoản kiếm dưới chân, trong mắt ông ta lóe lên tia trả thù đầy khoái trá, “Giết bà ta xong, ta sẽ thừa nhận ngươi......”
*****
*Chú thích:
- Họ Dương của Hiến Dung là đây: (羊), cũng chính là chữ Dương trong con dê, thế nên trong truyện có cảnh miêu tả trang phục của nhà họ Dương có thêu hình con dê trên ống tay áo là vậy đó. Còn A Diệu tìm "tiểu cô nương" mang họ Dương, thì là chữ (杨) này, trong từ cây dương. (😌)
- Hà Sáo: là khu vực sông Hoàng uốn lượn ở tỉnh Ninh Hạ và Thiểm Tây, cùng vùng núi Hạ Lan Sơn, Lang Sơn và ĐạiThanh Sơn, Trung Quốc.
- Tây Hán; tiền Hán: triều đại Trung Quốc, từ năm 206 trước Công Nguyên đến năm năm 25 Công Nguyên.
- Hãn Huyết Bảo Mã: là giống ngựa có mồ hôi đỏ như máu, dai sức và khỏe tuyệt trần. (Mọi người muốn biết rõ hơn nguồn gốc của giống ngựa này thì lên google đọc được nhiều hơn nhé!)
Bình luận truyện