Nhu Phong
Chương 54
Rừng rậm là gì?
Cỏ không mọc loạn gọi là tùng (bụi rậm), cây không mọc loạn gọi là lâm (rừng), trong đó tự có quy củ, phép tắc riêng [*]. Bên nhà Phật, nơi các vị sư già cùng cư ngụ, ví như chỗ cổ thụ tụ tập, thì đều gọi là Tùng Lâm (rừng rậm).
[*] Định nghĩa “tùng lâm” theo Thiền Lâm Bảo Huấn Âm Nghĩa.
Trước mắt, phía ngoài thành Kiến Khang, ở khoảng không khoáng dã mênh mông trên mỏ đá động trời cũng vừa xuất hiện một mảnh rừng.
Một mảnh rừng lạ lùng, hiếm thấy trên đời, là cả rừng Phật và người cõi âm.
Vô số tượng Phật, làm từ đá, từ gỗ, mạ vàng, đúc đồng, to bằng cồn đất, nhỏ chừng nắm tay, cầm hoa mỉm cười, trợn trừng hai mắt, trật tự, chỉnh tề, được sắp xếp đan xen khéo léo giữa vô ngần hoang vu.
Gió to xoáy vòng cuốn bay lớp lớp cánh hoa và lá thu, cuốn cả Phạn âm như thủy triều của chúng tăng nhân vào rừng tượng Phật, rồi giật tung từng tiếng lên cao tận các tầng trời.
Phật khí thanh tịnh vi diệu và âm khí buốt giá hung tàn chầm chậm giao hòa, ngưng kết một cách thần kỳ trên vùng đất hoang dã ngút ngàn. Ngay cả số giọt sương đọng trên lá cành cũng dày đặc hơn bình thường, và lạ thay, đỉnh giọt đồng loạt hướng về đầu Phật đặt gần chúng nhất.
Giữa mỗi tượng Phật là một người cõi âm đang ngồi ngay ngắn, nhiều tận mấy ngàn, ken dày như nêm. Chỉ thoáng liếc sơ qua cũng đủ không rét mà run. Tất cả đều là thi hài u ám với tình trạng khi chết khác nhau, vặn vẹo, co rút hết sức kinh khủng. Cơ hồ chẳng một ai còn được hoàn chỉnh.
Đáng sợ hơn cả là, những người này ngồi bất động như tượng đá, nhưng đôi mắt lại sống động, theo gió thổi cỏ lay mà đảo quanh, bên trong chất chứa khiếp hãi, khó hiểu, vô vọng, bi thương... Chốn đây như dường một bể khổ, một cõi địa ngục điêu linh. Mọi nỗi thê lương, mọi niềm sầu bi trong nhân thế đều hiện rõ ở những đôi mắt này.
Bỗng nhiên Bão Kê nương nương cảm giác được, những người cõi âm đấy cũng là tượng Phật. Nơi loạn thế với trăm dạng tâm tình, ngàn muôn cung bậc, đều tụ về rừng tượng Phật và người cõi âm này.
“Trúng chú định thi cả rồi sao?” Bão Kê nương nương hỏi.
Thông Minh tiên sinh đáp: “Đúng thế. Hơn bốn ngàn người cõi âm, nếu không dùng chú định thi thì chẳng phải loạn hết lên à? Dùng chú định thi cũng có cái hay, lúc Phật khí giảm đi thì vẫn trì hoãn được quá trình mục rữa của họ.”
Bão Kê nương nương chậm rãi bước đến gần hàng dãy người cõi âm. Dương khí tựa ánh mặt trời rực rỡ xuyên thẳng qua tầng hỗn hợp Phật khí và âm khí, nhất thời như giọt mực rơi vào hồ nước trong, dần dần loang rộng. Toàn bộ người cõi âm giống được đột ngột kích hoạt, trong mắt lóe màu khác biệt, bắn ra ánh nhìn đói khát, đồng loạt hau háu nhắm vào Bão Kê nương nương.
Trước đó nào có cảm thấy buồn nôn bực này.
Mấy ngày nay, mỗi khi đêm xuống, trong vài canh giờ Lý Nhu Phong ra ngoài tiếp chuyện người quen, Thông Minh tiên sinh sẽ đưa nàng đến bãi tha ma, đến chợ quỷ, đến ven sông Tần Hoài, đến đủ các nơi vứt đầy thây chết.
Đoán chừng ba lần đổi vương kỳ đã khiến thành Kiến Khang loạn lạc ngập trời, âm khí ở nhân gian tích tụ quá mức mà trào lên đậm đặc. Kết quả là mỗi tối đêm lại xuất hiện mấy trăm người cõi âm sống dậy từ đống xác. Bão Kê nương nương chẳng cần làm gì, cứ dạo qua bãi tha ma là sẽ có vô số thi thể như giòi bọ ngọ nguậy bò tới chỗ nàng. Lửa đỏ của dương bạt tĩnh lặng mà rừng rực khiêu khích, trở thành ánh đèn hấp dẫn thiêu thân trong đêm đen. Song, họ chưa kịp tới gần thì đã trúng chú thuật của Thông Minh tiên sinh, bị tóm gọn như bầy cá lọt lưới.
Có thể bởi vì thực sự quá đông đúc, hơn nữa còn là vào ban ngày, hết thảy tà ác đều hiện rõ mồn một.
Tất cả những ánh mắt thèm thuồng, không hề khắc chế này khiến Bão Kê nương nương cực kỳ căm ghét. Thanh rựa đeo bên hông nàng đang âm ỉ réo gọi, muốn khử sạch những ánh mắt này, muốn giết hết những người cõi âm này.
Thông Minh tiên sinh vẫn luôn theo dõi phản ứng của Bão Kê nương nương, ông bình thản hỏi: “Ngươi căm hận người cõi âm lắm à?”
Bão Kê nương nương đè tay lên rựa, mím chặt môi, không đáp một lời.
Thông Minh tiên sinh dời mắt đi, hời hợt kết luận: “Xem ra ngươi từng bị người cõi âm hiếp đáp.”
“Câm miệng!”
Thông Minh tiên sinh lại cười nhạt: “Không việc gì. Những người cõi âm này, giờ đây đều phải răm rắp nghe ngươi sai khiến. Các thế tay và chú thuật ta dạy mấy ngày qua, ngươi đã nhớ cả chưa?”
Bão Kê nương nương gật đầu: “Nhớ rõ.”
“Vậy hôm nay thao luyện trận pháp lần cuối là được.”
Bão Kê nương nương liếc Thông Minh tiên sinh, châm biếm: “Xem ra cái gì mà cao nhân không màng danh lợi, ẩn sĩ từ chối xuất thế, cái gì chẳng mảy may hay biết pháp thuật Đạo gia, tất cả đều là phỉnh phờ thiên hạ. Ngài có chỗ nào khác Pháp Tuân đâu. Trước kia còn ra vẻ đau đớn trục xuất lão khỏi sư môn, thực chất là muốn dung túng lão để chờ ngày hưởng lợi. Cứ bảo quân tử tránh xa nhà bếp, hóa ra toàn bộ là dối trá.”
Thông Minh tiên sinh cười lạnh: “Đàn bà vô tri! Hiện giờ Đạo môn không còn hưng thịnh, từ ngày Trương Đạo Lăng bày ra đạo Ngũ Đấu Mễ tới nay, dân chúng ngu muội chỉ còn tin thờ các thứ yêu pháp bùa chú ấn đẩu [*]. Ngược lại, Đạo môn ngũ thuật chính thống chúng ta muốn truyền bá cũng mỗi lúc mỗi gian nan. Ta thân là người đứng đầu của phái Dương Ẩn, há có thể ngoan cố câu nệ, ngồi chờ suy bại?”
[*] Bùa: vẽ ký hiệu lên giấy. Chú: lời niệm ra miệng. Ấn: dùng con dấu bằng đá, pháp ấn chân chính là vô hình và chỉ thấy được khi có pháp nhãn. Đẩu: cách bước đi theo thất tinh, ngũ hành, bát quái…
Đạo Ngũ Đấu Mễ chịu ảnh hưởng nặng của vu thuật, đồng thời còn tụ tập dân chúng chống chính quyền nên thời gian đầu bị xem là tà thuật.
Bão Kê nương nương cũng cười lạnh, chẳng nói thêm nữa. Ai phải ai trái, ai chính ai tà, cuối cùng đều không hơn gì mấy chữ, kẻ thắng tất đúng.
Trong lòng Lý Nhu Phong có hai chấp niệm, thứ nhất là Tiêu Yên, thứ hai là thiên hạ thái bình, gió yên biển lặng. Để người từng nảy ý liều chết lại tiếp tục quyết chí vong thân, là rất dễ dàng. Nàng lỡ giẫm một chân vào vũng lầy, chẳng rút ra được, quá mức thê thảm rồi, đã vậy thì cứ quyết định giẫm luôn hai chân vào đi.
Hôm ở dưới cổng thành đó, nàng ôm Lý Nhu Phong cả đêm. Lý Nhu Phong không nhìn thấy, nhưng nàng biết, Tiêu Yên cũng đứng cách đó không xa cả đêm.
Lý Nhu Phong khuyên nàng mau trốn, bảo lo lắng nàng là dương bạt sẽ bị lợi dụng. Nhưng từ đầu đến cuối, chàng chưa từng nói một lời nào là Tiêu Yên sai. Rốt cuộc chàng vẫn muốn bảo vệ Tiêu Yên. Cho dù Tiêu Yên sai rõ mười mươi, chàng cũng cố gắng để sai lầm của y bớt nghiêm trọng.
Nàng nghĩ, đã vậy thì tác thành đi thôi.
Cứ thế, tác thành thôi.
Toàn bộ những chuyện này, đều bắt nguồn từ một ý nghĩ xằng bậy của nàng trong chớp mắt kia.
Nàng tự ám thị với mình, những điều này đều không phải thật. Nàng vốn chưa từng gặp Lý công tử Lý Nhu Phong tại Lan Khê, cũng chưa từng gặp người cõi âm Lý Nhu Phong tại chợ quỷ. Tất thảy mọi sự, đều là ảo tưởng của nàng, là tự nàng, sai.
Song cuối cùng, nàng vẫn còn chút vương vấn khó dứt bỏ. Tựa như có một sợi tơ cực mảnh ràng buộc lấy họ. Nàng ngủ suốt ngày, buồn ngủ cũng ngủ, không buồn ngủ cũng ngủ. Nàng thôi dõi mắt tìm kiếm Lý Nhu Phong, thôi trò chuyện cùng chàng. Có đôi khi nàng sẽ sinh ra ảo giác, rằng chẳng còn thấy sợi tơ này nữa, rốt cuộc nó đã biến mất hoàn toàn. Thế mà đương lúc nàng thở phào nhẹ nhõm, Lý Nhu Phong lại giật mạnh ở đầu kia, lôi hết ngũ tạng lục phủ nàng đảo loạn, lôi cho nàng đau đớn tận xương.
Lý Nhu Phong lôi nàng cùng kết hôn. Kỳ thực, bấy giờ rõ ràng là nàng đã muốn từ bỏ, nhưng chàng lại nghĩ mình đang hóa giải chấp niệm cho nàng. Thật ra nàng vẫn luôn hiểu thấu, khi đó Lý Nhu Phong cũng giống nàng, cũng một lòng quyết tử.
Thời điểm chàng nói “Trong thành Kiến Khang có mười vạn quân trú đóng, nào có ai không là đại trượng phu?”, nàng lập tức nhận ra chàng đã muốn quyết tử. Chàng không phải kiểu người bỗ bã, nghĩ gì nói nấy. Khi thốt lên câu này thì giọng chàng thậm chí còn ôn hòa, mềm mỏng, là chất giọng êm đềm của vùng Trừng Châu, từng tiếng rót mật xoa dịu lòng người. Tuy vậy, thái độ chàng lại rất kiên quyết, nàng biết chàng đã cẩn thận suy tính phải làm thế nào.
Có lẽ nàng thật sự hiểu tường tận lòng chàng. Hiện giờ mỗi một động tác, mỗi một suy tư nho nhỏ của chàng, nàng đều thấy được rành mạch. Nàng chẳng biết nên buồn hay vui. Chàng yêu nàng, có lẽ là được chút ít. Chỉ đáng tiếc, lại yêu không phải lúc. Thời khắc chàng nói “đời đời kiếp kiếp, sinh tử không đổi”, nàng cảm thấy, đủ rồi, thế là quá đủ rồi. Nhưng nếu có thể sớm hơn thì tốt biết bao nhiêu. Lý Nhu Phong hiểu kiếp này đã không thể làm gì cho nàng, bởi vậy mới hứa cùng nàng vô tận kiếp sau.
Nàng nghĩ, Lý Nhu Phong thật sự là một người xấu, là một người rất rất rất xấu, cứ luôn đưa những điều xa xôi ra hứa hẹn lấy lệ với nàng.
Nàng không muốn thế.
***
Đến gần chạng vạng, âm dương tương giao, chân trời đượm màu hoàng hôn bị phủ một tầng bụi dày, không rõ phải chăng là bởi hai mươi vạn quân Đại Ngụy đang cưỡi trên bụi mù tung trời, cuồn cuộn mà đến.
Thành Kiến Khang đã bày trận sẵn sàng đón quân địch. Trên cổng thành dựng lên một vương trướng tạm thời, ngay trước vương trướng quây vải dày là đống lửa cháy sáng hừng hực giữa bóng chiều tà. Khắp nơi trong thành, đâu đâu cũng dễ dàng bắt gặp tướng sĩ võ trang đầy đủ đang hối hả bước đi, lui lui tới tới. Tất cả mọi người đều thật trầm lặng, trầm lặng theo một trật tự trải rộng mà cổ kính, trang nghiêm, là sự trầm lặng ẩn hàm thứ nhẫn nại mênh mang, diệu vợi.
Bên tai tràn ngập đủ các loại âm thanh, liên tục giao thoa phức tạp hơn lúc nào hết. Quá khứ đã từng hoặc là yêu, hoặc là hận, hoặc mềm yếu, hoặc hung tàn, Bão Kê nương nương vẫn chưa bao giờ có được cảm giác thế này, vô thường mà trầm tĩnh. Lần này nàng không bói một quẻ cho mình. Bốn ngàn người cõi âm hiện diện sau lưng nàng, cuộc đời nàng nay chỉ còn vô thường.
Nàng toàn thân đen tuyền trong bộ đạo bào khi lập đàn làm phép của phái Dương Ẩn. Dây vải trắng thắt chặt,vòng eo mảnh dẻ, tôn rõ tư thái yểu điệu, mong manh. Chuông trấn hồn xanh màu đồng vẫn đeo bên hông, theo nhịp bước nàng mà rộn ràng, réo rắt, là âm thanh truyền đến nghìn dặm giữa âm gian. Mái tóc dài được nàng bới cao thật chặt, trên đỉnh đầu là búi tóc đạo sĩgọn gàng, không để sót một sợi nào buông lơi.
Tóc xanh kia vẫn điểm xuyết một đóa dành dành tuyết trắng. Có lẽ là đợt nở rộ cuối cùng của mùa hoa ở thành Kiến Khang.
Giữa làn khói đen nhàn nhạt, nàng tiến vào vương trướng tạm thời, hỏi: “Chuẩn bị xong hết chưa?” Nàng cụp mắt, trên mặt không có bao nhiêu cảm xúc.
“Đều xong cả rồi.”
Tiêu Yên nhìn đồng hồ nước: “Ngươi đã vất vả suốt hai đêm liền, hiện vẫn còn vài ba canh giờ nữa mới tới lúc quân Đại Ngụy hạ trại công thành, ngươi cứ chợp mắt một lúc đi.”
Bão Kê nương nương đáp: “Được”.
Chốc lát sau, Tiêu Yên dời mắt khỏi hàng chồng công văn, ngước lên: “Sao còn chưa đi nữa?”
"Chàng đâu?”
“Bị ta nhốt lại rồi.”
“Ngươi xác định chắc chắn chàng sẽ không trốn được chứ?"
“Chuyện này cũng hơi khó.” Tiêu Yên mệt mỏi xoa giữa mi, đứng dậy rời bàn, “Giờ cậu ấy hung hăng lắm, hễ chọc giận là biến thây ma ngay.”
“Sao không dùng chú định thi với chàng?” Bão Kê nương nương khô khốc hỏi.
Tiêu Yên liếc qua nàng: “Ngươi dạy pháp quyết cho cậu ấy, đúng chứ?”
Bão Kê nương nương khẽ giật mình. Tự tay hướng dẫn pháp quyết cho Lý Nhu Phong dường như đã là chuyện tận kiếp nào, nàng gần như đãquên mất.
Bão Kê nương nương xác nhận: “Có dạy chút ít, nhưng mới là vài bài quyết suông thôi, đâu đã khớp được với Thiên Cương.”
“Pháp Tuân từng dùng chú thuật với cậu ấy, ngươi thì làm mẫu chỉ dẫn. Ngươi cho rằng bằng vào ngộ tính của cậu ấy, chẳng lẽ không tự lĩnh hội được?” Tiêu Yên chống tay lên bàn, nhìn nàng nói, “Bây giờ Thông Minh tiên sinh đã hết cách với cậu ấy, bất kể là loại pháp quyết nào, cậu ấy đều hóa giải được.”
Bão Kê nương nương hơi ngây ra, nghe Tiêu Yên tiếp: “Nhưng thật ra cũng tạm ổn rồi, hôm qua đã bị ta chuốc say. Cậu ấy không uống được rượu, một vò Bạch Đọa xuân lao là đủ để cậu ấy say mèm bất tỉnh mấy ngày liền.”
Bão Kê nương nương gật đầu, nhẹ giọng thốt ra mấy chữ:
“Vậy thì quá tốt rồi.”
- --------------
Ngũ thuật của Đạo gia: Năm thuật huyền bí căn bản, bắt nguồn từ Kinh Dịch.
– Sơn: Tu luyện thể xác và tinh thần (lên núi cao tĩnh tâm, ăn uống hít thở theo đúng phương pháp, tu các phép thần thông, luyện đan, bùa chú)
– Y: Điều trị và phòng bệnh (tinh thông về kinh mạch, châm cứu, đơn thuốc, tác động tâm lý)
– Mệnh: Thấu suốt vận mệnh, lý giải nhân sinh (suy đoán dựa trên bát tự, sao trời, thần số)
– Bốc: Tiên đoán tương lai (tính cát hung theo Thái Ất, Kỳ môn, Lục Nhâm, Mai Hoa, Lục Hào, đoán chữ, giải mộng, rút xăm, đếm cỏ thi, gieo đồng tiền…)
– Tướng: Quan sát bề ngoài để tìm ra các mối liên hệ giữa con người và thế giới (xem trời – chiêm tinh, xem đất – phong thủy, xem người – tướng mạo, hình thể, tay chân, giọng nói…)
Cỏ không mọc loạn gọi là tùng (bụi rậm), cây không mọc loạn gọi là lâm (rừng), trong đó tự có quy củ, phép tắc riêng [*]. Bên nhà Phật, nơi các vị sư già cùng cư ngụ, ví như chỗ cổ thụ tụ tập, thì đều gọi là Tùng Lâm (rừng rậm).
[*] Định nghĩa “tùng lâm” theo Thiền Lâm Bảo Huấn Âm Nghĩa.
Trước mắt, phía ngoài thành Kiến Khang, ở khoảng không khoáng dã mênh mông trên mỏ đá động trời cũng vừa xuất hiện một mảnh rừng.
Một mảnh rừng lạ lùng, hiếm thấy trên đời, là cả rừng Phật và người cõi âm.
Vô số tượng Phật, làm từ đá, từ gỗ, mạ vàng, đúc đồng, to bằng cồn đất, nhỏ chừng nắm tay, cầm hoa mỉm cười, trợn trừng hai mắt, trật tự, chỉnh tề, được sắp xếp đan xen khéo léo giữa vô ngần hoang vu.
Gió to xoáy vòng cuốn bay lớp lớp cánh hoa và lá thu, cuốn cả Phạn âm như thủy triều của chúng tăng nhân vào rừng tượng Phật, rồi giật tung từng tiếng lên cao tận các tầng trời.
Phật khí thanh tịnh vi diệu và âm khí buốt giá hung tàn chầm chậm giao hòa, ngưng kết một cách thần kỳ trên vùng đất hoang dã ngút ngàn. Ngay cả số giọt sương đọng trên lá cành cũng dày đặc hơn bình thường, và lạ thay, đỉnh giọt đồng loạt hướng về đầu Phật đặt gần chúng nhất.
Giữa mỗi tượng Phật là một người cõi âm đang ngồi ngay ngắn, nhiều tận mấy ngàn, ken dày như nêm. Chỉ thoáng liếc sơ qua cũng đủ không rét mà run. Tất cả đều là thi hài u ám với tình trạng khi chết khác nhau, vặn vẹo, co rút hết sức kinh khủng. Cơ hồ chẳng một ai còn được hoàn chỉnh.
Đáng sợ hơn cả là, những người này ngồi bất động như tượng đá, nhưng đôi mắt lại sống động, theo gió thổi cỏ lay mà đảo quanh, bên trong chất chứa khiếp hãi, khó hiểu, vô vọng, bi thương... Chốn đây như dường một bể khổ, một cõi địa ngục điêu linh. Mọi nỗi thê lương, mọi niềm sầu bi trong nhân thế đều hiện rõ ở những đôi mắt này.
Bỗng nhiên Bão Kê nương nương cảm giác được, những người cõi âm đấy cũng là tượng Phật. Nơi loạn thế với trăm dạng tâm tình, ngàn muôn cung bậc, đều tụ về rừng tượng Phật và người cõi âm này.
“Trúng chú định thi cả rồi sao?” Bão Kê nương nương hỏi.
Thông Minh tiên sinh đáp: “Đúng thế. Hơn bốn ngàn người cõi âm, nếu không dùng chú định thi thì chẳng phải loạn hết lên à? Dùng chú định thi cũng có cái hay, lúc Phật khí giảm đi thì vẫn trì hoãn được quá trình mục rữa của họ.”
Bão Kê nương nương chậm rãi bước đến gần hàng dãy người cõi âm. Dương khí tựa ánh mặt trời rực rỡ xuyên thẳng qua tầng hỗn hợp Phật khí và âm khí, nhất thời như giọt mực rơi vào hồ nước trong, dần dần loang rộng. Toàn bộ người cõi âm giống được đột ngột kích hoạt, trong mắt lóe màu khác biệt, bắn ra ánh nhìn đói khát, đồng loạt hau háu nhắm vào Bão Kê nương nương.
Trước đó nào có cảm thấy buồn nôn bực này.
Mấy ngày nay, mỗi khi đêm xuống, trong vài canh giờ Lý Nhu Phong ra ngoài tiếp chuyện người quen, Thông Minh tiên sinh sẽ đưa nàng đến bãi tha ma, đến chợ quỷ, đến ven sông Tần Hoài, đến đủ các nơi vứt đầy thây chết.
Đoán chừng ba lần đổi vương kỳ đã khiến thành Kiến Khang loạn lạc ngập trời, âm khí ở nhân gian tích tụ quá mức mà trào lên đậm đặc. Kết quả là mỗi tối đêm lại xuất hiện mấy trăm người cõi âm sống dậy từ đống xác. Bão Kê nương nương chẳng cần làm gì, cứ dạo qua bãi tha ma là sẽ có vô số thi thể như giòi bọ ngọ nguậy bò tới chỗ nàng. Lửa đỏ của dương bạt tĩnh lặng mà rừng rực khiêu khích, trở thành ánh đèn hấp dẫn thiêu thân trong đêm đen. Song, họ chưa kịp tới gần thì đã trúng chú thuật của Thông Minh tiên sinh, bị tóm gọn như bầy cá lọt lưới.
Có thể bởi vì thực sự quá đông đúc, hơn nữa còn là vào ban ngày, hết thảy tà ác đều hiện rõ mồn một.
Tất cả những ánh mắt thèm thuồng, không hề khắc chế này khiến Bão Kê nương nương cực kỳ căm ghét. Thanh rựa đeo bên hông nàng đang âm ỉ réo gọi, muốn khử sạch những ánh mắt này, muốn giết hết những người cõi âm này.
Thông Minh tiên sinh vẫn luôn theo dõi phản ứng của Bão Kê nương nương, ông bình thản hỏi: “Ngươi căm hận người cõi âm lắm à?”
Bão Kê nương nương đè tay lên rựa, mím chặt môi, không đáp một lời.
Thông Minh tiên sinh dời mắt đi, hời hợt kết luận: “Xem ra ngươi từng bị người cõi âm hiếp đáp.”
“Câm miệng!”
Thông Minh tiên sinh lại cười nhạt: “Không việc gì. Những người cõi âm này, giờ đây đều phải răm rắp nghe ngươi sai khiến. Các thế tay và chú thuật ta dạy mấy ngày qua, ngươi đã nhớ cả chưa?”
Bão Kê nương nương gật đầu: “Nhớ rõ.”
“Vậy hôm nay thao luyện trận pháp lần cuối là được.”
Bão Kê nương nương liếc Thông Minh tiên sinh, châm biếm: “Xem ra cái gì mà cao nhân không màng danh lợi, ẩn sĩ từ chối xuất thế, cái gì chẳng mảy may hay biết pháp thuật Đạo gia, tất cả đều là phỉnh phờ thiên hạ. Ngài có chỗ nào khác Pháp Tuân đâu. Trước kia còn ra vẻ đau đớn trục xuất lão khỏi sư môn, thực chất là muốn dung túng lão để chờ ngày hưởng lợi. Cứ bảo quân tử tránh xa nhà bếp, hóa ra toàn bộ là dối trá.”
Thông Minh tiên sinh cười lạnh: “Đàn bà vô tri! Hiện giờ Đạo môn không còn hưng thịnh, từ ngày Trương Đạo Lăng bày ra đạo Ngũ Đấu Mễ tới nay, dân chúng ngu muội chỉ còn tin thờ các thứ yêu pháp bùa chú ấn đẩu [*]. Ngược lại, Đạo môn ngũ thuật chính thống chúng ta muốn truyền bá cũng mỗi lúc mỗi gian nan. Ta thân là người đứng đầu của phái Dương Ẩn, há có thể ngoan cố câu nệ, ngồi chờ suy bại?”
[*] Bùa: vẽ ký hiệu lên giấy. Chú: lời niệm ra miệng. Ấn: dùng con dấu bằng đá, pháp ấn chân chính là vô hình và chỉ thấy được khi có pháp nhãn. Đẩu: cách bước đi theo thất tinh, ngũ hành, bát quái…
Đạo Ngũ Đấu Mễ chịu ảnh hưởng nặng của vu thuật, đồng thời còn tụ tập dân chúng chống chính quyền nên thời gian đầu bị xem là tà thuật.
Bão Kê nương nương cũng cười lạnh, chẳng nói thêm nữa. Ai phải ai trái, ai chính ai tà, cuối cùng đều không hơn gì mấy chữ, kẻ thắng tất đúng.
Trong lòng Lý Nhu Phong có hai chấp niệm, thứ nhất là Tiêu Yên, thứ hai là thiên hạ thái bình, gió yên biển lặng. Để người từng nảy ý liều chết lại tiếp tục quyết chí vong thân, là rất dễ dàng. Nàng lỡ giẫm một chân vào vũng lầy, chẳng rút ra được, quá mức thê thảm rồi, đã vậy thì cứ quyết định giẫm luôn hai chân vào đi.
Hôm ở dưới cổng thành đó, nàng ôm Lý Nhu Phong cả đêm. Lý Nhu Phong không nhìn thấy, nhưng nàng biết, Tiêu Yên cũng đứng cách đó không xa cả đêm.
Lý Nhu Phong khuyên nàng mau trốn, bảo lo lắng nàng là dương bạt sẽ bị lợi dụng. Nhưng từ đầu đến cuối, chàng chưa từng nói một lời nào là Tiêu Yên sai. Rốt cuộc chàng vẫn muốn bảo vệ Tiêu Yên. Cho dù Tiêu Yên sai rõ mười mươi, chàng cũng cố gắng để sai lầm của y bớt nghiêm trọng.
Nàng nghĩ, đã vậy thì tác thành đi thôi.
Cứ thế, tác thành thôi.
Toàn bộ những chuyện này, đều bắt nguồn từ một ý nghĩ xằng bậy của nàng trong chớp mắt kia.
Nàng tự ám thị với mình, những điều này đều không phải thật. Nàng vốn chưa từng gặp Lý công tử Lý Nhu Phong tại Lan Khê, cũng chưa từng gặp người cõi âm Lý Nhu Phong tại chợ quỷ. Tất thảy mọi sự, đều là ảo tưởng của nàng, là tự nàng, sai.
Song cuối cùng, nàng vẫn còn chút vương vấn khó dứt bỏ. Tựa như có một sợi tơ cực mảnh ràng buộc lấy họ. Nàng ngủ suốt ngày, buồn ngủ cũng ngủ, không buồn ngủ cũng ngủ. Nàng thôi dõi mắt tìm kiếm Lý Nhu Phong, thôi trò chuyện cùng chàng. Có đôi khi nàng sẽ sinh ra ảo giác, rằng chẳng còn thấy sợi tơ này nữa, rốt cuộc nó đã biến mất hoàn toàn. Thế mà đương lúc nàng thở phào nhẹ nhõm, Lý Nhu Phong lại giật mạnh ở đầu kia, lôi hết ngũ tạng lục phủ nàng đảo loạn, lôi cho nàng đau đớn tận xương.
Lý Nhu Phong lôi nàng cùng kết hôn. Kỳ thực, bấy giờ rõ ràng là nàng đã muốn từ bỏ, nhưng chàng lại nghĩ mình đang hóa giải chấp niệm cho nàng. Thật ra nàng vẫn luôn hiểu thấu, khi đó Lý Nhu Phong cũng giống nàng, cũng một lòng quyết tử.
Thời điểm chàng nói “Trong thành Kiến Khang có mười vạn quân trú đóng, nào có ai không là đại trượng phu?”, nàng lập tức nhận ra chàng đã muốn quyết tử. Chàng không phải kiểu người bỗ bã, nghĩ gì nói nấy. Khi thốt lên câu này thì giọng chàng thậm chí còn ôn hòa, mềm mỏng, là chất giọng êm đềm của vùng Trừng Châu, từng tiếng rót mật xoa dịu lòng người. Tuy vậy, thái độ chàng lại rất kiên quyết, nàng biết chàng đã cẩn thận suy tính phải làm thế nào.
Có lẽ nàng thật sự hiểu tường tận lòng chàng. Hiện giờ mỗi một động tác, mỗi một suy tư nho nhỏ của chàng, nàng đều thấy được rành mạch. Nàng chẳng biết nên buồn hay vui. Chàng yêu nàng, có lẽ là được chút ít. Chỉ đáng tiếc, lại yêu không phải lúc. Thời khắc chàng nói “đời đời kiếp kiếp, sinh tử không đổi”, nàng cảm thấy, đủ rồi, thế là quá đủ rồi. Nhưng nếu có thể sớm hơn thì tốt biết bao nhiêu. Lý Nhu Phong hiểu kiếp này đã không thể làm gì cho nàng, bởi vậy mới hứa cùng nàng vô tận kiếp sau.
Nàng nghĩ, Lý Nhu Phong thật sự là một người xấu, là một người rất rất rất xấu, cứ luôn đưa những điều xa xôi ra hứa hẹn lấy lệ với nàng.
Nàng không muốn thế.
***
Đến gần chạng vạng, âm dương tương giao, chân trời đượm màu hoàng hôn bị phủ một tầng bụi dày, không rõ phải chăng là bởi hai mươi vạn quân Đại Ngụy đang cưỡi trên bụi mù tung trời, cuồn cuộn mà đến.
Thành Kiến Khang đã bày trận sẵn sàng đón quân địch. Trên cổng thành dựng lên một vương trướng tạm thời, ngay trước vương trướng quây vải dày là đống lửa cháy sáng hừng hực giữa bóng chiều tà. Khắp nơi trong thành, đâu đâu cũng dễ dàng bắt gặp tướng sĩ võ trang đầy đủ đang hối hả bước đi, lui lui tới tới. Tất cả mọi người đều thật trầm lặng, trầm lặng theo một trật tự trải rộng mà cổ kính, trang nghiêm, là sự trầm lặng ẩn hàm thứ nhẫn nại mênh mang, diệu vợi.
Bên tai tràn ngập đủ các loại âm thanh, liên tục giao thoa phức tạp hơn lúc nào hết. Quá khứ đã từng hoặc là yêu, hoặc là hận, hoặc mềm yếu, hoặc hung tàn, Bão Kê nương nương vẫn chưa bao giờ có được cảm giác thế này, vô thường mà trầm tĩnh. Lần này nàng không bói một quẻ cho mình. Bốn ngàn người cõi âm hiện diện sau lưng nàng, cuộc đời nàng nay chỉ còn vô thường.
Nàng toàn thân đen tuyền trong bộ đạo bào khi lập đàn làm phép của phái Dương Ẩn. Dây vải trắng thắt chặt,vòng eo mảnh dẻ, tôn rõ tư thái yểu điệu, mong manh. Chuông trấn hồn xanh màu đồng vẫn đeo bên hông, theo nhịp bước nàng mà rộn ràng, réo rắt, là âm thanh truyền đến nghìn dặm giữa âm gian. Mái tóc dài được nàng bới cao thật chặt, trên đỉnh đầu là búi tóc đạo sĩgọn gàng, không để sót một sợi nào buông lơi.
Tóc xanh kia vẫn điểm xuyết một đóa dành dành tuyết trắng. Có lẽ là đợt nở rộ cuối cùng của mùa hoa ở thành Kiến Khang.
Giữa làn khói đen nhàn nhạt, nàng tiến vào vương trướng tạm thời, hỏi: “Chuẩn bị xong hết chưa?” Nàng cụp mắt, trên mặt không có bao nhiêu cảm xúc.
“Đều xong cả rồi.”
Tiêu Yên nhìn đồng hồ nước: “Ngươi đã vất vả suốt hai đêm liền, hiện vẫn còn vài ba canh giờ nữa mới tới lúc quân Đại Ngụy hạ trại công thành, ngươi cứ chợp mắt một lúc đi.”
Bão Kê nương nương đáp: “Được”.
Chốc lát sau, Tiêu Yên dời mắt khỏi hàng chồng công văn, ngước lên: “Sao còn chưa đi nữa?”
"Chàng đâu?”
“Bị ta nhốt lại rồi.”
“Ngươi xác định chắc chắn chàng sẽ không trốn được chứ?"
“Chuyện này cũng hơi khó.” Tiêu Yên mệt mỏi xoa giữa mi, đứng dậy rời bàn, “Giờ cậu ấy hung hăng lắm, hễ chọc giận là biến thây ma ngay.”
“Sao không dùng chú định thi với chàng?” Bão Kê nương nương khô khốc hỏi.
Tiêu Yên liếc qua nàng: “Ngươi dạy pháp quyết cho cậu ấy, đúng chứ?”
Bão Kê nương nương khẽ giật mình. Tự tay hướng dẫn pháp quyết cho Lý Nhu Phong dường như đã là chuyện tận kiếp nào, nàng gần như đãquên mất.
Bão Kê nương nương xác nhận: “Có dạy chút ít, nhưng mới là vài bài quyết suông thôi, đâu đã khớp được với Thiên Cương.”
“Pháp Tuân từng dùng chú thuật với cậu ấy, ngươi thì làm mẫu chỉ dẫn. Ngươi cho rằng bằng vào ngộ tính của cậu ấy, chẳng lẽ không tự lĩnh hội được?” Tiêu Yên chống tay lên bàn, nhìn nàng nói, “Bây giờ Thông Minh tiên sinh đã hết cách với cậu ấy, bất kể là loại pháp quyết nào, cậu ấy đều hóa giải được.”
Bão Kê nương nương hơi ngây ra, nghe Tiêu Yên tiếp: “Nhưng thật ra cũng tạm ổn rồi, hôm qua đã bị ta chuốc say. Cậu ấy không uống được rượu, một vò Bạch Đọa xuân lao là đủ để cậu ấy say mèm bất tỉnh mấy ngày liền.”
Bão Kê nương nương gật đầu, nhẹ giọng thốt ra mấy chữ:
“Vậy thì quá tốt rồi.”
- --------------
Ngũ thuật của Đạo gia: Năm thuật huyền bí căn bản, bắt nguồn từ Kinh Dịch.
– Sơn: Tu luyện thể xác và tinh thần (lên núi cao tĩnh tâm, ăn uống hít thở theo đúng phương pháp, tu các phép thần thông, luyện đan, bùa chú)
– Y: Điều trị và phòng bệnh (tinh thông về kinh mạch, châm cứu, đơn thuốc, tác động tâm lý)
– Mệnh: Thấu suốt vận mệnh, lý giải nhân sinh (suy đoán dựa trên bát tự, sao trời, thần số)
– Bốc: Tiên đoán tương lai (tính cát hung theo Thái Ất, Kỳ môn, Lục Nhâm, Mai Hoa, Lục Hào, đoán chữ, giải mộng, rút xăm, đếm cỏ thi, gieo đồng tiền…)
– Tướng: Quan sát bề ngoài để tìm ra các mối liên hệ giữa con người và thế giới (xem trời – chiêm tinh, xem đất – phong thủy, xem người – tướng mạo, hình thể, tay chân, giọng nói…)
Bình luận truyện