Nạp Thiếp Ký II
Chương 139: Công Chiếm Bảo Khánh
Trương tặc quân hiện giờ không còn vũ khí nặng, không có lương thảo, tướng sĩ tử vong hơn phân nửa, đại bộ phận binh sĩ đều bị phỏng với trình độ khác nhau, sĩ khí xuống thấp vô cùng.
Không có lương thảo, coi như không có biện pháp đánh nhau. Hơn nữa, ngay địch ở chỗ nào chúng còn chưa biết thì làm sao mà đánh.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc giản đơn thương lượng xong, và lần nay hiếm lắm mới có dịp hai người nhanh chóng thống nhất ý kiến như vậy: lập tức triệt quân.
Bốn vạn tàn binh bại tướng vượt qua triền núi sụp đổ ở Nham Lũng sơn, lui về phía Bảo Khánh. Sau khi gấp hành quân hai đêm, dọc đường chúng không gặp địch, tướng sĩ đều mệt mỏi nhưng không dám ngừng nghỉ. Đến ngày thứ ba, khi chúng không còn chịu nổi nữa, chuẩn bị an doanh hạ trại, thì đối đầu ngay với ba vạn quân dĩ dật đãi lao của Dương Thu Trì!
Thì ra, sau khi Dương Thu Trì thu được quân tình, biết địch nhiều ta ít, không thể liều chống, nên phân phát lương thực tổ chức cho bá tánh toàn thành trốn vào trong Tuyết Phong sơn gần đó. Còn ba vị vương gia và quan viên trọng yếu của nha môn thì trốn toàn bộ vào sơn trại của nhị đại vương Vũ Kỳ khi xưa. Tám nghìn quân đội và thiết bị chế tạo đạn dược, nguyên liệu cũng điều tiến vào núi.
CÙng lúc đó, thám mã thông thạo đường lối được phái đi đã dùng bồ câu đưa thư thông báo tin tức địch quân. Ứng theo đó, mỗi đêm đều có một tiểu phân đội Phất Lãng Cơ xuất phát, tiến hành quấy nhiễu trọng điểm đối với quân của Lý Định Quốc.
Dương Thu Trì cũng không chịu nhàn. Ngoại trừ tổ chức trận chiến Nham Lũng sơn, thời gian còn lại hắn đều nghiên cứu làm sao đẩy nhanh tốc độ chế tạo đạn dược.
Và ông trời không phụ người có công, hắn dựa trên cơ sở của Vô Trần đạo trưởng, cuối cùng cải tiến thiết kế ra thiết bị có thể sản sinh một lượng lớn thuốc nổ đắng, giảm thiểu phần lớn các bước chế tạo, chuyển sang cho thiết bị cơ giới làm. Đương nhiên, những bộ phận kỹ thuật trọng yếu trong việc làm thuốc nổ và đạn được hắn tự tay độc lập hoàn thành. Công tác bảo mật này là cần thiết, vì mất nó, coi như hắn chẳng là gì cả trong thế giới này.
Do thiết bị kỹ thuật có đột phá trọng đại, thuốc nổ đắng và thuốc súng không khói, kíp nổ có sản lượng gia tăng gấp năm lần, khiến cho lượng đạn trung bình sản xuất ra từ 500 phát lên 2500 phát, tạc đạn bằng đá từ 10 quả tăng lên 50 quả 1 ngày.
Suốt hai chục ngày chế tạo cộng thêm lượng đạn dược chế ra hơn mười ngày trước, hắn đã tích lũy đạn dược kha khá. Trong đó thuốc nổ phần lớn đã dùng cho các cuộc tập kích, vụ nổ ở Kiềm Dương huyện thành. Đạn được sử dụng rất ít, nên trong hơn 1 tháng này, hắn đã chế tạo gần sáu bảy vạn phát tử đạn. Đủ trang bị cho 3 chiếc súng máy của Dương Thu Trì.
Ngoài ra, hơn một nghìn cây súng lão sáo đồng đã được chế tạo, trang bị hết cho hơn nghìn kỵ binh tinh nhuệ.
Trong thời gian này, ba vị vương gia cũng phái người phân biệt đến Tĩnh châu và Quý châu mượn binh. Quý châu gần Bình Khê vệ, Đồng Lăng ở Tương tây, có một lượng lớn Minh quân trú đóng. Quân đội này còn chưa dùng qua.
A Hạnh Ny cũng đến Quý châu mượn binh của các miêu trại, thổ gia và thổ ti.
Mặt mũi của ba vị vương gia quả là lớn, cộng thêm tài lực hùng hậu làm hậu thuẫn, họ đã mượn được hơn hai vạn binh. Dương Thu Trì đem số quân này mai phục ở chỗ từ Kiềm Dương về Bảo Khánh tất phải đi qua.
Trong trọng lửa lớn ở Kiềm Dương, địch quân bị thiêu chết mấy vạn, lương thảo cháy sạch, địch quân bất đắc dĩ phải lui binh, chạy suốt ba ngày đêm thì gặp ba vạn quân của Dương Thu Trì.
Đây là vùng đất trống trải, địch quân mệt mỏi không có lòng luyến chiến, đặc biệt là khi thấy binh lực đối phương tương đương, nên chỉ muốn đào tẩu. Nhưng đại quân Dương Thu Trì đã vào thế bạch hạc giang cánh, chính diện có súng máy của Dương Thu Trì, hai cánh đều phối 500 cây lão sáo đồng, căn bản không cho địch quân đào tẩu.
Dương Thu Trì trước hết cho dùng hồng di đại pháo bắn đạn nổ trên không tiến hành oanh kích, địch quân tử thương vô số. Mấy chiếc thiết luân xa chuyên dùng để đối phó vũ khí quái thú đã hư cháy hết ở Kiềm Dương huyện thành, cho nên hiện giờ chỉ biết ráng cố sức xung phong.
Nhưng súng máy maxim không cho phép thực hiện điều đó. Địch quân ngã như rạ, trong chiến đấu có không ít tên học cách lăn lê bò lếch tránh đạn, nhưng lại bị tạc đạn đá nổ ở trên không biến thành bia sống.
Thấy không thể xung phá, địch quân chuẩn bị đột vây từ hai cánh, nhưng đón tiếp chúng là binh sĩ dùng lão sáo đồng có tầm bắn 2000 mét, hữu hiệu 600 mét, xa vượt qua cung tên hay điểu thương, tuy là bắn từng phát nhưng tới 500 quân bắn một lúc, hơn nữa lại có 5 phát đạn, nên nhanh chóng biến địch quân thành những xác chết không hồn.
Thấy địch quân đã loạn, Dương Thu Trì không muốn hao phí đạn dược cực khổ chế ra vào chiến trường này, vung roi ngựa hạ lệnh bộ binh xung phong.
Xông lên trước lạ hỏa súng binh, khi tới xạ trình thì bắn, địch quân ngã rạp, tiếp đó hai vạn tinh binh mượn từ Tỉnh châu và Quý châu làm công việc còn lại.
Hơn nghìn kỵ binh mang súng của hắn đối phó với bộ binh như chỗ không người, bộ binh tiếp theo sau đánh quả nhiên là khiến binh bại như núi đổ, bốn vạn địch quân chớp mắt tan tành. Ba ngay hai đêm hành quân liên tục đã khiến địch mệt mỏi rã rời, không còn lực để chạy nữa. Cho nên, ngoại trừ thân binh và hộ vệ của Lý Định Quốc, Tôn Khả Vọng mở đường máu từ bên cánh chạy thoát vòng vây, hai vạn quân còn lại đều quỳ xuống đầu hàng toàn bộ.
Trận này diệt hơn 1 vạn quân, giành toàn thắng.
Dương Thu Trì nhận được quân tình là 8 vạn địch quân rời khỏi Bảo Khánh phủ xong, thủ quân trong thành chỉ còn vài nghìn, nên lập tức quyết định thừa thắng truy kích, binh phát Bảo Khánh phủ. Mấy ngày sau, binh đến dưới thành.
Lúc này đại quân của Dương Thu Trì nhờ có hai vạn địch quân đầu hàng thu nhận vào, số lượng đã đạt đến 5 vạn.
Thủ quân của Bảo Khánh phủ ngoan cường đề kháng, quyết không đầu hàng. Dương Thu Trì quyết định phát động cường công, dùng hỏa pháo oanh kích tường thành.
Tường thành thời cổ đại đối phó với binh khí lạnh hay thật tâm pháo đạn còn được, chứ trước mặt pháo đạn bằng thuốc nổ đắng của Dương Thu Trì, nó yếu ớt như là đất bùn vậy, chẳng mấy chốc đã bị bắn vỡ ra mấy cái lổ hổng lớn.
Do Dương Thu Trì thực hiện chính sách ưu đãi tù binh, hai vạn quân Trương Hiến Trung đầu hàng cảm kích trong lòng, lại có lòng kính sợ đối với vũ khí quái vật của hắn, nhận thấy theo hắn mới có tiền đồ, nên thật tâm đầu hàng và quyết tâm lập công trong trận này. Chúng xông lên trước, tiến vào thành trước, diệt phần lớn thủ quân trong thành.
Trước chuyện này, Dương Thu Trì đã tuyên bố chính sách sau khi phá thành, nghiêm chỉnh chấp hành ba đại kỷ luật tám hạng chú ý, nên sau khi tiến vào trong, không những không quấy nhiễu dân chúng, còn lập tức mở kho phát lương, chẩn tế bá tánh cùng khổ, được dân chúng toàn thành Bảo Khánh ủng hộ và hoan nghênh.
Ba vị vương gia hôm sau cũng di chuyển đến Bảo Khánh, đối với Dương Thu Trì càng bội phục sát đất, đặc biệt là Quế vương vô cùng vui mừng vì bước đi chính xác trước đây của mình.
Thời gian đã trải qua một tháng kể từ khi ba vị vương gia và tổng binh Khổng Hi Quý tiến cử Dương Thu Trì kế thừa tước vị Sở vương, nhung chưa có tin tức phản hồi gì. Hiện tại cần phải hiện thực hóa điều này, nếu không lòng họ như treo trên sợi tóc giữa vực sâu. Họ lập tức dùng bát bách lý gia cấp khởi tấu chương, đem đại tiệp ở Kiềm Dương báo lên triều đình, đồng thời lần nữa tiến cử hắn vào tước vị Sở vương, yêu cầu triều đình chính thức giao cấp binh quyền cho Dương Thu Trì.
Bảo Khánh là phủ, thành trì to hơn Kiềm Dương nhiều. Đại quân Trương Hiến Trung tích trữ rất nhiều quân lương ở đây. Dương Thu Trì hiện giờ muốn nhanh chóng khoách đại đội ngũ của mình, nên lập tức dựng cờ chiêu binh, tăng thêm quân đội.
Kiềm Dương huyện đã bị cháy rụi, Dương Thu Trì thuyết phục ba vị vương gia đem một lượng tài sản lớn cho bá tánh tu sửa lại nhà cửa. Đây là điều trước giờ chưa có, làm gì có chiến tranh thiêu hủy rồi lấy tiền bồi thường, cho nên cử động này của hắn được truyền tụng khắp nơi, cả vùng Tương Tây ai ai cũng biết, thanh niên trai tráng đến đầu quân rất độc, thậm chí có không ít Minh quân bị tán lạc khắp nơi kéo về, nên trong vòng nửa tháng đã chiêu mô 5 vạn tân quân.
Dương Thu Trì vốn muốn dùng xong hai vạn quân mượn rồi trả lại, nhưng mấy tướng lĩnh dẫn đầu đều sống chết không chịu đi, quỳ xuống thề muốn lĩnh quân theo Dương Thu Trì. Và thế là, binh lực của hắn coi như đã đạt 10 vạn.
Bảo Khánh phủ lớn hơn Kiềm Dương nhiều, có mấy chục vạn nhân khẩu, thợ sắt rành nghề hơn nghìn người, Dương Thu Trì lập tức triệu tập mọi công tượng trong thành tham gia chế tạo vũ khí. Có tiền có người, cộng thêm có dân ủng hộ, làm việc gì cũng nhanh, cho nên quặng mỏ cần chế tạo đạn dược không ngừng được chuyển tới Bảo Khánh.
Dương Thu Trì dùng 1 tháng để chế tạo hơn chục vạn phát đạn và hơn nghìn quả pháo đạn. Dưới nỗ lực của hơn nghìn thiết tượng, hắn lại chế thêm được 1000 lão sáo đồng, cộng với số cũ được 2 nghìn cây súng.
Quân tinh nhuệ là đội ngũ có lực chiến đấu cao nhất, do đó tố chất cũng phải cao. Hắn điều chỉnh lại quân của mình, căn cứ lượng đạn và số lượng lão sáo đồng, biến quân tinh nhuệ thành đội ngũ 1 nghìn 600 người, tổ thành hai kỵ binh đoàn, chọn từ trong 10 vạn đại quân này những kẻ giỏi về thuật cưỡi ngựa, sau đó cho thi bắn súng toại phát trong khi cưỡi ngựa tiến hành chánh thẩm. Ngoại trừ những người có nguồn gốc rõ ràng, hắn cho tra rõ lý lịch, loại hết những kẻ có lại lịch mờ ám, đảm bảo địch quân không trà trộn vào.
Kỵ binh đoàn có hai thiên tổng (đoàn trưởng) do Dương Thu Trì tự tuyển, đó là Nhị đại vương Vũ Kỳ và một binh sĩ Đồng tộc giỏi bắn giỏi cưỡi ngựa trong Đồng tộc tên là Đô Cường. Đây là một bách phu trưởng của A Hạnh Ny, đã từng tham gia trận chiến bảo vệ Kiềm Dương, có tài chỉ huy, tác chiến dũng mãnh, cơ trí ngoan cường. Hai người này đều trung thành với Dương Thu Trì.
Vấn đề chiến mã cũng giải quyết dễ dàng, vì sau khi chiếm Bảo Khánh, quân hắn đã tước đoạt được một lượng lớn chiến mã. Cộng thêm hắn cho người đi mua ngựa khắp nơi, cho nên số lượng đủ dùng cho kỵ binh.
Khi xây dựng lại kỵ binh tinh nhuệ này, Dương Thu Trì căn cứ suy nghĩ của mình tổ chức huấn luyện, chú trọng tính kỹ luật, răm rắp tuân theo chỉ huy.
Một tháng sau, được Quế vương cực lực chủ trương, Dương Thu Trì thấy tình huống chuẩn bị đã cơ bản có thành tựu, liền quyết định mang binh tấn công sào huyệt cũ của Quế vương là Hành châu.
Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc đột phá khỏi trận chiến Kiềm Dương cuối cùng cũng tìm về tổ chức. Ba nhiệm vụ Trương Hiến Trung giao không những không hoàn thành, mà vạn đại quân còn bị Dương Thu Trì làm sập núi, đánh đêm, hỏa thiêu và tiêu diệt hết sạch, khiến y tức suýt ói máu ngay tại trận.
Trương Hiến Trung nghe Dương Thu Trì phát binh Hành châu, liền hạ lệnh Lưu Văn Tú tử thủ Hành châu, cấp tốc điều đại quân đánh vào Giang Tây trở về, điều động quân đội các nơi tập trung mọi binh lực lên đến 20 vạn kéo đến Hành châu chuẩn bị hội chiến, quyết định diệt gọn quân đội của Dương Thu Trì.
Lưu Văn Tú có 8 vạn quân ở Hành châu, là một trong 4 nghĩa tử của Trương Hiến Trung, được phong làm Phủ nam tướng quân, là ái tướng tâm phúc của y. Hành châu là yếu đạo giao thông liên thông nam bắc Hồ Quảng, xuống nam là Quảng Tây, về đông là Giang Tây. Đây là trọng trấn chiến lược và yết hầu, do đó Trương Hiến Trung mới chỉ phái Lưu Văn Tú cầm trọng binh trú thủ nơi này.
Thành tường Hành châu xây dựng vô cùng kiên cố, tinh binh đông lương đủ, nhất định khó phá vô cùng.
Không có lương thảo, coi như không có biện pháp đánh nhau. Hơn nữa, ngay địch ở chỗ nào chúng còn chưa biết thì làm sao mà đánh.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc giản đơn thương lượng xong, và lần nay hiếm lắm mới có dịp hai người nhanh chóng thống nhất ý kiến như vậy: lập tức triệt quân.
Bốn vạn tàn binh bại tướng vượt qua triền núi sụp đổ ở Nham Lũng sơn, lui về phía Bảo Khánh. Sau khi gấp hành quân hai đêm, dọc đường chúng không gặp địch, tướng sĩ đều mệt mỏi nhưng không dám ngừng nghỉ. Đến ngày thứ ba, khi chúng không còn chịu nổi nữa, chuẩn bị an doanh hạ trại, thì đối đầu ngay với ba vạn quân dĩ dật đãi lao của Dương Thu Trì!
Thì ra, sau khi Dương Thu Trì thu được quân tình, biết địch nhiều ta ít, không thể liều chống, nên phân phát lương thực tổ chức cho bá tánh toàn thành trốn vào trong Tuyết Phong sơn gần đó. Còn ba vị vương gia và quan viên trọng yếu của nha môn thì trốn toàn bộ vào sơn trại của nhị đại vương Vũ Kỳ khi xưa. Tám nghìn quân đội và thiết bị chế tạo đạn dược, nguyên liệu cũng điều tiến vào núi.
CÙng lúc đó, thám mã thông thạo đường lối được phái đi đã dùng bồ câu đưa thư thông báo tin tức địch quân. Ứng theo đó, mỗi đêm đều có một tiểu phân đội Phất Lãng Cơ xuất phát, tiến hành quấy nhiễu trọng điểm đối với quân của Lý Định Quốc.
Dương Thu Trì cũng không chịu nhàn. Ngoại trừ tổ chức trận chiến Nham Lũng sơn, thời gian còn lại hắn đều nghiên cứu làm sao đẩy nhanh tốc độ chế tạo đạn dược.
Và ông trời không phụ người có công, hắn dựa trên cơ sở của Vô Trần đạo trưởng, cuối cùng cải tiến thiết kế ra thiết bị có thể sản sinh một lượng lớn thuốc nổ đắng, giảm thiểu phần lớn các bước chế tạo, chuyển sang cho thiết bị cơ giới làm. Đương nhiên, những bộ phận kỹ thuật trọng yếu trong việc làm thuốc nổ và đạn được hắn tự tay độc lập hoàn thành. Công tác bảo mật này là cần thiết, vì mất nó, coi như hắn chẳng là gì cả trong thế giới này.
Do thiết bị kỹ thuật có đột phá trọng đại, thuốc nổ đắng và thuốc súng không khói, kíp nổ có sản lượng gia tăng gấp năm lần, khiến cho lượng đạn trung bình sản xuất ra từ 500 phát lên 2500 phát, tạc đạn bằng đá từ 10 quả tăng lên 50 quả 1 ngày.
Suốt hai chục ngày chế tạo cộng thêm lượng đạn dược chế ra hơn mười ngày trước, hắn đã tích lũy đạn dược kha khá. Trong đó thuốc nổ phần lớn đã dùng cho các cuộc tập kích, vụ nổ ở Kiềm Dương huyện thành. Đạn được sử dụng rất ít, nên trong hơn 1 tháng này, hắn đã chế tạo gần sáu bảy vạn phát tử đạn. Đủ trang bị cho 3 chiếc súng máy của Dương Thu Trì.
Ngoài ra, hơn một nghìn cây súng lão sáo đồng đã được chế tạo, trang bị hết cho hơn nghìn kỵ binh tinh nhuệ.
Trong thời gian này, ba vị vương gia cũng phái người phân biệt đến Tĩnh châu và Quý châu mượn binh. Quý châu gần Bình Khê vệ, Đồng Lăng ở Tương tây, có một lượng lớn Minh quân trú đóng. Quân đội này còn chưa dùng qua.
A Hạnh Ny cũng đến Quý châu mượn binh của các miêu trại, thổ gia và thổ ti.
Mặt mũi của ba vị vương gia quả là lớn, cộng thêm tài lực hùng hậu làm hậu thuẫn, họ đã mượn được hơn hai vạn binh. Dương Thu Trì đem số quân này mai phục ở chỗ từ Kiềm Dương về Bảo Khánh tất phải đi qua.
Trong trọng lửa lớn ở Kiềm Dương, địch quân bị thiêu chết mấy vạn, lương thảo cháy sạch, địch quân bất đắc dĩ phải lui binh, chạy suốt ba ngày đêm thì gặp ba vạn quân của Dương Thu Trì.
Đây là vùng đất trống trải, địch quân mệt mỏi không có lòng luyến chiến, đặc biệt là khi thấy binh lực đối phương tương đương, nên chỉ muốn đào tẩu. Nhưng đại quân Dương Thu Trì đã vào thế bạch hạc giang cánh, chính diện có súng máy của Dương Thu Trì, hai cánh đều phối 500 cây lão sáo đồng, căn bản không cho địch quân đào tẩu.
Dương Thu Trì trước hết cho dùng hồng di đại pháo bắn đạn nổ trên không tiến hành oanh kích, địch quân tử thương vô số. Mấy chiếc thiết luân xa chuyên dùng để đối phó vũ khí quái thú đã hư cháy hết ở Kiềm Dương huyện thành, cho nên hiện giờ chỉ biết ráng cố sức xung phong.
Nhưng súng máy maxim không cho phép thực hiện điều đó. Địch quân ngã như rạ, trong chiến đấu có không ít tên học cách lăn lê bò lếch tránh đạn, nhưng lại bị tạc đạn đá nổ ở trên không biến thành bia sống.
Thấy không thể xung phá, địch quân chuẩn bị đột vây từ hai cánh, nhưng đón tiếp chúng là binh sĩ dùng lão sáo đồng có tầm bắn 2000 mét, hữu hiệu 600 mét, xa vượt qua cung tên hay điểu thương, tuy là bắn từng phát nhưng tới 500 quân bắn một lúc, hơn nữa lại có 5 phát đạn, nên nhanh chóng biến địch quân thành những xác chết không hồn.
Thấy địch quân đã loạn, Dương Thu Trì không muốn hao phí đạn dược cực khổ chế ra vào chiến trường này, vung roi ngựa hạ lệnh bộ binh xung phong.
Xông lên trước lạ hỏa súng binh, khi tới xạ trình thì bắn, địch quân ngã rạp, tiếp đó hai vạn tinh binh mượn từ Tỉnh châu và Quý châu làm công việc còn lại.
Hơn nghìn kỵ binh mang súng của hắn đối phó với bộ binh như chỗ không người, bộ binh tiếp theo sau đánh quả nhiên là khiến binh bại như núi đổ, bốn vạn địch quân chớp mắt tan tành. Ba ngay hai đêm hành quân liên tục đã khiến địch mệt mỏi rã rời, không còn lực để chạy nữa. Cho nên, ngoại trừ thân binh và hộ vệ của Lý Định Quốc, Tôn Khả Vọng mở đường máu từ bên cánh chạy thoát vòng vây, hai vạn quân còn lại đều quỳ xuống đầu hàng toàn bộ.
Trận này diệt hơn 1 vạn quân, giành toàn thắng.
Dương Thu Trì nhận được quân tình là 8 vạn địch quân rời khỏi Bảo Khánh phủ xong, thủ quân trong thành chỉ còn vài nghìn, nên lập tức quyết định thừa thắng truy kích, binh phát Bảo Khánh phủ. Mấy ngày sau, binh đến dưới thành.
Lúc này đại quân của Dương Thu Trì nhờ có hai vạn địch quân đầu hàng thu nhận vào, số lượng đã đạt đến 5 vạn.
Thủ quân của Bảo Khánh phủ ngoan cường đề kháng, quyết không đầu hàng. Dương Thu Trì quyết định phát động cường công, dùng hỏa pháo oanh kích tường thành.
Tường thành thời cổ đại đối phó với binh khí lạnh hay thật tâm pháo đạn còn được, chứ trước mặt pháo đạn bằng thuốc nổ đắng của Dương Thu Trì, nó yếu ớt như là đất bùn vậy, chẳng mấy chốc đã bị bắn vỡ ra mấy cái lổ hổng lớn.
Do Dương Thu Trì thực hiện chính sách ưu đãi tù binh, hai vạn quân Trương Hiến Trung đầu hàng cảm kích trong lòng, lại có lòng kính sợ đối với vũ khí quái vật của hắn, nhận thấy theo hắn mới có tiền đồ, nên thật tâm đầu hàng và quyết tâm lập công trong trận này. Chúng xông lên trước, tiến vào thành trước, diệt phần lớn thủ quân trong thành.
Trước chuyện này, Dương Thu Trì đã tuyên bố chính sách sau khi phá thành, nghiêm chỉnh chấp hành ba đại kỷ luật tám hạng chú ý, nên sau khi tiến vào trong, không những không quấy nhiễu dân chúng, còn lập tức mở kho phát lương, chẩn tế bá tánh cùng khổ, được dân chúng toàn thành Bảo Khánh ủng hộ và hoan nghênh.
Ba vị vương gia hôm sau cũng di chuyển đến Bảo Khánh, đối với Dương Thu Trì càng bội phục sát đất, đặc biệt là Quế vương vô cùng vui mừng vì bước đi chính xác trước đây của mình.
Thời gian đã trải qua một tháng kể từ khi ba vị vương gia và tổng binh Khổng Hi Quý tiến cử Dương Thu Trì kế thừa tước vị Sở vương, nhung chưa có tin tức phản hồi gì. Hiện tại cần phải hiện thực hóa điều này, nếu không lòng họ như treo trên sợi tóc giữa vực sâu. Họ lập tức dùng bát bách lý gia cấp khởi tấu chương, đem đại tiệp ở Kiềm Dương báo lên triều đình, đồng thời lần nữa tiến cử hắn vào tước vị Sở vương, yêu cầu triều đình chính thức giao cấp binh quyền cho Dương Thu Trì.
Bảo Khánh là phủ, thành trì to hơn Kiềm Dương nhiều. Đại quân Trương Hiến Trung tích trữ rất nhiều quân lương ở đây. Dương Thu Trì hiện giờ muốn nhanh chóng khoách đại đội ngũ của mình, nên lập tức dựng cờ chiêu binh, tăng thêm quân đội.
Kiềm Dương huyện đã bị cháy rụi, Dương Thu Trì thuyết phục ba vị vương gia đem một lượng tài sản lớn cho bá tánh tu sửa lại nhà cửa. Đây là điều trước giờ chưa có, làm gì có chiến tranh thiêu hủy rồi lấy tiền bồi thường, cho nên cử động này của hắn được truyền tụng khắp nơi, cả vùng Tương Tây ai ai cũng biết, thanh niên trai tráng đến đầu quân rất độc, thậm chí có không ít Minh quân bị tán lạc khắp nơi kéo về, nên trong vòng nửa tháng đã chiêu mô 5 vạn tân quân.
Dương Thu Trì vốn muốn dùng xong hai vạn quân mượn rồi trả lại, nhưng mấy tướng lĩnh dẫn đầu đều sống chết không chịu đi, quỳ xuống thề muốn lĩnh quân theo Dương Thu Trì. Và thế là, binh lực của hắn coi như đã đạt 10 vạn.
Bảo Khánh phủ lớn hơn Kiềm Dương nhiều, có mấy chục vạn nhân khẩu, thợ sắt rành nghề hơn nghìn người, Dương Thu Trì lập tức triệu tập mọi công tượng trong thành tham gia chế tạo vũ khí. Có tiền có người, cộng thêm có dân ủng hộ, làm việc gì cũng nhanh, cho nên quặng mỏ cần chế tạo đạn dược không ngừng được chuyển tới Bảo Khánh.
Dương Thu Trì dùng 1 tháng để chế tạo hơn chục vạn phát đạn và hơn nghìn quả pháo đạn. Dưới nỗ lực của hơn nghìn thiết tượng, hắn lại chế thêm được 1000 lão sáo đồng, cộng với số cũ được 2 nghìn cây súng.
Quân tinh nhuệ là đội ngũ có lực chiến đấu cao nhất, do đó tố chất cũng phải cao. Hắn điều chỉnh lại quân của mình, căn cứ lượng đạn và số lượng lão sáo đồng, biến quân tinh nhuệ thành đội ngũ 1 nghìn 600 người, tổ thành hai kỵ binh đoàn, chọn từ trong 10 vạn đại quân này những kẻ giỏi về thuật cưỡi ngựa, sau đó cho thi bắn súng toại phát trong khi cưỡi ngựa tiến hành chánh thẩm. Ngoại trừ những người có nguồn gốc rõ ràng, hắn cho tra rõ lý lịch, loại hết những kẻ có lại lịch mờ ám, đảm bảo địch quân không trà trộn vào.
Kỵ binh đoàn có hai thiên tổng (đoàn trưởng) do Dương Thu Trì tự tuyển, đó là Nhị đại vương Vũ Kỳ và một binh sĩ Đồng tộc giỏi bắn giỏi cưỡi ngựa trong Đồng tộc tên là Đô Cường. Đây là một bách phu trưởng của A Hạnh Ny, đã từng tham gia trận chiến bảo vệ Kiềm Dương, có tài chỉ huy, tác chiến dũng mãnh, cơ trí ngoan cường. Hai người này đều trung thành với Dương Thu Trì.
Vấn đề chiến mã cũng giải quyết dễ dàng, vì sau khi chiếm Bảo Khánh, quân hắn đã tước đoạt được một lượng lớn chiến mã. Cộng thêm hắn cho người đi mua ngựa khắp nơi, cho nên số lượng đủ dùng cho kỵ binh.
Khi xây dựng lại kỵ binh tinh nhuệ này, Dương Thu Trì căn cứ suy nghĩ của mình tổ chức huấn luyện, chú trọng tính kỹ luật, răm rắp tuân theo chỉ huy.
Một tháng sau, được Quế vương cực lực chủ trương, Dương Thu Trì thấy tình huống chuẩn bị đã cơ bản có thành tựu, liền quyết định mang binh tấn công sào huyệt cũ của Quế vương là Hành châu.
Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc đột phá khỏi trận chiến Kiềm Dương cuối cùng cũng tìm về tổ chức. Ba nhiệm vụ Trương Hiến Trung giao không những không hoàn thành, mà vạn đại quân còn bị Dương Thu Trì làm sập núi, đánh đêm, hỏa thiêu và tiêu diệt hết sạch, khiến y tức suýt ói máu ngay tại trận.
Trương Hiến Trung nghe Dương Thu Trì phát binh Hành châu, liền hạ lệnh Lưu Văn Tú tử thủ Hành châu, cấp tốc điều đại quân đánh vào Giang Tây trở về, điều động quân đội các nơi tập trung mọi binh lực lên đến 20 vạn kéo đến Hành châu chuẩn bị hội chiến, quyết định diệt gọn quân đội của Dương Thu Trì.
Lưu Văn Tú có 8 vạn quân ở Hành châu, là một trong 4 nghĩa tử của Trương Hiến Trung, được phong làm Phủ nam tướng quân, là ái tướng tâm phúc của y. Hành châu là yếu đạo giao thông liên thông nam bắc Hồ Quảng, xuống nam là Quảng Tây, về đông là Giang Tây. Đây là trọng trấn chiến lược và yết hầu, do đó Trương Hiến Trung mới chỉ phái Lưu Văn Tú cầm trọng binh trú thủ nơi này.
Thành tường Hành châu xây dựng vô cùng kiên cố, tinh binh đông lương đủ, nhất định khó phá vô cùng.
Bình luận truyện