Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên
Chương 2: Hoa nở gặp phật
Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nao? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ
xanh non là Phật, giữa đêm tuyết im lìm không một tiếng động, một chậu
than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa tháng ngày
loạn lạc huyên náo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng
đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm
dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
Nhân sinh như một bình thiền trà
Sau này mới biết, trong lòng chúng sinh, trà có mùi vị khác nhau. Thứ trà mới dùng nước tinh khiết đun sôi trong bình đó, quẩn quanh giữa răng và môi của trà khách, uống xong, có người cảm thấy đắng như sinh mệnh, cũng có người thấy nhạt như gió lành.
Trà có đậm có nhạt, có nóng có lạnh, có buồn cũng có vui. Dùng một trái tim trần tục để thưởng trà, khó tránh khỏi chỉ chăm chăm vào sắc, hương, vị, mà thiếu đi một phần thanh đạm và chất phác. Trà có ngàn vạn vị, thậm chí hoà lẫn với thế sự và cảm tình. Dùng một trái tim siêu thoát để thưởng trà, thì có thể ung dung tận hưởng sự tĩnh lặng tuyệt mỹ của mây bay ngang trời, của nước biếc không gợn sóng.
Trà, bắt nguồn từ tự nhiên, trải tinh hoa năm tháng, tắm thử thách xuân thu, từ đó mà có linh tính như phách hồn non nước. Trà có thể dùng để gột bỏ bụi trần, gạn lọc tâm tình, kết nối thiện duyên. Cho nên, người biết cách thưởng trà, cũng là một người tình nguyện để bản thân sống một cách giản đơn và thuần khiết. Hãy tin rằng, thiền là một cảnh ý, có những người dùng cả đời cũng không thể rũ bỏ chấp niệm, ngộ được bồ đề. Mà có những người chỉ dùng thời khắc của một ly trà, cũng có thể bước ra từ vạn điều hỗn tạp, trở nên tinh khiết như hoa sen.
Đời người có bảy nỗi khổ[1], chúng sinh lưu lạc trong nhân gian, nếm hết mọi đắng cay, đổi lấy vị ngọt ngào. Phồn hoa ba ngàn, nhưng cuối cùng đậu lại trần ai, giống như màn đêm trút bỏ lớp trang sức của ban ngày, trầm tĩnh mà yên ắng. Thời gian trôi qua như một cái búng tay, năm nào còn quan tâm được mất, tính toán bại thành, giờ đều đã thành khói mây qua mắt. Bất cứ khi nào, bờ bên kia đều chỉ cách một bước chân, lạc lối biết quay lại, trời sẽ quang đất lại rộng dưới chân mình.
[1] Bảy nỗi khổ của đời người theo quan niệm của nhà Phật là: Sinh, lão, bệnh, tử, oán hận mà phải ở cạnh nhau, yêu nhau mà phải ly biệt, cầu mà không được.
“Tâm kinh[2]” viết: “Vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng. Nhất thiết tuỳ duyên, nhất sinh tuỳ duyên, phương đắc tự tại.” (Tâm không uế chướng, nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm. Tất cả tuỳ duyên, một đời tuỳ duyên, mới được tự tại) Một người ngoan cố níu giữ cả đời không buông, không thích hợp tu hành. Một người si mê nhân quả, cũng không thích hợp tu hành. Trà có Phật tính, giống như mây in bóng nước, vài chén trôi xuống ruột, đầu óc liền thảnh thơi. Cho nên người ta tu hành thường thích cả ngày chìm đắm trong trà, vứt bỏ tạp niệm, chứng ngộ tâm bồ đề.
[2] “Tâm kinh” tên đầy đủ là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh” hay còn gọi là “Bát Nhã Tâm kinh”, đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại Thừa và Thiền tông.
Trời đất mênh mông, chúng ta như cọng cỏ. Không khiến bản thân kinh động thế giới, cũng không để thế giới kinh động bản thân. Khi con người chào đời, vốn chẳng có hành lý, cứ đi thêm một đoạn đường, lại mang thêm một tay nải. Mà chúng ta gói ghém thế tục thế nào, để có thể chuyển thành hành lý Thiền? Chỉ có dùng một trái tim thanh tịnh, nhìn ngàn vạn thế thái nhân tình, mới có thể xoá bỏ định kiến, vui vẻ an nhiên.
Trà có bốn đức, từ bi hỉ xả. Cái gọi là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”, tức là trong một ly trà trong, thưởng được chân ý có sinh ắt có tử, có tụ ắt có tán, có tươi ắt có héo. Nên biết trong bi thương sẽ có hạnh phúc, trong mất ắt có được. Một người từ bi với chính mình, mới có thể từ bi với vạn vật.
Thời gian như nước, phẳng lặng là tươi đẹp. Ngày tháng như sen, bình dị là tao nhã. Thưởng trà cũng là tu Thiền, cho dù là hồng trần huyên náo hay núi non tĩnh lặng, đều có thể trở thành đạo trang tu hành. Khắc chế dục vọng, đánh đuổi phiền nhiễu, không bi quan, không trốn tránh, đó là một cách sống giản đơn. Tự tại an nhiên, cho dù là một trái tim chật hẹp, cũng có thể chuyên chở vạn vật khởi diệt[3].
[3] Khởi diệt: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ nhân duyên hoà hợp mà sinh ra, và vì duyên hết mà tiêu diệt.
Tất cả tình duyên trên thế gian đều có số kiếp cả. Kẻ có tình chưa chắc có duyên, kẻ có duyên chưa chắc có tình. Tuỳ duyên là an, có thể ngộ đạo. Nước trà rửa tâm, tâm như gương sáng, một người chỉ cần nhìn rõ bản thân là có thể nhận biết thế giới vô thường. Khi ý loạn tình mê, đừng để đến lúc hoảng loạn. Tĩnh tâm ngồi Thiền, ngày mai sẽ như hẹn mà đến. Hoa xuân vẫn đẹp như xưa, trăng thu vẫn tròn như thế.
“Kinh Kim Cương[4]” viết: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.” (Tâm quá khứ không thể có, tâm hiện tại không thể có, tâm tương lai cũng không thể có) Chúng ta không nên vì một bi kịch định mệnh mà lựa chọn đau thương, nhưng cũng không thể vì sự việc viên mãn của tương lai mà bỏ việc tu hành. Thưởng trà, là để tu tâm, hiểu thấu thiền ý trong tịnh thuỷ không bụi trần để chúng ta không bị mê hoặc, tránh khỏi sự trôi dạt vô nghĩa kia, kịp thời đến bến bờ thanh tịnh.
[4] “Kinh Kim Cương”: tức “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh”, một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh, được lưu truyền rộng rãi ở vùng Đông Á.
Thưởng trà có thể khiến người ta tha thứ lỗi lầm, có được sự thanh thản trong mỗi ly trà. Đời người thực sự hoàn mỹ khi chừa lại khoảng trống, khoảng trống tức là “không minh” mà Phật gia nhắc tới. Nhân gian là một sân khấu thể hiện cái tôi tốt nhất, nếu như có một ngày kịch đến hồi kết, một khi đã siêu thoát, hãy buông bỏ tất cả, đừng như bị đẩy vào ngõ cụt. Phải tin rằng, khi không có lựa chon khác, sẽ có lựa chọn tốt nhất.
Vô pháp vô thường, duyên khởi tính không. Vạn vật vì duyên hoà hợp mà sinh, cũng vì duyên mà diệt. “Văn vân thu[5]” tức là lúc chim mỏi cánh quay về tổ. Phật nói bể khổ vô biên, quay đầu là bờ, mỗi một lần trở lại đều là quay đầu, mỗi một lần qua sông đều là chèo thuyền. Cho dù con đường phía trước có bao xa, xoá bỏ ngã chấp, sau đó ăn gió uống sương, biển trời mênh mông, đều là chốn về.
[5] Văn vân thu: Mây chiều ngưng lại.
Nước lặng chảy sâu, người đơn giản nội tâm thanh thản, càng dễ dàng thẩm thấu Thiền lý. Tu Phật cũng như thưởng trà, uống một ly trà từ đắng đến không có vị, đó là cảnh giới của Thiền. Đời người cũng nên bỏ phức tạp lấy giản đơn, nương theo thế sự, tâm trước sau như sen, yên tĩnh hé nở, lại giống như ngàn vạn khe suối, cuối cùng đều đổ về một dòng sông, róc rách trong vắt, giản dị yên bình.
Uống trà, cần một trái tim thanh đạm. Cho dù ở chốn phố chợ ngựa xe sầm uất cũng có thể cảm nhận được sự thanh nhã của gió xuân lướt qua tai, của nước thu gột bụi trần, của mây trôi ngoài cửa, của chim bay qua thềm. Hương khói xoay vòng, như có như không, giải nghĩa nhân sinh như hư như thực. Trên bàn, một chiếc mõ gỗ, vài quyển kinh thư nằm yên, còn có tràng hạt vương vãi, dưới ánh trăng nhàn nhạt, xa cách lạnh lẽo.
Mây gió thế gian biến ảo khôn lường. Phật gia chú trọng nhân quả luân hồi, cho dù là vật chuyển sao dời, cũng có một ngày đều khói tản mây tan, trở về cát bụi. Như trà, chất chứa tinh hồn của vạn vật, rót vào trong chén, trước sau một sắc, trong vắt thấu tỏ.
Siêu thoát không cần dũng khí và quyết tâm, mà cần thiện ý và thanh tĩnh. Ngày ngày những dòng chảy hối hả, vinh nhục phàm trần mà chúng ta nhìn thấy, kỳ thực đều chỉ là một vở kịch. Một nhà tu hành chỉ có đủ thiền định mới có thể bước ra khỏi con đường nhân sinh tù túng, ngắm mây tụ đồng xanh, nhạn đậu cát bằng.
Phật nói, buông bỏ chính là đạt được, tàn khuyết chính là viên mãn. Chúng ta thường dùng vô số thời gian mà vẫn không thể thuộc được kinh văn, đến khi ngộ đạo, lại có thể đọc lướt không quên. Rất nhiều người cho rằng Thiền tinh thâm uyên bác, kỳ thực nó tồn tại trong thời gian một lần đọc, trong mỗi ngày đi qua, trong mỗi giọt nước, trong mỗi đoá hoa, trong thế giới Ta Bà[6].
[6] Thế giới Ta Bà: Theo kinh điển Phật giáo thì các loài chúng sinh hữu tình hiện sinh luân hồi trong thế giới Ta Bà (Sa Bà, Samsara) hay còn gọi là Tam Giới: Cõi dục giới, Cõi sắc giới và Cõi vô sắc giới.
Thưởng trà, có thể dùng đồ gốm, tách sứ, chén ngọc, cũng có thể dùng chung tre, bát gỗ. Chúng sinh thưởng trà, đa phần là để xua đi thời gian rảnh rỗi, tịch liêu. Mùi vị hay sự nóng lạnh của trà dường như không quan trọng. Còn thiền trà mà tăng giả uống, cũng không cần lễ tiết, chỉ uống một cách thoải mái, mùi vị chính là vị Bát Nhã.
Thời gian lãng đãng, mây nước ngàn năm. Trà thành thói quen trong cuộc sống, thành một tri âm không thể thiếu của người tu hành, chỉ là bao nhiêu người có thể đem năm tháng sôi sục bất an, uống đến mức nước lặng không gợn sóng? Bao nhiêu người có thể đem thế tục vẩn đục u minh, uống đến trong vắt tinh khiết? Có lẽ chúng ta có thể lựa chọn một ngày bất kỳ, cho dù mưa nắng, không quản xuân thu, uống hết một bình thiền trà nhân sinh, quay về bản ngã, tìm lại chính mình thuở ban đầu.
Có lẽ sẽ có một ngày nào đó, tôi sẽ uống cạn một ly trà cuối cùng của hồng trần, rời bỏ ba ngàn thế giới, đổi lấy một đời bình an. Là lạc lối quay lại hay thiền định ngộ đạo cũng không quan trọng. Sau đó, núi lạnh đường mòn, cưỡi ngựa trắng mà đi, uống hết nước ngàn sông, thưởng Thiền trà ngắm mây gió nhẹ bay.
Mỗi bông hoa, mỗi chiếc lá đều liên quan đến Thiền
Cược sách pha trà, tựa lầu nghe mưa. Tháng ngày của Thiền luôn tĩnh lặng vô thanh như thế. Bên ngoài khung cửa gió chuyển mây vần, ngựa xe như nước, nội tâm lại an nhiên bình hoà, thanh khiết hư không. Đạm bạc như thế, không phải là xa cách trần thế, mà là giữa trần thế vẫn khiến bản thân thanh thản. Nhân sinh chính là một cuốn sách, chân lý được cất giấu trong mỗi sự việc bình thường. Trở về trạng thái ban đầu, tuỳ duyên mà an.
Hoa mai năm đó, không biết đã rụng dưới sân tường nhà ai, gạch xanh ngả màu, ngói đen đẫm ướt. Không biết từ khi nào, những người theo đuổi giấc mộng tuổi xuân, ngưỡng mộ gió Đường trăng Tống, bắt đầu cuộc sống chỉ cần một ấm trà, một quyển sách. Thời gian vẫn trôi như cũ, chỉ là người đi trong thời gian ấy, chần chừ không chịu sải bước. Những thế sự biến động chẳng yên đó, đã hoá thành nước trôi khói nhạt. Ngày hôm qua của trăng gió tình hoài, cũng chỉ là hào sảng trong giây lát.
Đối với thời gian, chúng ta không cần kinh sợ, nó đem đến sự sướng khổ cho chúng sinh, bản thân chúng ta cũng già đi trong sự vô tình. Trái tim của mỗi con người đều là một khung cửa sổ nho nhỏ, mở ra là tục thế khói lửa, đóng lại là mây nước Thiền Tâm. Có người có dũng khí thề nguyền cùng sinh cùng tử với hồng trần, có người lại quyết tĩnh toạ Thiền tâm không oán hận. Đi khắp vạn dặm non sông, bỗng nhiên quay đầu, chuyện ân thù hoan lạc trong giang hồ đã thành nhẹ như mây trôi gió thoảng.
Đã biết như thế, lại tranh giành thắng thua với thời gian một cách vô ích. Làm một người chất phác giản đơn, để cho tâm sáng thấu triệt. Phật nói: “Chớ làm điều ác, hãy làm điều lành, giữ tâm trong sạch, đây là lời chư Phật dạy.” Nhìn thì đơn giản, nhưng để làm một người lương thiện, một người thuần khiết, lại chính là tu vi lớn nhất của đời này. Bước đi trong hồng trần cuồn cuộn sóng gió, có được mấy người đạt cảnh giới tột cùng như thế?
Thanh tịnh tâm ý, là Thiền ý cao thâm nhất. Sở dĩ phiền não của chúng sinh không dứt, là vì tâm bị phù vân vọng niệm che khuất, không thể sáng rõ. Làm thế nào để quét sạch trần ai, để tâm tinh khiết như hoa lê trong tuyết, sáng rõ như trăng tỏ giữa trời quang, thì lại phụ thuộc vào tu vi, vào mầm thiện trong mỗi người. Có lúc, chỉ một sát na[7], vọng niệm tiêu tan, giác ngộ thành Phật.
[7] Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày hai mươi tư giờ được tính bằng sáu ngán bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
“Hán thư[8]” viết: “Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá sẽ chẳng có bạn bè.” Cái gọi là “vật cực tất phản”, mạnh mẽ quá sẽ chuốc nhục, cũng là như thế. Ngọc đẹp vẫn còn có vết, người há lại có kẻ hoàn mỹ sao? Chỉ cần lòng độ lượng bao dung, lòng kiên nhẫn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp. Nhưng trên thế gian này có một dòng sông mang tên Thiền, cho dù qua bao nhiêu năm tháng, trước sau vẫn trong vắt đến mức nhìn thấy đáy, mà chúng sinh lại như tảng đá bắc qua sông, có thể yên ổn dưới lòng nước.
[8] “Hán thư”: còn gọi là “Tiền Hán thư”, do sứ gia thời Đông Hán là Ban Cổ biên soạn, là bộ sử đoạn đại thế kỳ truyện đầu tiên của Trung Quốc, một trong “nhị thập tứ sử”.
Hoan lạc chốn nhân gian như giấc mộng không dấu vết. Vì đã mệt mỏi vãng lai giữa phàm trần, cho nên càng nhiều người nguyện làm một loài cây bình thường, cho dù nhỏ nhoi, nhưng lại được sống cuộc sống giản đơn, chất phác hơn loài người. Chỉ muốn yên ổn, tĩnh lặng cho qua ngày, không để tâm đến duyên kiếp khi xưa hay quả báo sau này. Trong con mắt của Phật, một ngọn cỏ, một nhành cây đều có tình, một bông hoa, một phiến lá hết thảy đều liên quan đến Thiền niệm. Những nơi Phật đã đi qua, cho dù là nơi sơn cùng thuỷ tận, cỏ cây tuyệt diệt, nhưng vì có sự hiện diện của Phật mà đều có Thiền ý, đều có từ bi.
Có người hỏi, chặng đường tu Phật rốt cuộc xa đến nhường nào? Cần tiêu phí bao nhiêu thời gian? Phật Đà tu hành hằng trăm hằng nghìn năm, trải qua ngàn vạn kiếp số, ở bờ bên kia Phật quốc, vì chúng sinh trồng hoa sen khắp nơi. Mà chúng ta chỉ vì muốn rũ bỏ nghiệp chướng, sân si, tìm một con thuyền vượt sông, để có thể lên bờ. Phật độ người hữu duyên, quá trình này, có lẽ là một sát na, cũng có thể là cả một đời. Con thuyền vượt sông đó là gì? Là một con nhện trước thềm điện Phật, là một làn gió thơm ở hành lang tự viên, là một ngọn rong trên ao phóng sinh, hoặc là một hạt bụi thấp thoáng lưng trời.
Phật nói: “Nguyện giải thoát vô số chúng sinh, nguyện đoạn tuyệt vô số phiền não, nguyện tu học Phật pháp nhiều vô lượng, nguyện chứng đắc bồ đề vô thượng[9].” Con mắt thanh tịnh nhìn thấu cõi đời, gió cuộn mây vần, cá rồng lẫn lộn, duy chỉ có tâm linh là mảnh đất lành. Tâm yên sẽ không bị thế sự làm kinh hãi, quấy rầy. Phật để chúng sinh sống tạm nơi hồng trần mênh mang, hồng trần tức là đạo tràng, ở đây, chúng ta phải học được cách gặp sao vui vậy. Mù quáng chạy trốn sẽ chỉ đẩy chúng ta rơi vào cảnh khốn cùng hơn nữa mà thôi. Tâm loạn, dù mặc sức đi trên con đường lớn, cũng chỉ như đang đi giữa nơi chật hẹp bí bách. Tâm an, cho dù là nhà cũ giếng cạn, cũng vẫn như bay giữa trời cao vời vợi.
[9] Là bốn câu “Tứ hoằng thệ nguyện độ” – bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo thuộc về các tông phái Đại thừa, tuy nhiên ở phiên bản này có sự khác biệt ở câu thứ tư, là “Bồ đề vô thượng thệ nguyện chứng” thay vì “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” như thường thấy.
Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nào? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên háo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
Phật luôn hiện hữu, độ hoá, quan tâm đến muôn vạn chúng sinh. Như mẹ hiền chong đèn vá áo, đau đáu, dõi theo những đứa con đi xa; như danh tướng dõi trông sắc trời, nhớ nhung hồng nhan nơi quê cũ; như thôn phụ tựa cánh cửa gỗ, đợi chờ tiều phu trở về. Mà những thế nhân say đắm trong hồng trần đó, có thể buông bỏ hay không? Đứa con đi xa liệu có thể buông bỏ phong cảnh non xanh nước biếc? Danh tướng có thể buông bỏ sự nghiệp non sông để trở về? Tiều phu có thể buông bỏ cuộc sống rau cháo sinh nhai hay không? Chỉ có buông bỏ, mới có thể thành Phật.
Thiền tông thời Tống chia tu hành thành ba cảnh giới. Cảnh giới thứ nhất là “Lạc diệp mãn không sơn, hà xứ tầm phương tích” (Lá rụng đầy núi vắng, nơi nào tìm dấu thơm); cảnh giới thứ hai là “Không sơn vô nhân, thuý lưu hoa khai” (Núi trống không người, nước trôi hoa nở); cảnh giới thứ ba là “Vạn cổ trường không, nhất triều phong nguyệt” (vạn năm đằng đẵng, trăng gió mau trôi). Có lẽ chúng ta không cần hiểu thâm ý bên trong, chỉ biết cho dù thời gian có trôi qua bao lâu, Phật pháp sẽ trường tồn cùng trời đất. Chúng ta chỉ là một sinh linh thuộc về chính mình giữa vũ trụ vạn vật, yên tĩnh sinh trưởng, bình an qua ngày. Còn tu hành, thì trong những tháng ngày luân chuyển xuân hạ thu đông, tự khắc sẽ nhận được quả báo.
Thời gian vẫn vậy, chỉ tăng không giảm, cỏ cây vẫn xanh tốt như xưa, chỉ là chúng ta không còn trẻ nữa. Tháng năm đằng đẵng, mỗi chặng đường chúng ta đi qua luôn có cảm giác như từng quen biết, đó là vì các mùa trở lại, câu chuyện tái diễn, mà đời người cuối cùng cũng như vậy, chẳng có gì khác biệt. Rồi một ngày, thời gian sẽ thổi bay tất cả, tất cả hoài nghi, tất cả mê lầm, và tất cả bất an đều ẩn mình, cho đến khi không vương mảy may bụi trần. Mà những vò rượu cất ủ tồn tại theo tháng năm cũng sẽ được mở ra vào lúc thích hợp, vào một ngày trăng thanh gió mát, để tửu khách bình thản thưởng thức.
Ngọc thô tự nhiên cần được thời gian mài giũa. Đời người hoa lệ, cần Thiền tâm nuôi dưỡng. Hãy đem hoà tấu rộn ràng gửi vào tiếng trúc tiếng tơ; dùng khói lửa phàm trần đổi lấy một chén băng tâm trong bình ngọc. Tại thế gian vô thường, đối diện với ngày mai không thể đoán định, những gì ngày hôm nay có thể làm được, chính là tĩnh tâm ngồi Thiền, nuôi dưỡng tính tình. Để bản thân từ từ bước ra khỏi trần ai loạn thế, trở nên trong sạch tinh khôi.
“Lục Tố đàn kinh[10]” viết: “Hết thảy chúng sinh, hết thảy cây cỏ, có tình vô tình, đều là tối tăm, trăm sông cùng chảy, đổ về biển lớn, hợp thành một thể.” Trên đá tam sinh có khắc ghi nhân quả, mỗi nhành hoa mỗi phiến lá đều liên quan đến Thiền. Chúng ta không cầu trăng sáng trong tay, không cầu hoa thơm đẫm áo, chỉ nguyện năm tháng giản đơn hạnh phúc, bình lặng thanh tịnh. Sẽ có một ngày, Phật duyên tới, ấy chính là đích đến.
[10] “Lục Tố đàn kinh”: Tên đầy đủ là “Lục Tổ đại sư pháp bảo đản kinh”, hay còn gọi là “Pháp bảo đàn kinh”, “Đàn kinh”, do Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng vào đời Đường, đệ tử là Pháp Hải sưu tầm chép lại, ngài Tông Bảo hiệu đính và ấn hành vào đời Nguyên, được xếp vào “Đại Chính Tạng”, tập 48.
Một khúc Vân Thuỷ tỏ Thiền Tâm
Thời khắc đẹp như nước trôi, hâm một bình ánh trăng, trong sân nhỏ sâu khuất, gẩy một khúc “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Những trần ai phiêu lãng của ban ngày, lúc này đã tiêu tán hết, khói mây thu lại, lãng quên sự đời. Son phấn hồng trần đều hạ màn, chim tước về hết chốn sơn lâm. Nước chảy im lìm, một chiếc thuyền nhỏ chèo ngang, thế giới hư ảo đã chìm nơi sóng biếc, không thể tìm được bóng dáng của những chuyện đã qua.
Mây trôi hờ hững, nước róc rách chảy, tiếng đàn tinh tang vô tình, khiến ta quên đi nhân tình thế thái, chỉ nghĩ tới sự trong sạch vô trần chốn đài thiêng. Sự linh hoạt kỳ ảo và véo von của âm nhạc Giang Nam mang đến cho người ta một vẻ đẹp và sự dịu êm mông lung bất định. Những ngày tháng đi khắp giang hồ, tiêu cầm bầu bạn đó đã sớm lùi xa. Đi sau những tháng năm phong trần, tuế nguyệt không còn dịu dàng nữa, chẳng mấy chốc, khách lạ về cố hương, thanh xuân đổi sang đầu bạc.
Vân là gì? Mây tự nhiên tự tại bay trong vạn dặm không trung, không dấu không vết, không chốn đi về, cùng với cảnh trí bốn mùa, biến ảo khó lường, sớm chiều đổi khác. Lúc rực rỡ diễm lệ như cầu vồng, lúc trắng muốt như tuyết, lúc dày đặc như sương mù, lúc lại tàn mát như khói. Tên của nó là Vân, ngạo nghễ trên bầu trời, trăm ngàn tư thế, vạn phong tình. Tuỳ duyên mà tụ, tuỳ duyên mà tan, một đời sáng rỡ, không hề có vết tích. Đến cũng như đi, đều không mang theo thứ gì, ba nghìn ảo cảnh, đều là mơ hồ.
Thuỷ là gì? Hướng thiện như nước, tự tại chảy trôi. Một đời của nước đều khiêm nhường, sáng tạo chúng sinh, nuôi dưỡng vạn vật. Không thấy hình của nó, nhưng lại nghe được âm của nó, biết được cốt của nó. Nước tuy yếu ớt, nhưng lại có cái mạnh mẽ của giọt nước xuyên đá tảng. Suối chảy róc rách, nhưng lại có cái khí thế trăm sông hội tụ. Sóng trong biêng biếc, nhưng lại sâu thẳm khó lường. Sóng cả ào ạt, nhưng lại có cái tinh tế uyển chuyển. Đây chính là nước, có thể rửa trôi vui buồn, cũng có thể xoá mọi phù hoa. Nó chảy qua ngày tháng, trang nhã ung dung, yên lặng vui vẻ, không cầu không ước.
Thiền tâm là gì? Thiền tâm là một bình trà trong dưới nắng chiều, là một cây bồ đề trong đồng nội xanh non, là một luồng sáng trong những tháng năm như nước, là một khúc nhạc nền trong vở kịch nhân sinh. Thiền tâm là giữa núi rừng hoang vắng nhặt nhạnh hết những cành cây lạnh lẽo khẳng khiu, là buông câu giữa trời tuyết bên bờ sông trên chiếc thuyền nho nhỏ; cũng là vội vã qua qua lại lại trên con đường nhân sinh, là nỗi niềm vui sướng ân oán hận thù trong giang hồ mưa gió. Trong lúc bạn toạ Thiền, tâm để ngoài trần thế. Trong lúc bạn ở trần thế, tâm vẫn có thể nhập Thiền.
Mỗi người duy chỉ có mài giũa hết sự sắc nhọn của bản thân, mới có thể thực sự tự tại bình thản. Khi đó, càng hiểu được cách bình tĩnh đối đãi với sự tụ tan ly hợp của đời người, đón nhận khổ nạn và tang thương mà năm tháng mang đến. Đã từng có những năm tháng rực rỡ, đến nay nhìn tưởng tịch liêu thưa vắng, lại có vài phần phong cốt, tăng thêm ý vị. Duy chỉ có như thế, mới có thể có được Thiền Tâm tỉnh táo và sáng suốt, dù khói mây biến ảo, nước trôi ào ào, cũng không thay đổi sắc màu non sông.
“Lục Tố đàn kinh” viết: “Con người ta bản tính trong sạch thanh tịnh, vạn pháp đều sinh ra từ tự tính[11]; nghĩ đến hết thảy việc ác, thì sẽ làm chuyện ác; nghĩ đến hết thảy việc thiện, thì sẽ làm điều thiện. Chư pháp như thế, đều từ trong tự tính, như trời luôn trong xanh, mặt trăng mặt trời luôn toả sáng, vì mây nối che khuất, mà trên sáng dưới tối, bỗng có gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng tỏ, vạn tượng đều hiện rõ”.
[11] Tự tính (sa. Svabhãva, ja. Jishõ) chỉ cái tính nằm sau mọi hiện tượng, cái ngã. Theo quan điểm Đại Thừa, tất cả mọi sự đều không có tự tính (sa. Svabhãva), vô ngã, tức là không có một cái gì chắc thật, riêng biệt đứng đằng sau các trình hiện. Điều đó không có nghĩa sự vật không có thật, chúng hiện diện nhưng chúng chỉ là dạng xuất hiện của tính Không, tự tính là tính Không. Đây là quan điểm trung tâm của tư tưởng Bát Nhã Ba La Mật Đa (sa. Prãnàparamitã) và Trung quán (sa. Madhyamaka). Tuy nhiên, trong Thiền tông và các tông phái của Đại Thừa tại Trung Quốc, danh từ “tự tính” được dùng để chỉ cho bản thể thật sự của chúng sinh, vạn vật, đồng nghĩa với Phật tính (sa. Buddhatã, ja. Busshõ) và nên phân biệt nó với cái tiểu ngã mà Phật đã bác bỏ.
Mỗi một con người khi sinh ra đều lương thiện, chỉ vì nhập thế quá lâu, trải qua quá nhiều chuyện, tiếp xúc với quá nhiều người, mới không còn từ bi nữa. Đây là một quá trình từ lạ lẫm đến quen thuộc, từ đơn giản đến phức tạp, cũng là con đường mà đời người buộc phải đi qua. Có những người, vòng qua mấy ngã rẽ, lại gặp lại bản thân lúc ban đầu, lại nhặt về sự giản đơn và trong sáng của quá khứ. Có những người, trăm chuyển nghìn hối mới có thể giác ngộ tự nhận thức.
Có lẽ đợi đến ngày nào đó, thế sự như gió nhẹ mây nhàn, chúng ta sẽ không cần làm rõ ràng từng giấc mộng cũ. Mà toàn bộ quá trình, chúng ta đã từng có được có mất, đã từng trải qua biết bao hợp ly ly hợp, cũng đã từng có nhiều điều thiện ác, đều không cần tính toán nữa. Bởi vì trước sau chúng ta vẫn đánh mất bản ngã chân thực của chính mình, có thể sống bình thản, thoải mái trong đất trời bao la, thì đó chính là dũng sĩ của năm tháng. Có thể trong một đêm tĩnh mịch, ngắm vầng trăng sáng xa xôi lưng trời, chính là sự từ bi thực sự.
Mộng ảo phù sinh, đều là bèo bọt, như sương như sét, như mây như khói. Ngày hôm qua gió ẩm bồ đề xanh, đêm nay sương nhuộm lá phong đỏ. Sinh mệnh chính là một cuộc viễn hành của loài hồng hạc, đợi đến khi sóng xuân lui xuống, đến ngày gió thu nổi lên, mới hiểu được phải quay về. Khi đó, bước qua hết vạn dặm giang sơn, thăm thú hết mọi miền quê đường dịch, sao lại không biết, sự thanh thản thực sự chính là từ bỏ tất cả, gặp đâu vui đó.
Giấc mộng Nam Kha[12], núi trống rừng già. Chốn đào nguyên mà muôn ngàn chúng sinh lao tâm khổ tứ đi tìm, hoá ra không phải ở non cảnh tiên bồng, mà là nằm trong nhân gian sắc màu sặc sỡ. Ở đây, hoa rơi nước chảy không thành tiếng, sớm lạnh trong khói có lờ mờ; ở đây, giữa rừng trúc chim hót véo von, chốn sơn tự tiếng chuông bảng lảng. Ba canh gió tuyết, đã có thể khiến núi xanh bạc đầu; một bàn cờ thế, đã có thể định rõ Hán Sở thắng thua; một chiếc thuyền nan, cũng đủ để đến được bờ bên kia của Thiền.
[12] Giấc mộng Nam Kha: bắt nguồn từ tiểu thuyết “Tiểu sứ Nam Kha thái thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường, kể về Thuần Vu Phần, say rượu nằm dưới gốc hoè, trong mơ Thuần đến nước Đại Hoè, giành ngôi trạng nguyên, được làm phò mã, rồi được cử làm thái thú đất Nam Kha. Rồi mấy chục năm trôi qua, xảy ra biến cố, Thuần Vu Phần bị nhà vua truất quyền cách chức, trở lại làm thường dân. Tỉnh mộng, thấy dưới gốc cây hoè có một tổ kiến, Thuần hiểu ra nước Đại Hoè chính là tổ kiến ở cây hoè. Về sau giấc mộng Nam Kha được ví đời người như giấc mơ, vinh hoa phú quý đều như mộng ảo.
Thế sự biết bao sóng gió, chìm nổi chỉ trong khoảnh khắc, một suy nghĩ. Người đi nghìn non xa, đêm nay chung trăng sáng. Có một nơi như thế, cho dù chúng ta đi bao xa, lạc lối bao lâu, lún sâu dường nào, đều đợi chờ tôi và bạn. Khi đó chính là chim mỏi về tổ, giữ mái nhà xưa yên ổn. Không thổ lộ tâm sự ly biệt với ngọn gió xuân, chỉ từ khung cửa sổ cao cao, lặng lẽ ngắm nhìn hoa tàn hoa nở trong sân. Nơi này, chính là bồ đề của tâm linh.
Đào kép vào vai, không phân trên hay dưới sân khấu. Mà Thiền già nhập thế, cũng không chia trong hay ngoài trần thế. Bởi vì họ đều đã tu luyện đến một cảnh giới nhất định, sớm đã không chịu tác động của gió mây bên ngoài. Bất cứ lúc nào đều là vai chính, cũng đều không phải vai chính. Họ có đủ định lực, giữ được toà thành thuộc về mình, không cần hứa hẹn, không cần thề thốt, vẫn có thể trường tồn cùng trời đất.
Câu chuyện sinh diệt, tình cảm lên xuống của nhân thế, vốn tương thông với sự tươi tốt khô héo của thiên nhiên. Trong từ của Vương Quốc Duy có một câu như thế này: “Quân khán kim niên thụ thương hoa, bất thị khứ niên chi thượng đoá.” (Bông hoa chàng thấy năm nay, nào phải đoá cũ cành này năm xưa) Chúng ta cho rằng hoa đã tàn, sẽ lại nở tiếp. Mà không biết, hoa nở trăm ngàn lần, nhưng đều không phải đoá hoa trước kia. Giống như một đời của cây cỏ, giống như một kiếp của con người. Cây cối xuân tươi thu héo, mà con người, khi tuổi tráng niên đã qua, sẽ không thể nào trở lại được nữa.
Tất cả chấp nhất đều chỉ là vọng niệm nhất thời, bước qua được, ảo tưởng tiêu tan, vĩnh viễn không phục hồi. Không bước qua được, hãy coi là kiếp số, trên con đường hồng trần gặp phải một lần trắc trở. Chỉ có trồng một cây bồ đề trong tâm, tự tính tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, coi vô thường là bình thường, coi hữu tưởng là vô thường, mới có thể được giải thoát thực sự, giống như mây tự do trôi ngang trời.
Không ai biết cảnh giới của Thiền rốt cuộc là gì, cũng không biết phải tu luyện bằng phương pháp gì. Mỗi một người, chỉ cần trong tâm có thiện niệm, bớt đi ham muốn, tự mình có thể giảm phiền nhiễu, tâm sáng tỏ tường. “Lục Tổ đàn kinh” viết: “Tự tính mà ngộ thì chúng sinh là Phật, tự tính mà mê thì Phật là chúng sinh. Tự tính mà bình đẳng thì chúng sinh là Phật. Tự tính mà ác hiểm thì Phật là chúng sinh.” Phật duyên đã đến, thì điều kiện chín muồi, nước chảy thành sông. Khi đó, cỏ cây là Phật, núi đá là Phật, phàm phu là Phật, tục tử là Phật, vạn vật chúng sinh đều là Phật.
Hoa rơi đạm bạc, nước chảy lặng thinh. Trong những ngày tháng trong trẻo giản đơn, khi nói về tâm tính, ngồi trong rừng trúc sâu hun hút, thưởng thức tịnh trà lóng lánh ánh dương. Nhìn người con gái áo trắng hơn tuyết đó, hàng mi thanh tú, không hề phấn son, gẩy một cây Thất Huyền Lục Y[13], hát một khúc Vân Thuỷ Thiền Tâm, mặc cho lá trúc xào xạc, mây trắng nhởn nhơ, đi đi đến đến, tụ tụ tan tan.
[13] Thất Huyền Lục Y: là cổ cầm, Lục Y cầm là một cây đàn của văn nhân nổi tiếng đời Hán Tư Mã Tương Như. Tương truyền, đàn Lục Y có thân màu đen, loáng thoáng sắc màu xanh thẫm, giống như dây leo bám trên cổ thụ, vì thế có tên là Lục Y.
Vân Thuỷ Thiền Tâm[14]
[14] Thời Bắc Tống, có một cổ khúc tên là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Trong khung cảnh núi đá, có một thiếu nữ, tên là Thiền Tâm. Nàng có ngộ tính cao, bẩm sinh thông tuệ, không lâu sau, có một đạo sĩ từ phương xa tới, đạo hiệu gọi là “Vân Thuỷ chân nhân”. Nói là mượn nhà của Thiền Tâm để ở, nhưng ở liền hơn một năm mà không có ý trả nhà. Ngày ngày trau dồi cầm nghệ với Thiền Tâm, đêm đến lại cùng ngắm trăng sao. Lâu ngày, có người nói lời đàm tiếu, không còn cách nào khác, Vân Thuỳ chân nhân và Thiền Tâm phải từ biệt. Thiền Tâm đưa tiễn hơn mười cảnh dương liễu tặng, Vân Thuỷ gảy một khúc cáo từ. Trong khúc nhạc. ngoài tâm hồn trong sáng cao vời, tư tưởng Phật gia không gì chướng ngại ra, còn là tâm tình hai bên thấu tỏ lẫn nhau, tình ý thân thiết không nỡ từ biệt. Từ đây khúc nhạc có tên “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Truyền thuyết nói rằng, sau này Thiền Tâm u uất mà chết, tuổi trẻ kết thúc sớm. Lúc bệnh nguy cấp, trên cây đàn thất huyền, nàng đã gẩy âm phù đầu tiên của khúc này.
“Không sơn điểu ngữ hề, nhân dữ bạch vân thê. Sàn sàn thanh tuyền trạc ngã tâm, đàm thâm ngư nhi hí. Phong xuy sơn lâm hề, nguyệt chiếu hoa ảnh di. Hồng trần như mộng tụ hựu ly, đa tình đa bi thích. Vọng nhất phiến u minh hề, ngã dữ nguyệt tương tích. Phủ nhất khúc dao tương ký, nan chiết tương tư ý. Ngã tâm như yên vân, đương không vũ trường tụ. Nhân tại thiên lý, hồn mộng thường tương y. Hồng nhan không tự hứa. Nam Kha nhất mộng tỉnh, không lão sơn lâm. Thính na thanh tuyền đinh đông đinh đông tự vô ý, ánh ngã trường dạ thanh tịch.
(Tạm dịch: Ký gữi Thiền Tâm vào mây nước.
Núi vắng chim véo von hề, người và mây trắng nương tựa lẫn nhau,
Suối trong róc rách tẩy sạch tâm ta, bầy cá nô đùa dưới đầm sâu.
Gió thổi núi rừng hề, trăng chiếu bóng hoa lay,
Hồng trần như mộng hợp lại tan, đa tình lắm đau thương.
Gẩy một khúc đàn tặng người đi xa, khó tỏ hết nỗi lòng nhung nhớ,
Người xa ngàn dặm, hồn vấn vương, trong cõi mộng.
Uổng công tự xưng hồng nhan,
Giấc mộng Nam Kha khó tính, núi trống rừng già.
Nghe tiếng suối trong réo rắt như vô tình, soi tỏ mình ta tịch mịch giữa đêm thâu.)
Tất cả hữu tình đều sẽ trôi qua
Rất nhiều năm về trước, từng tưởng rằng Phật là vô tình. Bởi vì người xuất gia phải từ bỏ chấp niệm, cắt đứt trần duyên, mới có thể ở nơi núi non hẻo lánh, chẳng màng thế sự. Họ không còn qua lại với thế giới bên ngoài, thi thoảng có khách dâng hương, cũng chỉ là kết mối Phật duyên nhàn nhạt. Thế nên, họ chỉ có thể hấp thu linh khí trời đất trong vạn vật tự nhiên, cảm nhận nhân gian ấm lạnh trong năm tháng đổi dời. Vậy là, họ coi cây tùng già trên vách đá cheo leo là tri kỷ, coi cỏ xanh trên giếng cổ là tâm giao, coi con kiến trên thềm đá là bạn vong niên.
Sau này mới hay, Phật là nặng tình, lấy thân thử kiếp, mới có được tịnh thổ liên hoa của Phật quốc Thuỷ Thiên[15]. Phật ban phát tình yêu cho khắp chúng sinh, để những kẻ rơi vào lưới trần như tôi và bạn, có thêm một lựa chọn lương thiện, được giải thoát một cách yên lặng giữa khổ đau. Còn Phật, chưa bao giờ tham luyến phồn hoa khói lửa, luôn thanh đạm tự chủ, tĩnh toạ trên đài mây, ôn hoà an lành.
[15]Thuỷ Thiên Phật quốc: Thuỷ Thiên là tên của thiên thần, tiếng Phạn là Varuna, là một trong mười hai thiên Mật giáo, một trong Tám thiên hộ thế. Tức thần trấn giữ phương Tây, Phật quốc vừa là đất Phật, vừa chỉ chung chùa chiền. Ở đây Thuỳ Thiên Phật Quốc được hiểu là xứ Phật.
Tại sao Phật có thể buông bỏ oán tình cá nhân, bác ái hồng trần, mà thế nhân lại đắm chìm trong ái tình cỏn con của mình, luôn rơi vào cảnh ngộ không cách nào giải thoát nổi, là vì tu vi không đủ, hay là số mệnh đã định phải trải hết trần kiếp, mới có thể tránh được vòng luân hồi nhân quả? Đời đời kiếp kiếp, dòng Vong Xuyên của năm tháng chưa từng dừng lại mà vẫn hối hả đến và đi.
Nhân sinh hữu tình, cho nên mới có vương vấn, mới có phiền não. Phật nói, ngoái đầu nhìn nhau năm trăm lần mới đổi được cái lướt qua nhau của kiếp này. Cái gọi là duyên định ba kiếp, một vài cuộc gặp gỡ dường như đã được sắp xếp từ kiếp trước, cho nên, kiếp này tình vương không dứt. Phật khiến chúng sinh hiểu được thương tiếc duyên phận, trân trọng tình cảm, nhưng cũng khuyên răn chúng ta không nên mù quáng mê đắm, trên con đường năm tháng vô bờ, đánh mất bản chất chân thực của mình.
“Kinh Nghiêm Hoa[16]” viết: “Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ và đức tướng giống Như Lai, nhưng vì vọng tưởng và chấp trước, cho nên không thể chứng ngộ.” Không thể ung dung tự tại, là vì không thể dứt tình. Vì vậy mới gọi là bể khổ vô biên, quay đầu là bờ. Có tình là bể khổ, vô tình là bờ. Đại Thiên thế giới, mọi thứ đều là khổ, mà người ở ngoài cõi thế, coi mọi nỗi khổ thành niềm vui; coi hữu tình thành vô tình. Cho nên chúng ta luôn có thể cầu được yên tĩnh giữa chốn huyên náo; đạt được vui sướng giữa mọi niềm đau.
[16] “Kinh Ngiêm Hoa”: Tên đầy đủ là “Đại Phương Quảng Phật Nghiêm Hoa Kinh”, là một bộ kinh Đại Thiền, lập giáo lý căn bản của Nghiêm Hoa tông.
Trước khi buông bỏ, đều có một quá trình cố chấp. Quá trình này, có lẽ không phải là phượng hoàng Niết Bàn[17], nhưng cũng phải kinh qua vô số lần bãi biển hoá nương dâu. Trước khi Phật Đà A Nan xuất gia, từng gặp gỡ một thiếu nữ xinh đẹp trên đường, chỉ một lần như thế, từ đó mà đem lòng ngưỡng mộ lưu luyến không nguôi. Phật Tổ hỏi người: “Con thích cô gái đó đến nhường nào?” A Nan đáp: “Nguyện hoá thành cây cầu đá, chịu năm trăm năm gió thốc, năm trăm năm nắng đổ, năm trăm năm mưa sa, chỉ mong người con gái đó đi qua cầu.”
[17] Theo truyền thuyết, khi phượng hoàng Niết bàn, tức là phượng hoàng nhảy vào lửa đỏ, rồi tái sinh từ tro tàn.
Nặng tình đến thế, bây giờ chỉ có thể coi là một thần thoại. Yêu đến nhường nào mới có thể chịu đựng được thời gian dài đằng đẵng? Đừng nói là năm trăm năm, cho dù là ba năm hay năm năm cũng khó mà giữ được. Khi yêu, cam tâm tình nguyện tồn tại vì một người. Đến ngày hết yêu, lại hy vọng xoá bỏ mọi ký ức liên quan, toàn thân thanh tịnh.
Có lẽ rất nhiều người đều muốn biết, sau khi A Nan quy y cửa Phật, có còn nhớ lời thề ước ban đầu hay không? Đợi đến khi thiếu nữ xinh đẹp đó thành một bà lão tóc trắng phau phau, người còn tình sâu không đổi như cũ chứ? Người có lẽ có thể hoá thành cầu đá vì nàng, hóa thành non xanh nước biếc, hoá thân ngàn vạn lần, người cũng có thể thanh tịnh không vướng bận gì. Nếu như A Nan và thiếu nữ ấy kết một đoạn nhân duyên, liệu có thế trải qua ngày tháng thanh đạm sớm chiều bên nhau, giữ cho tình sâu ý nặng như ban đầu hay không?
Không có nếu như, cũng như chúng ta không cách gì có được kết quả chính xác từ một lời dự báo. Trong những ngày đánh mất tình yêu, năm tháng vẫn yên ổn như xưa, tuế nguyệt tĩnh mịch như thuở ban đầu. Nhưng những chuyện cũ tưởng chừng có thể lãng quên đó, lại không thế quên nổi dù chỉ là một chuyện, nhưng không thể tính toán, đành thuận theo tự nhiên. Thế sự rối rắm, bạn coi một vở kịch là thật, vậy thì tất cả thành thật. Bạn coi cuộc sống là giả, vậy thì tất cả đúng là giả.
Thái độ sống của mỗi người khác nhau, cách thức đối đãi với tình cảm cũng mỗi người một vẻ. Phật dạy con người không nên có quá nhiều chấp niệm đối với tình yêu, nhưng Phật lại ban phát càng nhiều tình yêu cho chúng sinh, mà không cầu bất cứ đền đáp nào. Trên thế gian này luôn có những người phải đợi ngàn cành buồm qua hết, mới nhận ra phải quay đầu, phải đợi đến lúc chia ly thất tán, mới bắt đầu hiểu được trân trọng, đợi đến lúc vật còn người mất, mới bắt đầu nhớ nhung.
Ở cung Potala (Bố Đạt La) xa xôi, từng có một vị tình tăng như thế, ngài tên gọi là Thương Ương Gia Thố, được vạn dân sùng bái. Cho dù Thiền Tâm thanh tịnh, thấu suốt, nhưng vì tình cảm mà không thể tự chủ. Năm đó ngài đã từng viết câu thơ khắc cốt ghi tâm: “Thế gian an đắc song toàn pháp, bất phụ Như Lai bất phụ khanh.” (tạm dịch: Thế gian sao thể vẹn đôi đường, không phụ Như Lai chẳng phụ nàng) Ngài chính là một vị Phật nghiêm trang tĩnh toạ trên đài sen, phổ độ chúng sinh, mà trong lòng không thể quên được cuộc sống lứa đôi hạnh phúc.
Ở Tây Tạng, nơi thần bí cao thâm vời vợi, truyền thuyết về ngài như một bản tình ca, truyền đi hết thảy những nơi có cỏ cây, hồ nước. Rất nhiều người băng núi vượt sông đi tìm, đi lễ bái, không chỉ vì tín ngưỡng, mà nguyên nhân sâu xa hơn là vị tình tăng lãng mạn này đã đem đến sự thần kỳ và tươi đẹp như mộng ảo, khiến thế nhân tin rằng. ở vùng đất thần bí đó, hoa tình mọc khắp nơi, mỗi dòng sông, mỗi ngọn núi, mỗi chú dê nơi đó, đều được siêu độ.
Sau này lại có một vị tình tăng, người là chú nhạn cô lẻ giữa hồng trần, phiêu lãng nửa đời, nếm hết tình vị. Vị tăng già được tiên đoán số mệnh này, tên là Tô Mạn Thù. Cuộc đời của người, mấy lần trốn vào cửa Phật, nhưng trước sau chẳng quên nổi trần duyên. Khi người rời khỏi nhân gian, để lại tám chữ: Hết thảy hữu tình, đều không vương vấn. Nhưng người thực sự đã đốn ngộ, đã từ bỏ được chưa? Khi còn sống, người đã phụ biết bao hồng nhan, mỗi lần gây ra hoạ, lại quay người bỏ trốn. Không phải người vô tình, mà là thực sự không thể gánh vác trách nhiệm.
Chắc chắn còn rất nhiều vị tình tăng chúng ta đã biết, và cả những người chúng ta chưa biết, họ có phẩm chất như hoa sen, là một hạt cải giống trước Phật, lại là một đoá hoa sóng trong biển tình. Những người này cho dù là ngồi thiền trước Phật, hay là bôn tẩu nơi trần thế, sự tu hành của họ, đều là chữ Tình. Quỳ trên nệm bồ đoàn, dùng thời gian trăm nghìn năm, luân hồi mấy kiếp, đổi lấy nhân duyên một đời, hay một lần tương phùng. Đợi đến một ngày được như ý nguyện, là có thể triệt để cắt bỏ chấp niệm, tâm như pha lê, trong vắt như nước.
Phật nói: “Các hành đều vô thường, tất cả đều là khổ. Các pháp đều vô ngã, tịch diệt tức là vui[18].”[19] Trong quá trình tu luyện, không phải một lòng cố chấp vạch rõ giới hạn giữa bản thân với thế sự phồn tạp, mà là thân ở giữa khói lửa xoay vòng, vẫn có thể trong sáng như tuyết trắng năm xưa. Đi khắp sơn hà mênh mang, vạn vật phồn thịnh, ai vui nhân duyên thiên tính của người đó, ai cũng không thể thay thế được ai. Những con đường đã qua, những người đã gặp, những chuyện đã xảy ra, giống như nước sông dào dạt, không thể ngược dòng.
[18] Cùng với “Tịch tĩnh Niết Bàn là Tam pháp ẩn trong Phật giáo.
[19] Tức là diện mạo, chân tướng vốn có.
Rốt cuộc bạn còn cố chấp điều gì? Đã biết rõ, mỗi người đều là hạt bụi nhỏ nhoi giữa đất trời, có một ngày không biết sẽ về đâu. Phật Đà A Nan dù hoá thân thành cây cầu đá, chịu trăm ngàn năm gió thốc nắng đổ, há chẳng biết người thiếu nữ ấy đã chịu luân hồi cũng năm tháng hay không? Có lẽ nàng đã hoá thân thành bụi trần ở một kiếp nào đó, tan thành tro bụi, không hồn không phách. Có lẽ nàng hoá thành hoa sen ở một kiếp nào đó, tu thành chính quả trước Phật, cũng không cần chuyển thế đầu thai nữa.
Hết thảy hữu tình đều sẽ trôi qua. Trên ngả đường mây khói nghìn trùng, lời nào cũng không cần nói. Khi cáo biệt, cũng không cần ngoái nhìn. Sát na quay người, xin hãy khắc ghi quãng thời gian chúng ta đã từng đi qua đó.
Nhân sinh như một bình thiền trà
Sau này mới biết, trong lòng chúng sinh, trà có mùi vị khác nhau. Thứ trà mới dùng nước tinh khiết đun sôi trong bình đó, quẩn quanh giữa răng và môi của trà khách, uống xong, có người cảm thấy đắng như sinh mệnh, cũng có người thấy nhạt như gió lành.
Trà có đậm có nhạt, có nóng có lạnh, có buồn cũng có vui. Dùng một trái tim trần tục để thưởng trà, khó tránh khỏi chỉ chăm chăm vào sắc, hương, vị, mà thiếu đi một phần thanh đạm và chất phác. Trà có ngàn vạn vị, thậm chí hoà lẫn với thế sự và cảm tình. Dùng một trái tim siêu thoát để thưởng trà, thì có thể ung dung tận hưởng sự tĩnh lặng tuyệt mỹ của mây bay ngang trời, của nước biếc không gợn sóng.
Trà, bắt nguồn từ tự nhiên, trải tinh hoa năm tháng, tắm thử thách xuân thu, từ đó mà có linh tính như phách hồn non nước. Trà có thể dùng để gột bỏ bụi trần, gạn lọc tâm tình, kết nối thiện duyên. Cho nên, người biết cách thưởng trà, cũng là một người tình nguyện để bản thân sống một cách giản đơn và thuần khiết. Hãy tin rằng, thiền là một cảnh ý, có những người dùng cả đời cũng không thể rũ bỏ chấp niệm, ngộ được bồ đề. Mà có những người chỉ dùng thời khắc của một ly trà, cũng có thể bước ra từ vạn điều hỗn tạp, trở nên tinh khiết như hoa sen.
Đời người có bảy nỗi khổ[1], chúng sinh lưu lạc trong nhân gian, nếm hết mọi đắng cay, đổi lấy vị ngọt ngào. Phồn hoa ba ngàn, nhưng cuối cùng đậu lại trần ai, giống như màn đêm trút bỏ lớp trang sức của ban ngày, trầm tĩnh mà yên ắng. Thời gian trôi qua như một cái búng tay, năm nào còn quan tâm được mất, tính toán bại thành, giờ đều đã thành khói mây qua mắt. Bất cứ khi nào, bờ bên kia đều chỉ cách một bước chân, lạc lối biết quay lại, trời sẽ quang đất lại rộng dưới chân mình.
[1] Bảy nỗi khổ của đời người theo quan niệm của nhà Phật là: Sinh, lão, bệnh, tử, oán hận mà phải ở cạnh nhau, yêu nhau mà phải ly biệt, cầu mà không được.
“Tâm kinh[2]” viết: “Vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng. Nhất thiết tuỳ duyên, nhất sinh tuỳ duyên, phương đắc tự tại.” (Tâm không uế chướng, nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm. Tất cả tuỳ duyên, một đời tuỳ duyên, mới được tự tại) Một người ngoan cố níu giữ cả đời không buông, không thích hợp tu hành. Một người si mê nhân quả, cũng không thích hợp tu hành. Trà có Phật tính, giống như mây in bóng nước, vài chén trôi xuống ruột, đầu óc liền thảnh thơi. Cho nên người ta tu hành thường thích cả ngày chìm đắm trong trà, vứt bỏ tạp niệm, chứng ngộ tâm bồ đề.
[2] “Tâm kinh” tên đầy đủ là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh” hay còn gọi là “Bát Nhã Tâm kinh”, đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại Thừa và Thiền tông.
Trời đất mênh mông, chúng ta như cọng cỏ. Không khiến bản thân kinh động thế giới, cũng không để thế giới kinh động bản thân. Khi con người chào đời, vốn chẳng có hành lý, cứ đi thêm một đoạn đường, lại mang thêm một tay nải. Mà chúng ta gói ghém thế tục thế nào, để có thể chuyển thành hành lý Thiền? Chỉ có dùng một trái tim thanh tịnh, nhìn ngàn vạn thế thái nhân tình, mới có thể xoá bỏ định kiến, vui vẻ an nhiên.
Trà có bốn đức, từ bi hỉ xả. Cái gọi là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”, tức là trong một ly trà trong, thưởng được chân ý có sinh ắt có tử, có tụ ắt có tán, có tươi ắt có héo. Nên biết trong bi thương sẽ có hạnh phúc, trong mất ắt có được. Một người từ bi với chính mình, mới có thể từ bi với vạn vật.
Thời gian như nước, phẳng lặng là tươi đẹp. Ngày tháng như sen, bình dị là tao nhã. Thưởng trà cũng là tu Thiền, cho dù là hồng trần huyên náo hay núi non tĩnh lặng, đều có thể trở thành đạo trang tu hành. Khắc chế dục vọng, đánh đuổi phiền nhiễu, không bi quan, không trốn tránh, đó là một cách sống giản đơn. Tự tại an nhiên, cho dù là một trái tim chật hẹp, cũng có thể chuyên chở vạn vật khởi diệt[3].
[3] Khởi diệt: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ nhân duyên hoà hợp mà sinh ra, và vì duyên hết mà tiêu diệt.
Tất cả tình duyên trên thế gian đều có số kiếp cả. Kẻ có tình chưa chắc có duyên, kẻ có duyên chưa chắc có tình. Tuỳ duyên là an, có thể ngộ đạo. Nước trà rửa tâm, tâm như gương sáng, một người chỉ cần nhìn rõ bản thân là có thể nhận biết thế giới vô thường. Khi ý loạn tình mê, đừng để đến lúc hoảng loạn. Tĩnh tâm ngồi Thiền, ngày mai sẽ như hẹn mà đến. Hoa xuân vẫn đẹp như xưa, trăng thu vẫn tròn như thế.
“Kinh Kim Cương[4]” viết: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.” (Tâm quá khứ không thể có, tâm hiện tại không thể có, tâm tương lai cũng không thể có) Chúng ta không nên vì một bi kịch định mệnh mà lựa chọn đau thương, nhưng cũng không thể vì sự việc viên mãn của tương lai mà bỏ việc tu hành. Thưởng trà, là để tu tâm, hiểu thấu thiền ý trong tịnh thuỷ không bụi trần để chúng ta không bị mê hoặc, tránh khỏi sự trôi dạt vô nghĩa kia, kịp thời đến bến bờ thanh tịnh.
[4] “Kinh Kim Cương”: tức “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh”, một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh, được lưu truyền rộng rãi ở vùng Đông Á.
Thưởng trà có thể khiến người ta tha thứ lỗi lầm, có được sự thanh thản trong mỗi ly trà. Đời người thực sự hoàn mỹ khi chừa lại khoảng trống, khoảng trống tức là “không minh” mà Phật gia nhắc tới. Nhân gian là một sân khấu thể hiện cái tôi tốt nhất, nếu như có một ngày kịch đến hồi kết, một khi đã siêu thoát, hãy buông bỏ tất cả, đừng như bị đẩy vào ngõ cụt. Phải tin rằng, khi không có lựa chon khác, sẽ có lựa chọn tốt nhất.
Vô pháp vô thường, duyên khởi tính không. Vạn vật vì duyên hoà hợp mà sinh, cũng vì duyên mà diệt. “Văn vân thu[5]” tức là lúc chim mỏi cánh quay về tổ. Phật nói bể khổ vô biên, quay đầu là bờ, mỗi một lần trở lại đều là quay đầu, mỗi một lần qua sông đều là chèo thuyền. Cho dù con đường phía trước có bao xa, xoá bỏ ngã chấp, sau đó ăn gió uống sương, biển trời mênh mông, đều là chốn về.
[5] Văn vân thu: Mây chiều ngưng lại.
Nước lặng chảy sâu, người đơn giản nội tâm thanh thản, càng dễ dàng thẩm thấu Thiền lý. Tu Phật cũng như thưởng trà, uống một ly trà từ đắng đến không có vị, đó là cảnh giới của Thiền. Đời người cũng nên bỏ phức tạp lấy giản đơn, nương theo thế sự, tâm trước sau như sen, yên tĩnh hé nở, lại giống như ngàn vạn khe suối, cuối cùng đều đổ về một dòng sông, róc rách trong vắt, giản dị yên bình.
Uống trà, cần một trái tim thanh đạm. Cho dù ở chốn phố chợ ngựa xe sầm uất cũng có thể cảm nhận được sự thanh nhã của gió xuân lướt qua tai, của nước thu gột bụi trần, của mây trôi ngoài cửa, của chim bay qua thềm. Hương khói xoay vòng, như có như không, giải nghĩa nhân sinh như hư như thực. Trên bàn, một chiếc mõ gỗ, vài quyển kinh thư nằm yên, còn có tràng hạt vương vãi, dưới ánh trăng nhàn nhạt, xa cách lạnh lẽo.
Mây gió thế gian biến ảo khôn lường. Phật gia chú trọng nhân quả luân hồi, cho dù là vật chuyển sao dời, cũng có một ngày đều khói tản mây tan, trở về cát bụi. Như trà, chất chứa tinh hồn của vạn vật, rót vào trong chén, trước sau một sắc, trong vắt thấu tỏ.
Siêu thoát không cần dũng khí và quyết tâm, mà cần thiện ý và thanh tĩnh. Ngày ngày những dòng chảy hối hả, vinh nhục phàm trần mà chúng ta nhìn thấy, kỳ thực đều chỉ là một vở kịch. Một nhà tu hành chỉ có đủ thiền định mới có thể bước ra khỏi con đường nhân sinh tù túng, ngắm mây tụ đồng xanh, nhạn đậu cát bằng.
Phật nói, buông bỏ chính là đạt được, tàn khuyết chính là viên mãn. Chúng ta thường dùng vô số thời gian mà vẫn không thể thuộc được kinh văn, đến khi ngộ đạo, lại có thể đọc lướt không quên. Rất nhiều người cho rằng Thiền tinh thâm uyên bác, kỳ thực nó tồn tại trong thời gian một lần đọc, trong mỗi ngày đi qua, trong mỗi giọt nước, trong mỗi đoá hoa, trong thế giới Ta Bà[6].
[6] Thế giới Ta Bà: Theo kinh điển Phật giáo thì các loài chúng sinh hữu tình hiện sinh luân hồi trong thế giới Ta Bà (Sa Bà, Samsara) hay còn gọi là Tam Giới: Cõi dục giới, Cõi sắc giới và Cõi vô sắc giới.
Thưởng trà, có thể dùng đồ gốm, tách sứ, chén ngọc, cũng có thể dùng chung tre, bát gỗ. Chúng sinh thưởng trà, đa phần là để xua đi thời gian rảnh rỗi, tịch liêu. Mùi vị hay sự nóng lạnh của trà dường như không quan trọng. Còn thiền trà mà tăng giả uống, cũng không cần lễ tiết, chỉ uống một cách thoải mái, mùi vị chính là vị Bát Nhã.
Thời gian lãng đãng, mây nước ngàn năm. Trà thành thói quen trong cuộc sống, thành một tri âm không thể thiếu của người tu hành, chỉ là bao nhiêu người có thể đem năm tháng sôi sục bất an, uống đến mức nước lặng không gợn sóng? Bao nhiêu người có thể đem thế tục vẩn đục u minh, uống đến trong vắt tinh khiết? Có lẽ chúng ta có thể lựa chọn một ngày bất kỳ, cho dù mưa nắng, không quản xuân thu, uống hết một bình thiền trà nhân sinh, quay về bản ngã, tìm lại chính mình thuở ban đầu.
Có lẽ sẽ có một ngày nào đó, tôi sẽ uống cạn một ly trà cuối cùng của hồng trần, rời bỏ ba ngàn thế giới, đổi lấy một đời bình an. Là lạc lối quay lại hay thiền định ngộ đạo cũng không quan trọng. Sau đó, núi lạnh đường mòn, cưỡi ngựa trắng mà đi, uống hết nước ngàn sông, thưởng Thiền trà ngắm mây gió nhẹ bay.
Mỗi bông hoa, mỗi chiếc lá đều liên quan đến Thiền
Cược sách pha trà, tựa lầu nghe mưa. Tháng ngày của Thiền luôn tĩnh lặng vô thanh như thế. Bên ngoài khung cửa gió chuyển mây vần, ngựa xe như nước, nội tâm lại an nhiên bình hoà, thanh khiết hư không. Đạm bạc như thế, không phải là xa cách trần thế, mà là giữa trần thế vẫn khiến bản thân thanh thản. Nhân sinh chính là một cuốn sách, chân lý được cất giấu trong mỗi sự việc bình thường. Trở về trạng thái ban đầu, tuỳ duyên mà an.
Hoa mai năm đó, không biết đã rụng dưới sân tường nhà ai, gạch xanh ngả màu, ngói đen đẫm ướt. Không biết từ khi nào, những người theo đuổi giấc mộng tuổi xuân, ngưỡng mộ gió Đường trăng Tống, bắt đầu cuộc sống chỉ cần một ấm trà, một quyển sách. Thời gian vẫn trôi như cũ, chỉ là người đi trong thời gian ấy, chần chừ không chịu sải bước. Những thế sự biến động chẳng yên đó, đã hoá thành nước trôi khói nhạt. Ngày hôm qua của trăng gió tình hoài, cũng chỉ là hào sảng trong giây lát.
Đối với thời gian, chúng ta không cần kinh sợ, nó đem đến sự sướng khổ cho chúng sinh, bản thân chúng ta cũng già đi trong sự vô tình. Trái tim của mỗi con người đều là một khung cửa sổ nho nhỏ, mở ra là tục thế khói lửa, đóng lại là mây nước Thiền Tâm. Có người có dũng khí thề nguyền cùng sinh cùng tử với hồng trần, có người lại quyết tĩnh toạ Thiền tâm không oán hận. Đi khắp vạn dặm non sông, bỗng nhiên quay đầu, chuyện ân thù hoan lạc trong giang hồ đã thành nhẹ như mây trôi gió thoảng.
Đã biết như thế, lại tranh giành thắng thua với thời gian một cách vô ích. Làm một người chất phác giản đơn, để cho tâm sáng thấu triệt. Phật nói: “Chớ làm điều ác, hãy làm điều lành, giữ tâm trong sạch, đây là lời chư Phật dạy.” Nhìn thì đơn giản, nhưng để làm một người lương thiện, một người thuần khiết, lại chính là tu vi lớn nhất của đời này. Bước đi trong hồng trần cuồn cuộn sóng gió, có được mấy người đạt cảnh giới tột cùng như thế?
Thanh tịnh tâm ý, là Thiền ý cao thâm nhất. Sở dĩ phiền não của chúng sinh không dứt, là vì tâm bị phù vân vọng niệm che khuất, không thể sáng rõ. Làm thế nào để quét sạch trần ai, để tâm tinh khiết như hoa lê trong tuyết, sáng rõ như trăng tỏ giữa trời quang, thì lại phụ thuộc vào tu vi, vào mầm thiện trong mỗi người. Có lúc, chỉ một sát na[7], vọng niệm tiêu tan, giác ngộ thành Phật.
[7] Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày hai mươi tư giờ được tính bằng sáu ngán bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
“Hán thư[8]” viết: “Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá sẽ chẳng có bạn bè.” Cái gọi là “vật cực tất phản”, mạnh mẽ quá sẽ chuốc nhục, cũng là như thế. Ngọc đẹp vẫn còn có vết, người há lại có kẻ hoàn mỹ sao? Chỉ cần lòng độ lượng bao dung, lòng kiên nhẫn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp. Nhưng trên thế gian này có một dòng sông mang tên Thiền, cho dù qua bao nhiêu năm tháng, trước sau vẫn trong vắt đến mức nhìn thấy đáy, mà chúng sinh lại như tảng đá bắc qua sông, có thể yên ổn dưới lòng nước.
[8] “Hán thư”: còn gọi là “Tiền Hán thư”, do sứ gia thời Đông Hán là Ban Cổ biên soạn, là bộ sử đoạn đại thế kỳ truyện đầu tiên của Trung Quốc, một trong “nhị thập tứ sử”.
Hoan lạc chốn nhân gian như giấc mộng không dấu vết. Vì đã mệt mỏi vãng lai giữa phàm trần, cho nên càng nhiều người nguyện làm một loài cây bình thường, cho dù nhỏ nhoi, nhưng lại được sống cuộc sống giản đơn, chất phác hơn loài người. Chỉ muốn yên ổn, tĩnh lặng cho qua ngày, không để tâm đến duyên kiếp khi xưa hay quả báo sau này. Trong con mắt của Phật, một ngọn cỏ, một nhành cây đều có tình, một bông hoa, một phiến lá hết thảy đều liên quan đến Thiền niệm. Những nơi Phật đã đi qua, cho dù là nơi sơn cùng thuỷ tận, cỏ cây tuyệt diệt, nhưng vì có sự hiện diện của Phật mà đều có Thiền ý, đều có từ bi.
Có người hỏi, chặng đường tu Phật rốt cuộc xa đến nhường nào? Cần tiêu phí bao nhiêu thời gian? Phật Đà tu hành hằng trăm hằng nghìn năm, trải qua ngàn vạn kiếp số, ở bờ bên kia Phật quốc, vì chúng sinh trồng hoa sen khắp nơi. Mà chúng ta chỉ vì muốn rũ bỏ nghiệp chướng, sân si, tìm một con thuyền vượt sông, để có thể lên bờ. Phật độ người hữu duyên, quá trình này, có lẽ là một sát na, cũng có thể là cả một đời. Con thuyền vượt sông đó là gì? Là một con nhện trước thềm điện Phật, là một làn gió thơm ở hành lang tự viên, là một ngọn rong trên ao phóng sinh, hoặc là một hạt bụi thấp thoáng lưng trời.
Phật nói: “Nguyện giải thoát vô số chúng sinh, nguyện đoạn tuyệt vô số phiền não, nguyện tu học Phật pháp nhiều vô lượng, nguyện chứng đắc bồ đề vô thượng[9].” Con mắt thanh tịnh nhìn thấu cõi đời, gió cuộn mây vần, cá rồng lẫn lộn, duy chỉ có tâm linh là mảnh đất lành. Tâm yên sẽ không bị thế sự làm kinh hãi, quấy rầy. Phật để chúng sinh sống tạm nơi hồng trần mênh mang, hồng trần tức là đạo tràng, ở đây, chúng ta phải học được cách gặp sao vui vậy. Mù quáng chạy trốn sẽ chỉ đẩy chúng ta rơi vào cảnh khốn cùng hơn nữa mà thôi. Tâm loạn, dù mặc sức đi trên con đường lớn, cũng chỉ như đang đi giữa nơi chật hẹp bí bách. Tâm an, cho dù là nhà cũ giếng cạn, cũng vẫn như bay giữa trời cao vời vợi.
[9] Là bốn câu “Tứ hoằng thệ nguyện độ” – bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo thuộc về các tông phái Đại thừa, tuy nhiên ở phiên bản này có sự khác biệt ở câu thứ tư, là “Bồ đề vô thượng thệ nguyện chứng” thay vì “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” như thường thấy.
Hoa nở gặp Phật. Phật ở nơi nào? Giữa chốn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ, một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyết im lìm không tiếng động, một chậu than hồng là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ, một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm, đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên háo, bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nở, giữa phù hoa giữ sự đơn thuần, trong phồn tạp tĩnh tâm dưỡng tính, sẽ có thể gặp Phật.
Phật luôn hiện hữu, độ hoá, quan tâm đến muôn vạn chúng sinh. Như mẹ hiền chong đèn vá áo, đau đáu, dõi theo những đứa con đi xa; như danh tướng dõi trông sắc trời, nhớ nhung hồng nhan nơi quê cũ; như thôn phụ tựa cánh cửa gỗ, đợi chờ tiều phu trở về. Mà những thế nhân say đắm trong hồng trần đó, có thể buông bỏ hay không? Đứa con đi xa liệu có thể buông bỏ phong cảnh non xanh nước biếc? Danh tướng có thể buông bỏ sự nghiệp non sông để trở về? Tiều phu có thể buông bỏ cuộc sống rau cháo sinh nhai hay không? Chỉ có buông bỏ, mới có thể thành Phật.
Thiền tông thời Tống chia tu hành thành ba cảnh giới. Cảnh giới thứ nhất là “Lạc diệp mãn không sơn, hà xứ tầm phương tích” (Lá rụng đầy núi vắng, nơi nào tìm dấu thơm); cảnh giới thứ hai là “Không sơn vô nhân, thuý lưu hoa khai” (Núi trống không người, nước trôi hoa nở); cảnh giới thứ ba là “Vạn cổ trường không, nhất triều phong nguyệt” (vạn năm đằng đẵng, trăng gió mau trôi). Có lẽ chúng ta không cần hiểu thâm ý bên trong, chỉ biết cho dù thời gian có trôi qua bao lâu, Phật pháp sẽ trường tồn cùng trời đất. Chúng ta chỉ là một sinh linh thuộc về chính mình giữa vũ trụ vạn vật, yên tĩnh sinh trưởng, bình an qua ngày. Còn tu hành, thì trong những tháng ngày luân chuyển xuân hạ thu đông, tự khắc sẽ nhận được quả báo.
Thời gian vẫn vậy, chỉ tăng không giảm, cỏ cây vẫn xanh tốt như xưa, chỉ là chúng ta không còn trẻ nữa. Tháng năm đằng đẵng, mỗi chặng đường chúng ta đi qua luôn có cảm giác như từng quen biết, đó là vì các mùa trở lại, câu chuyện tái diễn, mà đời người cuối cùng cũng như vậy, chẳng có gì khác biệt. Rồi một ngày, thời gian sẽ thổi bay tất cả, tất cả hoài nghi, tất cả mê lầm, và tất cả bất an đều ẩn mình, cho đến khi không vương mảy may bụi trần. Mà những vò rượu cất ủ tồn tại theo tháng năm cũng sẽ được mở ra vào lúc thích hợp, vào một ngày trăng thanh gió mát, để tửu khách bình thản thưởng thức.
Ngọc thô tự nhiên cần được thời gian mài giũa. Đời người hoa lệ, cần Thiền tâm nuôi dưỡng. Hãy đem hoà tấu rộn ràng gửi vào tiếng trúc tiếng tơ; dùng khói lửa phàm trần đổi lấy một chén băng tâm trong bình ngọc. Tại thế gian vô thường, đối diện với ngày mai không thể đoán định, những gì ngày hôm nay có thể làm được, chính là tĩnh tâm ngồi Thiền, nuôi dưỡng tính tình. Để bản thân từ từ bước ra khỏi trần ai loạn thế, trở nên trong sạch tinh khôi.
“Lục Tố đàn kinh[10]” viết: “Hết thảy chúng sinh, hết thảy cây cỏ, có tình vô tình, đều là tối tăm, trăm sông cùng chảy, đổ về biển lớn, hợp thành một thể.” Trên đá tam sinh có khắc ghi nhân quả, mỗi nhành hoa mỗi phiến lá đều liên quan đến Thiền. Chúng ta không cầu trăng sáng trong tay, không cầu hoa thơm đẫm áo, chỉ nguyện năm tháng giản đơn hạnh phúc, bình lặng thanh tịnh. Sẽ có một ngày, Phật duyên tới, ấy chính là đích đến.
[10] “Lục Tố đàn kinh”: Tên đầy đủ là “Lục Tổ đại sư pháp bảo đản kinh”, hay còn gọi là “Pháp bảo đàn kinh”, “Đàn kinh”, do Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng vào đời Đường, đệ tử là Pháp Hải sưu tầm chép lại, ngài Tông Bảo hiệu đính và ấn hành vào đời Nguyên, được xếp vào “Đại Chính Tạng”, tập 48.
Một khúc Vân Thuỷ tỏ Thiền Tâm
Thời khắc đẹp như nước trôi, hâm một bình ánh trăng, trong sân nhỏ sâu khuất, gẩy một khúc “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Những trần ai phiêu lãng của ban ngày, lúc này đã tiêu tán hết, khói mây thu lại, lãng quên sự đời. Son phấn hồng trần đều hạ màn, chim tước về hết chốn sơn lâm. Nước chảy im lìm, một chiếc thuyền nhỏ chèo ngang, thế giới hư ảo đã chìm nơi sóng biếc, không thể tìm được bóng dáng của những chuyện đã qua.
Mây trôi hờ hững, nước róc rách chảy, tiếng đàn tinh tang vô tình, khiến ta quên đi nhân tình thế thái, chỉ nghĩ tới sự trong sạch vô trần chốn đài thiêng. Sự linh hoạt kỳ ảo và véo von của âm nhạc Giang Nam mang đến cho người ta một vẻ đẹp và sự dịu êm mông lung bất định. Những ngày tháng đi khắp giang hồ, tiêu cầm bầu bạn đó đã sớm lùi xa. Đi sau những tháng năm phong trần, tuế nguyệt không còn dịu dàng nữa, chẳng mấy chốc, khách lạ về cố hương, thanh xuân đổi sang đầu bạc.
Vân là gì? Mây tự nhiên tự tại bay trong vạn dặm không trung, không dấu không vết, không chốn đi về, cùng với cảnh trí bốn mùa, biến ảo khó lường, sớm chiều đổi khác. Lúc rực rỡ diễm lệ như cầu vồng, lúc trắng muốt như tuyết, lúc dày đặc như sương mù, lúc lại tàn mát như khói. Tên của nó là Vân, ngạo nghễ trên bầu trời, trăm ngàn tư thế, vạn phong tình. Tuỳ duyên mà tụ, tuỳ duyên mà tan, một đời sáng rỡ, không hề có vết tích. Đến cũng như đi, đều không mang theo thứ gì, ba nghìn ảo cảnh, đều là mơ hồ.
Thuỷ là gì? Hướng thiện như nước, tự tại chảy trôi. Một đời của nước đều khiêm nhường, sáng tạo chúng sinh, nuôi dưỡng vạn vật. Không thấy hình của nó, nhưng lại nghe được âm của nó, biết được cốt của nó. Nước tuy yếu ớt, nhưng lại có cái mạnh mẽ của giọt nước xuyên đá tảng. Suối chảy róc rách, nhưng lại có cái khí thế trăm sông hội tụ. Sóng trong biêng biếc, nhưng lại sâu thẳm khó lường. Sóng cả ào ạt, nhưng lại có cái tinh tế uyển chuyển. Đây chính là nước, có thể rửa trôi vui buồn, cũng có thể xoá mọi phù hoa. Nó chảy qua ngày tháng, trang nhã ung dung, yên lặng vui vẻ, không cầu không ước.
Thiền tâm là gì? Thiền tâm là một bình trà trong dưới nắng chiều, là một cây bồ đề trong đồng nội xanh non, là một luồng sáng trong những tháng năm như nước, là một khúc nhạc nền trong vở kịch nhân sinh. Thiền tâm là giữa núi rừng hoang vắng nhặt nhạnh hết những cành cây lạnh lẽo khẳng khiu, là buông câu giữa trời tuyết bên bờ sông trên chiếc thuyền nho nhỏ; cũng là vội vã qua qua lại lại trên con đường nhân sinh, là nỗi niềm vui sướng ân oán hận thù trong giang hồ mưa gió. Trong lúc bạn toạ Thiền, tâm để ngoài trần thế. Trong lúc bạn ở trần thế, tâm vẫn có thể nhập Thiền.
Mỗi người duy chỉ có mài giũa hết sự sắc nhọn của bản thân, mới có thể thực sự tự tại bình thản. Khi đó, càng hiểu được cách bình tĩnh đối đãi với sự tụ tan ly hợp của đời người, đón nhận khổ nạn và tang thương mà năm tháng mang đến. Đã từng có những năm tháng rực rỡ, đến nay nhìn tưởng tịch liêu thưa vắng, lại có vài phần phong cốt, tăng thêm ý vị. Duy chỉ có như thế, mới có thể có được Thiền Tâm tỉnh táo và sáng suốt, dù khói mây biến ảo, nước trôi ào ào, cũng không thay đổi sắc màu non sông.
“Lục Tố đàn kinh” viết: “Con người ta bản tính trong sạch thanh tịnh, vạn pháp đều sinh ra từ tự tính[11]; nghĩ đến hết thảy việc ác, thì sẽ làm chuyện ác; nghĩ đến hết thảy việc thiện, thì sẽ làm điều thiện. Chư pháp như thế, đều từ trong tự tính, như trời luôn trong xanh, mặt trăng mặt trời luôn toả sáng, vì mây nối che khuất, mà trên sáng dưới tối, bỗng có gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng tỏ, vạn tượng đều hiện rõ”.
[11] Tự tính (sa. Svabhãva, ja. Jishõ) chỉ cái tính nằm sau mọi hiện tượng, cái ngã. Theo quan điểm Đại Thừa, tất cả mọi sự đều không có tự tính (sa. Svabhãva), vô ngã, tức là không có một cái gì chắc thật, riêng biệt đứng đằng sau các trình hiện. Điều đó không có nghĩa sự vật không có thật, chúng hiện diện nhưng chúng chỉ là dạng xuất hiện của tính Không, tự tính là tính Không. Đây là quan điểm trung tâm của tư tưởng Bát Nhã Ba La Mật Đa (sa. Prãnàparamitã) và Trung quán (sa. Madhyamaka). Tuy nhiên, trong Thiền tông và các tông phái của Đại Thừa tại Trung Quốc, danh từ “tự tính” được dùng để chỉ cho bản thể thật sự của chúng sinh, vạn vật, đồng nghĩa với Phật tính (sa. Buddhatã, ja. Busshõ) và nên phân biệt nó với cái tiểu ngã mà Phật đã bác bỏ.
Mỗi một con người khi sinh ra đều lương thiện, chỉ vì nhập thế quá lâu, trải qua quá nhiều chuyện, tiếp xúc với quá nhiều người, mới không còn từ bi nữa. Đây là một quá trình từ lạ lẫm đến quen thuộc, từ đơn giản đến phức tạp, cũng là con đường mà đời người buộc phải đi qua. Có những người, vòng qua mấy ngã rẽ, lại gặp lại bản thân lúc ban đầu, lại nhặt về sự giản đơn và trong sáng của quá khứ. Có những người, trăm chuyển nghìn hối mới có thể giác ngộ tự nhận thức.
Có lẽ đợi đến ngày nào đó, thế sự như gió nhẹ mây nhàn, chúng ta sẽ không cần làm rõ ràng từng giấc mộng cũ. Mà toàn bộ quá trình, chúng ta đã từng có được có mất, đã từng trải qua biết bao hợp ly ly hợp, cũng đã từng có nhiều điều thiện ác, đều không cần tính toán nữa. Bởi vì trước sau chúng ta vẫn đánh mất bản ngã chân thực của chính mình, có thể sống bình thản, thoải mái trong đất trời bao la, thì đó chính là dũng sĩ của năm tháng. Có thể trong một đêm tĩnh mịch, ngắm vầng trăng sáng xa xôi lưng trời, chính là sự từ bi thực sự.
Mộng ảo phù sinh, đều là bèo bọt, như sương như sét, như mây như khói. Ngày hôm qua gió ẩm bồ đề xanh, đêm nay sương nhuộm lá phong đỏ. Sinh mệnh chính là một cuộc viễn hành của loài hồng hạc, đợi đến khi sóng xuân lui xuống, đến ngày gió thu nổi lên, mới hiểu được phải quay về. Khi đó, bước qua hết vạn dặm giang sơn, thăm thú hết mọi miền quê đường dịch, sao lại không biết, sự thanh thản thực sự chính là từ bỏ tất cả, gặp đâu vui đó.
Giấc mộng Nam Kha[12], núi trống rừng già. Chốn đào nguyên mà muôn ngàn chúng sinh lao tâm khổ tứ đi tìm, hoá ra không phải ở non cảnh tiên bồng, mà là nằm trong nhân gian sắc màu sặc sỡ. Ở đây, hoa rơi nước chảy không thành tiếng, sớm lạnh trong khói có lờ mờ; ở đây, giữa rừng trúc chim hót véo von, chốn sơn tự tiếng chuông bảng lảng. Ba canh gió tuyết, đã có thể khiến núi xanh bạc đầu; một bàn cờ thế, đã có thể định rõ Hán Sở thắng thua; một chiếc thuyền nan, cũng đủ để đến được bờ bên kia của Thiền.
[12] Giấc mộng Nam Kha: bắt nguồn từ tiểu thuyết “Tiểu sứ Nam Kha thái thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường, kể về Thuần Vu Phần, say rượu nằm dưới gốc hoè, trong mơ Thuần đến nước Đại Hoè, giành ngôi trạng nguyên, được làm phò mã, rồi được cử làm thái thú đất Nam Kha. Rồi mấy chục năm trôi qua, xảy ra biến cố, Thuần Vu Phần bị nhà vua truất quyền cách chức, trở lại làm thường dân. Tỉnh mộng, thấy dưới gốc cây hoè có một tổ kiến, Thuần hiểu ra nước Đại Hoè chính là tổ kiến ở cây hoè. Về sau giấc mộng Nam Kha được ví đời người như giấc mơ, vinh hoa phú quý đều như mộng ảo.
Thế sự biết bao sóng gió, chìm nổi chỉ trong khoảnh khắc, một suy nghĩ. Người đi nghìn non xa, đêm nay chung trăng sáng. Có một nơi như thế, cho dù chúng ta đi bao xa, lạc lối bao lâu, lún sâu dường nào, đều đợi chờ tôi và bạn. Khi đó chính là chim mỏi về tổ, giữ mái nhà xưa yên ổn. Không thổ lộ tâm sự ly biệt với ngọn gió xuân, chỉ từ khung cửa sổ cao cao, lặng lẽ ngắm nhìn hoa tàn hoa nở trong sân. Nơi này, chính là bồ đề của tâm linh.
Đào kép vào vai, không phân trên hay dưới sân khấu. Mà Thiền già nhập thế, cũng không chia trong hay ngoài trần thế. Bởi vì họ đều đã tu luyện đến một cảnh giới nhất định, sớm đã không chịu tác động của gió mây bên ngoài. Bất cứ lúc nào đều là vai chính, cũng đều không phải vai chính. Họ có đủ định lực, giữ được toà thành thuộc về mình, không cần hứa hẹn, không cần thề thốt, vẫn có thể trường tồn cùng trời đất.
Câu chuyện sinh diệt, tình cảm lên xuống của nhân thế, vốn tương thông với sự tươi tốt khô héo của thiên nhiên. Trong từ của Vương Quốc Duy có một câu như thế này: “Quân khán kim niên thụ thương hoa, bất thị khứ niên chi thượng đoá.” (Bông hoa chàng thấy năm nay, nào phải đoá cũ cành này năm xưa) Chúng ta cho rằng hoa đã tàn, sẽ lại nở tiếp. Mà không biết, hoa nở trăm ngàn lần, nhưng đều không phải đoá hoa trước kia. Giống như một đời của cây cỏ, giống như một kiếp của con người. Cây cối xuân tươi thu héo, mà con người, khi tuổi tráng niên đã qua, sẽ không thể nào trở lại được nữa.
Tất cả chấp nhất đều chỉ là vọng niệm nhất thời, bước qua được, ảo tưởng tiêu tan, vĩnh viễn không phục hồi. Không bước qua được, hãy coi là kiếp số, trên con đường hồng trần gặp phải một lần trắc trở. Chỉ có trồng một cây bồ đề trong tâm, tự tính tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, coi vô thường là bình thường, coi hữu tưởng là vô thường, mới có thể được giải thoát thực sự, giống như mây tự do trôi ngang trời.
Không ai biết cảnh giới của Thiền rốt cuộc là gì, cũng không biết phải tu luyện bằng phương pháp gì. Mỗi một người, chỉ cần trong tâm có thiện niệm, bớt đi ham muốn, tự mình có thể giảm phiền nhiễu, tâm sáng tỏ tường. “Lục Tổ đàn kinh” viết: “Tự tính mà ngộ thì chúng sinh là Phật, tự tính mà mê thì Phật là chúng sinh. Tự tính mà bình đẳng thì chúng sinh là Phật. Tự tính mà ác hiểm thì Phật là chúng sinh.” Phật duyên đã đến, thì điều kiện chín muồi, nước chảy thành sông. Khi đó, cỏ cây là Phật, núi đá là Phật, phàm phu là Phật, tục tử là Phật, vạn vật chúng sinh đều là Phật.
Hoa rơi đạm bạc, nước chảy lặng thinh. Trong những ngày tháng trong trẻo giản đơn, khi nói về tâm tính, ngồi trong rừng trúc sâu hun hút, thưởng thức tịnh trà lóng lánh ánh dương. Nhìn người con gái áo trắng hơn tuyết đó, hàng mi thanh tú, không hề phấn son, gẩy một cây Thất Huyền Lục Y[13], hát một khúc Vân Thuỷ Thiền Tâm, mặc cho lá trúc xào xạc, mây trắng nhởn nhơ, đi đi đến đến, tụ tụ tan tan.
[13] Thất Huyền Lục Y: là cổ cầm, Lục Y cầm là một cây đàn của văn nhân nổi tiếng đời Hán Tư Mã Tương Như. Tương truyền, đàn Lục Y có thân màu đen, loáng thoáng sắc màu xanh thẫm, giống như dây leo bám trên cổ thụ, vì thế có tên là Lục Y.
Vân Thuỷ Thiền Tâm[14]
[14] Thời Bắc Tống, có một cổ khúc tên là “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Trong khung cảnh núi đá, có một thiếu nữ, tên là Thiền Tâm. Nàng có ngộ tính cao, bẩm sinh thông tuệ, không lâu sau, có một đạo sĩ từ phương xa tới, đạo hiệu gọi là “Vân Thuỷ chân nhân”. Nói là mượn nhà của Thiền Tâm để ở, nhưng ở liền hơn một năm mà không có ý trả nhà. Ngày ngày trau dồi cầm nghệ với Thiền Tâm, đêm đến lại cùng ngắm trăng sao. Lâu ngày, có người nói lời đàm tiếu, không còn cách nào khác, Vân Thuỳ chân nhân và Thiền Tâm phải từ biệt. Thiền Tâm đưa tiễn hơn mười cảnh dương liễu tặng, Vân Thuỷ gảy một khúc cáo từ. Trong khúc nhạc. ngoài tâm hồn trong sáng cao vời, tư tưởng Phật gia không gì chướng ngại ra, còn là tâm tình hai bên thấu tỏ lẫn nhau, tình ý thân thiết không nỡ từ biệt. Từ đây khúc nhạc có tên “Vân Thuỷ Thiền Tâm”. Truyền thuyết nói rằng, sau này Thiền Tâm u uất mà chết, tuổi trẻ kết thúc sớm. Lúc bệnh nguy cấp, trên cây đàn thất huyền, nàng đã gẩy âm phù đầu tiên của khúc này.
“Không sơn điểu ngữ hề, nhân dữ bạch vân thê. Sàn sàn thanh tuyền trạc ngã tâm, đàm thâm ngư nhi hí. Phong xuy sơn lâm hề, nguyệt chiếu hoa ảnh di. Hồng trần như mộng tụ hựu ly, đa tình đa bi thích. Vọng nhất phiến u minh hề, ngã dữ nguyệt tương tích. Phủ nhất khúc dao tương ký, nan chiết tương tư ý. Ngã tâm như yên vân, đương không vũ trường tụ. Nhân tại thiên lý, hồn mộng thường tương y. Hồng nhan không tự hứa. Nam Kha nhất mộng tỉnh, không lão sơn lâm. Thính na thanh tuyền đinh đông đinh đông tự vô ý, ánh ngã trường dạ thanh tịch.
(Tạm dịch: Ký gữi Thiền Tâm vào mây nước.
Núi vắng chim véo von hề, người và mây trắng nương tựa lẫn nhau,
Suối trong róc rách tẩy sạch tâm ta, bầy cá nô đùa dưới đầm sâu.
Gió thổi núi rừng hề, trăng chiếu bóng hoa lay,
Hồng trần như mộng hợp lại tan, đa tình lắm đau thương.
Gẩy một khúc đàn tặng người đi xa, khó tỏ hết nỗi lòng nhung nhớ,
Người xa ngàn dặm, hồn vấn vương, trong cõi mộng.
Uổng công tự xưng hồng nhan,
Giấc mộng Nam Kha khó tính, núi trống rừng già.
Nghe tiếng suối trong réo rắt như vô tình, soi tỏ mình ta tịch mịch giữa đêm thâu.)
Tất cả hữu tình đều sẽ trôi qua
Rất nhiều năm về trước, từng tưởng rằng Phật là vô tình. Bởi vì người xuất gia phải từ bỏ chấp niệm, cắt đứt trần duyên, mới có thể ở nơi núi non hẻo lánh, chẳng màng thế sự. Họ không còn qua lại với thế giới bên ngoài, thi thoảng có khách dâng hương, cũng chỉ là kết mối Phật duyên nhàn nhạt. Thế nên, họ chỉ có thể hấp thu linh khí trời đất trong vạn vật tự nhiên, cảm nhận nhân gian ấm lạnh trong năm tháng đổi dời. Vậy là, họ coi cây tùng già trên vách đá cheo leo là tri kỷ, coi cỏ xanh trên giếng cổ là tâm giao, coi con kiến trên thềm đá là bạn vong niên.
Sau này mới hay, Phật là nặng tình, lấy thân thử kiếp, mới có được tịnh thổ liên hoa của Phật quốc Thuỷ Thiên[15]. Phật ban phát tình yêu cho khắp chúng sinh, để những kẻ rơi vào lưới trần như tôi và bạn, có thêm một lựa chọn lương thiện, được giải thoát một cách yên lặng giữa khổ đau. Còn Phật, chưa bao giờ tham luyến phồn hoa khói lửa, luôn thanh đạm tự chủ, tĩnh toạ trên đài mây, ôn hoà an lành.
[15]Thuỷ Thiên Phật quốc: Thuỷ Thiên là tên của thiên thần, tiếng Phạn là Varuna, là một trong mười hai thiên Mật giáo, một trong Tám thiên hộ thế. Tức thần trấn giữ phương Tây, Phật quốc vừa là đất Phật, vừa chỉ chung chùa chiền. Ở đây Thuỳ Thiên Phật Quốc được hiểu là xứ Phật.
Tại sao Phật có thể buông bỏ oán tình cá nhân, bác ái hồng trần, mà thế nhân lại đắm chìm trong ái tình cỏn con của mình, luôn rơi vào cảnh ngộ không cách nào giải thoát nổi, là vì tu vi không đủ, hay là số mệnh đã định phải trải hết trần kiếp, mới có thể tránh được vòng luân hồi nhân quả? Đời đời kiếp kiếp, dòng Vong Xuyên của năm tháng chưa từng dừng lại mà vẫn hối hả đến và đi.
Nhân sinh hữu tình, cho nên mới có vương vấn, mới có phiền não. Phật nói, ngoái đầu nhìn nhau năm trăm lần mới đổi được cái lướt qua nhau của kiếp này. Cái gọi là duyên định ba kiếp, một vài cuộc gặp gỡ dường như đã được sắp xếp từ kiếp trước, cho nên, kiếp này tình vương không dứt. Phật khiến chúng sinh hiểu được thương tiếc duyên phận, trân trọng tình cảm, nhưng cũng khuyên răn chúng ta không nên mù quáng mê đắm, trên con đường năm tháng vô bờ, đánh mất bản chất chân thực của mình.
“Kinh Nghiêm Hoa[16]” viết: “Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ và đức tướng giống Như Lai, nhưng vì vọng tưởng và chấp trước, cho nên không thể chứng ngộ.” Không thể ung dung tự tại, là vì không thể dứt tình. Vì vậy mới gọi là bể khổ vô biên, quay đầu là bờ. Có tình là bể khổ, vô tình là bờ. Đại Thiên thế giới, mọi thứ đều là khổ, mà người ở ngoài cõi thế, coi mọi nỗi khổ thành niềm vui; coi hữu tình thành vô tình. Cho nên chúng ta luôn có thể cầu được yên tĩnh giữa chốn huyên náo; đạt được vui sướng giữa mọi niềm đau.
[16] “Kinh Ngiêm Hoa”: Tên đầy đủ là “Đại Phương Quảng Phật Nghiêm Hoa Kinh”, là một bộ kinh Đại Thiền, lập giáo lý căn bản của Nghiêm Hoa tông.
Trước khi buông bỏ, đều có một quá trình cố chấp. Quá trình này, có lẽ không phải là phượng hoàng Niết Bàn[17], nhưng cũng phải kinh qua vô số lần bãi biển hoá nương dâu. Trước khi Phật Đà A Nan xuất gia, từng gặp gỡ một thiếu nữ xinh đẹp trên đường, chỉ một lần như thế, từ đó mà đem lòng ngưỡng mộ lưu luyến không nguôi. Phật Tổ hỏi người: “Con thích cô gái đó đến nhường nào?” A Nan đáp: “Nguyện hoá thành cây cầu đá, chịu năm trăm năm gió thốc, năm trăm năm nắng đổ, năm trăm năm mưa sa, chỉ mong người con gái đó đi qua cầu.”
[17] Theo truyền thuyết, khi phượng hoàng Niết bàn, tức là phượng hoàng nhảy vào lửa đỏ, rồi tái sinh từ tro tàn.
Nặng tình đến thế, bây giờ chỉ có thể coi là một thần thoại. Yêu đến nhường nào mới có thể chịu đựng được thời gian dài đằng đẵng? Đừng nói là năm trăm năm, cho dù là ba năm hay năm năm cũng khó mà giữ được. Khi yêu, cam tâm tình nguyện tồn tại vì một người. Đến ngày hết yêu, lại hy vọng xoá bỏ mọi ký ức liên quan, toàn thân thanh tịnh.
Có lẽ rất nhiều người đều muốn biết, sau khi A Nan quy y cửa Phật, có còn nhớ lời thề ước ban đầu hay không? Đợi đến khi thiếu nữ xinh đẹp đó thành một bà lão tóc trắng phau phau, người còn tình sâu không đổi như cũ chứ? Người có lẽ có thể hoá thành cầu đá vì nàng, hóa thành non xanh nước biếc, hoá thân ngàn vạn lần, người cũng có thể thanh tịnh không vướng bận gì. Nếu như A Nan và thiếu nữ ấy kết một đoạn nhân duyên, liệu có thế trải qua ngày tháng thanh đạm sớm chiều bên nhau, giữ cho tình sâu ý nặng như ban đầu hay không?
Không có nếu như, cũng như chúng ta không cách gì có được kết quả chính xác từ một lời dự báo. Trong những ngày đánh mất tình yêu, năm tháng vẫn yên ổn như xưa, tuế nguyệt tĩnh mịch như thuở ban đầu. Nhưng những chuyện cũ tưởng chừng có thể lãng quên đó, lại không thế quên nổi dù chỉ là một chuyện, nhưng không thể tính toán, đành thuận theo tự nhiên. Thế sự rối rắm, bạn coi một vở kịch là thật, vậy thì tất cả thành thật. Bạn coi cuộc sống là giả, vậy thì tất cả đúng là giả.
Thái độ sống của mỗi người khác nhau, cách thức đối đãi với tình cảm cũng mỗi người một vẻ. Phật dạy con người không nên có quá nhiều chấp niệm đối với tình yêu, nhưng Phật lại ban phát càng nhiều tình yêu cho chúng sinh, mà không cầu bất cứ đền đáp nào. Trên thế gian này luôn có những người phải đợi ngàn cành buồm qua hết, mới nhận ra phải quay đầu, phải đợi đến lúc chia ly thất tán, mới bắt đầu hiểu được trân trọng, đợi đến lúc vật còn người mất, mới bắt đầu nhớ nhung.
Ở cung Potala (Bố Đạt La) xa xôi, từng có một vị tình tăng như thế, ngài tên gọi là Thương Ương Gia Thố, được vạn dân sùng bái. Cho dù Thiền Tâm thanh tịnh, thấu suốt, nhưng vì tình cảm mà không thể tự chủ. Năm đó ngài đã từng viết câu thơ khắc cốt ghi tâm: “Thế gian an đắc song toàn pháp, bất phụ Như Lai bất phụ khanh.” (tạm dịch: Thế gian sao thể vẹn đôi đường, không phụ Như Lai chẳng phụ nàng) Ngài chính là một vị Phật nghiêm trang tĩnh toạ trên đài sen, phổ độ chúng sinh, mà trong lòng không thể quên được cuộc sống lứa đôi hạnh phúc.
Ở Tây Tạng, nơi thần bí cao thâm vời vợi, truyền thuyết về ngài như một bản tình ca, truyền đi hết thảy những nơi có cỏ cây, hồ nước. Rất nhiều người băng núi vượt sông đi tìm, đi lễ bái, không chỉ vì tín ngưỡng, mà nguyên nhân sâu xa hơn là vị tình tăng lãng mạn này đã đem đến sự thần kỳ và tươi đẹp như mộng ảo, khiến thế nhân tin rằng. ở vùng đất thần bí đó, hoa tình mọc khắp nơi, mỗi dòng sông, mỗi ngọn núi, mỗi chú dê nơi đó, đều được siêu độ.
Sau này lại có một vị tình tăng, người là chú nhạn cô lẻ giữa hồng trần, phiêu lãng nửa đời, nếm hết tình vị. Vị tăng già được tiên đoán số mệnh này, tên là Tô Mạn Thù. Cuộc đời của người, mấy lần trốn vào cửa Phật, nhưng trước sau chẳng quên nổi trần duyên. Khi người rời khỏi nhân gian, để lại tám chữ: Hết thảy hữu tình, đều không vương vấn. Nhưng người thực sự đã đốn ngộ, đã từ bỏ được chưa? Khi còn sống, người đã phụ biết bao hồng nhan, mỗi lần gây ra hoạ, lại quay người bỏ trốn. Không phải người vô tình, mà là thực sự không thể gánh vác trách nhiệm.
Chắc chắn còn rất nhiều vị tình tăng chúng ta đã biết, và cả những người chúng ta chưa biết, họ có phẩm chất như hoa sen, là một hạt cải giống trước Phật, lại là một đoá hoa sóng trong biển tình. Những người này cho dù là ngồi thiền trước Phật, hay là bôn tẩu nơi trần thế, sự tu hành của họ, đều là chữ Tình. Quỳ trên nệm bồ đoàn, dùng thời gian trăm nghìn năm, luân hồi mấy kiếp, đổi lấy nhân duyên một đời, hay một lần tương phùng. Đợi đến một ngày được như ý nguyện, là có thể triệt để cắt bỏ chấp niệm, tâm như pha lê, trong vắt như nước.
Phật nói: “Các hành đều vô thường, tất cả đều là khổ. Các pháp đều vô ngã, tịch diệt tức là vui[18].”[19] Trong quá trình tu luyện, không phải một lòng cố chấp vạch rõ giới hạn giữa bản thân với thế sự phồn tạp, mà là thân ở giữa khói lửa xoay vòng, vẫn có thể trong sáng như tuyết trắng năm xưa. Đi khắp sơn hà mênh mang, vạn vật phồn thịnh, ai vui nhân duyên thiên tính của người đó, ai cũng không thể thay thế được ai. Những con đường đã qua, những người đã gặp, những chuyện đã xảy ra, giống như nước sông dào dạt, không thể ngược dòng.
[18] Cùng với “Tịch tĩnh Niết Bàn là Tam pháp ẩn trong Phật giáo.
[19] Tức là diện mạo, chân tướng vốn có.
Rốt cuộc bạn còn cố chấp điều gì? Đã biết rõ, mỗi người đều là hạt bụi nhỏ nhoi giữa đất trời, có một ngày không biết sẽ về đâu. Phật Đà A Nan dù hoá thân thành cây cầu đá, chịu trăm ngàn năm gió thốc nắng đổ, há chẳng biết người thiếu nữ ấy đã chịu luân hồi cũng năm tháng hay không? Có lẽ nàng đã hoá thân thành bụi trần ở một kiếp nào đó, tan thành tro bụi, không hồn không phách. Có lẽ nàng hoá thành hoa sen ở một kiếp nào đó, tu thành chính quả trước Phật, cũng không cần chuyển thế đầu thai nữa.
Hết thảy hữu tình đều sẽ trôi qua. Trên ngả đường mây khói nghìn trùng, lời nào cũng không cần nói. Khi cáo biệt, cũng không cần ngoái nhìn. Sát na quay người, xin hãy khắc ghi quãng thời gian chúng ta đã từng đi qua đó.
Bình luận truyện